M: 60.22.80
:
:
TS.
- 2008
1
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
2
Chương 1: ĐẠO ĐỨC VÀ ĐẠO ĐỨC CÔNG CHỨC
8
1.1. Khái lược về đạo đức và đạo đức công chức
8
1.2. Những nguyên tắc cơ bản của đạo đức công chức
22
Chương 2: ĐẠO ĐỨC CÔNG CHỨC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY:
THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN
31
2.1. Khái quát về đội ngũ công chức và thực trạng đạo đức công chức
31
2.2. Những nguyên nhân cơ bản về thực trạng đạo đức công chức
43
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ
NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC CÔNG CHỨC Ở NƯỚC
TA HIỆN NAY
60
3.1. Phương hướng xây dựng và nâng cao đạo đức công chức
60
3.2. Một số giải pháp xây dựng và nâng cao đạo đức công chức
69
KẾT LUẬN
89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
91
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thực tiễn cách mạng của mình, Đảng ta rất coi trọng đạo đức và
thường xuyên chăm lo bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho cán bộ, Đảng viên;
đó cũng là một đặc trưng trong công tác tư tưởng của Đảng. Sinh thời, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi Đảng
viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng” [43, tr.158],
“cũng như sông phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn.
Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo
đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân
dân” [43, tr.158].
Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Công chức là
người hưởng lương từ ngân sách Nhà nước có trách nhiệm, nghĩa vụ phục vụ
lợi ích quốc gia và lợi ích của nhân dân. Đạo đức là thành tố cơ bản của nhân
cách công chức, góp phần nâng cao hiệu quả công tác, sự tín nhiệm của dân
chúng đối với từng người cũng như đối với cả đội ngũ công chức và qua đó,
niềm tin vào chế độ chính trị được củng cố. Việc nghiên cứu về đạo đức công
chức không chỉ xuất phát từ nhu cầu xây dựng nền hành chính quốc gia vững
mạnh mà còn là sự mong muốn và đòi hỏi của nhân dân ở “công bộc” của
mình. Mặc dù đã có một số đề tài nghiên cứu khoa học đề cập đến vấn đề đạo
đức công chức nhưng đây là lĩnh vực mà thời gian qua chưa được quan tâm
đúng mức nên nhiều vấn đề vẫn còn bỏ ngỏ, chưa được nghiên cứu một cách
thấu đáo, cặn kẽ.
Hơn nữa, công chức là lực lượng xã hội có vị trí, vai trò quyết định
trong việc thể hiện và giữ vững bản chất chính trị của nhà nước. Muốn thể
3
hiện được vị trí và vai trò quyết định đó, công chức phải hội đủ hai yếu tố:
đạo đức và tài năng, trong đó đạo đức là yếu tố vô cùng quan trọng.
Bước vào thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhập WTO, chúng ta
ngày càng nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn ý nghĩa và vai trò quan trọng của
vấn đề đạo đức công chức. Để hiện thực hoá sự nhận thức đó, đòi hỏi phải có
quan điểm nhận thức, đánh giá đúng đắn thực trạng đạo đức công chức; phân
tích đúng những nguyên nhân, có giải pháp phù hợp, kịp thời để xây dựng đạo
đức công chức ở nước ta hiện nay.
Công chức là một lực lượng có vị trí và vai trò quan trọng trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vai trò và
nhiệm vụ đó, đòi hỏi cán bộ công chức trong xã hội ta hiện nay phải thấm
nhuần quan điểm tư tưởng đạo đức của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. Đó là cội nguồn tư tưởng và sự định hướng giá trị đạo đức của
công chức ở nước ta hiện nay.
Thêm vào đó, qua một số vụ án tham nhũng lớn gần đây, khiến chúng
tôi càng trăn trở về vấn đề đạo đức công chức. Chúng tôi thấy, một trong
những nhiệm vụ cấp bách hiện nay là phải khắc phục tình trạng suy thoái,
xuống cấp về đạo đức, xây dựng đạo đức, lối sống lành mạnh trong cán bộ
công chức và nhân dân, không thể để tình trạng, vì lợi quên nghĩa, vì lợi bất
chấp cả danh dự và lương tâm nghề nghiệp. Chúng tôi thiết nghĩ, cùng với
việc xây dựng một cơ chế thực thi pháp luật nghiêm minh cũng cần phải ra
sức khích lệ tinh thần yêu mến nghề nghiệp và cương vị công tác; lấy lương
tâm, trách nhiệm, danh dự nghề nghiệp làm việc hợp lẽ công bằng, phục vụ
nhân dân và cống hiến cho xã hội là mục tiêu và lẽ sống của công chức.
Thực tiễn của công cuộc cải cách và đổi mới đất nước trong những năm
qua, sự chuyển đổi của cơ chế kinh tế và sự hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt ra
nhiều vấn đề cần phải giải quyết, trong đó có vấn đề đạo đức công chức. Chẳng
4
hạn, những nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức có sự biến động như thế nào?
Thực trạng và nguyên nhân đạo đức công chức ra sao? Muốn xây dựng và nâng
cao đạo đức công chức ở nước ta hiện nay phải làm gì và làm như thế nào?.
Với mong muốn, góp thêm ý kiến làm sáng tỏ những vấn đề liên quan
đến đạo đức công chức, chúng tôi chọn đề tài: “Đạo đức công chức và xây
dựng đạo đức công chức ở nước ta hiện nay” để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Thời gian gần đây, đạo đức công chức là một vấn đề được sự quan tâm
của nhiều nước trên thế giới và được xem như vấn đề trung tâm của nền công
vụ. Vì thế đã có những cuộc hội thảo quốc tế về vấn đề này. Ở nước ta, đã có
những cơ quan, cá nhân nghiên cứu và công bố một số đề tài khoa học từ cấp
cơ sở đến cấp nhà nước, ở những giác độ, giới hạn và phạm vi khác nhau về
đạo đức công chức. Chẳng hạn, đề tài khoa học cấp bộ: Xây dựng đạo đức
cán bộ, công chức Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá và hội nhập quốc tế, TS. Nguyễn Ngọc Hiến - Học viện Hành chính
Quốc gia, làm chủ nhiệm; đề tài thuộc “Chương trình nghiên cứu khoa học
các giải pháp thúc đẩy cải cách nền hành chính nhà nước”, mã số: 2001 - 54
- 058 do GS.TS. Bùi Thế Vĩnh chủ nhiệm. Đề tài đã hệ thống hoá những vấn
đề cơ bản của đạo đức cán bộ công chức từ những chỉ dẫn của C.Mác -
Ph.Ănghen đến V.I.Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng thời, bước đầu
cũng đã đưa ra một số giải pháp xây dựng đạo đức cán bộ công chức trong
thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên công trình nghiên cứu đó, phần
lớn tập trung làm rõ về mặt phương pháp luận và mô tả mang tính chất liệt kê
thực trạng đạo đức cán bộ công chức vào những năm 2002 về trước, khi đó
mức độ đầu tư nước ngoài và giao lưu kinh tế quốc tế chưa mạnh mẽ như hiện
nay, nhất là sau khi nước ta gia nhập WTO. Hoàn cảnh mới làm nảy sinh
nhiều vấn đề về đạo đức trong đội ngũ cán công chức gây bức xúc trong quần
5
chúng nhân dân, chẳng hạn, những công chức làm công tác đền bù giải phóng
mặt bằng, thực hiện nghĩa vụ không vô tư không bảo đảm sự công bằng, bình
đẳng nên để cho dân khiếu kiện với quy mô ngày càng lớn. Hay, công chức
tiếp nhận đầu tư, giải quyết mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia và lợi ích của
các chủ đầu tư nước ngoài, có người làm thiệt hại cho đất nước để nhân dân ta
thán.
