Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới và sự vận dụng tư tưởng đó ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 129 trang )


1
ĐạI HọC QUốC GIA Hà NộI
TRƯờNG ĐạI HọC KHOA HọC Xã HộI Và NHÂN VĂN
*




NGUYễN HUY KIểM





TƯ TƯởNG Hồ CHí MINH Về XÂY DựNG NềN VĂN HóA MớI
Và Sự VậN DụNG TƯ TƯởNG Đó ở VIệT NAM HIệN NAY








LUậN VĂN THạC Sĩ
Chuyên ngành: Triết học










Hà Nội - 2012


2
ĐạI HọC QUốC GIA Hà NộI
TRƯờNG ĐạI HọC KHOA HọC Xã HộI Và NHÂN VĂN
*





NGUYễN HUY KIểM





TƯ TƯởNG Hồ CHí MINH Về XÂY DựNG NềN VĂN HóA MớI Và
Sự VậN DụNG TƯ TƯởNG Đó ở VIệT NAM HIệN NAY






Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học
Mã số: 60 22 80





Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: TS. D-ơng Văn Duyên





Hà Nội - 2012

5
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
1

NỘI DUNG
14

Chương 1. NHỮNG TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ VĂN HÓA VÀ XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA MỚI VIỆT NAM
14

1.1. Tiền đề, điều kiện hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá
và xây dựng nền văn hoá mới 14

1.1.1. Tiền đề tư tưởng 14
1.1.2. Điều kiện hình thành 31
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá và xây dựng nền văn hoá mới
ở Việt Nam 36
1.2.1. Một số nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa 38
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam 41
Chương 2. XÂY DỰNG NỀN VĂN HOÁ VIỆT NAM DƯỚI ÁNH SÁNG
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA MỚI
62

2.1. Việt Nam xây dựng nền văn hoá mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh 62
2.2. Những thành tựu, hạn chế trong xây dựng nền văn hoá mới ở
Việt Nam những năm đổi mới 72
2.2.1. Thành tựu 72
2.2.2.Những hạn chế 88
2.3. Những giải pháp có tính định hướng nâng cao hiệu quả xây dựng
nền văn hóa Việt Nam theo Tư tưởng Hồ Chí Minh 101
KẾT LUẬN
112

TÀI LIỆU THAM KHẢO
114

PHỤ LỤC
121







7
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thời đại ngày nay là thời đại của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ. Sức mạnh của một quốc gia không chỉ được quyết định bởi sức mạnh
về kinh tế, sức mạnh quốc phòng mà còn được quyết định bởi nguồn lực con
người. Con người với năng lực làm việc chuyên môn cao, có phẩm chất đạo
đức, có quyết tâm nghị lực lớn sẽ là một sức mạnh to lớn để khắc phục những
hạn chế về kinh tế về tài nguyên khoáng sản v.v… Nhận thức được tầm quan
trọng của nhân tố con người, những năm qua đặc biệt trong thời kỳ đổi mới
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định chăm lo cho con người, phát triển
con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của mọi chính sách xã hội, của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của chúng ta.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là xây dựng những điều kiện
cho con người phát triển. Những điều kiện đó không chỉ có những yếu tố kinh
tế mà còn cả những yếu tố về văn hóa. Kinh tế và văn hóa có quan hệ gắn bó
với nhau. Sự phát triển của kinh tế quy định sự phát triển của văn hóa, nhưng
ngược lại sự phát triển văn hóa cũng sẽ tạo điều kiện cho phát triển kinh tế.
Nhận thức được mối quan hệ đó, tại Hội nghị lần thứ năm, Ban chấp Hành
Trung ương Đảng khoá VIII, Đảng ta khẳng định: “Xây dựng và phát triển
kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hoá, vì xã hội công bằng, văn minh, con
người phát triển toàn diện.Văn hoá là kết quả của kinh tế đồng thời là động
lực của sự phát triển kinh tế” [23, tr. 55]. Nói về điều này, khi phát động thập
kỷ quốc tế về phát triển văn hoá, UNESCO đã nhấn mạnh: “Khi các mục tiêu
tăng trưởng kinh tế được đặt ra mà tách rời môi trường văn hoá thì kết quả thu
được sẽ rất khập khiễng mất cân đối cả về mặt kinh tế lẫn văn hoá, đồng thời
tiềm năng sáng tạo của mỗi dân tộc sẽ bị suy yếu đi rất nhiều” [98, tr.19]. Do
đó: “Nhận thức vị trí vai trò của văn hoá trong phát triển, chúng ta cần vượt
lên trên cách tiếp cận kinh tế học thuần tuý và tìm ra hàng trăm các phương

thức có thể được để cho tính công nghiệp và tính sáng tạo có thể gắn bó, móc
nối với nhau và để cho kinh tế có thể bắt rễ trong văn hoá” [98, tr. 22].

8
Nhận thức được mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn
hóa trong những năm qua, tuy tình hình kinh tế của đất nước còn nhiều khó
khăn nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam đã chăm lo tới sự phát triển văn hóa
của đất nước. Những năm qua, đặc biệt những năm đổi mới trình độ học vấn
của người dân Việt Nam đã được nâng lên một bước. Nhiều công trình văn
hóa của dân tộc được tôn tạo, nhiều hình thức văn hóa truyền thống được khôi
phục và có điều kiện phát triển. Quan hệ giữa con người và con người đã có
những thay đổi, nhiều phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc được giữ gìn phát
triển.v.v Chính những thành tựu trong phát triển văn hóa đã góp phần to lớn
trong phát triển kinh tế- xã hội của đất nước những năm qua. Tuy nhiên so với
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, yêu cầu của sự
nghiệp cách mạng nền văn hóa Việt Nam còn nhiều hạn chế. Chất lượng giáo
dục Việt Nam vẫn còn chưa đáp ứng được yêu cầu xây dựng đất nước, giáo dục
đào tạo chưa gắn với yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội, còn lãng phí về nguồn
nhân lực. Nhiều lĩnh vực văn hóa của Việt Nam còn hạn chế. Nhiều phong tục
tập quán tốt đẹp của dân tộc bị mai một, nhiều lĩnh vực văn hóa truyền thống
không được giữ gìn phát triển; trong khi đó một bộ phận xã hội tiếp thu văn
hóa nước ngoài một cách mù quáng.v.v… Tất cả những lý do đó khiến tôi lựa
chọn đề tài luận văn của mình là: “

























”.
Trên cơ sở nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa
mới – XHCN, từ những thành tựu và hạn chế trong xây dựng nền văn hóa ở
Việt Nam những năm qua, luận văn muốn đề xuất những giải pháp để nâng
cao hiệu quả hoạt động này ở hiện tại, cũng như trong tương lai.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến hôm nay, việc nghiên cứu về con người, sự nghiệp, tư tưởng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chung đã có rất nhiều nhà khoa học, tác giả
trong và ngoài nước quan tâm, nghiên cứu và đã xuất bản, ra mắt một số
lượng đồ sộ các đề tài, tác phẩm với những nội dung vô cùng phong phú.

