Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

Nghiên cứu vấn đề chuyển mục đích sử dụng đất trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.06 MB, 106 trang )

Nghiên cứu vấn đề chuyển mục đích sử dụng đất trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tại các nước công nghiệp phát triển, kết cấu hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật cơ
bản đã đồng bộ và hoàn thiện, hàng năm diện tích đất phải chuyển mục đích sử dụng từ
loại đất này sang loại đất khác thường không lớn và được thực hiện trong sự kiểm soát
nghiêm ngặt theo quy hoạch đã được Nhà nước phê duyệt.
Đối với các nước đang phát triển như nước ta, quá trình công nghiệp hóa, đô
thị hoá, chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế đòi hỏi phải có sự điều chỉnh về cơ cấu sử
dụng đất trong quy hoạch sử dụng đất và vì vậy mà hàng năm việc chuyển mục đích
sử dụng đất thường diễn ra ở tất cả các địa phương với diện tích đất chuyển mục
đích khá lớn.
Nhằm kiểm soát việc chuyển mục đích sử dụng đất như đã nêu trên, cần thiết phải
tiến hành các phân tích và dự báo về nhu cầu chuyển mục đích sử dụng đất giữa các loại
đất trong từng năm và cho từng giai đoạn đối với từng địa phương, từng vùng cụ thể,
trên cơ sở đó giúp Nhà nước chủ động trong việc chỉ đạo, tổ chức xét duyệt quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất trong cả nước.
Phân tích và dự báo diện tích đất phải chuyển mục đích sử dụng là một trong
những nội dung quan trọng của quy hoạch sử dụng đất. Các phân tích và dự báo trong
thời gian qua đã hỗ trợ đắc lực cho việc xây dựng quy hoạch sử dụng đất các cấp, giúp
lãnh đạo lựa chọn tương đối chính xác các giải pháp, chính sách khi cân đối nhu cầu sử
dụng đất của các ngành, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của cả
nước nói chung và của các vùng nói riêng. Tuy nhiên, trong lĩnh vực quy hoạch sử dụng
đất đối với cấp vùng cũng như cả nước, chưa thống nhất được về cách tiếp cận phân tích
và dự báo. Khi tiến hành dự báo, đặc biệt dự báo nhu cầu sử dụng đất dài hạn, thường
chỉ căn cứ vào nhu cầu sử dụng đất của các ngành cung cấp, chưa có sự phân tích, tính
toán mang tính độc lập của cơ quan lập quy hoạch sử dụng đất, nhất là chưa có công
trình nghiên cứu nào trình bày tường tận các mối quan hệ qua lại cũng như sự ảnh
1
Nghiên cứu vấn đề chuyển mục đích sử dụng đất trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam
hưởng, tương tác giữa tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế với chuyển mục
đích sử dụng đất. Thế nên, việc khảo cứu về mối quan hệ này nhằm rút ra những kết luận


phục vụ việc đề xuất phương pháp tính nhu cầu diện tích sử dụng đất và diện tích đất
chuyển mục đích sử dụng liên quan đến tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh
tế trong quy hoạch sử dụng đất của cả nước và từng vùng là rất cần thiết và có ý nghĩa
thực tiễn thiết thực.
Vì vậy, “ Nghiên cứu vấn đề chuyển mục đích sử dụng đất trong quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ở Việt Nam” chính là nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách nói trên.
Mục tiêu của đề tài : làm rõ mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế với chuyển mục đích sử dụng đất của Việt Nam trong những năm
vừa qua, trên cơ sở đó đề xuất phương pháp và tài liệu hướng dẫn cách xác định nhu cầu
diện tích đất phải chuyển mục đích sử dụng gắn với các chỉ tiêu tăng trưởng, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế trong các phương án quy hoạch sử dụng đất cấp vùng và cả nước .
Nội dung nghiên cứu của đề tài:
- Hệ thống hóa một số vấn đề chung ở khía cạnh lý thuyết về quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển mục đích sử dụng đất.
- Phân tích mối tương quan giữa tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
và chuyển mục đích sử dụng đất cả nước và các vùng từ 1995 đến 2005.
- Nghiên cứu khả năng ứng dụng một số phương pháp xác định diện tích đất
chuyển mục đích sử dụng trên cơ sở xác định nhu cầu sử dụng đất trong phương án quy
hoạch sử dụng đất; Dự báo diện tích đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp cả nước
chuyển mục đích sử dụng sang các loại đất khác đến năm 2020.
- Xây dựng tài liệu hướng dẫn xác định diện tích đất khi phải chuyển mục đích sử
dụng áp dụng trong quy hoạch sử dụng đất cả nước và các vùng.
Giới hạn của đề tài:
Trong khuôn khổ của đề tài, các chỉ tiêu được giới hạn như sau:
2
Nghiên cứu vấn đề chuyển mục đích sử dụng đất trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam
- Tăng trưởng được tính bằng số % tăng lên của GDP của năm sau so với năm trước.
- Trong các yếu tố tác động đến chuyển mục đích sử dụng đất, chỉ xem xét đến
yếu tố tác động của chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế được giới
hạn ở mức thay đổi tỷ lệ % của các ngành (lĩnh vực) qua từng năm, xét trên chỉ tiêu cơ

cấu GDP ngành trong tổng GDP.
- Chuyển mục đích sử dụng đất: Trong đề tài, diện tích đất chuyển mục đích sử
dụng được giới hạn chỉ tính diện tích nhóm đất nông nghiệp (đất sản xuất nông nghiệp,
đất lâm nghiệp, đất nuôi trồng thủy sản) chuyển sang nhóm đất phi nông nghiệp.
- Các chỉ tiêu đã nêu trên chỉ xem xét ở đối tượng cấp vùng và toàn quốc.
Phương pháp nghiên cứu chính sử dụng trong đề tài:
- Phương pháp điều tra sơ cấp;
- Phương pháp điều tra, phân tích thứ cấp;
- Phương pháp kế thừa;
- Phương pháp mô tả;
- Phương pháp chuyên gia.
Bố cục của báo cáo: Ngoài mở đầu, kết luận và phụ lục, đề tài gồm các chương sau :
- Chương 1: Tổng quan mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và chuyển mục đích sử dụng đất;
- Chương 2: Nghiên cứu khả năng ứng dụng một số phương pháp xác định diện
tích đất chuyển mục đích sử dụng trên cơ sở xác định nhu cầu sử dụng đất gắn với tăng
trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Chương 3: Hướng dẫn cách tính diện tích đất khi chuyển mục đích sử dụng đất.
3
Nghiên cứu vấn đề chuyển mục đích sử dụng đất trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam
Chương 1
TỔNG QUAN MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ, CHUYỂN
DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ VÀ CHUYỂN MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG ĐẤT
1.1. TỔNG QUAN MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN CHUYỂN DỊCH CƠ
CẤU KINH TẾ VÀ CHUYỂN MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG ĐẤT
1.1.1. Cơ cấu kinh tế
Cơ cấu là một phạm trù triết học phản ánh cấu trúc bên trong của đối tượng và
được hiểu như tập hợp của những mối quan hệ cơ bản, tương đối ổn định giữa các yếu tố
cấu thành nên đối tượng đó trong một thời gian nhất định.
Cơ cấu kinh tế là tổng thể những mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành nền