Cuốn sách: Đạo đức trong nền công vụ của Nhà xuất bản Lao động -
Xã hội, do Tô Tử Hạ, Trần Anh Tuấn, Nguyễn Thị Kim Thảo, là những người
hoạt động lâu năm trong lĩnh vực tổ chức và cán bộ của Việt Nam biên soạn,
trên cơ sở các bài viết và tham luận của các đại biểu từ các nước ASEAN
tham dự Hội thảo quốc tế: “Đạo đức trong nền công vụ” tại Hà Nội vào ngày
30 và 31 tháng 5 năm 2001. Cuốn sách gồm hai phần: phần thứ nhất, các tác
giả nêu vị trí, vai trò và ý nghĩa vấn đề đạo đức công chức trong nền công vụ;
Phần thứ hai nói về sáng kiến nâng cao đạo đức công vụ của các nước, xuất
phát từ thực tế của đất nước mình, các tác giả nêu những sáng kiến về giải
pháp tổ chức ở tầm vĩ mô cấp nhà nước như xây dựng luật đạo đức, các biện
pháp triển khai bảo đảm thực hiện luật. Trong bài viết của đại biểu Việt Nam,
nhấn mạnh đặc điểm dân tộc và tính giai cấp của vấn đề đạo đức và đưa ra
một số nguyên tắc cơ bản xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam.
Thời gian gần đây, có những bài viết về những “căn bệnh” của công
chức Việt Nam muốn tìm hiểu về nguyên nhân của thực trạng suy thoái về
đạo đức trong công chức như bệnh sợ biết nhiều, bệnh lý lịch, bệnh móc
ngoặc, bệnh bè phái, bệnh địa phương cục bộ. Những “bệnh” đó, có thể có
nhưng không phải là nguyên nhân mà là kết quả nảy sinh trên cơ sở kinh tế -
xã hội của nền sản xuất nhỏ. Hay có bài viết lại cho rằng bệnh của công chức,
xét về mặt đạo đức đó là, bệnh quan liêu, bệnh dối trên lừa dưới, bệnh vô
cảm, bệnh vô trách nhiệm, bệnh nói mà không làm, bệnh tham nhũng [54,
6
tr.1]. Họ chỉ ra bệnh nhưng chưa chỉ ra được nguyên nhân của bệnh. Vì vậy
chúng tôi rất muốn góp phần chỉ ra được nguyên nhân của những thực trạng
đó.
Trong quá trình triển khai đề tài nghiên cứu, chúng tôi có một thuận lợi
là đã tiếp thu tinh thần cuộc vận động: “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh”, phản ánh nhiều nội dung phong phú và sâu sắc về vấn đề
đạo đức của cán bộ công chức. Đó là những tư liệu và chỉ dẫn quý báu để
chúng tôi triển khai hướng nghiên cứu của mình.
Thêm vào đó, qua kinh nghiệm và sáng kiến của một số nước trong khu
vực và trên thế giới đã giải quyết vấn đề đạo đức công vụ như Thái Lan,
Singapor, Malaysia, Trung Quốc, Nhật Bản v.v, là những nguồn tài liệu thực
tế quý báu để chúng tôi tham khảo.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
*Mục đích: góp phần nhận thức rõ hơn, đầy đủ hơn về đạo đức công
chức và xây dựng, nâng cao đạo đức công chức ở nước ta hiện nay.
*Nhiệm vụ:
- Phân tích cơ sở lý luận làm tiền đề cho việc xây dựng nguyên tắc đạo
đức công chức ở nước ta.
- Nêu thực trạng đạo đức công chức ở nước ta và phân tích những
nguyên nhân cơ bản của thực trạng đó.
- Đề xuất một số phương hướng, giải pháp xây dựng, nâng cao đạo đức
công chức và khắc phục sự suy thoái đạo đức công chức ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Xuất phát từ những nhiệm vụ được nêu trên đây, đối tượng nghiên cứu
của chúng tôi là đạo đức công chức trong bộ máy hành chính nhà nước. Khi
nghiên cứu, chúng tôi có sử dụng tư liệu qua các báo cáo tổng kết cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” của một số bộ,
ngành, tỉnh, thành phố có tính chất đại diện, để giúp cho việc nhận thức một
7
cách đúng đắn thực trạng đạo đức công chức và đưa ra được những giải pháp
phù hợp đáp ứng đòi hỏi của nhân dân, của đất nước vào đội ngũ công chức
trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, đặc biệt là những quan điểm, tư tưởng về đạo đức của các nhà kinh
điển để làm sáng tỏ nội dung của đề tài.
Luận văn sử dụng các phương pháp của triết học Mác Lênin; kết hợp lý
luận với thực tiễn; phân tích và tổng hợp; logíc và lịch sử, thống kê, so sánh.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Góp phần hoàn chỉnh thêm một bước hệ thống các nguyên tắc đạo
đức công chức.
- Luận giải nguyên nhân thực trạng đạo đức công chức và đề xuất một
số phương hướng, giải pháp nâng cao đạo đức công chức ở nước ta hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy,
nghiên cứu của giảng viên và tài liệu học tập cho sinh viên, nhất là, học viên Học
viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh về vấn đề đạo đức công chức.
- Luận văn làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng chuẩn mực đạo đức
công chức trong các văn bản có tính pháp lý của các cơ quan, tổ chức Nhà nước.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, với danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
của luận văn được chia làm 3 chương, 6 tiết.