9
Chỉ tính riêng lĩnh vực tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, xây dựng và

phát triển văn hóa để thích ứng với từng giai đoạn cách mạng của dân tộc đã
có một số lượng khá lớn các công trình nghiên cứu, các tác phẩm đã công bố
và xuất bản. Trong khuôn khổ của luận văn này, chỉ nêu lên khái quát một số
các công trình, tác phẩm, bài viết tiêu biểu về vấn đề này.
Lần đầu tiên, một chương trình khoa học - công nghệ cấp Nhà nước
“Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh” ( Mã số KX.02), đã được triển khai trong
giai đoạn 1991- 1995; “ Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá” của Ban tư tưởng
văn hoá Trung ương ban hành năm (2003); Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, tại cuộc hội thảo khoa học năm 1998, đã
tổng hợp nhiều bài viết của nhiều nhà nghiên cứu, tác giả trong cuốn “ Tưởng
Hồ Chí Minh về xây dựng văn hoá Việt Nam”.
Cho đến nay, đã có rất nhiều công trình, tác phẩm, bài viết nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa được tiếp cận ở nhiều khía cạnh khác nhau.
Chúng ta có thể kể đến hàng loạt các công trình, tác phẩm: TS. Bùi Đình Phong
với: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam” ( 2001)
Tác giả Hoàng Chí Bảo và Trần Đình Huỳnh với tác phẩm: “ Hồ Chí Minh-
danh nhân văn hóa” (2004); Đề tài Khoa học xã hội 01-04 “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về phát triển văn hóa, xây dựng con người” do GS. Đặng Xuân Kỳ làm
chủ nhiệm (2005); Còn GS. Đỗ Huy với các công trình, tác phẩm như: Đề tài
Khoa học xã hội 04- 01 (chương 5): “Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng và phát triển văn hóa”, “Tư tưởng văn hoá Hồ Chí Minh” (1997), “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển nền văn hoá mới ở Việt
Nam”(2000); “Văn hóa và triết lý phát triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh”
(2007), “Hồ Chí Minh văn hoá và đổi mới” (1998) do GS. Đinh Xuân Lâm,
PGS, TS Bùi Đình Phong đồng chủ biên; “Hồ Chí Minh, nhà văn hóa kiệt xuất”
của GS. Song Thành( 2010); Ngoài ra các tác giả Phạm Ngọc Anh, Bùi Đình
Phong có tác phẩm: “Hồ Chí Minh văn hoá và phát triển”(2009), “Tư tưởng Hồ

10
Chí Minh về văn hoá Đảng” (2007). Chúng ta còn phải kể đến Lê Xuân Vũ với

“Chủ tịch Hồ Chí Minh với nền văn hoá Việt Nam” (2005); Lê Hưu Ái “Tìm
hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về tính dân tộc của văn hoá, nghệ thuật” (1999). Còn
một số tác phẩm khác có liên quan đến vấn đề này đã được nêu rõ ràng trong
danh mục tài liệu tham khảo của luận văn này.
Ngoài những công trình, tác phẩm của các nhà nghiên cứu, tác giả nêu
trên, đề cập trực tiếp và liên quan đến vấn đề này, một số luận văn, luận án đang
được lưu trữ tại thư viện Đại học Quốc Gia Hà Nội, trong những năm gần đây,
các tác giả cũng bước đầu tìm hiểu vấn đề nay. Như, Trần Thị Đào với đề tài
“Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá vào xây dựng, phát triển nền
văn hoá Việt Nam hiên nay” (2007); “Kế thừa và phát triển trong việc xây dựng
nền văn hoá mới ở Việt Nam hiên nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh”(2007) của
Hoàng Ngọc Thắng; Trịnh Thanh Mai với “Tư tưởng Hồ Chí Minh về tiếp thu
tinh hoa văn hoa thế giới vào xây dựng nền văn hoá dân tộc và sự vận dụng tư
tưởng đó trong phát triển văn hoá nước ta hiện nay” (2009), còn Nguyễn Thanh
Tùng đã chọn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá mới trong thời kỳ (1945 1954)”
(2010), làm đề tài nghiên cứu. Gần đây nhất, Trần Thị Minh đã chọn đề tài “Phát
triển văn hoá với tư cách là nền tảng tinh thần của xã hội trong điều kiện kinh tế
thị trường ở Việt Nam hiện nay” (2012), làm luận án tốt nghiệp.
Ngoài ra hiện nay còn rất nhiều tạp chí, đầu sách, bài viết cũng đề cập
xung quanh vấn đề này. Như: tạp chí khoa học xã hội, tạp chí Triết học, Tạp chí
Cộng sản, tạp chí Văn hóa Tư tưởng, tạp chí Lý luận các tạp chí này liên tục
hàng tháng trong năm đều có những bài viết đề cập trực tiếp đến vấn đề này.
Qua quá trình khảo sát tình hình nghiên cứu nêu trên, tác giả luận văn
có nhận xét sau:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu, các tác phẩm, các bài viết nêu trên,
các tác giả đã nêu và khái quát được những nét lớn chủ yếu trong tư tưởng văn
hoá, xây dựng nền văn hoá mới ở Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một số

11
tác giả đã bắt đầu đi vào khai thác, nghiên cứu những khía cạnh cụ thể của tư

tưởng đó và cũng nêu lên được những ý kiến đặc sắc, điều đáng hoan nghênh
và mang tính thực tiễn nhất là đã có một số tác giả đã nghiên cứu, cho ra đời
những tác phẩm, bài viết đề cập trực tiếp đến việc vận dụng tư tưởng của Hồ
Chí Minh về văn hoá vào xây dựng đất nước nói chung và vào từng ngành
nghề, lĩnh vực cụ thể, đến mọi cơ quan, nhà máy, xí nghiệp, cho đến mỗi gia
đình, lối sống của từng người.
Thứ 2, tất cả các tác giả đều có chung một khẳng định rằng, Hồ Chí
Minh là đỉnh cao, là một tượng trưng cao đẹp của bản sắc văn hoá Việt Nam,
cho sự giao lưu văn hoá Đông- Tây. Như các nhà nghiên cứu đã từng nhận
xét: Tư tưởng của Hồ Chí Minh là đỉnh cao mới của văn hoá, là hiện thân kết
tinh truyền thống văn hoá Việt Nam, là biểu tượng và người mang chở những
giá trị văn hoá Đông- Tây, kim cổ. Hồ Chí Minh đã có những đóng góp lớn
lao cho văn hoá Việt Nam và văn hoá nhân loại.
Song tuy nhiên tác giả luận văn nhận thấy có ba vấn đề nổi lên: một là,
các công trình, tác phẩm nói về sự vận dụng tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh,
đặc biệt là vận dụng những vấn đề cụ thể của tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh
còn rất ít, thiếu những tác phẩm quy mô, xứng tầm để đáp ứng nhu cầu đổi
mới đất nước, hơn nữa các công trình, tác phẩm trên chủ yếu nghiên cứu từng
vấn đề riêng lẻ, hoặc là chỉ tập trung nghiên cứu tư tưởng văn hóa Hồ Chí
Minh, Hoặc là chỉ nghiên cứu sự vận dụng tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh, rất
ít các tác phẩm đầu tư nghiên cứu liên kết, xâu chuối các vấn đề thành một hệ
thống nghiên cứu của mình; hai là, kết quả thực tế trong việc vận dụng, học
tập tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh trong công việc, đời thường chưa thực sự
hiệu quả, còn nhiều hình thức, mà “Chúng ta chưa khai thác được là bao”; ba
là, trước công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, thời đại giao lưu hội nhập
quốc tế, thì vấn đề vận dụng, xây dựng một nền văn hóa mới xứng tầm lại cần
thiết hơn bao giờ hết.

