Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Một số nội dung cơ bản trong tư tưởng chính trị - xã hội của Khổng Tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (856.61 KB, 90 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***


LÃ THị THUÝ





MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ
TƯỞNG
CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA KHỔNG TỬ



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC








Hà Nội - 2006
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***



LÃ THị THUÝ




MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ
TƯỞNG
CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA KHỔNG TỬ



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC

Chuyờn ngành: Triết học
Mó số: 60.22.80


Người hướng dẫn khoa học: GS. TS Lê Văn Quân



Hà Nội – 2006
MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Khổng Tử là người sáng lập ra Nho giáo. Học thuyết của ông tồn tại lâu
dài trong thời kỳ cổ trung đại của Trung Quốc cũng như một số nước Á Đông
khác, trong đó có Việt Nam. Tư tưởng của ông đã trở thành truyền thống văn
hoá và hệ tư tưởng cơ bản của Á Đông mà ngày nay trong việc xây dựng xã

hội mới, con người ở đây không thể không tính tới.
Học thuyết của Khổng Tử bao gồm nhiều lĩnh vực của đời sống tinh thần
xã hội như: Tư tưởng chính trị- xã hội, tư tưởng đạo đức, tư tưởng triết học, tư
tưởng văn hoá, tư tưởng giáo dục, . Trong đó, tư tưởng chính trị – xã hội là
quan trọng hơn cả.
Về tư tưởng chính trị – xã hội của ông, ở Việt Nam, Trung Quốc và
nhiều nước khác trên thế giới, trong mấy chục năm nay người ta đã thảo luận
nhiều. Tuy vậy, còn nhiều vấn đề tồn tại, đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu. Trên
phương diện lý luận có người cho rằng, tư tưởng chính trị – xã hội của Khổng
Tử là có giá trị phổ quát, không những có vai trò tích cực đối với chế độ phong
kiến mà còn có giá trị đối với việc xây dựng xã hội và con người ngày nay.
Ngược lại, có người cho rằng, tư tưởng của Khổng Tử là tư tưởng phong kiến,
chỉ thích hợp với xã hội phong kiến, không những không phù hợp với xã hội
ngày nay, mà còn có hại nếu duy trì những tàn dư của nó. Trên phương diện
thực tiễn, có người chủ trương giáo dục đạo hiếu của Khổng Tử cho con người
và xã hội ngày nay, chủ trương dùng đường lối đức trị của Khổng Tử để giải
quyết những mâu thuẫn, những xung đột của thế giới hiện đại, chủ trương phấn
đấu thực hiện xã hội “đại đồng” để xoá bỏ tình cảnh giàu nghèo cách biệt hiện
nay, Nhưng cũng có người cho rằng, không thể trở lại tư tưởng về xã hội lý
tưởng của Khổng Tử, vì như thế là kéo lùi lịch sử. Tóm lại, tư tưởng chính trị-
xã hội của Khổng Tử vẫn còn là vấn đề thời sự đối với giới nghiên cứu ngày
nay.
Từ góc độ tiếp cận triết học chúng tôi chọn vấn đề: “Một số nội dung cơ
bản trong tư tưởng chính trị – xã hội của Khổng Tử” làm đề tài nghiên cứu
trong luận văn Thạc sỹ của mình.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Ở Việt Nam, từ trước đến nay đã có nhiều tác phẩm, bài viết của nhiều
tác giả, nghiên cứu về Nho giáo và tư tưởng của Khổng Tử. Hầu như tất cả các
công trình nghiên cứu về Khổng Tử nói riêng và Nho giáo nói chung đều
khẳng định: Khổng Tử là người sáng lập ra Nho giáo. Những nội dung chủ yếu