8
9
Chương 1
ĐẠO ĐỨC VÀ ĐẠO ĐỨC CÔNG CHỨC
1.1. Khái lược về đạo đức và đạo đức công chức
1.1.1. Khái lược về đạo đức
Xã hội loài người đã tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh hành vi của
con người như phong tục, tập quán, pháp luật, và đạo đức cũng là một phương
thức điều chỉnh hành vi con người. Đạo đức đánh giá hành vi con người dưới
giác độ và chuẩn mực về thiện, ác, nghĩa vụ, danh dự, lương tâm, hạnh phúc.
Xã hội nào, thời kỳ lịch sử nào cũng đánh giá đạo đức dưới giác độ như vậy.
Tuy nhiên, nội hàm của các khái niệm thuộc lĩnh vực đạo đức trong mỗi thời
đại, mỗi chế độ xã hội ít nhiều có sự khác nhau. Chẳng hạn, nghĩa vụ của con
người trong cộng đồng xã hội nguyên thuỷ khác với nghĩa vụ của con người
trong xã hội chiếm hữu nô lệ; nghĩa vụ của con người trong xã hội chiếm hữu
nô lệ khác với nghĩa vụ con người trong xã hội phong kiến; nghĩa vụ của con
người trong xã hội phong kiến khác với nghĩa vụ của con người trong xã hội
tư bản và cũng khác với nghĩa vụ của con người trong xã hội xã hội chủ
nghĩa.
Mỗi cá nhân con người sống trong một xã hội cụ thể, luôn phải có trách
nhiệm chuyển những đòi hỏi của xã hội thành nhu cầu, mục đích và hứng thú
trong mọi hoạt động của mình. Sự chuyển biến từ yêu cầu của xã hội thành
hành vi đạo đức của mỗi cá nhân là việc tuân thủ những nguyên tắc, chuẩn
mực mà xã hội ngăn cấm và tích cực hoạt động theo những gì được dư luận
xã hội khuyến khích. Yêu cầu của xã hội dần dần thay đổi thì quan hệ và hành
vi đạo đức cũng có sự thay đổi tương ứng. Xã hội phát triển thì ý thức, hành
vi và quan hệ đạo đức cũng vận động theo xu hướng tích cực tiến bộ và ngày
càng giàu ý nghĩa nhân văn hơn.
10
Hệ thống các giá trị đạo đức hình thành, phát triển và hoàn thiện gắn
liền với sự phát triển và hoàn thiện của ý thức đạo đức, trong đó lý tưởng và
tấm gương đạo đức của các vĩ nhân ở mỗi thời kỳ đóng vai trò định hướng.
Hệ thống giá trị đạo đức mang tính chất tích cực, tiến bộ khi nó phù hợp với
sự phát triển tiến bộ xã hội và thúc đẩy sự phát triển đi lên của xã hội.
Quan niệm về đạo đức và các chuẩn mực đánh giá hành vi đạo đức đã
được hình thành từ chế độ cộng sản nguyên thuỷ, cũng bắt đầu từ đó, trên cơ
sở phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau từ thấp đến cao,
các hệ thống đạo đức đã được hình thành, phát triển và hoàn thiện.
Chế độ chiếm hữu nô lệ ra đời, giai cấp xuất hiện đã làm nảy sinh
những yếu tố kích thích sự xuất hiện những điều xấu, xuất hiện những động
cơ thấp hèn, nạn trộm cắp, tham lam, sự gian trá, ngày càng tăng. Loài người
bắt đầu hình thành một nền đạo đức mới phức tạp - đó là nền đạo đức đối
kháng trong xã hội có đối kháng giai cấp. Khởi đầu là sự đối kháng đạo đức
của nô lệ với đạo đức của chủ nô, rồi đến đạo đức của nông dân với phong
kiến, vô sản với tư sản. Tầng lớp người có đặc quyền, đặc lợi trong xã hội cho
phép mình là người “có đức hạnh, người thượng lưu, quý tộc”, còn những
người lao động như nô lệ, nông dân, vô sản là những người “không có phẩm
hạnh, những người thấp hèn, hạ đẳng”. Dựa vào các thiết chế xã hội, giai cấp
thống trị quy định nội dung cơ bản của đạo đức, đẩy tới hai cực đối lập gay
gắt là quan hệ chủ - tớ, trên - dưới, mệnh lệnh - phục tùng. Tính chất đó cũng
quan hệ với những nội dung khác nhau của quan niệm tốt, xấu trong giai cấp
này hay giai cấp kia.
Giai cấp công nhân lên nắm chính quyền, tạo những tiền đề về kinh tế,
chính trị, xã hội để người lao động từng bước được giải phóng, trong hoàn
cảnh ấy, đã nảy nở một nền đạo đức mới. Đó là đạo đức của giai cấp công
nhân - đạo đức cộng sản. Đạo đức cộng sản vừa thể hiện những giá trị, chuẩn
11
mực, quy tắc ứng xử phù hợp lợi ích của giai cấp công nhân, vừa hàm chứa
những nhân tố đạo đức chung của cả loài người. Vì thế, có thể nói, đạo đức
cộng sản là giai đoạn cao trên con đường tiến lên của đạo đức nhân loại.
Với tư cách là hình thái ý thức xã hội, đạo đức là toàn bộ tư tưởng,
quan điểm về nguyên tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá
cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội,
chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, truyền thống và sức mạnh của dư
luận xã hội.
Đạo đức bao gồm ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức.
Ý thức đạo đức là sự thể hiện thái độ nhận thức của con người trước
hành vi của mình trong sự đối chiếu với hệ thống chuẩn mực và những quy
tắc đạo đức do xã hội đặt ra, giúp con người tự giác điều chỉnh hành vi và
hoàn thành nghĩa vụ đạo đức một cách tự nguyện. Ý thức đạo đức bao gồm cả
tri thức và tình cảm đạo đức. Trong đó, tình cảm đạo đức là yếu tố quan trọng
góp phần chuyển hoá tri thức thành hành vi đạo đức đúng đắn.
Thực tiễn đạo đức là hoạt động của con người dưới sự tác động của
niềm tin, là quá trình hiện thực hoá ý thức đạo đức trong đời sống xã hội.
Thực tiễn đạo đức là hệ thống các hành vi đạo đức của con người được nảy
sinh trên cơ sở chỉ dẫn của ý thức đạo đức.