12
Như vậy vấn đề này luôn luôn mang tính thời sự nóng bỏng và cấp

bách. Do đó rât cần và phải thường xuyên nghiên cứu sâu hơn nữa, để có
những công trình toàn diện, xứng tầm với giá trị đích thực của tư tưởng Hồ
Chí Minh về văn hóa, từ đó có được đường đi, nước bước đúng đắn trong xây
dựng nền văn hóa Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn
- Mục đích: Luận văn nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
nền văn hoá mới ở Việt Nam và sự vận dụng ở nước ta trong thời kỳ đổi mới,
từ đó đưa ra những giải pháp mang tính định hướng nhằm thực hiện tốt hơn
nữa hoạt động này trong những năm tới.
- Nhiệm vụ Luận văn:
Làm rõ tiền đề tư tưởng, điều kiện để hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng nền văn hoá mới; một số nội dung tư tưởng của Người về xây
dựng nền văn hoá mới ở Việt Nam.
Làm rõ những thành tựu và hạn chế của việc xây dựng nền văn hoá
Việt Nam dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới.
Đưa ra những giải pháp có tính định hướng để xây dựng nền văn hoá
Việt Nam đáp ứng tốt hơn nữa yêu cầu của cách mạng trong những năm tới.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Dựa trên quan điểm duy vật biện chứng, quan điểm duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; dựa trên lý luận, quan điểm của Đảng,
Nhà nước về phát triển kinh tế và văn hóa.
- Phương pháp nghiên cứu: Phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn dịch quy nạp.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa mới, xây dựng nền văn
hoá mới ở Việt Nam; sự vận dụng tư tưởng đó trong xây dựng văn hoá ở Việt
Nam thời kỳ đổi mới, từ 1986 đến nay.

13
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của văn

hóa và xây dựng nền văn hóa mới ở Việt Nam; làm rõ Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vận dụng tư tưởng đó
trong những năm đổi mới. Luận văn cũng nêu lên những giải pháp có tính
định hướng để thực hiện có hiệu quả hơn hoạt động này.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
a. Ý nghĩa lý luận.
Làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá, xây dựng nền văn hóa mới và những
vấn đề xây dựng nền văn hoá ở Việt Nam những năm qua. Những quan niệm của Hồ
Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới ở Việt Nam là cơ sở lý luận cho Đảng, Nhà
nước ta xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, phục vụ đắc lực cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
b. Ý nghĩa thực tiễn.
Từ những luận điểm quan trọng của Hồ Chí Minh về văn hóa, vai trò
văn hóa, mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và văn hóa từ đó đối chiếu với
thực tiễn xây dựng văn hóa Việt Nam những năm đổi mới; thấy được những
mặt hợp lý và thiếu sót trong hoạch định phát triển kinh tế - xã hội trong việc
kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế và văn hóa trong những năm qua. Từ
thực tế đó tiến hành điều chỉnh chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật
của Đảng và Nhà nước cho phù hợp để tạo ra sự phát triển bền vững của đất
nước. Luận văn có thể trở thành tài liệu tham khảo cho các cơ quan văn hoá
cho mỗi người chúng ta trong việc xây dựng đời sống văn hoá mới hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
+ Ngoài phần mở đầu kết luận, luận văn gồm 2 chương 5 tiết
+ Phần mục lục
+ Tài liệu tham khảo
+ Phụ lục

14
NỘI DUNG
Chƣơng 1

NHỮNG TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH VÀ TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ VĂN HÓA VÀ XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA MỚI VIỆT NAM

1.1. Tiền đề, điều kiện hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về văn
hoá và xây dựng nền văn hoá mới
1.1.1
Một là, tư tưởng văn hóa của Hồ Chí Minh được hình thành trên nền
tảng văn hóa truyền thống dân tộc Việt Nam
Trải qua mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã hun đúc, tạo
lập cho dân tộc ta một nền văn hoá phong phú, đa dạng và thống nhất bền
vững với những giá trị truyền thống tốt đẹp, cao quý; đó là truyền thống yêu
nước, kiên cường bất khuất, là tinh thần tương thân tương ái, lòng nhân nghĩa,
cần cù dũng cảm, ý thức cố kết cộng đồng, là ý thức vượt mọi khó khăn, thử
thách, tinh thần lạc quan yêu đời
Tư tưởng Hồ Chí Minh có cội nguồn từ những giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc. Khi tôn vinh Người là danh nhân văn hóa Việt Nam và Anh
hùng giải phóng dân tộc, tổ chức UNESCO đã ghi nhận: Nhà văn hóa kiệt
xuất Hồ Chí Minh là kết tinh của truyền thống văn hóa ngàn năm của dân tộc
Việt Nam và những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của
các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc của mình và tiêu biểu cho việc thúc
đẩy hiểu biết lẫn nhau…
Trong những giá trị đó, chủ nghĩa yêu nước là tư tưởng, tình cảm cao
quý, thiêng liêng nhất, là cội nguồn của trí tuệ sáng tạo và lòng dũng cảm của
người Việt Nam cũng là chuẩn mực đạo đức, là giá trị văn hóa cơ bản của dân
tộc; đã ăn sâu vào tiềm thức, vào ý chí và hành động của mỗi chúng ta. Đây là
dòng chủ lưu chảy xuyên suốt trường kỳ lịch sử Việt Nam, là chuẩn mực cao
nhất đứng đầu bảng giá trị văn hóa – tinh thần Việt Nam. Mọi học thuyết đạo

15
đức, tôn giáo từ nước ngoài du nhập vào Việt Nam đều được tiếp nhận khúc

xạ qua lăng kính yêu nước đó. Có thể nói đây là tài sản có giá trị nhất trong
hành trang của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là cơ sở xuất phát, là sợi chỉ đỏ xuyên
suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, là động lực giúp Người vượt
qua mọi gian nan thử thách, hiểm nguy. Đây là nguồn gốc, là một cơ sở quan
trọng để hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hóa nói riêng.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam được hun đúc nên bởi cuộc đấu tranh
dựng nước và giữ nước của nhân dân ta, của dân tộc ta. Tinh thần yêu nước đã
trở thành đạo lý, triết lý sống, niềm tự hào của con người Việt Nam. Bởi vậy,
mỗi người dân Việt Nam luôn gắn mình với vận mệnh của Tổ quốc, của dân
tộc, vì vậy chủ nghĩa yêu nước ấy đã nhân sức mạnh của mỗi người, biến
thành một sức mạnh của cả dân tộc, vượt qua mọi khó khăn, nguy hiểm, mọi
thử thách gian nan. Chính từ thực tiễn, Hồ Chí Minh đã đúc kết chân lý ấy:
“Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của
ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi,
nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy
hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước” [68, tr.171]
Chính sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam mang tính cộng đồng ấy,
đã nhân sức mạnh của bản thân Nguyễn Ái Quốc để Người có thể vượt lên
mọi khó khăn, thử thách, vươn lên hoàn thành sứ mệnh mà lịch sử giao phó.
Chính sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trở thành động lực
tư tưởng, tình cảm chi phối mọi suy nghĩ, hành động trong suốt cuộc đời Hồ
Chí Minh – Nguyễn ái Quốc, là cơ sở dẫn Người đến với chủ nghĩa Mác –
Lênin, tiếp thu lý luận cách mạng và khoa học đó, để thực hiện sự nghiệp giải
phóng dân tộc. Người viết: Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa
phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Và
khi Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh tìm được con đường cứu nước đúng đắn