kinh tế, các lĩnh vực (sản xuất, phân phối, lưu thông, tiêu dùng), các ngành kinh tế quốc
dân (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ), các thành phần kinh tế - xã hội (quốc doanh,
tập thể, cá thể...), các vùng kinh tế, hình thành mối quan hệ chủ yếu về định tính và định
lượng. Cơ cấu kinh tế không chỉ thể hiện ở quan hệ tỷ lệ mà quan trọng là mối tác động
qua lại về nội dung bên trong của hệ thống kinh tế.
Như vậy, cơ cấu kinh tế là tổng thể các mối quan hệ chủ yếu về chất lượng và số
lượng tương đối ổn định của các yếu tố kinh tế hoặc các bộ phận của lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất (quan hệ giữa chúng với nhau và với toàn bộ hệ thống) trong một hệ
thống tái sản xuất xã hội với những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định vào một khoảng
thời gian nhất định. Cơ cấu kinh tế là yếu tố cấu thành quan trọng nhất của hệ thống kinh
tế - xã hội. Cơ cấu phản ánh tính toàn vẹn, đồng bộ của hệ thống thông qua cấu trúc của
hệ thống đó. Các yếu tố cấu thành cơ cấu kinh tế phải luôn gắn bó hữu cơ với nhau, phụ
thuộc và làm điều kiện cho nhau trong mối quan hệ nhân quả. Những mối quan hệ trong
cơ cấu kinh tế thể hiện ở trình độ phát triển của phân công lao động xã hội, của chuyên
môn hoá và hợp tác hoá, của sự trao đổi lao động với nhau dưới các hình thức nhất định.
Cơ cấu kinh tế càng phức tạp (phát triển cả chiều rộng và chiều sâu) thì trình độ phát
4
Nghiên cứu vấn đề chuyển mục đích sử dụng đất trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam
triển của phân công lao động xã hội càng cao.
Từ góc độ phân công lao động xã hội và tổ chức sản xuất xã hội, người ta chia cơ
cấu của nền kinh tế theo các loại chủ yếu (xem phụ lục 1- Sơ đồ cơ cấu của nền kinh tế).
1.1.1.1. Cơ cấu theo ngành
Cơ cấu ngành của nền kinh tế là tập hợp tất cả các ngành hình thành lên nền kinh
tế cả nước hay kinh tế của một vùng, lãnh thổ và các mối quan hệ tương đối ổn định
giữa chúng. Sự vận động của các ngành kinh tế và mối quan hệ của nó vừa tuân theo
những đặc điểm chung của sự phát triển sản xuất xã hội, lại vừa mang những nét đặc thù
của mỗi giai đoạn, mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ. Cơ cấu ngành kinh tế là xác định tỷ
trọng giá trị của từng ngành kinh tế chiếm trong tổng sản phẩm quốc nội của cả nước.
Để nghiên cứu cơ cấu ngành kinh tế, người ta vận dụng hai hệ thống phân ngành
kinh tế: phân ngành kinh tế theo hệ thống "Sản xuất vật chất" (Material Production

System - MPS) và hệ thống phân ngành theo "Hệ thống tài khoản quốc gia" (System of
National Accounts - SNA).
Trong hệ thống sản xuất vật chất các ngành kinh tế được phân thành hai khu vực:
sản xuất vật chất và không sản xuất vật chất. Khu vực sản xuất vật chất là tổng hợp các
ngành sản xuất ra của cải vật chất để phục vụ đời sống con người, là nơi tạo ra sản phẩm
xã hội và thu nhập quốc dân chủ yếu của đất nước. Khu vực không sản xuất là tổng hợp
các ngành dịch vụ phục vụ cho sản xuất và đời sống con người, xã hội.
Theo hệ thống tài khoản quốc gia, các ngành kinh tế được phân thành ba khu vực chính:
a) Khu vực I (Nông lâm ngư): Bao gồm những hoạt động khai thác sản phẩm từ tự
nhiên như nông nghiệp, lâm nghiệp, khai thác và nuôi trồng thủy hải sản
b) Khu vực II (Công nghiệp - Xây dựng): Bao gồm những hoạt động khai thác và
chế biến sản phẩm từ mỏ các loại, công nghiệp chế biến; sản xuất và phân phối điện,
nước, ga; xây dựng
c) Khu vực III (Dịch vụ): Bao gồm những hoạt động dịch vụ : thương nghiệp, vận
5
Nghiên cứu vấn đề chuyển mục đích sử dụng đất trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam
tải; bưu chính viễn thông; quản lý Nhà nước, an ninh quốc phòng, văn hóa, y tế, giáo
dục, dịch vụ phục vụ cá nhân cộng đồng…
Theo cách phân loại trên thì khu vực I và II là khu vực sản xuất vật chất, còn khu
vực III là khu vực không sản xuất vật chất.
1.1.1.2. Cơ cấu theo vùng - lãnh thổ:
Cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ là bố trí lãnh thổ của nền kinh tế, phản ánh thế
mạnh đặc thù của mỗi lãnh thổ. Cơ cấu này do điều kiện tự nhiên, khí hậu, tài nguyên
thiên nhiên... quyết định. Dựa vào điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội khác nhau mà
hình thành cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ khác nhau và các vùng này đều có những mối
quan hệ tác động qua lại lẫn nhau trong cùng một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất
trong cả nước. Các bộ phận cơ cấu lãnh thổ gồm:
a) Vùng kinh tế - xã hội (vùng lớn): Đối với một nước người ta thường phải chia
lãnh thổ ra thành những vùng có quy mô lớn để hoạch định chiến lược, chính sách phát
triển. Ở Việt Nam, hệ thống vùng được đưa vào văn kiện Đại hội IX của Đảng Cộng sản

Việt nam (2001) bao gồm 6 vùng kinh tế - xã hội là: vùng Trung du miền núi Bắc bộ,
vùng Đồng bằng sông Hồng, vùng Bắc trung bộ và Duyên hải trung bộ, vùng Tây
Nguyên, vùng Đông Nam bộ và vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
b) Theo thành thị và nông thôn;
c) Theo vùng phát triển và các vùng còn lại.
1.1.1.3. Cơ cấu theo thành phần kinh tế:
Cơ cấu thành phần kinh tế là tập hợp các thành phần kinh tế và mối quan hệ
tương tác ổn định giữa chúng nhằm thực hiện cơ cấu ngành. Theo văn kiện Đại hội X
Đảng Cộng sản Việt nam (2006) hiện nay nước ta có các thành phần kinh tế sau:
a) Kinh tế Nhà nước
6
Nghiên cứu vấn đề chuyển mục đích sử dụng đất trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam
b) Kinh tế tập thể
c) Kinh tế tư nhân
d) Kinh tế tư bản Nhà nước
d) Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Các thành phần kinh tế đều được thừa nhận tồn tại khách quan, mỗi thành phần
kinh tế có vị trí, vai trò, chức năng, tiềm năng, xu hướng phát triển khác nhau và trong
quá trình hoạt động không biệt lập nhau mà gắn bó, đan xen thâm nhập lẫn nhau thông
các mối quan hệ kinh tế vì chúng đều là các bộ phận của hệ thống phân công lao động xã
hội thống nhất và các thành phần kinh tế đều có sự quản lý thống nhất của Nhà nước.
Để đánh giá cơ cấu kinh tế, phải xác định các thành phần tạo nên cơ cấu kinh tế
và phân tích về mặt lượng của mỗi phần tử tạo nên cơ cấu kinh tế, phân tích về mặt chất
lượng của cơ cấu kinh tế. Nhưng trong giới hạn nghiên cứu của đề tài, chỉ xem xét tới cơ
cấu ngành kinh tế vì nó phản ánh tập trung nhất trình độ phân công lao động xã hội, là
trục cốt lõi của nền kinh tế của mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ.
7
Nghiên cứu vấn đề chuyển mục đích sử dụng đất trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam
Phụ lục 1: Sơ đồ cơ cấu của nền kinh tế
8