Đạo đức là một dạng của quan hệ xã hội nên bao giờ cũng mang tính xã
hội, là đạo đức xã hội; là sự thống nhất biện chứng giữa đạo đức xã hội và đạo
đức cá nhân. Đạo đức cá nhân là biểu hiện đặc thù của đạo đức xã hội, nhưng
không bao hàm hết nội dung của đạo đức xã hội. Đó là đạo đức của từng cá
nhân riêng lẻ, phản ánh và khẳng định tồn tại xã hội của các cá nhân về lợi ích
và hoạt động của họ. Trong xã hội, mỗi cá nhân tiếp thu đạo đức xã hội khác
nhau và tác động, ảnh hưởng trở lại xã hội cũng khác nhau. Còn, đạo đức xã
hội là tổng hoà những nhu cầu phổ biến được đúc kết từ những tinh hoa của
12
đạo đức cá nhân; nó trở thành cái chung của một giai cấp, của một dân tộc,
một thời đại nhất định. Đạo đức xã hội được duy trì, kế thừa, củng cố thông
qua phong tục, tập quán, truyền thống, vận động, biến đổi và phát triển thông
qua các hoạt động và giao tiếp xã hội.
Đạo đức là sản phẩm tổng hợp của các yếu tố, cả chủ quan lẫn khách
quan của hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người. Những quan hệ cá
nhân với cá nhân, cá nhân với xã hội càng có tính tự giác, càng có tính xã hội
rộng lớn thì hoạt động của con người càng mang tính đạo đức. Bởi vì, trong
sự tồn tại và phát triển của đời sống cá nhân, mỗi người tự do lựa chọn và sự
lựa chọn có trách nhiệm nảy sinh trong quan hệ với cá nhân khác, với xã hội,
chấp nhận sự kiểm tra, những yêu cầu của xã hội để nhận được sự đánh giá,
sự ủng hộ của xã hội. Đối với xã hội, những quy tắc, chuẩn mực đạo đức đã
đưa ra, yêu cầu mỗi cá nhân điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với
lợi ích chung của xã hội.
Lịch sử xã hội loài người trải qua năm hình thái kinh tế - xã hội và
tương ứng là có năm hình thái đạo đức, nhưng đối với mỗi dân tộc bước tiến
lịch sử đó cũng biểu hiện rất khác nhau. Sự khác nhau đó là do sự phát triển
của phương thức sản xuất, do hoàn cảnh địa lý, dân số cũng hoàn toàn khác
biệt với dân tộc khác. Tồn tại xã hội có sự thể hiện khác nhau thì ý thức xã hội
nảy sinh trên đó và do nó quy định cũng khác nhau. Vì vậy, khi nghiên cứu
bản chất đạo đức ta cũng phải thấy rõ sự biểu hiện của nó một cách phong phú
trong tính chất dân tộc. Hơn nữa, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội phản
ánh tồn tại xã hội và bị quy định bởi tồn tại xã hội, nhưng nó cũng có tính độc
lập tương đối của nó; nghĩa là, giữa các hình thái ý thức xã hội cũng có sự tác
động và ảnh hưởng lẫn nhau. Vì vậy, ý thức đạo đức cũng chịu sự tác động và
ảnh hưởng của các hình thái ý thức xã hội khác như ý thức chính trị, ý thức
pháp luật, ý thức triết học, ý thức tôn giáo. Tổng hoà những nhân tố khác biệt
13
quy định đó, tạo ra bản sắc đạo đức riêng của mỗi dân tộc. Ph. Ăng ghen viết:
“Từ dân tộc này sang dân tộc khác, từ thời đại này sang thời đại khác, những
quan niệm về thiện và ác đã biến đổi nhiều đến mức chúng thường trái ngược
hẳn nhau” [29, tr.135].
Tính dân tộc là một biểu hiện bản chất xã hội của đạo đức. Các quan
niệm, chuẩn mực đạo đức của mỗi dân tộc do điều kiện kinh tế - xã hội và sự
tác động của các hình thái ý thức xã hội khác quy định, nhưng khi đã được
hình thành nó lại trở thành phong tục, tập quán và truyền thống đạo đức của
mỗi cộng đồng dân tộc, tiếp tục chi phối sự phát triển của đạo đức dân tộc.
Trong tiến trình phát triển của xã hội loài người đã hình thành những
giá trị đạo đức mang tính toàn nhân loại, tồn tại trong mọi xã hội và ở các hệ
thống đạo đức khác nhau. Tính nhân loại của đạo đức tồn tại ở hình thức thấp
là biểu hiện ở những quy tắc đơn giản nhằm điều chỉnh hành vi con người,
cần thiết cho việc giữ gìn trật tự xã hội và sinh hoạt thường ngày của mỗi
người. Chẳng hạn, những quy tắc, chuẩn mực đạo đức như thương yêu chăm
sóc ông, bà, bố mẹ, con trẻ, tôn trọng của công, thì xã hội nào cũng có. Tuy
nhiên, không thể thổi phồng, tuyệt đối hoá tính nhân loại của đạo đức để đi
đến quan niệm về đạo đức một cách trừu tượng, phi giai cấp, phi lịch sử.
Trong xã hội có giai cấp, nội dung chủ yếu của đạo đức phản ánh quan
hệ giai cấp. Trong các phạm trù đạo đức luôn luôn phản ánh địa vị và lợi ích
giai cấp. Mỗi giai cấp trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử xã
hội đều có những quan niệm đạo đức riêng của mình. Đó là cách thức, biện
pháp bảo vệ và sự khẳng định lợi ích, địa vị giai cấp. Có thể nói rằng, mỗi giai
cấp đều sử dụng đạo đức như là công cụ bảo vệ lợi ích của mình. Do vậy, tính
giai cấp của đạo đức là sự phản ánh và thể hiện lợi ích của các giai cấp. Mỗi
giai cấp trong xã hội có quan niệm và có hệ thống đạo đức riêng nên sự tác
động của chúng cũng khác nhau, thậm trí triệt tiêu nhau. Giai cấp tiêu biểu
14
cho xu thế phát triển đi lên của xã hội thì đại diện cho một nền đạo đức tiến
bộ. Các giai cấp đã lỗi thời, phản động thì đại diện cho nền đạo đức suy thoái.
Về vấn đề này, Ph. Ăng ghen đã cho chúng ta hiểu rõ. Ông viết: “Cho tới nay
xã hội đã vận động trong những sự đối lập giai cấp, cho nên đạo đức cũng
luôn luôn là đạo đức của giai cấp: hoặc là nó biện hộ cho sự thống trị và lợi
ích của giai cấp thống trị, hoặc là khi giai cấp bị trị đã trở nên khá mạnh thì nó
tiêu biểu cho sự nổi dậy chống lại sự thống trị nói trên và tiêu biểu cho lợi ích
tương lai của những người bị áp bức” [31, tr.137].