16
thỡ ch ngha yờu nc Vit Nam li c nõng lờn mt tm cao mi: gii

phúng dõn tc, gii phúng xó hi, gii phúng con ngi.
H Chớ Minh ó lm phong phỳ ni dung ca ch ngha yờu nc. Yờu
nc i vi Ngi l gn lin vi yờu nhõn dõn. Ngi núi, lũng thng yờu
nhõn dõn v nhõn loi ca Ngi khụng bao gi thay iNgi cú mt ham
mun tt bc l lm sao nc ta c c lp, dõn ta cú cm n, ỏo mc v
c hc hnh. Ngi ó nờu ra chun mc trung vi nc, hiu vi dõn v
phỏt trin nhng ni dung mi ca ch ngha yờu nc. ú l yờu nc da
trờn quan im giai cp cụng nhõn, yờu nc m rng ra thnh tỡnh yờu vụ
cựng rng ln i vi nhõn dõn lao ng, nhng ngi cựng kh, i vi giai
cp cụng nhõn cỏc nc trờn th gii. Trờn c s t tng ca giai cp cụng
nhõn, Ngi ó nờu ra ni dung mi: Yờu T quc, yờu nhõn dõn gn lin vi
yờu ch ngha xó hi, vỡ ch cú ch ngha xó hi thỡ nhõn dõn mỡnh mi ngy
mt m no thờm, T quc ngy mt giu mnh thờm.
Tiếp theo, dân tộc Việt Nam có truyn thng lc quan yờu i. Trong
khú khn gian kh, ngi Vit Nam vn ng viờn nhau ch thy súng c
m ngó tay chốo. Tinh thn lc quan ú cú s s t nim tin vo sc mnh
ca bn thõn mỡnh, tin vo s tt thng ca chõn lý, chớnh ngha, cho dự trc
mt cũn muụn vn khú khn phi chu ng vt qua. H Chớ Minh chớnh l
hin thõn ca truyn thng lc quan ú, iu ú -ợc thể hiện trong suốt cuộc
đời hoạt động cách mạng của Ngi trong mọi hoàn cảnh.
Bên cạnh đó dõn tc Vit Nam l mt dõn tc cn cự, dng cm, thụng
minh, sỏng to trong sn xut v chin u nờn cng l mt dõn tc ham hc
hi, hiếu học, coi trọng sự học, luôn luôn tôn vinh những ng-ời học cao, đỗ
đạt v khụng ngng m rng ca ún nhn tinh hoa vn húa nhõn loi. Do
iu kin a lý cú nhiu thun li nờn t rt sm, dõn tc Vit Nam ó giao
lu vi cỏc nn vn húa ln trờn th gii. Ngi vit Nam t xa ó rt xa l
vi thúi bi ngoi cc oan. Trờn c s gi vng bn sc ca dõn tc nhõn

17
dân ta đã biết chọn lọc, tiếp thu, cải biến những cái hay, cái tốt, cái đẹp của

người khác thành những giá trị riêng của mình. Hồ Chí Minh là hình ảnh sinh
động và trọn vẹn cho truyền thống đó.
Ngoài ra truyền thống đoàn kết cũng là một giá trị đặc sắc của bản sắc
văn hoá dân tộc cũng ảnh hưởng đến tư tưởng văn hoá Hồ Chí Minh và được
Người kế thừa. Truyền thống đoàn kết được hình thành cùng với sự hình
thành của dân tộc Việt và cũng là cội nguồn sức mạnh của dân tộc. Truyền
thống đoàn kết dân tộc Việt Nam thể hiện trong đoàn kết gia đình, dòng họ,
làng xã, quốc gia dân tộc.
Một giá trị văn hoá truyền thống nữa cần kể đến là truyền thống văn
hiến, là sự kết hợp nhuần nhuyễn của ba yếu tố tri thức, đạo đức, cái đẹp.
Trong lối sống của người Việt Nam luôn giản dị, khiêm nhường, cởi mở và
đặc biệt không cực đoan cố chấp. Một truyền thống văn hoá của Việt Nam là
quý trọng con người, hướng con người vào làm điều thiện, đồng thời xử lý
tinh tế các mối quan hệ, gia đình, vợ chồng, anh em, họ hàng và đề cao tình
nghĩa, quy tắc ứng xử trong xã hội. Do đó người Việt sống tình cảm hơn,
nhân nghĩa hơn, thông minh hơn.
Nhân dân Việt Nam thường xuyên quan tâm chăm lo xây dựng, bồi đắp
những giá trị văn hóa Việt Nam, do vậy trải qua bao nhiêu biến thiên của lịch
sử bản sắc văn hóa Việt Nam vẫn được giữ gìn và không ngừng phát triển.
Hai là, tư tưởng văn hóa của Hồ Chí Minh là sự tiếp thu những giá trị
văn hoá phương Đông
Có thể nói, văn hoá phương Đông có ảnh hưởng rất sớm đến Hồ Chí
Minh, ngay từ khi Người còn là cậu bé Nguyễn Sinh Cung sống trong làng quê
huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Điều đó cũng dễ hiểu, bởi vì Người được sinh ra
và lớn lên trong một gia đình có truyền thống Nho học. Ông ngoại của Người là
một thầy đồ mở lớp dạy tại nhà, cụ thân sinh đã lần lượt đỗ cử nhân, rồi phó
bảng. Thân mẫu của Người nhờ nghiệp nhà nên cũng biết ít nhiều chữ nghĩa.