CẤU
CỦA
NỀN
KINH
TẾ
Theo 3 khu vực nông lâm ngư,
CN – XD, dịch vụ
Theo nông nghiệp và phi
nông nghiệp
Theo sản xuất vật chất và không
sản xuất vật chất
Theo
ngành
Theo vùng kinh tế - xã hội
(vùng lớn)
Theo vùng phát triển
và vùng còn lại
Theo thành thị - nông thôn
Theo
lãnh
thổ
Kinh tế Nhà nước
Kinh tế tập thể
Kinh tế tư nhân
Kinh tế tư bản Nhà nước
Kinh tế có vốn ĐT nước ngoài
Theo
thành
phần

kinh
tế
Nghiên cứu vấn đề chuyển mục đích sử dụng đất trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam
1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế (trong đó có cơ cấu theo ngành)
Quá trình phát triển của các ngành kinh tế dẫn đến sự tăng trưởng khác nhau giữa các
ngành và làm thay đổi mối quan hệ tương quan giữa chúng so với một thời điểm trước đó.
Như trên đã nêu, cơ cấu kinh tế là một tổng thể kinh tế bao gồm nhiều yếu tố có
quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau trong một khoảng không gian và thời
gian nhất định, trong một điều kiện kinh tế - xã hội nhất định và thể hiện đầy đủ cả mặt
định tính và định lượng, cả mặt chất lượng và số lượng phù hợp với mục tiêu xác định của
nền kinh tế. Do vậy, các yếu tố, các bộ phận cấu thành của cơ cấu kinh tế (cả số lượng và
chất lượng) phụ thuộc chặt chẽ vào mục tiêu kinh tế xã hội của mỗi nước trong từng thời
kì. Yếu tố chất lượng của cơ cấu xác định vai trò, tầm quan trọng của các yếu tố, các bộ
phận cấu thành của cơ cấu nền kinh tế. Còn những chỉ tiêu số lượng thể hiện quan hệ tỉ lệ
hình thành của cơ cấu phù hợp với chất lượng và cơ cấu nhất định. Những thay đổi về số
lượng (tỉ lệ, tốc độ...) tạo ra những thay đổi về chất và hình thành sự thay đổi của cơ cấu
kinh tế. Vì vậy, nói đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế là thay đổi ở mức độ nào đó chất
lượng và số lượng (tương ứng với sự thay đổi chất lượng đó).
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng về quy mô, chất
lượng, khả năng cạnh tranh và đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế trên cơ sở phát huy có
hiệu quả các nguồn lực của lãnh thổ, mà trong giới hạn của đề tài này, là nguồn lực về tài
nguyên đất. Mặt khác, bản thân sự tăng trưởng kinh tế do chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý
là điều kiện cần thiết cho việc hoàn thiện hơn nữa cơ cấu sử dụng đất. Như vậy, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế có mối quan hệ mật thiết đối với chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất.
Trong đề tài, chuyển dịch cơ cấu kinh tế được giới hạn ở mức xem xét thay đổi tỷ
lệ % của các ngành (lĩnh vực) qua từng năm, xét trên chỉ tiêu cơ cấu GDP ngành trong
tổng GDP. Để đánh giá cơ cấu kinh tế, đề tài sử dụng chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng kinh tế
(tốc độ tăng trưởng GDP chung và tốc độ tăng trưởng GDP các ngành) hoặc tốc độ tăng
trưởng giá trị sản xuất các ngành.
9

Nghiên cứu vấn đề chuyển mục đích sử dụng đất trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam
1.1.3. Tăng trưởng kinh tế
Tổng sản phẩm trong nước (GDP): là giá trị thị trường của tất cả hàng hóa và
dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong một nước trong một thời kỳ nhất định. Hiện
nay ở Việt Nam, Tổng cục thống kê tính toán GDP theo 3 phương pháp : phương pháp
chi tiêu, phương pháp thu nhập và phương pháp sản xuất. Bất kể GDP được tính theo
phương pháp nào thì kết quả cuối cùng phải thỏa mãn điều kiện là chi tiêu, thu nhập và
giá trị sản lượng của nền kinh tế phải bằng nhau.
Tổng sản phẩm quốc dân (GNP): là tổng thu nhập do công dân của một nước tạo
ra. GNP khác GDP là nó bao gồm cả các khoản thu nhập do công dân của một nước tạo
ra ở nước ngoài, nhưng không bao gồm những khoản thu nhập do công dân nước ngoài
tạo ra trong nước.
Quan hệ giữa GNP và GDP như sau: trong GNP gồm GDP cộng chênh lệch giữa
thu nhập về các nhân tố sản xuất thuộc sở hữu trong nước ở nước ngoài và chi trả các
nhân tố sản xuất thuộc sở hữu nước ngoài ở trong nước.
Nếu tính GDP theo phương pháp chi tiêu, ta có công thức
GDP = C + I + G + NX
Trong đó: - C : Tiêu dùng cá nhân
- I : Tổng đầu tư trong nước
- G : Chi tiêu chính phủ
- NX : Xuất khẩu ròng về hàng hóa và dịch vụ
GNP = GDP + NFA
Trong đó : - GDP : Tổng sản phẩm trong nước
- NFA : Chênh lệch giữ thu nhập được cư dân trong nước tạo ra ở nước
ngoài và thu nhập của người nước ngoài tạo ra trong nước
Các chỉ tiêu trên đều phản ánh kết quả chính của sự tăng trưởng kinh tế, nhưng
10
Nghiên cứu vấn đề chuyển mục đích sử dụng đất trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam
thực tế còn rất nhiều yếu tố khác trong nền kinh tế rất khó hoặc không thể hiện rõ bằng
tiền được, ví dụ như sự tổn hại do ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, khi nói đến cơ cấu

kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế thì phải nói đến chỉ tiêu có ảnh hưởng tới cơ cấu
kinh tế, đó là tốc độ tăng trưởng kinh tế
(1)
.
Tăng trưởng kinh tế được định nghĩa là sự gia tăng mức sản xuất mà nền kinh tế
tạo ra theo thời gian. Tăng trưởng kinh tế được tính bằng % thay đổi của mức sản lượng
quốc dân.
Để biểu thị tăng trưởng, người ta thường dùng mức tăng lên của GDP - tổng sản
phẩm quốc nội hoặc GNP - tổng sản phẩm quốc dân. Mức tăng đó thường tính trên toàn
bộ nền kinh tế quốc dân, hoặc là tính bình quân đầu người của từng thời kỳ so với thời
kỳ trước đó.
Gọi: t là năm; i là ký hiệu khu vực;
g(t) là tốc độ tăng GDP cả nước năm t;
g(i,t) là tốc độ tăng GDP ngành i năm t;
∆Y(t) là GDP tăng thêm của cả nước trong khoảng thời gian từ năm (t-1) đến t;
Y(t) là GDP cả nước năm t;
∆Y(i,t) là GDP tăng thêm của ngành i trong khoảng thời gian từ năm (t-1) đến t;
Y(i,t) là GDP ngành i năm t;
Khi đó, tốc độ tăng GDP năm t bằng GDP tăng thêm trong khoảng thời gian từ
năm (t-1) đến năm t chia cho GDP năm gốc, tức là:
)1(
)1()(
)(