Trong xã hội tồn tại nhiều giai cấp khác nhau, nhưng hệ thống đạo đức
được áp đặt cho toàn xã hội là đạo đức của giai cấp thống trị, mặc dù, trong
cuộc sống hàng ngày mỗi giai cấp vẫn ứng xử theo những lợi ích trực tiếp của
mình. Thực hiện sự áp đặt đó là vì giai cấp thống trị giữ địa vị thống trị trong
đời sống kinh tế và do đó, nó cũng giữ vai trò thống trị trong đời sống tinh
thần; nó luôn luôn hướng tới làm cho đạo đức của mình trở thành yếu tố
thống trị trong đời sống xã hội. Hơn nữa, giai cấp thống trị nắm khâu tuyên
truyền, điều khiển toàn bộ quá trình sản xuất tinh thần, trong đó, có các giá trị
đạo đức phù hợp với lợi ích của nó và bắt buộc mọi thành viên trong xã hội
phải tuân thủ những chuẩn mực đạo đức của giai cấp thống trị. Từ sự áp đặt,
các chuẩn mực đạo đức của giai cấp thống trị trở thành phổ biến trong xã hội,
đồng thời chúng ngày càng được củng cố và trở thành thói quen, thành phong
tục trong cộng đồng. Cũng vì lẽ đó mà chúng ta thấy, đạo đức của giai cấp
thống trị thường có sức sống dai dẳng trong xã hội.Trong xã hội có giai cấp,
nội dung chủ yếu của đạo đức phản ánh quan hệ giai cấp. Mỗi giai cấp đều sử
dụng đạo đức như là công cụ bảo vệ lợi ích của mình. Do vậy, tính giai cấp
của đạo đức là sự phản ánh và thể hiện lợi ích của các giai cấp. Mỗi giai cấp
trong xã hội có quan niệm và có hệ thống đạo đức riêng nên sự tác động của
chúng cũng khác nhau, thậm trí triệt tiêu nhau. Giai cấp tiêu biểu cho xu thế
15
phát triển đi lên của xã hội thì đại diện cho một nền đạo đức tiến bộ. Các giai
cấp đã lỗi thời, phản động thì đại diện cho nền đạo đức suy thoái.
Hệ thống đạo đức của giai cấp bị thống trị luôn bị hệ thống đạo đức của
giai cấp thống trị chèn ép và tồn tại như cái không chính thống nên nó kém
phát triển. Đạo đức không chính thống của giai cấp bị thống trị sẽ trở thành
chính thống khi giai cấp bị thống trị “đã trở nên khá mạnh” và “tiêu biểu cho
lợi ích tương lai”, trở thành một thế lực kinh tế giữ vai trò thống trị về chính
trị trong xã hội.
Nếu pháp luật là ngưỡng đạo đức tối thiểu của mỗi cá nhân sống trong
cộng đồng thì các chuẩn mực đạo đức gồm cả chuẩn mực ngăn cấm, khuyến
khích và điều chỉnh bằng dư luận xã hội, tự vấn lương tâm. Điều chỉnh hành
vi đạo đức bằng dư luận xã hội và lương tâm đòi hỏi từ tối thiểu tới tối đa là
đặc trưng riêng để phân biệt đạo đức với các hình thái ý thức xã hội khác. Sự
điều chỉnh của đạo đức nhằm bảo đảm sự tồn tại và phát triển của xã hội bằng
việc tạo nên quan hệ hài hoà giữa lợi ích cộng đồng và lợi ích cá nhân. Do đó,
đối tượng và phạm vi điều chỉnh của đạo đức được thực hiện dưới tác động từ
hai phía là cộng đồng xã hội và tính tự giác của chủ thể đạo đức. Về phía cộng
đồng xã hội là tạo dư luận để khen ngợi, khuyến khích cái thiện, phê phán
mạnh mẽ cái ác. Còn về phía chủ thể đạo đức là tự giác điều chỉnh hành vi
theo những chuẩn mực quy phạm đạo đức của xã hội đặt ra.
Các quy tắc và chuẩn mực đạo đức do con người sáng tạo ra nhưng sau
khi ra đời nó tồn tại một cách khách quan, tác động và chi phối cả ý thức lẫn
thực tiễn đạo đức của mỗi cá nhân. Về mặt ý thức, nhận thức đạo đức để
chuyển hoá đạo đức xã hội thành ý thức đạo đức cá nhân. Nhận thức đạo đức
hướng ra bên ngoài, nghĩa là, chủ thể lấy những giá trị đạo đức theo yêu cầu
của xã hội đặt ra làm đối tượng nhận thức. Chẳng hạn, chủ thể tiếp nhận hệ
thống các giá trị đạo đức về thiện và ác, trách nhiệm và nghĩa vụ, danh dự và
16
lương tâm, và những cách thức, phương tiện tạo ra các giá trị đạo đức đó.
Trên cơ sở nhận thức và hiểu biết về các giá trị đạo đức đó mà chủ thể nhận
thức đạo đức đã chuyển hoá các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức của xã hội
thành ý thức đạo đức cá nhân.
Nhận thức đạo đức hướng vào chính bản thân nghĩa là, chủ thể lấy bản
thân mình làm đối tượng nhận thức. Quá trình nhận thức bản thân mình về
mặt đạo đức đó là quá trình tự đánh giá, tự thẩm định, tự phán xét mức độ,
khả năng hiểu biết và hành vi đạo đức của mình bằng cách đối chiếu với
những chuẩn mực chung của xã hội đặt ra. Trên cơ sở đó, dần dần hình thành
các nguyên tắc sống của chủ thể.
Nhận thức bao giờ cũng là quá trình tự nhận thức của chủ thể dù hướng
ra “bên ngoài” hay “hướng vào” chính bản thân mình. Trong quá trình tự
nhận thức, chủ thể cũng chịu áp lực từ hai phía: dư luận xã hội và tự vấn của
lương tâm. Lắng nghe, quan tâm đến dư luận xã hội bình phẩm đánh giá về
mình (về người khác nữa, đồng thời, lương tâm tự phê bình, tự động viên, an
ủi, giúp cho chủ thể điều chỉnh hành vi và quan hệ đạo đức của mình theo yêu
cầu của xã hội. Tự nhận thức, giúp cho chủ thể ý thức được rõ ràng trách
nhiệm và nghĩa vụ đạo đức của mình đối với gia đình, bạn bè, đồng nghiệp,
tập thể, dân tộc, giai cấp, tổ quốc. Trên cơ sở nhận thức mà chủ thể có được
các tri thức đạo đức và tri thức đạo đức là điều kiện cần để có được hành vi,
quan hệ đạo đức đúng đắn.