18
Một điểm cũng cần nêu lên khi nói về quá trình học tập Nho học của

Nguyễn Sinh Cung, đó là do chương trình trường học Nho trước kia chủ yếu
là một số sách kinh điển Khổng Mạnh, những Tứ thư, Ngũ kinh. Một người
như Nguyễn Sinh Cung dù ít tuổi nhưng với tư chất thông minh, tự học, tự
tìm tòi cùng với giáo dục gia đình Người vẫn có thể nắm được một cách có hệ
thống và sâu sắc những kiến thức đó. Cho nên, khi xuất dương tìm đường cứu
nước (1911) và sau đó trong khi hoạt động ở nước ngoài không có điều kiện
trao đổi đi sâu vào kho tàng Hán học, Nguyễn Tất Thành (từ 1919 lấy tên là
Nguyễn Ái Quốc) vẫn có cái nền tảng vững chắc cần thiết về cổ học phương
Đông để vận dụng khi cần thiết vào công cuộc cách mạng.
Hồ Chí Minh sinh ra trên mảnh đất Việt Nam thế kỷ XIX, trong một
gia đình khoa bảng. Thân sinh ra Người cũng giống như bao thanh niên thời
đó đều lấy con đường khoa cử Nho học làm đường tiến thân. Môi trường sống
xã hội và gia đình, cách đào luyện, cách ứng xử đạo đức như nếp sống tự
nhiên thấm nhuần đến cá nhân Hồ Chí Minh. Và như vậy, việc Hồ Chí Minh
chịu ảnh hưởng của một nền văn hoá Nho giáo Trung Hoa là lẽ đương nhiên.
Vốn Hán học của Hồ Chí Minh thật uyên thâm. Đó là điều không thể nghi
ngờ. Chỉ cần qua tập thơ Ngục trung nhật ký và thơ chữ Hán thù tạc của
Người với bạn bè, đồng chí Trung Quốc, với các nhà yêu nước Việt Nam như:
Bùi Bằng Đoàn, Huỳnh Thúc Kháng, Võ Liêm Sơn…, cũng có thể hiểu được
ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa, tư tưởng Nho giáo và cả dấu ấn Lão giáo
thấm vào Người như một dấu ấn văn hoá, ứng xử và đạo đức. Có một điều mà
ai cũng nhận thấy sự tiếp thu đến nhuần nhuyễn, hoá thân tạo nên những cách
nghĩ hợp lý Việt Nam. Qua cách diễn dịch của Người những câu chuẩn mực
đạo đức Trung Hoa, qua tiến trình lịch sử lâu dài được dân tộc Việt Nam chấp
nhận, đã thành quen thuộc như một chuẩn mực có tính nhân văn phương
Đông. Hồ Chí Minh là một hiện tượng văn hoá có tính dân tộc, nhân loại và
thời đại. Và như thế ảnh hưởng văn hoá Trung Hoa, đã được lọc qua màng

19
tiếp nhận dân tộc của Hồ Chí Minh. Nho giáo đã có thời có người cho là lạc

hậu, thủ cựu, phong kiến. Nhưng với phương pháp luận biện chứng khoa học
Hồ Chí Minh không nghĩ như vậy, Người vẫn đánh giá cao những giá trị đạo
đức trong Nho giáo, tiếp thu tư tưởng Nho giáo, cải biến những quan niệm
Nho giáo cho phù hợp với thời đại mới. Người đã sửa trung với vua thành
trung với nước; hiếu với cha mẹ thành hiếu với nhân dân. Người sử dụng một
cách nhuần nhuyễn những câu châm ngôn phù hợp với từng hoàn cảnh, nâng
giá trị những câu châm ngôn đó lên. Đạo đức phương Đông có những câu
mang tính nhân văn như “kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” - tức là điều mình
không muốn đừng đẩy cho người khác. Câu châm ngôn như chân lý đó đã
được Hồ Chí Minh sử dụng lúc đàm phán với Thủ tướng Pháp Biđôn vào năm
1946, khi thực dân Pháp đang muốn bắt nhân dân ta làm nô lệ một lần nữa.
Chuẩn mực đạo đức của Người quân tử, trong quan niệm Nho giáo Trung Hoa
“lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, cũng được Hồ Chí Minh dùng để làm
chuẩn mực cho tiêu chí đạo đức của người Đảng viên cộng sản phải phấn đấu
hết lòng vì nhân dân, vì Tổ quốc.
Hồ Chí Minh đã từng nhận xét: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm
của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân”. Người hiểu rất rõ tư tưởng Khổng
giáo là một sức mạnh to lớn trong đời sống văn hoá của một số nước châu Á
như Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Song người cũng cho
rằng: "Khổng giáo chỉ thích hợp với một xã hội bình yên không thay đổi". Xã
hội bình yên không thay đổi ấy, xã hội của phương thức sản xuất châu Á và
văn hoá phương Đông này, đã đứng trước những thử thách hết sức to lớn chưa
từng có trong lịch sử. Đó là sự đương đầu với sự xâm lược của các nước đế
quốc phương Tây.
Hồ Chí Minh đã chịu nhiều ảnh hưởng về đạo đức và thế ứng xử của
nền văn hoá Trung Hoa. Trong thuật xử thế, cách ứng xử của Hồ Chí Minh ta
thấy hầu như Người đã vận dụng những nhận thức của Nho giáo, văn hoá

20
Trung Hoa, văn hoá lớn của phương Đông một cách thành công và đã để lại

nhiều bài học đáng khâm phục. Hồ Chí Minh hầu như đại diện trọn vẹn những
tiêu chí chuẩn mực đạo đức ứng xử của Nho giáo: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
Nội dung “Ngũ thường” đã được Hồ Chí Minh đẩy đến nhận thức cao, ngày
càng hoàn bị, mang tính thời đại. Nhân, Nghĩa, Lễ đã làm cho Hồ Chí Minh
thu phục được lòng người. Những nhà yêu nước, nhân sĩ vì Lễ và Nghĩa cả
của Người đã cảm động và thấy hết trách nhiệm của mình với cộng đồng dân
tộc: cụ Huỳnh Thúc Kháng, cụ Nguyễn Văn Tố, cụ Bùi Bằng Đoàn… đã từng
được chính cách đối xử Lễ và đầy Nghĩa tình lớn lao, ngay phút gặp đầu tiên
đã bị Người chinh phục.
Hồ Chí Minh đã khai thác, lựa chọn những yếu tố tích cực, hợp lý của
Nho giáo phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng. Tại Hội nghị huấn luyện toàn
quốc tháng 5-1950, Người nói: “Khẩu hiệu học không biết chán, dạy không
biết mỏi treo trong phòng họp chính là của Khổng Tử. Tuy Khổng Tử là
phong kiến và trong học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều không đúng,
song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học” [68, tr. 46]
Hồ Chí Minh không chỉ tiếp thu tư tưởng của Khổng Tử mà Người còn
tiếp thu những giá trị tư tưởng Lão Tử. Trên văn kiện, bài nói và bài viết, chúng
ta hầu như chỉ thấy có một lần Hồ Chí Minh nhắc đến Lão Tử và dẫn Đạo Đức
Kinh “Dạ bất bế hộ, lộ bất thập di” [69, tr.363] (nghĩa là: đêm không cần đóng
cửa, ngoài đường không ai nhặt của rơi). Song xét trong bối cảnh của nền văn
hoá truyền thống còn tồn tại tình trạng “Tam giáo đồng Nguyên”… thì một
người tri thức ngày xưa cùng một lúc nghiên cứu cả Nho - Phật - Lão là chuyện
bình thường. Đạo đức Kinh là một tác phẩm triết học có ảnh hưởng lớn đến
nhiều học thuyết khác ở phương Đông, lại chỉ có 5.000 chữ, các nhà Nho Việt
Nam đều thuộc, vậy Hồ Chí Minh chắc không đi ra ngoài cái chung đó.
Ta được biết Người không tán thành cách viết của một nhà thơ khi xem
một trận thắng chết nhiều người là một trận thắng “đẹp”. Trong Đạo đức