trong học thuyết của ông là tư tưởng chính trị – xã hội. Tuy nhiên, về tư tưởng
chính trị – xã hội của Khổng Tử, thì còn nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Sở
dĩ có sự khác nhau đó là do cách tiếp cận và tuỳ thuộc vào thời điểm lịch sử
mà họ sống và phải đối diện với yêu cầu của xã hội. Các quan điểm đó không
chỉ khác nhau, mà thậm chí còn trái ngược nhau. Ở Việt Nam, có thể nói việc
nghiên cứu Nho giáo nói chung và Khổng Tử nói riêng bắt đầu được chú ý từ
đầu thế kỷ XX. Lúc bấy giờ, từ các nhà tân học, cựu học tranh luận với nhau
rất sôi nổi về sự học phương Tây và sự học ở phương Đông, về các thành tựu
khoa học phương Tây và Nho học phương Đông, về lý do làm sao cái học
phương Tây làm ra của cải vật chất, mà cái học ở phương Đông chỉ chú ý đến
cách sống của con người. Chúng tôi có thể khái quát một số nét nổi bật được
trình bày trong nhiều tác phẩm nghiên cứu về kinh điển Nho giáo, về nội dung
sách vở của Khổng Tử. Các nhà Nho lúc bấy giờ đã khẳng định giá trị to lớn
trong tư tưởng của Khổng Tử cũng như của Nho giáo. Sự khẳng định này được
trình bày trong nhiều tác phẩm viết về lịch sử triết học, lịch sử Nho giáo, lịch
sử văn hoá, giáo dục. Tác giả tiêu biểu của nhiều tác phẩm đó là Phan Khôi,
Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh, Phan Bội Châu, Quang Đạm…
Nói đến các nhà nghiên cứu Nho giáo ở Việt Nam đầu thế kỷ XX phải kể
đến Phan Bội Châu với tác phẩm “Khổng học đăng”; Trần Trọng Kim với “Nho
giáo”; Đào Duy Anh với “Khổng giáo phê bình tiểu luận”.
Thông qua việc phân tích một số phạm trù, nguyên lý của Nho giáo,
Phan Bội Châu đã trình bày một cách cô đọng, súc tích và giải thích khá rõ
ràng các tư tưởng cơ bản của Khổng Tử và Nho giáo. Từ đó, ông đặc biệt đề
cao những nhân tố tích cực của Nho giáo, coi đạo đức Nho giáo có vai trò to
lớn trong việc giáo dục, hoàn thiện đạo đức con người trong cư xử với người
và góp phần vào việc ổn định trật tự, kỷ cương của xã hội.
Trước bối cảnh xã hội bài xích Nho giáo, thì Trần Trọng Kim đã dũng
cảm đứng lên bảo vệ Nho giáo bằng cách phân tích tương đối chính xác một số
nguyên lý cơ bản của Nho giáo trong quá trình hình thành và phát triển của nó,
từ đó ông chỉ ra cái hay, cái dở của Nho giáo. Ông cho rằng, Nho giáo không

chỉ là học thuyết chính trị – xã hội, học thuyết đạo đức mà còn là học thuyết
triết học.
Công trình “Khổng giáo phê bình tiểu luận” Đào Duy Anh đứng trên lập
trường mác xít, ông đưa ra nhiều nhận định tương đối mới mẻ về nội dung và ý
nghĩa trong tư tưởng chính trị – xã hội của Nho giáo, đồng thời đặt ra nhiều vấn đề
mới cho những người nghiên cứu sau này phải suy ngẫm. Ông phản đối một số trí
thức lúc bấy giờ chỉ coi Khổng học là vô dụng, là có di hại, không phù hợp với thời
đại khoa học và dân chủ.
Ở thời kỳ này, phần lớn các tác giả đều đề cập đến những vấn đề trọng
yếu của Nho giáo, tuy nhiên sự nhìn nhận và đánh giá về Nho giáo nói chung
và tư tưởng của Khổng Tử nói riêng hiện còn tồn tại nhiều quan điểm nhìn
nhận khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Cho nên, việc xét lại những tư
tưởng trong học thuyết của Khổng Tử vẫn còn là những đề tài hấp dẫn đối với
các thế hệ nghiên cứu tiếp theo.
Vào những năm 60 và 70 của thế kỷ XX ở Trung Quốc, tư tưởng chính
trị - xã hội của Khổng Tử bị coi là tư tưởng phản động “phục cổ”. Do đó, ở
thời kỳ này có nhiều sách báo phê phán Khổng Tử được xuất bản như cuốn:
“Phê phán tư tưởng giáo dục của Khổng khâu” của Phùng Tiên Du; bài
“Khổng Tử là nhà giáo dục toàn dân chăng?” của Đường Hiểu Văn đăng trên
tờ Nhân Dân nhật báo 27/9/1973; bài “Phê phán tư tưởng giáo dục của Khổng
khâu” của Tỉnh uỷ Sơn Đông đăng trên tờ Nhận thức nhật báo ngày
19/7/1971,…. Các tác giả đã áp đặt quan điểm đấu tranh giai cấp, chụp mũ về
chính trị để kết tội Khổng Tử là nhà tư tưởng của giai cấp bóc lột, họ cho rằng
mọi tư tưởng của ông chỉ nhằm mục đích chính trị có lợi cho giai cấp thống trị.
Từ đó, họ muốn phủ định sạch trơn những tư tưởng có giá trị vĩ đại mà Khổng
Tử đã đóng góp vào kho tàng văn hoá tư tưởng trong lịch sử Trung Quốc.
Ở miền Nam cũng xuất bản nhiều tác phẩm bàn về Nho giáo, điển hình
là các tác giả: Nguyễn Đăng Thục với 5 tập sách “Lịch sử triết học phương
Đông” trong đó có tập 1, 2, 5 đề cập đến triết học Trung Quốc; Nguyễn Hiến
Lê với cuốn “Khổng Tử”, “Mạnh Tử”; Đại cương triết học Trung Quốc của