1.1.2. Khái niệm công chức và đạo đức công chức
1.1.2.1. Khái niệm công chức
Công chức là một bộ phận rất quan trọng của nền hành chính quốc gia,
tầm quan trọng đó tựa như xương sống của cơ thể. Với bộ phận quan trọng
như vậy, nên các quốc gia đều quan tâm xây dựng đội ngũ công chức vững
mạnh về mọi mặt. Đó là, công chức phải có đầy đủ các phẩm chất chính trị,
17
đạo đức, tinh thần, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ để hiện thực hoá những
tiêu chuẩn và nghĩa vụ của công chức bằng sự nỗ lực cá nhân và bằng những
cơ chế, chính sách sử dụng, quản lý. Hoạt động của công chức trên mọi lĩnh
vực xã hội ngày càng tỏ rõ sự cần thiết cũng như lợi ích to lớn ở cả tầm quốc
gia lẫn tầm quốc tế. Vì vậy, nếu không có một chế độ công chức tiên tiến phù
hợp, nhà nước sẽ không thể quản lý và thúc đẩy sự phát triển của xã hội một
cách đồng bộ.
Nhiều quốc gia quan niệm, công chức là những nhân viên công tác,
được hưởng lương từ ngân sách nhà nước được quy định bởi quy chế hoặc
luật công chức, là những người làm việc trong hệ thống chính quyền nhà
nước.
Nền hành chính ở nước ta không chỉ nằm trong hệ thống chính quyền
hành pháp như cách hiểu của nhiều nước trên thế giới hiện nay mà do đặc
điểm cấu trúc của thể chế chính trị, nó được hiểu theo một khái niệm có ngoại
diên rộng hơn. Đó là, hoạt động hành chính - lãnh đạo của Đảng, quản lý xã
hội của Nhà nước để thực hiện sự đoàn kết dân tộc và quyền làm chủ của
nhân dân, thông qua mặt trận và các đoàn thể xã hội.
Ngay từ năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh 76/SL
về quy chế công chức, bước đầu xác định rõ về đội ngũ, vị trí, vai trò, nhiệm
vụ và những yêu cầu năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ công chức trong
xã hội mới. Từ đó, đội ngũ cán bộ công chức đã phát huy được vai trò của
mình cùng toàn thể nhân dân đẩy mạnh công cuộc kháng chiến, kiến quốc làm
nên những kỳ tích của dân tộc Việt Nam ở nửa cuối thế kỷ XX. Bước vào thời
kỳ đổi mới, ngày càng nhận thức rõ tầm quan trọng đặc biệt của đội ngũ cán
bộ công chức trong nền hành chính quốc gia, Nhà nước ta ban hành Pháp lệnh
cán bộ công chức và đã được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua, Chủ
tịch nước ký Lệnh công bố ngày 9 tháng 3 năm 1998.
18
Công chức (Việt Nam) là công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước, bao gồm:
- Những người được bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ
trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;
- Những người được tuyển dụng, bổ nhịêm hoặc được giao nhiệm vụ
thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;
- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công vụ
thường xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được
xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp trong các cơ quan nhà nước; mỗi
ngạch thể hiện chức và cấp về chuyên môn nghiệp vụ, có chức danh tiêu
chuẩn riêng;
- Thẩm phán Toà án nhân dân, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân;
- Những người được được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm
vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân
mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng;
làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là
sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp.
Theo Pháp lệnh công chức quy định, khái niệm công chức ở nước ta có
ngoại diên quá rộng. Bởi lẽ, công chức khi thi hành công vụ là làm theo mệnh
lệnh, quyết định của cấp trên nhưng trong hệ thống Nhà nước ta có đối tượng
công chức như đại biểu Quốc hội, giáo viên, bác sĩ, thẩm phán, họ không làm
theo quyết định của cấp trên mà theo chương trình (đối với giáo viên), theo
phác đồ y lý (đối với thầy thuốc), theo luật (đối với thẩm phán), theo kiến
thức, thực tiễn, luật (như đối với đại biểu Quốc hội). Thực tế, khi quan niệm
cán bộ đảng, đoàn thể, thầy giáo, thầy thuốc, thẩm phán là công chức chỉ có ý
nghĩa coi họ là cán bộ nhà nước. Do đó, cũng cần phải làm rõ: công chức
không đồng nhất với khái niệm người nhà nước mà có đối tượng người nhà
nước không phải là công chức. Theo xu hướng gần đây được thảo luận tại
19
Quốc hội, sẽ đưa một số đối tượng ra ngoài không thuộc công chức như giáo
viên, thầy thuốc v.v. Trong đối tượng nghiên cứu của luận văn này, chúng tôi
vẫn xem xét công chức theo Pháp lệnh.
1.1.2.2. Đạo đức công chức
Mỗi ngành, mỗi nghề, mỗi cơ sở đều có quy định về đạo đức nghề
nghiệp như quy định của Bộ Y tế về y đức, quy định về phẩm chất người cán
bộ thanh tra, cán bộ công an, giáo viên.
Nghề nghiệp, không chỉ là phương tiện để sống mà còn là điều kiện và
địa bàn để mỗi người có thể cống hiến sức lực, trí tuệ cho xã hội. Quan điểm
của C.Mác khi chọn nghề (C.Mác viết trong luận văn tốt nghiệp trung học,
năm 17 tuổi): “Nếu ta chọn một nghề trong đó ta có thể làm việc được nhiều
hơn cho nhân loại, thì ta không còng lưng dưới gánh nặng của nó, bởi vì đó là
sự hy sinh vì mọi người. Những việc làm của ta sẽ sống một cuộc sống âm
thầm nhưng mãi mãi có hiệu quả, và trên thi hài của chúng ta sẽ nhỏ xuống
những giọt nước mắt nóng bỏng của những con người cao quý” [24, tr. 4].
Chọn nghề và hoạt động nghề nghiệp trong bất kỳ lĩnh vực nào, thời
nào cũng vậy, đều đòi hỏi phải có những chuẩn mực đạo đức, người ta gọi là
đạo đức nghề nghiệp. Đạo đức nghề nghiệp là những nguyên tắc và chuẩn
mực có tính đặc trưng của nghề nghiệp, xã hội đòi hỏi phải tuân theo.