21
Kinh, Lão Tử viết: “Ta có ba cái quý, cái thứ nhất là nhân từ, cái thứ hai là

tiết kiệm, cái thư ba là không dám xem mình đứng trước thiên hạ. Vì nhân từ
nên có thể dũng cảm. Vì tiết kiệm nên có thể rộng rãi, vì không dám xem
mình đứng trước thiên hạ cho nên có thể đứng đầu mọi vật”. (chương 67).
Hồ Chí Minh đã suốt đời rèn luyện mình theo ba đức tính ấy. Một nhà
báo hỏi X.Agienđê, Tổng thống Chi lê: “Ba đức tính của những nhà chính trị
mà Ngài muốn có và với ai Ngài sẽ lấy làm gương”? Ông trả lời: “Tính liêm
khiết, lòng nhân đạo và đức khiêm tốn tuyệt vời của Hồ Chí Minh”.
Có lẽ từ thực tiễn nghiên cứu về Hồ Chí Minh, G.Bondarel, một nhà sử
học Pháp, cũng đã nhận thấy ảnh hưởng của tư tưởng Lão Tử trong nhân
cách, đạo đức Hồ Chí Minh, nên cũng đã chọn một câu trong Đạo đức Kinh
làm kết luận cho bài viết của mình về Hồ Chí Minh, một câu mà theo ông, nó
khái quát đầy đủ chân dung của nhà chính trị châu Á này: “Người làm tướng
giỏi không dùng vũ lực, người chiến đấu giỏi không nổi giận, người khéo
chiến thắng địch không bao giờ giao chiến. Người khéo dùng người thì đặt
mình dưới người ta. Cái đó gọi là cái đức của việc không tranh giành”. [32]
Trong khi khai thác những nhân tố hợp lý, Hồ Chí Minh đã tiến hành
phê phán, bác bỏ những mặt tiêu cực của Nho giáo như: tư tưởng đẳng cấp,
khinh phụ nữ, khinh lao động chân tay, nói chung là khinh thực nghiệp, doanh
lợi… Dưới bút danh TL Người đã viết bài phê phán đầu óc khinh lao động
chân tay của các vị thánh hiền Nho giáo.
Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ những thế kỷ đầu công
nguyên, đã nhanh chóng lan rộng trong nhân dân. Những người truyền bá đạo
Phật thường sống gần gũi với nhân dân, hàng ngày thuyết giáo cho nhân dân
nghe những tư tưởng từ bi, bác ái của nhà Phật.
Bản thân Phật giáo khi trút bỏ những hạn chế của nó, đã từ xuất thế trở
thành nhập thế, từ thái độ nhẫn nại và thụ động trước quân thù, trở thành một
Phật giáo chiến đấu, sẵn sàng xả thân cho Tổ quốc. Những lãnh tụ gắn bó với

22
nhân dân trong sự nghiệp đánh đuổi quân xâm lược, những nhà vua và những

anh hùng dân tộc thời Lý - Trần đều là những người, trên cơ sở của truyền
thống nhân đạo và chiến đấu của dân tộc, đã tiếp thu Phật giáo, xây dựng một
Phật giáo mang màu sắc Việt Nam. Nếu Hồ Chí Minh, với tấm lòng yêu
thương vô hạn đối với đồng bào và nhân loại bị áp bức, đã suốt đời chiến đấu
cho độc lập Tổ quốc, cho tự do và hạnh phúc của con người, thì “Nhà văn hoá
phương Đông” này không xuất phát từ Phật giáo mà xuất phát từ truyền thống
của dân tộc trong đó có chứa đựng những nhân tố tích cực của Phật giáo.
Ảnh hưởng của Phật giáo trong dân gian rất sâu rộng. Đạo đức “từ bi hỉ
xả”, nếp sống “ăn hiền ở lành”, tình cảm “thương người như thể thương
thân”… đã trở thành truyền thống sâu đậm trong đạo lý sống của nhân dân lao
động nước ta. Hồ Chí Minh xuất thân từ một gia đình nhà Nho nghèo, gần gũi
với nhân dân, nên từ nhỏ cũng đã thấm nhuần những truyền thống đó. Tương
truyền bà ngoại Bác Hồ, cụ Nguyễn Thị Kép, là một phụ nữ rất mộ đạo về già
thường siêng năng lên chùa và chăm làm việc thiện. Thân sinh của Người, cụ
Nguyễn Sinh Sắc, sau khi bị mất chức, bỏ đi dần vào các tỉnh phía Nam, đến
sống ở Cao Lãnh (Sađéc). Tại đây, cụ thường cư ngụ tại các cửa chùa vừa bốc
thuốc, vừa chữa bệnh cho dân, vừa chăm chú nghiên cứu giáo lý đạo Phật.
“Theo hồ sơ mật thám, có lần cụ đã tới Nông Pênh, sống với nhà sư Hồng Đại
Bửu Phước, chủ trì chùa Sùng Phước ở Châu Hộ (Nông Pênh), được nhà sư
cấp chứng chỉ là tín đồ phái phật giáo Lâm tế, mang pháp danh Nhật Sắc, tức
Thiện Thành”.

[91, tr. 47]
Những tư liệu này đã cho thấy triết lý Phật giáo vốn không phải là điều
xa lạ gì với Hồ Chí Minh ngay từ thủa thiếu thời. Khi hoạt động bí mật trong
Việt Kiều tại Thái Lan, Hồ Chí Minh đã từng khoác áo cà sa, cùng với các vị
chân tu bàn bạc về “vô ngã, vị tha” và những điều cao siêu khác trong triết lý
nhà Phật, đã cùng với kiều bào bắt tay vào xây trường, xây chùa, viết bài ca
ngợi những anh hùng dân tộc, nhằm giáo dục chủ nghĩa yêu nước, kết hợp lý
tưởng “cứu khổ, cứu nạn” với lý tưởng cứu nước, giải phóng dân tộc.


23
Cuối năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm chùa Bà Đá (Hoàn
Kiếm, Hà Nội). Nói chuyện với tăng ni, phật tử, Người kể chuyện các vị sư ở
Ngũ Đại Sơn bên Trung Quốc xuống núi đánh Ma Vương, cứu dân độ thế.
Liên hệ với tình hình nước nhà, Người nói: “Ma Vương ngày nay chính là
bọn thực dân phản động Pháp. Người kêu gọi phải tăng cường đoàn kết, đoàn
kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo. Người nhắc nhở các vị hoà thượng, tăng ni lời
phật dạy: làm phật, phép không xa rời thế gian, kêu gọi mọi người hãy tham
gia cứu đói, diệt dốt.” [91, tr.48]
Với bút danh chiến sĩ, Người viết bài ca ngợi tinh thần “phụng đạo -
yêu nước” của hoà thượng Thích Quảng Đức: “Từ bi không phải là nhu
nhược, Mỹ - Diệm càng hung ác, các vị sư sãi và đồng bào theo đạo phật càng
kiên quyết đấu tranh. Ngọn đuốc tự đốt mình của Hoà thượng Thích Quảng
Đức đang góp phần vào đám lửa đốt cháy cơ đồ phát xít của Mỹ - Diệm khắp
miền Nam, khắp cả nước và khắp thế giới đều khâm phục sự hi sinh cao cả
của Hoà Thượng Thích Quảng Đức”.[6]
Tổng hợp những tinh hoa của văn hoá nhân loại với truyền thống văn
hoá dân tộc để làm giàu cho văn hoá Việt Nam, đó là con đường đi đầy sáng
tạo của dân tộc Việt Nam trong lịch sử và cũng đồng thời là con đường đi độc
đáo và đầy tính chất khoa học của Hồ Chí Minh.
Tất cả những nhân tố tích cực của văn hoá phương Đông kết hợp với
truyền thống văn hoá của dân tộc đã tạo cho Người một bản lĩnh mà sự tiếp
xúc văn hoá có mở rộng đến đâu cũng không bị tách rời và xa cách với cội
nguồn của mình. Như một học giả phương Tây nhận xét: “Người ta thấy một
người Á Đông gia nhập hàng ngũ của Mác, có thể trở thành người Cộng sản
ngay trên đất nước mình, không hề lay chuyển, nhưng Cộng sản theo cách của
mình, bởi vì Người tìm được cách diễn tả và làm sinh động học thuyết đó
bằng những dạng truyền thống tương tự”. [81, tr. 159]