−−
=
tY
tYtY
tg
. 100%

Công thức trên có thể viết gọn lại như sau:
1
()
Đề tài “ Quan hệ giữa tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam trong 10 năm tới (2006-
2015)” - Viện Chiến lược phát triển – Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
11
Nghiên cứu vấn đề chuyển mục đích sử dụng đất trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam

)1(
)(
)(


=
tY
tY
tg
. 100%
Trong đó, GDP tăng thêm của cả nước trong khoảng thời gian từ năm (t-1) đến
năm t bằng tổng GDP tăng thêm của các ngành, tức là:

=
∆=∆
N
i
tiYtY
1
),()(
GDP tăng thêm của các ngành i có thể phân tích thành tích số giữa tốc độ tăng
GDP với GDP của các ngành ở năm gốc:

)1,(
)1,(
),(
)(
1
−•


=∆

=
tiY
tiY
tiY
tY
N
i
Tổng hợp các quan hệ nêu trên, cho thấy quan hệ tốc độ tăng GDP cả nước liên
hệ với các ngành như sau:
)1(
)1,(
)1,(
),(
)1(
),(
)1(
)(
)1(
)1()(
)(

1
1





=


=


=

−−
=


=
=
tY
tiY
tiY
tiY
tY
tiY
tY
tY
tY

tYtY
tg
N
i
N
i
Nếu đặt
)1(
)1,(
)1,(


=−
tY
tiY
tis
là cơ cấu GDP của ngành i năm t so với tổng
GDP.
Đặt
)1,(
),(
),(


=
tiY
tiY
tig
là tốc độ tăng GDP của ngành i năm t.
Quan hệ giữa tốc độ tăng GDP cả nước với cơ cấu GDP và tốc độ tăng GDP của

các ngành có thể viết gọn lại như sau:
),()1,()(
1
tigtistg
N
i

=
•−=
Tóm lại, tốc độ tăng GDP của toàn bộ nền kinh tế bằng tổng gia quyền của tăng
GDP ngành với quyền số là tỷ trọng GDP ngành ở năm gốc.
12
Nghiên cứu vấn đề chuyển mục đích sử dụng đất trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam
Ý nghĩa của công thức trên cho thấy để xác định được cơ cấu kinh tế năm kế
hoạch, phải xác định được tốc độ tăng GDP của từng ngành trước, sau đó xác định tỷ
trọng của từng ngành trong năm kế hoạch.
Như vậy, giữa cơ cấu kinh tế (cơ cấu các ngành kinh tế) với tốc độ tăng GDP
chung và tốc độ tăng GDP từng ngành có mối quan hệ với nhau và tốc độ tăng GDP các
ngành là yếu tố tiền định để xác định cơ cấu các ngành. Tốc độ tăng trưởng các ngành
thay đổi sẽ kéo theo cơ cấu kinh tế thay đổi. Hay nói cách khác, dịch chuyển cơ cấu kinh
tế là một trong những động cơ quyết định tốc độ tăng trưởng. Do vậy trong các phần
sau, đề tài sử dụng chủ yếu là tốc độ tăng trưởng GDP và tốc độ tăng trưởng các ngành
để phân tích và tính toán.
1.1.4. Chuyển mục đích sử dụng đất
Tại các nước phát triển đã hoàn thành công nghiệp hóa, nền kinh tế với các kết cấu
hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật đã định hình và tương đối ổn định, do vậy diện tích đất
chuyển mục đích sử dụng không lớn. Đối với các nước đang phát triển nói chung và ở
Việt Nam nói riêng, vấn đề chuyển mục đích sử dụng đất diễn ra cấp thiết hơn do
nhu cầu cần thiết của sự phát triển kinh tế.
Từ năm 1986 đến nay nước ta tiến hành công nghiệp hóa kéo theo quá trình

chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Do vậy, cơ cấu sử dụng đất cũng chuyển dịch cho phù hợp
với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội và hàng năm diện tích đất phải chuyển mục
đích sử dụng đất cũng khá lớn. Thực tế cho thấy, việc tăng diện tích nhóm đất nông
nghiệp, đất phi nông nghiệp do chuyển đổi mục đích sử dụng đất đã tác động đến tăng
giá trị sản xuất của các ngành, tạo điều kiện cho tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh
tế. Như vậy, chuyển mục đích sử dụng đất trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế là
điều tất yếu xảy ra.
13
Nghiên cứu vấn đề chuyển mục đích sử dụng đất trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam
Tuy nhiên tăng trưởng kinh tế như trên đã nêu, đều phụ thuộc vào đất đai. Nhất là
khi phát triển kinh tế theo hướng CNH, HĐH thì đất nông nghiệp sẽ bị tiêu hao dần bởi
phải chuyển một phần đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp. Nhưng nếu chuyển quá
nhiều, phá vỡ cân bằng thì cần phải khống chế một cách nghiêm ngặt quá trình chuyển
mục đích sử dụng đất, để việc chuyển mục đích sử dụng đất không xâm lấn quá nhiều
vào đất nông nghiệp (đặc biệt là đất trồng lúa) làm giảm diện tích đất canh tác, giảm
tăng trưởng của ngành nông nghiệp. Khi diện tích đất nông nghiệp chuyển sang đất phi
nông nghiệp quá lớn, dễ dẫn đến thiếu hụt lương thực thực phẩm, từ đó sẽ dẫn đến lạm
phát, tăng trưởng kinh tế sẽ đi xuống.
Theo Luật Đất đai năm 2003, đất đai được phân thành 3 nhóm chính sau :
- Nhóm đất nông nghiệp bao gồm các loại đất:
a) Đất trồng cây hàng năm bao gồm đất trồng lúa, đất đồng cỏ dùng vào chăn
nuôi, đất trồng cây hàng năm khác;
b) Đất trồng cây lâu năm;
c) Đất rừng sản xuất;
d) Đất rừng đặc dụng;
e) Đất rừng phòng hộ;
f) Đất nuôi trồng thủy sản;
g) Đất làm muối;
h) Đất nông nghiệp khác theo quy định của Chính phủ.
- Nhóm đất phi nông nghiệp bao gồm các loại đất:

a) Đất ở tại nông thôn, đất ở tại đô thị;
b) Đất xây dựng trụ sở cơ quan, xây dựng công trình sự nghiệp;
c) Đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh;
d) Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp gồm đất xây dựng khu công nghiệp;
đất làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh; đất sử dụng cho hoạt động
14
Nghiên cứu vấn đề chuyển mục đích sử dụng đất trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam
khoáng sản; đất sản xuất VLXD, làm đồ gốm;
đ) Đất sử dụng vào mục đích công cộng gồm đất giao thông, thủy lợi; đất xây
dựng các công trình văn hóa, y tế, giáo dục và đào tạo, thể dục thể thao phục vụ lợi ích
công cộng; đất có di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh; đất xây dựng các công
trình công cộng khác theo quy định của Chính phủ;
e) Đất do các cơ sở tôn giáo sử dụng;
g) Đất có công trình là đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ;
h) Đất làm nghĩa trang, nghĩa địa;
i) Đất sông, ngòi, kênh, rạch, suối và mặt nước chuyên dùng;
k) Đất phi nông nghiệp khác theo quy định của Chính phủ.
- Nhóm đất chưa sử dụng bao gồm các loại đất chưa xác định mục đích sử dụng
gồm: đất bằng chưa sử dụng, đất đồi núi chưa sử dụng và đất núi đá không có rừng cây.
Việc phân loại đất này dựa trên căn cứ vào mục đích chính sử dụng đất nhằm đảm
bảo được sự tách bạch về chế độ sử dụng đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp, gắn mục
đích sử dụng đất với biện pháp bảo vệ môi trường sinh thái.
Khi xem xét chuyển mục đích sử dụng đất của một vùng, lãnh thổ trong một giai
đoạn nhất định, thực chất là xem xét sự biến động về diện tích giữa các nhóm đất lớn, hoặc
các loại đất trong nội bộ từng nhóm đất nhằm đáp ứng cho nhu cầu thực tế phát triển kinh tế
- xã hội, tạo điều kiện cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế của lãnh thổ trong giai đoạn đó. Như
vậy, chuyển mục đích sử dụng đất là một việc tất yếu luôn gắn liền với thực tiễn. Chuyển
mục đích sử dụng đất là sự thay đổi mục đích sử dụng từ nhóm đất này sang nhóm đất khác
hoặc thay đổi mục đích sử dụng trong nội bộ từng nhóm đất.
1.1.5. Các yếu tố chủ yếu tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển mục

đích sử dụng đất
1.1.5.1. Các yếu tố chủ yếu tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chịu tác động của rất nhiều yếu tố. Có thể khái
15
Nghiên cứu vấn đề chuyển mục đích sử dụng đất trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam
quát một số yếu tố chủ yếu sau đây:
1.1.5.1.1. Nhu cầu của con người thay đổi và tăng lên không ngừng
Trong quá trình phát triển, do sự phát triển về số người, do nhu cầu của họ tăng
lên và đa dạng hơn đã ảnh hưởng lớn đến quy mô sản xuất, cơ cấu sản phẩm, chất lượng
sản phẩm và nói một cách tổng quát là chúng ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế. Ngay trong một quốc gia, nhu cầu của mỗi người dân ở mỗi tỉnh,
mỗi vùng một khác, vì vậy nhà nước có thể đưa ra những chính sách tiêu dùng mang tính
hạn chế hay khuyến khích, gia tăng nhu cầu tiêu dùng, từ đó ảnh hưởng đến quy mô sản
xuất kinh doanh.
1.1.5.1.2. Tiến bộ khoa học - công nghệ
Tiến bộ khoa học - công nghệ đã tác động trực tiếp và có tính quyết định đến hình
thành và phát triển cơ cấu kinh tế, làm thay đổi tận gốc các thành phần tạo nên cơ cấu
kinh tế. Điều này thể hiện ở chỗ mỗi khi khoa học - công nghệ tiến bộ, nó làm cho quy
mô, chất lượng phát triển các ngành thay đổi và dẫn đến cơ cấu kinh tế thay đổi.
1.1.5.1.3. Xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa
Liên kết, liên minh trở thành hiện tượng phổ biến và có tính chủ đạo, tự do hóa
thương mại trở thành điều kiện quan trọng cho phát triển. Trong quá trình này, các nước
liên kết với nhau theo nguyên tắc phân công lao động xã hội toàn cầu trên cơ sở thế
mạnh của mỗi nước có tính tới yêu cầu cạnh tranh quốc gia. Đối với Việt nam khi xác
định cơ cấu kinh tế của một vùng, một tỉnh cũng phải tính tới các yếu tố này và tính tới
yếu tố liên vùng ngay trong nước.
1.1.5.1.4. Doanh nghiệp và sự phát triển không ngừng của các doanh nghiệp
Doanh nghiệp và sự phát triển không ngừng của các doanh nghiệp đã tạo ra sản
phẩm đáp ứng nhu cầu của xã hội, quyết định sự cạnh tranh của quốc gia trên thế giới.
Vì thế doanh nghiệp mới xuất hiện càng nhiều và hoạt động có hiệu quả thì càng tốt cho

hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế.
16
Nghiên cứu vấn đề chuyển mục đích sử dụng đất trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam
1.1.5.1.5. Đường lối phát triển của nhà nước, thể chế kinh tế, cơ chế chính sách
Đường lối phát triển của nhà nước, thể chế kinh tế, cơ chế chính sách có ý nghĩa
to lớn, nhiều khi là động lực đối với hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Khung
pháp lý, cơ chế chính sách, nhất là về quản lý kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến việc xác
định, hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế.
1.1.5.2. Những yếu tố chính tác động đến việc chuyển mục đích sử dụng đất
Trong phát triển kinh tế, việc chuyển mục đích sử dụng đất luôn diễn ra do nhu cầu
của thực tế đòi hỏi. Việc chuyển mục đích sử dụng đất từ loại đất này sang loại đất khác
chịu tác động bởi nhiều yếu tố, phụ thuộc vào điều kiện, đặc điểm của từng vùng, lãnh
thổ; từng thời kỳ phát triển của vùng, lãnh thổ đó. Đối với nước ta, quá trình chuyển đổi
cơ cấu nền kinh tế từ một nước nông nghiệp trở thành một nước công nghiệp phát triển,
trong số những yếu tố tác động đến việc chuyển mục đích sử dụng đất, có thể phân ra 3
nhóm yếu tố chính sau đây:
- Nhóm các yếu tố về tự nhiên;
- Nhóm các yếu tố về kinh tế;
- Nhóm các yếu tố về xã hội và môi trường;
Các yếu tố nêu trên có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó yếu tố về điều
kiện tự nhiên có vai trò quyết định, các yếu tố còn lại có vai trò quan trọng đối với từng
giai đoạn và từng địa phương.
1.1.5.2.1. Nhóm các yếu tố về điều kiện tự nhiên
Đây là nhóm yếu tố quyết định đến sự phân bổ đất đai theo mục đích sử dụng
một cách hợp lý, nhằm sử dụng đất tiết kiệm và có hiệu quả nhất. Nhóm yếu tố về điều
kiện tự nhiên mang tính khu vực rất rõ nét, chúng bao gồm:
a) Vị trí địa lý:
Vị trí địa lý có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội, qua đó có
17
Nghiên cứu vấn đề chuyển mục đích sử dụng đất trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam

tác động trực tiếp đến việc sử dụng đất của lãnh thổ. Trong điều kiện kinh tế thị trường
và xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu, yếu tố vị trí địa lý càng được đánh giá cao khi lựa
chọn địa bàn để phát triển các lãnh thổ, phát triển cơ cấu kinh tế.
Vị trí địa lý có sự khác nhau nhiều theo vùng, đó là một trong những nhân tố ảnh
hưởng lớn tới bố trí sản xuất, xây dựng các công trình, ảnh hưởng trực tiếp tới sử dụng
các loại tài nguyên thiên nhiên, lao động, vật tư, tiền vốn và giao lưu hợp tác với bên
ngoài. Những vùng có vị trí địa lý thuận lợi, địa hình bằng phẳng, gần các trục giao
thông, cảng biển... thường quỹ đất được sử dụng tối đa, có nhiều biến động trong chuyển
đổi mục đích sử dụng đất, đặc biệt là chuyển đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp,
điều này thể hiện rất rõ ở vùng Đồng bằng Sông Hồng hoặc vùng Đông Nam bộ. Những
khu vực có địa hình phức tạp không thuận lợi, quỹ đất được ưu tiên cho phát triển lâm
nghiệp, trừ những trường hợp cần xây dựng các công trình thuỷ điện hoặc khai khoáng,
như một số vùng của các tỉnh miền núi phía Bắc.
b) Khí hậu: là tác nhân ảnh hưởng rất lớn đến sự phân bố và phát triển các ngành
kinh tế quốc dân, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản chịu tác động
rất lớn của yếu tố khí hậu. Ở Việt Nam sự phân hoá của khí hậu khá rõ theo lãnh thổ là
nguyên nhân hình thành những tiểu vùng khí hậu, tạo tiền đề chuyển dịch cơ cấu sử
dụng đất để phát triển vùng chuyên canh cây trồng, vật nuôi một cách đa dạng với năng
suất khác nhau và chi phí khác nhau.
Tài nguyên khí hậu có ý nghĩa quan trọng, nhất là khi quốc gia có công nghệ khai
thác, biến chúng thành năng lượng để phục vụ con người. Điều kiện khí hậu nhiệt đới là
những điều kiện thuận lợi cho phát triển nền nông nghiệp có khả năng cho sinh khối lớn,
song bên cạnh đó cũng có những hạn chế nhất định như mưa bão, lũ lụt, sâu bệnh phá
hoại mùa màng phát triển nhanh.
c) Điều kiện đất đai: (địa hình và thổ nhưỡng): Sự sai biệt giữa địa hình, địa mạo,
độ cao so với mặt nước biển, độ dốc và hướng dốc, sự bào mòn mặt đất và mức độ xói
18
Nghiên cứu vấn đề chuyển mục đích sử dụng đất trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam
mòn... thường dẫn tới sự khác nhau về đất đai và khí hậu, từ đó ảnh hưởng đến sản xuất và
phân bố các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, hình thành sự phân dị địa giới theo chiều

thẳng đứng đối với nông nghiệp. Địa hình và độ dốc ảnh hưởng đến phương thức sử dụng
đất nông nghiệp, đặt ra yêu cầu xây dựng đồng ruộng để thuỷ lợi hoá và cơ giới hoá. Đối
với đất phi nông nghiệp, địa hình phức tạp sẽ ảnh hưởng tới giá trị công trình, gây khó
khăn cho thi công.
Sự khác biệt của tài nguyên đất và gắn liền với nó là địa hình tạo nên mục đích sử
dụng đất đa dạng và trình độ phát triển kinh tế rất khác nhau theo vùng. Quỹ đất càng
nhiều trong đó quỹ đất nông nghiệp và quỹ đất có thể giành cho xây dựng nhiều cũng
như địa hình càng dễ dàng là những điều kiện thuận lợi cho việc lựa chọn cơ cấu kinh tế
có công nghiệp và nông nghiệp phát triển, có đô thị phát triển. Đất đai càng màu mỡ thì
càng có điều kiện phát triển nông nghiệp hàng hóa. Trong thực tế, nơi nào có quỹ đất
thuận lợi cho cả phát triển nông nghiệp và công nghiệp, đô thị thì nơi đó tốc độ phát
triển kinh tế cao, cơ cấu kinh tế nhiều biến động, các ngành có nhu cầu sử dụng đất
nhiều, do đó sẽ có biến động rất lớn trong sử dụng đất cũng như chuyển mục đích sử
dụng đất. Thực tế này đã diễn ra trong sử dụng đất ở vùng Đồng bằng Sông Hồng và
vùng Đông Nam Bộ gần đây.
d) Tài nguyên nước: (nước mặt và nước ngầm) ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh
tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và mục đích sử dụng đất. Nguồn nước càng phong phú
càng có điều kiện để phát triển kinh tế. Vai trò của nguồn nước rất quan trọng, nó chi
phối mọi hoạt động kinh tế - xã hội, quyết định cơ cấu các ngành kinh tế của lãnh thổ và
quyết định việc sử dụng đất tại lãnh thổ đó. Có những nơi hội tụ được rất nhiều yếu tố
để phát triển kinh tế, nhưng do nguồn nước rất hạn chế nên đã ảnh hưởng lớn đến sự
phát triển kinh tế quy mô lớn ở những nơi đó.
1.1.5.2.2. Nhóm các yếu tố kinh tế
Yếu tố kinh tế - xã hội thường có ý nghĩa quyết định, chủ đạo đối với mục đích
19
Nghiên cứu vấn đề chuyển mục đích sử dụng đất trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam
sử dụng đất đai.
Các định hướng, mục tiêu và chính sách phát triển kinh tế: Được coi là yếu tố
“gốc”, là nòng cốt không những của tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà
còn là nòng cốt của chuyển đổi mục đích sử dụng đất.