Đạo đức công chức là một dạng của đạo đức nghề nghiệp gồm những
quan điểm, nguyên tắc và chuẩn mực đánh giá, điều chỉnh tư tưởng, hành vi
và quan hệ đạo đức công chức.
Trong xã hội có bao nhiêu nghề thì có bấy nhiêu thứ đạo đức nghề
nghiệp. Đạo đức nghề nghiệp là đạo đức xã hội, thể hiện một cách đặc thù, cụ
thể trong các hoạt động nghề nghiệp. Với tính cách là một dạng của đạo đức
xã hội, nó quan hệ chặt chẽ với đạo đức cá nhân, thông qua đạo đức cá nhân
để thể hiện. Đồng thời, đạo đức nghề nghiệp liên quan với hoạt động nghề và
20
gắn liền với một kiểu quan hệ sản xuất trong một giai đoạn lịch sử nhất định
nên nó cũng mang tính giai cấp, tính dân tộc. Chẳng hạn, đạo đức nghề y (y
đức) từ thời cổ đại đến nay đều có những chuẩn mực chung, lấy việc cứu
người làm điều thiện, nhưng người thầy thuốc dưới chế độ xã hội chủ nghĩa
nâng những giá trị đạo đức đó lên phù hợp với đạo đức của con người xã hội
chủ nghĩa. Đạo đức nghề nghiệp mang tính giai cấp nên quan điểm về nghề
nghiệp, thái độ đối với nghề nghiệp trong mỗi chế độ xã hội cũng khác nhau.
Dưới chủ nghĩa tư bản, như C.Mác và Ph.Ăngghen nhận xét trong
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”: “Giai cấp tư sản không để lại một mối
quan hệ nào khác ngoài mối lợi là trả tiền ngay không tình, không nghĩa. Giai
cấp tư sản đã dìm những xúc động thiêng liêng của lòng sùng đạo, của nhiệt
tình hiếp sĩ, của cảm tình tiểu tư sản xuống dòng nước giá lạnh của sự tính
toán ích kỷ. Nó đã biến những phẩm giá của con người thành một giá trị trao
đổi đơn thuần [28, tr. 600].
Đạo đức nghề nghiệp có vai trò xã hội to lớn, nó không chỉ là một chi
nhánh đặc sắc trong hệ thống đạo đức xã hội mà còn là một cấp độ phát triển
đạo đức tiêu biểu, một loại đạo đức đã được thực tiễn hoá. Chẳng hạn, trong
quá trình xây dựng đạo đức mới xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, mỗi cán
bộ công chức đều phải lấy: yêu cương vị công tác, yêu nghề nghiệp, chân
thành giữ chữ tín, làm việc hợp đạo lý, làm việc có hiệu quả, năng xuất cao,
phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc và cống hiến cho xã hội, làm nội dung
chủ yếu của đạo đức nghề nghiệp. Đó là chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp nói
chung mà tất cả các ngành nghề công chức đều phải tuân theo.
Nói đến đạo đức là nói tới lương tâm, trong hoạt động nghề nghiệp của
mình, công chức cũng phải có lương tâm. Lương tâm nghề nghiệp là biểu
hiện tập trung nhất của ý thức đạo đức, vừa là dấu hiệu, vừa là thước đo sự
trưởng thành của đời sống đạo đức cá nhân. Mỗi công chức, với tư cách là
21
một chủ thể đạo đức đã trưởng thành bao giờ cũng là một người sống có
lương tâm và điều đó thể hiện rõ nét nhất trong hoạt động nghề nghiệp.
Lương tâm nghề nghiệp của công chức là ý thức trách nhiệm đối với
hành vi của mình trong quan hệ nghề nghiệp với người khác, với xã hội và ý
thức trách nhiệm với số phận của mọi người, là sự tự phán xử về các hoạt
động, các hành vi nghề nghiệp của mình. Theo Đêmôcrit - nhà triết học Hy
Lạp cổ đại - lương tâm chính là sự tự hổ thẹn, nghĩa là hổ thẹn với bản thân
mình. Sự hổ thẹn giúp cho con người tránh được ý nghĩ, việc làm sai trái, cần
phải dạy cho con người biết hổ thẹn, nhất là, hổ thẹn trước bản thân mình.
Trong hoạt động nghề nghiệp nếu không biết tự hổ thẹn, sẽ không nâng cao
được tay nghề, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kết quả của hoạt động nghề
nghiệp không những không có tác dụng đối với xã hội mà còn ảnh hưởng xấu
đến xã hội.
Nghĩa vụ đạo đức nghề nghiệp và lương tâm nghề nghiệp luôn luôn có
mối quan hệ mật thiết với nhau. Nghĩa vụ nghề nghiệp là trách nhiệm của
người làm nghề trước xã hội và trước người khác, còn lương tâm là sự tự
phán xét, tự ý thức về trách nhiệm đó. Vì thế, có thể nói, ý thức về nghĩa vụ
nghề nghiệp là nền tảng, là cơ sở để hình thành lương tâm nghề nghiệp của
người cán bộ công chức.
Đạo đức nghề nghiệp, cũng như đạo đức nói chung, trạng thái khẳng
định của lương tâm có vai trò nâng cao tính tích cực của công chức, giúp cho
công chức tin tưởng vào mình trong quá trình hoạt động nghề nghiệp được
đảm nhiệm của nền hành chính quốc gia. Niềm tin tưởng đó, là động lực bên
trong thôi thúc người công chức vươn tới cái thiện, cái tốt đẹp, cái cao cả, loại
trừ cái xấu, cái nhỏ nhen, ty tiện làm cho bộ máy hành chính nhà nước và xã
hội ngày một tốt đẹp hơn. Thật bất hạnh, khi những kẻ làm điều ác đối với
người khác nhưng lương tâm không cắn rứt. Chẳng hạn, cậy chức, cậy quyền
22
đẩy người khác vào đường cùng, làm cho gia đình, vợ con người ta khốn đốn
vẫn cảm thấy đó là chuyện bình thường không hề gợn lên một chút day rứt
của lương tâm.
Giữ được đạo đức, trước hết phải giữ được lương tâm, bởi vì, làm điều ác
lần thứ nhất thì lương tâm còn dằn vặt, cắn rứt nhưng điều ác được lặp lại thì
lương tâm biến mất. Đó cũng là thời điểm báo trước sự đổ vỡ của lòng tự tin,
lòng tự trọng nghề nghiệp và danh dự của công chức. Trong thực tiễn đạo đức
công chức, người có lương tâm trong sạch là người có khả năng tự ý thức, tự
đánh giá được bản chất lương thiện của chính mình. Ngược lại, mọi giá trị đạo
đức sẽ tiêu tan khi không còn cảm giác về lương tâm, trước những việc làm sai
trái của bản thân trong hoạt động chuyên môn cũng như trong cuộc sống.