24
Ba là, tư tưởng văn hóa của Hồ Chí Minh là sự tiếp thu tinh hoa văn
hóa phương Tây.
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra ở đất Lam Hồng, vùng địa linh nhân kiệt,
đã hấp thu sâu sắc tinh hoa của truyền thống văn hoá Việt Nam, lại có hiểu
biết sâu rộng về văn hoá phương Đông. Tiếp đó trải qua bao năm bôn ba bốn
biển năm châu để tìm đường cứu nước, Người đã tiếp thu tinh hoa của nền
văn hoá phương Tây, của các nền văn hoá trên thế giới. Người nói: Phương
Đông hay phương Tây, có cái gì hay, cái gì tốt thì ta tiếp thu, tiếp thu có chọn
lọc và phải biến thành thuần tuý Việt Nam, có như thế mới là dân chủ nghĩa là
mới trở thành tài sản của mỗi một người dân - người làm chủ đất nước.
Trước khi bước chân xuống tàu ra đi tìm đường cứu nước (1911), thì sự
hiểu biết văn hoá phương Tây đối với anh thanh niên Nguyễn Tất Thành vẫn
còn ít ỏi. Nhưng dù sao việc tiếp xúc trực tiếp với học vấn phương Tây, theo
lớp học dự bị trường tiểu học Pháp - Việt tại Vinh (Nghệ An) có thể xem là
một cái mốc quan trọng. Sau này khi nhớ lại tuổi niên thiếu, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã cho biết là chính vào thời kỳ này, lần đầu tiên khẩu hiệu của cuộc đại
cách mạng Pháp: “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” đã đến với người, tất nhiên lúc
đó chỉ mới là sự bắt gặp, làm quen bước đầu có tính chất áp đặt, sách vở, phải
về sau trải qua những điều mắt thấy tai nghe hoàn toàn trái ngược ngoài xã
hội thì mới gây cho cậu thiếu niên thông minh, ham học hỏi suy ngẫm một sự
ngờ vực khoa học, dẫn tới một quyết định đầy tính cách mạng là phải tìm xem
những cái gì ẩn dấu đằng sau cái khẩu hiệu đó.
Trên đường vào Nam, dừng chân tại Phan Thiết, vào dạy học ở trường
Dục Thanh, trường đặt ngay trong khuôn viên của gia đình cụ Nguyễn Thông -
một nhà Nho yêu nước, sau khi sáu tỉnh Nam Kỳ bị Pháp chiếm, ông ra “tỵ địa”
tại đây. Trong khu vườn của cụ Nguyễn Thông có một thư viện lớn, được cụ đặt
tên là “Ngoạ du sào”, trên gác có nhiều “Tân thư” do Trung Quốc dịch ra chữ
Hán. Anh Thành rất đam mê đọc sách. Chính tại đây, qua các tân thư, anh Thành


25
lần đầu tiên có dịp tiếp cận với tư tưởng cua Rousseau; Monterquieu; Voltaire
những triết gia Pháp đã khởi xướng các thuyết nhân quyền, dân quyền, tự do,
bình đẳng, bác ái.
Một đặc điểm tiếp nhận văn hoá phương Tây thời gian này của anh
Thành là không phải thông qua con đường chính thống của nhà trường, mà
bằng con đường kiên nhẫn tìm hiểu học hỏi trong quá trình thâm nhập quần
chúng lao động, mở rộng giao du với các tầng lớp hoạt động văn hoá, trong
các chuyến hành trình khảo sát ở nhiều nước, và đặc biệt là trong việc thường
xuyên lui tới đọc sách tại các thư viện lớn. Một đặc điểm khác là đã tiếp nhận
văn hoá phương Tây trong quá trình tiếp thu chủ nghĩa Mác- Lênin. Nguyễn
Ái Quốc đã tiếp thu tinh hoa của văn hoá phương Tây - trước hết là lý tưởng
cách mạng dân chủ tự do, tiến bộ của cách mạng tư sản dân quyền Pháp năm
1789, từ đó tiếp nhận lý tưởng của cách mạng tháng Mười Nga năm 1917. Lý
tưởng giải phóng dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Điều hấp dẫn nhất đối với Hồ Chí Minh từ nền văn hoá của phương Tây
là khẩu hiệu Tự Do, Bình Đẳng, Bác ái của cách mạng tư sản Pháp. Điều đó đã
thôi thúc Người ra đi, tìm đến tận quê hương của những khẩu hiệu đẹp đẽ ấy.
Người đã đọc nhiều tác phẩm của thời kỳ khai sáng cũng như của thời kỳ cách
mạng tư sản Pháp, như của DiDeRớt, Voltaire, Montesquieu, Rousseau…Và
những bộ mặt rực rỡ của văn hoá phương Tây này đã ảnh hưởng sâu sắc đến
Người. Ở Châu Âu, và nhất là ở nước Pháp, chủ nghĩa nhân văn được coi là đỉnh
cao của văn hoá phương Tây. Chủ nghĩa nhân văn ấy ca ngợi sự vĩ đại của tinh
thần và sức mạnh sáng tạo vô hạn của con người. Nó phát huy sự cố gắng của
con người, nhằm phát triển bản thân và cải tạo xã hội. Nó chống lại mọi quan
niệm và học thuyết hạ thấp con người. Nó lên án mọi quan hệ áp bức, bóc lột và
đề xướng dân chủ, tự do, bình đẳng giữa người với người.
Tư tưởng nhân văn, dân chủ và nhân quyền của triết học duy vật thế kỷ
XVIII đã dẫn tới cuộc cách mạng 1789, một cuộc cách mạng có thể nói là triệt