Các định hướng, mục tiêu và chính sách phát triển kinh tế có quan hệ chặt chẽ với
việc phân bổ các nguồn lực của Nhà nước và thu hút vốn đầu tư trong và ngoài lãnh thổ, tạo
điều kiện cho sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế và qua đó chuyển dịch mục đích
sử dụng đất. Như vậy, phương hướng sử dụng đất được quyết định bởi yêu cầu của xã hội
và mục tiêu kinh tế trong từng thời kỳ nhất định.
Cơ cấu kinh tế và định hướng phân bố không gian sản xuất: Có tác động lớn đến
chuyển mục đích sử dụng đất. Nếu một khu vực hiện tại cơ cấu kinh tế chỉ tương đồng
như các khu vực khác trong cả nước, nhưng trong định hướng phát triển kinh tế - xã hội
dài hạn sẽ chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, phát triển công nghiệp - dịch vụ thì trong
tương lai, khu vực đó sẽ có một diện tích đáng kể đất nông nghiệp chuyển mục đích sử
dụng sang đất phi nông nghiệp. Điều này có thể thấy rõ thực tế đã xảy ra đối với các tỉnh
nằm trong 3 vùng kinh tế trọng điểm của cả nước thời gian qua. Trong 5 năm, từ năm
2001 - 2005 các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm có diện tích đất nông nghiệp chuyển
mục đích sử dụng đất chiếm khoảng 50% tổng diện tích đất nông nghiệp chuyển mục
đích sử dụng đất trên toàn quốc để xây dựng các khu công nghiệp và cụm công nghiệp,
xây dựng đô thị và xây dựng cơ sở hạ tầng với diện tích trên 180 ngàn ha, trong khi đó 3
vùng kinh tế trọng điểm chỉ có 21 tỉnh/64 tỉnh thành cả nước. Đối với khu vực định
hướng phát triển nông nghiệp là chính thì chủ yếu là chu chuyển trong nội bộ nhóm đất
nông nghiệp nhằm sản xuất loại nông sản hàng hóa có giá trị kinh tế cao hơn, đáp ứng
nhu cầu của thị trường và xuất khẩu.
Sức sản xuất và trình độ phát triển của nền kinh tế: Cũng là một yếu tố tác động
đến chuyển mục đích sử dụng đất. Đây là yếu tố ảnh hưởng có tính quyết định, bởi vì
20
Nghiên cứu vấn đề chuyển mục đích sử dụng đất trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam
trình độ phát triển của nền kinh tế là nhân tố chứng tỏ khả năng về phương tiện vật chất
cho tổ chức của không gian lãnh thổ đó được tốt nhất và cũng có điều kiện tạo ra nhu
cầu sử dụng đất mới lớn hơn, cao hơn, do đó tác động đến chuyển mục đích sử dụng đất
của lãnh thổ đó.
Tác động của tiến bộ khoa học - công nghệ: Tác động của tiến bộ khoa học và
công nghệ đến phát triển kinh tế là vô cùng to lớn. Có thể kể ra rất nhiều ví dụ về tác

động của tiến bộ khoa học - công nghệ đến mọi ngành, mọi lĩnh vực của kinh tế - xã hội.
Với tiến bộ của công nghệ sinh học đã tạo ra các bộ giống cây, con mới có năng
suất cao, chất lượng tốt hơn hẳn mà diện tích nuôi cấy, gieo trồng không phải tăng thêm.
Áp dụng phương pháp luân canh, tăng vụ, sự hỗ trợ của phân bón, thuốc trừ sâu, hệ
thống tưới tiêu hợp lý….cũng góp phần nâng cao giá trị sản xuất trên 1 ha đất canh tác
so với trước đây mà không phải tăng thêm diện tích canh tác.
Việc áp dụng phương pháp xây dựng hiện đại cho phép ta có thể xây dựng mạng
lưới giao thông nhiều tầng (ngầm, nổi, trên cao), xây dựng nhà nhiều tầng không những
chỉ vươn lên trên mà còn ngầm dưới đất…. đã tiết kiệm rất nhiều diện tích đất.
Trong công nghiệp, tác động của tiến bộ khoa học - công nghệ rất lớn, có thể có
những bước tiến có tính đột biến làm thay đổi toàn bộ sản xuất công nghiệp cũng như
phân bố công nghiệp, nâng cao giá trị sản xuất của ngành.
Như vậy, tiến bộ khoa học - công nghệ không chỉ làm tăng tổng sản lượng kinh
tế, nâng cao năng suất lao động, đa dạng ngành nghề mà còn tạo ra những tiền đề cho
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, theo đó là thay đổi mục đích sử dụng đất, có thể sẽ làm cho
diện tích đất cần chuyển mục đích sử dụng tăng hoặc giảm.
1.1.5.2.3. Nhóm các yếu tố về xã hội - môi trường:
Có những yếu tố chính sau
Dân số và lao động, nguồn nhân lực:
Dân số và lao động - nguồn nhân lực là một yếu tố quan trọng hàng đầu của mục
21
Nghiên cứu vấn đề chuyển mục đích sử dụng đất trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam
đích sử dụng đất. Sự biến động dân số trong từng thời kỳ ở mỗi vùng lãnh thổ đều tác
động sâu sắc và toàn diện đến tất cả mọi lĩnh vực hoạt động, trước hết là hoạt động kinh
tế và sử dụng đất.
Quy mô, chất lượng dân số có ý nghĩa lớn đối với sự hình thành và phát triển cơ
cấu kinh tế. Dân số càng đông, chất lượng dân số càng cao thì càng có điều kiện tốt để
hình thành, phát triển cơ cấu kinh tế đa dạng, có chất lượng, đem lại hiệu quả kinh tế -
xã hội cao hơn. Nhưng mặt khác, dân số đông cũng kéo theo nhu cầu sử dụng đất tăng
lên nhằm thỏa mãn những nhu cầu của người dân về mọi mặt xã hội như nhà ở, giao

thông, giáo dục, y tế. Việc chuyển mục đích sử dụng đất từ các loại đất khác sang đất ở
và đất phục vụ cho nhu cầu dân sinh tất yếu sẽ diễn ra.
Ngoài các yếu tố về dân số, các yếu tố xã hội khác cũng ảnh hưởng tới việc sử
dụng đất. Đó là kết cấu cộng đồng dân cư (dân cư ở đồng bằng hay miền núi, đô thị hay
nông thôn...). Dân cư ở các vùng đồng bằng phân bố tập trung thì sản xuất ở đó có điều
kiện thuận lợi để bố trí tập trung. Cư dân ở các vùng miền núi thường sinh sống phân tán
sẽ gắn với các kiểu tổ chức sản xuất không tập trung quy mô lớn. Ngoài ra, tập quán sản
xuất (lạc hậu hay tiên tiến, hiện đại), tập quán tiêu dùng, các giá trị văn hóa, truyền
thống cộng đồng, tâm lý dân cư (nhất là tâm lý tăng trưởng, tâm lý sản xuất hàng hóa,
tâm lý cạnh tranh...) có ảnh hưởng tới cơ cấu sản xuất và cơ cấu tiêu dùng của vùng, từ
đó ảnh hưởng tới cơ cấu sản xuất của lãnh thổ, ảnh hưởng tới mục đích sử dụng đất.
Quy mô và chất lượng nguồn nhân lực có ảnh hưởng lớn đến việc hình thành và
phát triển cơ cấu kinh tế nói chung và sử dụng đất nói riêng. Chất lượng nguồn nhân lực
càng cao càng có điều kiện để phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ có hàm lượng
chất xám cao, hiệu quả kinh tế lớn. Thực tế cho thấy, nếu các ngành công nghiệp, dịch vụ
sử dụng lao động có tay nghề cao, sản phẩm có hàm lượng chất xám cao thì lại thường sử
dụng ít đất và ngược lại. Điều này cho thấy mối liên quan giữa chất lượng nguồn nhân lực
với nhu cầu sử dụng đất.
22
Nghiên cứu vấn đề chuyển mục đích sử dụng đất trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam
Chính sách đất đai: là một trong những yếu tố tác động đến chuyển mục đích sử
dụng đất. Tương ứng với định hướng, mục tiêu phát triển kinh tế sẽ có chính sách đất đai
phù hợp với định hướng đó để tạo điều kiện thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội trong
định hướng phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra.
Trong thời gian đầu của quá trình đổi mới, trước những khó khăn và yêu cầu về
lương thực, thực phẩm nên chính sách đất đai chủ yếu tập trung vào sản xuất nông, lâm
nghiệp với mục tiêu từng bước đưa nông lâm nghiệp lên sản xuất lớn. Chính sách đất đai
trong thời kỳ này là động lực thúc đẩy nông nghiệp phát triển, đưa Việt Nam từ chỗ thiếu
lương thực trong thập kỷ 80 trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới trong
thập kỷ 90 của Thế kỷ 20.