Nghĩa vụ đạo đức không chỉ là sự đòi hỏi, yêu cầu của cơ quan, đoàn
thể, của xã hội đối với công chức mà còn là nhu cầu của sự tiến bộ, hoàn thiện
nhân cách của bản thân mỗi người. Vì thế, nghĩa vụ đạo đức không phải là sự
ép buộc từ bên ngoài mà là sự gắn bó chặt chẽ với ý thức về lẽ sống, hạnh
phúc và triết lý sống của công chức. Trong lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp
cũng vậy, nghĩa vụ đạo đức nghề nghiệp đòi hỏi công chức phải giải quyết
một cách hài hoà giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích của đối tác và lợi
ích của toàn xã hội. Mỗi bước tiến bộ của công chức đều gắn liền với sự phát
triển của cơ quan, đoàn thể, sự tiến bộ xã hội và sự trưởng thành về mặt nhân
cách công chức. Trong quá trình hoạt động nghề nghiệp ở lĩnh vực công tác
được phân công đảm nhận, mỗi cán bộ công chức lựa chọn một triết lý nghề
nghiệp riêng không những không mâu thuẫn với lợi ích và triết lý sống của
người khác, của cơ quan, xã hội mà còn đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi
chung góp phần xây dựng nền văn hoá công sở đa sắc tiến bộ, lành mạnh.
Nếu nghĩa vụ pháp lý là sự bắt buộc thì nghĩa vụ đạo đức lại chứa đựng
nguồn gốc bên trong của mỗi chủ thể đạo đức là chủ yếu - nghĩa là, nó bao
23
chứa tình cảm trách nhiệm của công chức trước người khác, trước tập thể và
xã hội, thôi thúc, khao khát được hành động vì lợi ích chung. Thực hiện nghĩa
vụ đạo đức là sự tự giác, không bị giàng buộc bởi động cơ cá nhân mang tính
chất vụ lợi. Giáo dục ý thức về nghĩa vụ đạo đức có tác dụng quan trọng đối
với quá trình hình thành nhân cách công chức. Đó là sự thống nhất của quá
trình nhận thức và hành động thực tiễn đạo đức của mỗi cá nhân. Nó trải qua
quá trình rèn luyện, phấn đấu của chủ thể đạo đức, vượt qua những cám dỗ
vật chất nhỏ nhen, ích kỷ và những toan tính tầm thường của cuộc sống hết
sức đa dạng, phức tạp để đạt tới sự thành công trong hoạt động nghề nghiệp
của công chức vì nền hành chính quốc gia và sự phát triển của đất nước.
Trong xã hội, cái thiện vừa là những giá trị hiện thực cụ thể, vừa hàm
chứa những lý tưởng đạo đức cao quý nhất của con người. Cái thiện bao giờ
cũng gắn bó chặt chẽ với chân lý và cái đẹp. Vì thế, chân, thiện, mỹ là nội
dung căn bản của ý thức và hiện thực đạo đức tiến bộ. Chúng tạo nên một
chỉnh thể hợp thành lẽ sống, nghĩa vụ, hạnh phúc và lương tâm của công
chức. Nghĩ điều thiện, làm việc thiện là đặc tính của ý thức và hành vi đạo
đức tốt đẹp trong mỗi công chức. Hướng tới cái thiện, mỗi công chức có điều
kiện để phát huy mọi năng lực, trí tuệ trong hoạt động chuyên môn để cống
hiến được nhiều nhất cho xã hội.
1.2. Những nguyên tắc cơ bản của đạo đức công chức
Từ năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời những giá
trị đạo đức công vụ mới - đạo đức công vụ phục vụ nhân dân được chú trọng
xây dựng, hình thành và phát triển. Những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức
mới đã góp phần điều chỉnh hành vi của công chức trong thi hành công vụ và
đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu xây dựng một nền công vụ mới phù hợp
với bản chất nhà nước của dân, do dân và vì dân.
24
Cho đến nay, tuy chưa có Luật Đạo đức nhưng có thể tìm thấy các
nguyên tắc đạo đức của công chức Việt Nam trong các bộ luật, đạo luật và các
văn bản mang tính pháp lý khác. Ngay từ khi đang tiến hành cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp vào giai đoạn cam go, ác liệt nhất, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã quan tâm đến vấn đề xây dựng đội ngũ công chức của nước Việt
Nam mới. Ngày 20/05/1950, Người ký Sắc lệnh 76/SL ban hành Quy chế
công chức. Trong quy chế này, vấn đề đạo đức công vụ đã được thể hiện.
Chẳng hạn, “Điều 2: Công chức Việt Nam phải phục vụ nhân dân, trung thành
với chính phủ, tôn trọng kỷ luật, có tinh thần trách nhiệm và tránh làm những
việc có hại đến thanh danh công chức hay đến sự hoạt động của bộ máy nhà
nước. Công chức Việt Nam phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”. Đến
nay, những quy định trên vẫn còn nguyên giá trị và nội dung đó vẫn được thể
hiện trong các văn bản mới mang tính pháp lý.
Các văn bản mang tính pháp lý thể chế hoá những chuẩn mực đạo đức
thành quy phạm pháp luật như Pháp lệnh cán bộ, công chức công bố năm
1998 và sửa đổi năm 2003; Pháp lệnh chống tham nhũng công bố năm 1998;
Pháp lệnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí công bố năm 1998, Pháp lệnh
về phòng chống các tệ nạn xã hội. Chẳng hạn, những nguyên tắc đạo đức cơ
bản của người cán bộ công chức được thể hiện trong điều 6 chương II của
Pháp lệnh công chức: “Tuyệt đối trung thành với Nhà nước cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ an toàn, danh dự và lợi ích quốc gia. Chấp hành
nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của
Nhà nước; thi hành nhiệm vụ, công vụ theo đúng quy định của pháp luật.”.
Điều 15 chương III: “Cán bộ công chức không được chây lười trong công tác,
trốn tránh trách nhiệm và thoái thác nhiệm vụ, công vụ; không được gây bè
phái, mất đoàn kết, cục bộ hoặc tự ý bỏ việc”. Điều 16 chương III: “Cán bộ