26
để nhất, lúc đó tấn công vào chế độ phong kiến và giáo hội. Nhưng chẳng bao
lâu, khẩu hiệu tự do, bình đẳng, bác ái chỉ còn tồn tại trên lý thuyết. Thực tế
chỉ còn sự trói buộc nhân dân trong nước và áp bức nhân dân thuộc địa, sự
phân hoá sâu sắc giữa giàu nghèo, sự bất công trên mọi lĩnh vực kinh tế,
chính trị, xã hội và văn hoá, đó còn là sự đàn áp, chém giết và tranh cướp diễn
ra trên mọi miền của trái đất.
Hồ Chí Minh đã phân biệt được hai mặt tiến bộ và phản động trong xã
hội tư sản và trong tư tưởng văn hoá của phương Tây. Từ sự suy thoái của văn
hoá phương Tây, Người nhìn rõ sự tiêu vong tất yếu của xã hội tư sản đầy rẫy
những bất công. Tuy nhiên, Người vẫn tin tưởng rằng những giá trị mà văn
hoá phương Tây đã xây dựng được trước đây sẽ được hồi sinh và mở đường
cho sự ra đời của một nền văn hoá cao hơn, nền văn hoá của chủ nghĩa Mác -
Lênin và chủ nghĩa xã hội.
Trên bước đường học tập và nghiên cứu, Nguyễn Tất Thành đã từng bước
hấp thu văn hoá nhân đạo và dân chủ phương Tây. Khi còn ở trường Dục Thanh,
qua tủ sách “Tân Thư” của cụ Nguyễn Thông ở Ngoạ du sào, người thanh niên
ham học này đã từng làm quen với những tư tưởng mới của Vonte, Rútxô,
Môngtexkiơ Khi xuất dương, anh Nguyễn tìm sang tận nước Mỹ, quê hương của
bản Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng, và đã khắc sâu vào tâm trí mình câu nói bất
hủ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” [66, tr.1]. Ý chí đấu tranh cho
độc lập, tự do, cho quyền sống của con người là những giá trị căn bản của cách
mạng Mỹ mà anh Nguyễn ghi nhận và đánh giá cao.
Đóng góp vào sự trưởng thành của Anh Nguyễn phải kể đến vai trò đặc
biệt của câu lạc bộ Faubourg giống như câu lạc bộ Jacobins thời đại cách mạng
Pháp. Đây là câu lạc bộ của các vị “quốc trưởng tương lai”. Tại đây, Anh
Nguyễn đã gần gũi và kết bạn với nhiều nhà văn, nhà báo, nhà khoa học, chính


27
khách, lãnh tụ cách mạng nổi tiếng, trong số họ có nhiều người về sau đã trở
thành quốc trưởng hoặc thủ tướng như LêonBlum (Pháp), Bá tước Pêlich
Carolixơ (Hunggari), Bác sĩ Buton Catos (Columbia), Arthur Alexandri (Chilê),
Nate (xứ Penanie), Đại vương Maharajex Decarpulata (Aleania)
Fauleaurg là một diễn đàn dân chủ. Ở đó, mọi người đều có thể tự do
bày tỏ ý kiến, tranh luận, nếu xác đáng thi dù là ý kiến của một người thợ bình
thường hay một vị quốc trưởng, cũng đều được hoan nghênh. Anh Nguyễn
luôn tập trung vào các vấn đề chính trị, khoa học, tôn giáo, và khéo léo liên hệ
nó với vấn đề Đông Dương và Việt Nam.
Sự hấp thụ nhuần nhuyễn tinh hoa văn hoá phương Tây, trước hết là
văn hoá Pháp, không hề làm giảm đi bản sắc Việt Nam trong phong cách Hồ
Chí Minh. Trong con người Hồ Chí Minh vẫn in đậm chất văn hoá dân gian
Nghệ - Tĩnh, văn hoá xứ Huế và văn hoá Việt Nam nói chung - một nền văn
hoá ngay từ lúc hình thành đã mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hoá phương
Đông, trước hết là Ấn Độ và Trung Hoa. Vì vậy, Người có thể viết văn Pháp
như một nhà báo Pari sành sỏi đồng thời cũng có thể làm thơ bằng chữ Hán.
Người thích lẩy Kiều mà cũng thỉnh thoảng đọc lại “Hình phạt” của Victor
Huygo; bâng khuâng nghe câu hát ví đò đưa của quê hương mà cũng vẫn
muốn nghe lại tiếng hát của Maurice Chevalier với những bài ca đã đi vào
tâm hồn Người một thời trai trẻ.
Hồ Chí Minh với biểu tượng hài hoà của sự kết hợp hai nền văn hoá
Đông - Tây, như nhà thơ Xuân Thuỷ đã viết:
Một con người gồm kim cổ, tây đông
Giàu quốc tế, đậm Việt Nam từng nét
Con người ấy, trên hành trình cứu nước, đã biết làm giàu trí tuệ của
mình bằng vốn trí tuệ của thời đại, vừa thu hái, vừa gạn lọc, để có thể từ đỉnh
cao của tri thức nhân loại mà suy nghĩ, lựa chọn, kế thừa và đổi mới, vận
dụng và phát triển. Chính trên con đường học hỏi, tiếp thu tri thức của nhân


28
loại, Hồ Chí Minh đã bắt gặp chủ nghĩa xã hội. Và chủ nghĩa xã hội là sự kết
tinh thành tựu văn hoá của nhân loại; không có văn hoá, không có tri thức thì
không thể hiểu được thế nào là chủ nghĩa xã hội đích thực.
Ba mươi năm hoạt động ở nước ngoài, chủ yếu là ngay ở ngọn nguồn
của văn minh phương Tây, Nguyễn Ái Quốc có đủ thời gian để chọn lọc, tiếp
nhận những tinh hoa của nền văn minh rực rỡ đó, rồi vận dụng vào sự nghiệp
cách mạng của dân tộc mình và phục vụ các dân tộc khác cùng cảnh ngộ. Và
đặc sắc thay là chính nhờ có sự am hiểu thấu đáo, tinh thông văn hoá phương
Tây mà Hồ Chí Minh càng hiểu sâu hơn một số tri thức của văn hoá phương
Đông từng tiếp nhận được từ hồi còn trẻ. Cho nên không lấy gì làm lạ khi
thấy Hồ Chí Minh đã huy động cả các sự kiện trong lịch sử Trung Quốc cổ
đại, như chế độ “Tỉnh điền” đời Hoàng Đế (năm 2697 TCN) hay chế độ lao
động cưỡng bức đời Hạ (năm 2205 TCN), cũng như thuyết “Đại Đồng” của
Khổng Tử (năm 551 - 479 TCN) với thuyết “Kiêm ái” của Mạnh Tử được giải
thích theo quan điểm mới để phục vụ cho việc truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin
vào Việt Nam từ sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918). Phải là một
người cực kỳ tinh thông các học thuyết Đông - Tây, nắm thật chắc và đúng hạt
nhân cơ bản của vấn đề, đồng thời cũng phải là một người có đầy đủ bản lĩnh
cách mạng mới có thể đưa ra một ý kiến vừa mạnh dạn, vừa độc đáo khi khẳng
định: Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên đều có những điểm chung. Họ đều
muốn mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu lợi cho xã hội. Nếu hôm nay họ
còn sống trên đời này, họ họp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống
với nhau rất hoàn mĩ như những người bạn thân thiết, để rồi khiêm tốn tự đề ra
cho mình nhiệm vụ: “Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy” [94, tr.
91]. Người cho rằng: “Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt, ta học lấy để
tạo ra một nền văn hoá Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hoá xưa
và văn hoá nay, trau dồi cho văn hoá Việt Nam thật có tinh thần thuần tuý Việt
Nam để hợp với tinh thần dân chủ” [77, tr.350]

×