Việt Nam sau khi vượt qua khó khăn này và trở thành nước xuất khẩu lương thực
có tầm cỡ trên thế giới, với mục tiêu đã chọn là phát triển công nghiệp và dịch vụ, giảm
dần tỷ trọng nông nghiệp, do yêu cầu phát triển kinh tế và xã hội, nhu cầu sử dụng đất
cho sản xuất công nghiệp, hạ tầng, xây dựng đô thị và các hạ tầng xã hội khác ngày càng
tăng. Nhà nước đã có thay đổi chính sách đối với đất phi nông nghiệp theo xu hướng tạo
điều kiện thuận lợi mở đường cho công nghiệp và dịch vụ phát triển, khuyến khích hình
thức đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng. Chính sách đất ở, nhà ở cũng thay
đổi để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng do sự gia tăng dân số chung và gia tăng dân số
đô thị trong quá trình phát triển. Như vậy dẫn đến tiến trình tất yếu là đất phi nông
nghiệp tăng lên, quá trình chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang đất phi
nông nghiệp nhiều hơn.
Như vậy chính sách đất đai là một yếu tố không những góp phần thực hiện mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội, giúp cho nền kinh tế chuyển biến mạnh theo hướng phát triển
công nghiệp và dịch vụ mà còn là yếu tố tác động đến chuyển mục đích sử dụng đất.
Môi trường: Môi trường là tổng hợp các điều kiện sống của con người, phát triển
là quá trình cải tạo và cải thiện điều kiện đó. Môi trường là địa bàn, là đối tượng của sự
23
Nghiên cứu vấn đề chuyển mục đích sử dụng đất trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam
phát triển, vì vậy môi trường có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế, sử dụng đất
và chuyển mục đích sử dụng đất.
Môi trường thiên nhiên: Cung cấp tài nguyên thiên nhiên cho hệ kinh tế, đồng
thời tiếp nhận chất thải cho hệ kinh tế. Sử dụng đất và bảo vệ môi trường thiên nhiên có
quan hệ mật thiết với nhau trong cùng một chương trình hành động. Nếu không bảo vệ
được môi trường đúng mức, phát triển sẽ bị hạn chế, phát triển không tính đến bảo vệ
môi trường, sự phát triển đó sẽ ngày càng giảm đi về tốc độ cũng như quy mô phát triển.
Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội cùng với các hình thức sử dụng đất bất hợp lý
đã gây ra một áp lực rất lớn đối với môi trường đất của Việt Nam. Do vậy trong sử dụng
đất nói chung và đặc biệt trong việc chuyển mục đích sử dụng đất cần quan tâm đúng
mức tới lĩnh vực môi trường và cần đề ra chính sách môi trường phù hợp để phát triển
bền vững.

Môi trường xã hội: là môi trường chính trị, xã hội, văn hóa, kinh tế. Môi trường
xã hội có tác động rất lớn đối với sự phát triển kinh tế nói chung và chuyển đổi sử dụng
đất nói riêng. Nền kinh tế của một quốc gia chỉ phát triển được khi có môi trường chính
trị ổn định, là môi trường xã hội văn hóa, kinh tế thuận lợi. Môi trường xã hội thuận lợi
sẽ tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, tạo điều kiện cho sử dụng đất cũng như quá trình
chuyển mục đích sử dụng đất diễn ra được thuận lợi.
Từ các vấn đề nêu trên cho thấy, các yếu tố điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế -
xã hội tạo ra nhiều tổ hợp ảnh hưởng đến việc sử dụng đất đai. Tuy nhiên mỗi yếu tố giữ vị
trí và có vai trò tác động khác nhau. Trong đó điều kiện tự nhiên là yếu tố cơ bản để xác
định công dụng của đất đai có ảnh hưởng trực tiếp, cụ thể và sâu sắc, nhất là đối với sản
xuất nông nghiệp. Điều kiện kinh tế sẽ kiềm chế tác dụng của con người trong việc sử dụng
đất. Điều kiện xã hội tạo ra khả năng khác nhau cho các yếu tố kinh tế và tự nhiên tác động
tới việc sử dụng đất. Vì vậy cần phải dựa vào quy luật tự nhiên và quy luật kinh tế - xã hội
để nghiên cứu, xử lý mối quan hệ giữa các yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội trong lĩnh vực sử
24
Nghiên cứu vấn đề chuyển mục đích sử dụng đất trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam
dụng đất đai. Căn cứ vào yêu cầu của thị trường và của xã hội, xác định mục đích sử dụng
đất, kết hợp chặt chẽ yêu cầu sử dụng đất với ưu thế tài nguyên của đất, để đạt tới cơ cấu
tổng thể hợp lý nhất, với diện tích đất đai có hạn sẽ mang lại hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã
hội ngày càng cao và sử dụng đất đai được bền vững.
1.1.6. Mối quan hệ giữa sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng đất với tăng
trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Như phần trên đã nêu, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển mục
đích sử dụng đất đều chịu sự chi phối của nhiều yếu tố, song giữa chúng đều chịu tác động của
yếu tố quan trọng nhất là các định hướng, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, các
chủ trương và chính sách phát triển kinh tế của Chính phủ.
Do đều chịu sự chi phối của yếu tố giống nhau đó nên giữa chuyển dịch cơ cấu
kinh tế với chuyển mục đích sử dụng đất luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau. Mục
tiêu của tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế là tiền đề cho chuyển mục đích sử
dụng đất và ngược lại, chuyển mục đích sử dụng đất tạo điều kiện cho tăng trưởng và

chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Trong quá trình phát triển xã hội, mục tiêu luôn được đặt ra là phấn đấu để đảm
bảo cho cuộc sống của con người ngày càng được nâng cao hơn, tức là giá trị sản xuất
ngày càng tăng nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội. Do định hướng phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước mỗi thời kỳ có những mục tiêu khác nhau nên đặt ra yêu cầu giá trị sản
xuất của các ngành trong mỗi thời kỳ cũng khác nhau, tạo nên sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế.
Khi cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch, sẽ có một diện tích đất chuyển mục đích sử
dụng phù hợp với cơ cấu kinh tế đó. Trước năm 1986, ở nước ta tỷ trọng ngành công
nghiệp, dịch vụ chỉ ở mức độ thấp, diện tích đất nông nghiệp chuyển mục đích sử dụng
sang đất phi nông nghiệp không lớn. Lúc đó yêu cầu về lương thực lớn nên chủ yếu là
khai thác đất chưa sử dụng để đưa vào sản xuất nông nghiệp. Sau năm 1986, với mục tiêu
25

×