Giản Chi – Hiến Lê…. Nhìn chung, phần lớn các tác giả miền Nam thời kỳ này
đều ca ngợi Nho giáo trên cơ sở giải thích các văn bản kinh điển của Nho giáo.
Từ khi đổi mới, một lần nữa Nho giáo lại được giới nghiên cứu ở Việt
Nam đề xuất một cách sôi nổi, nhiều công trình, biên soạn và khảo cứu về Nho
giáo xoay quanh vấn đề chính trị – xã hội và đạo đức của Khổng Tử ra đời.
Một loạt các tác phẩm bàn về Nho giáo được xuất bản, tiêu biểu là: cuốn “Nho
giáo xưa và nay” của Vũ Khiêu chủ biên (Nxb Khoa học xã hội 1991); “Bàn về
đạo Nho” của Nguyễn Khắc Viện (Nxb Thế giới, Hà Nội, 1993); “Nho giáo
xưa và nay’’ của Quang Đạm (Nxb Văn hoá, Hà Nội 1994); “Nho giáo tại Việt
Nam” của Viện Triết (Nxb Khoa học xã hội 1994); “Nho giáo và văn học Việt
Nam trung cận đại” của Trần Đình Hượu; “Tư tưởng phương Đông gợi những
điểm nhìn tham chiếu” của Cao Xuân Huy (Nxb Văn học 1995); “Một số vấn
đề Nho giáo Việt Nam” của Phan Đại Doãn (chủ biên), (Nxb Chính trị quốc gia
Hà Nội, 1999); “Vấn đề con người trong Nho học sơ kỳ” của Nguyễn Tài Thư,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005; ….
Trong các tác phẩm trên, bên cạnh việc phê phán những tàn dư tiêu cực
trong tư tưởng Nho giáo nói chung và Khổng tử nói riêng, nhiều nhà nghiên
cứu đã đánh giá các quan niệm trong tư tưởng của các nhà Nho đỡ gay gắt hơn,
khách quan hơn. Nhiều người đã nêu ra vấn đề kế thừa và triển khai những giá
trị tích cực trong tư tưởng của Khổng Tử, nhằm khắc phục những hiện tượng
tiêu cực, góp phần xây dựng và hoàn thiện những chuẩn mực đạo đức, những
quan hệ chính trị –xã hội của con người trong xã hội ta hiện nay.
Bên cạnh các sách chuyên khảo, ở Việt Nam còn có nhiều hội nghị khoa
học, luận án, luận văn cao học và nhiều bài tạp chí khoa học chuyên ngành
cũng bàn về Nho giáo và Khổng Tử tiêu biểu như: Luận văn thạc sĩ “Quan
niệm của Khổng Tử về giáo dục”(2002) của Nguyễn Bá Cường, mới chỉ tìm
hiểu về đối tượng, nội dung và phương pháp giáo dục của Khổng Tử, mà chưa
đề cập đến giáo dục như là một biện pháp quan trọng trong việc tuyên truyền,
thực hành tư tưởng chính trị – xã hội của ông; Luận án tiến sĩ Triết học “Học
thuyết chính trị – xã hội của Nho giáo và sự thể hiện của nó ở Việt Nam từ thế

kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX” (2005) của Nguyễn Thanh Bình, mới chỉ trình
bày sơ lược nội dung học thuyết chính trị – xã hội của Nho giáo, để chỉ ra sự
ảnh hưởng của nó trong các triều đại phong kiến Việt Nam; Luận án tiến sĩ
Triết học “Quan niệm của Nho giáo về con người, về giáo dục và đào tạo con
người” (2005) của Nguyễn Thị Tuyết Mai chỉ bàn về con người và nội dung
giáo dục của Nho giáo nói chung.
Năm 2005 Viện nghiên cứu Hán Nôm (Việt Nam) và Viện Harvard -
Yenching (Hoa Kỳ) phối hợp tổ chức một hội nghị quốc tế về Nho giáo ở Việt
Nam tại Hà Nội. Hội nghị đề cập đến nhiều vấn đề của Nho giáo ở Việt Nam,
trong đó có đề cập đến vai trò tư tưởng chính trị - xã hội của Nho giáo ở Việt
Nam, Nho giáo với xã hội Việt Nam hiện nay, Nho giáo với đạo làm người ở
Việt Nam trong lịch sử,… . Các luận văn của cuộc hội thảo đã được tập hợp lại
và in thành kỷ yếu với tiêu đề là “Nho giáo ở Việt Nam” (Nhà xuất bản Khoa
học xã hội, Hà Nội 2006). Cuốn sách được xem là bản thành quả mới nhất của
giới nghiên cứu và giảng dạy khoa học xã hội ở Việt Nam về Nho giáo.
Về phía Trung Quốc, gần đây có nhiều cuộc hội thảo khoa học, nhiều
cuốn sách, nhiều bài tạp chí nghiên cứu về Nho giáo, trong đó có đề cập đến tư
tưởng chính trị- xã hội của Khổng Tử. Đáng chú ý nhất là cuộc hội thảo quốc
tế về Nho học được tổ chức nhân dịp 2555 năm, năm sinh Khổng Tử, diễn ra ở
Bắc Kinh vào tháng 10 năm 2004 và biên soạn thành sách với tên “Nho học dữ
đương đại văn minh” gồm 4 tập, dày 2195 trang, do Cửu Châu xuất bản xã,
Bắc Kinh, năm 2005. Cuốn sách đăng tải gần 200 bài luận văn đề cập đến
nhiều mặt trong tư tưởng Khổng Tử và Nho học nói chung. Trong đó, phần về
tư tưởng chính trị – xã hội của Khổng Tử chiếm một vị trí quan trọng.
Xu hướng chung của giới nghiên cứu Việt Nam và Trung Quốc hơn 10
năm lại đây là khẳng định vai trò tích cực của tư tưởng Khổng Tử trong lịch sử
cũng như hiện tại. Tuy vậy, trong khi tìm hiểu vẫn còn những ý kiến khác
nhau, trái ngược nhau.
Khuynh hướng khẳng định chiếm đa số, tiêu biểu là một số tác giả và
nhóm tác giả sau: Ông Đỗ Duy Ninh (Tu- weiming), giáo sư Đại học Havard-

Yenching (Mỹ) cho rằng, nhiều nguyên lý về xã hội và con người của Nho
giáo không những thích hợp với lịch sử, mà còn có sức sống trong xã hội ngày
nay, bởi vì chúng có giá trị chung, phổ quát. Xét về mặt đạo đức, ông nói: “Tất
cả năm giá trị cốt lõi của truyền thống Khổng giáo: nhân, lễ, nghĩa, trí và tín
giữ vai trò chủ đạo của đạo đức phổ quát” [7; 34].
Nhóm các tác giả trong Ban thường vụ trị sự khoá III của Hội Liên hiệp
Nho học quốc tế ở Trung Quốc cũng cùng loại quan điểm trên. Không những
thế, họ còn chủ trương đẩy mạnh việc giáo dục tư tưởng trong các tác phẩm
kinh điển của Nho giáo, ông Dương Ba, phó Hội trưởng Ban thường vụ Hội
Liên hiệp Nho học quốc tế chủ trương: “Mở lớp bồi dưỡng 2 năm với hình
thức tự học là chính, tập trung phụ đạo là phụ, trong 2 năm đọc hết bộ “Tứ
thư”, Luận Ngữ, Mạnh Tử, Đại học, Trung dung. Số học viên này sẽ trở thành
thầy giáo đẩy mạnh việc truyền bá Nho học trong các trường trung, tiểu học”
[3; 7]. Khuynh hướng này đang là tư tưởng chủ đạo của giới nghiên cứu Nho
giáo Trung Quốc hiện nay.
Tuy vậy, ở Trung Quốc vẫn có ý kiến khác. Một số người cho rằng, Nho
giáo chỉ là di sản của quá khứ, trong di sản này có nhiều hạn chế, không thể
đánh đồng tư tưởng đó với các trào lưu tư tưởng tiến bộ của phương Tây. Quan
điểm của Vi Chính Thông có thể tiêu biểu cho tư tưởng này. Ông Vi nói: “Do
tâm lý bảo thủ và thói quen mê tín truyền thống, nên khi tiếp xúc với tư tưởng
dân chủ phương Tây, các sĩ phu đã tìm trong thư tịch cổ những câu chữ có vẻ
dân chủ để đem ra so sánh… Quan hệ lệch lạc như vậy, thì làm thế nào để cuộc
vận động dân chủ của chúng ta tiến triển một cách lành mạnh được?”[93;198].
Quan điểm trên là của số ít, song bác bỏ nó không phải là chuyện dễ.
Tư tưởng Nho giáo nói chung cũng như tư tưởng chính trị- xã hội của
Khổng Tử nói riêng, tuy là những vấn đề cũ, song chúng vẫn đang thu hút sự
chú ý của giới nghiên cứu triết học và khoa học xã hội ngày nay. Trên cơ sở
tiếp thu những thành quả của những người đi trước, tác giả luận văn mong
muốn tìm hiểu một cách có hệ thống hơn về những nội dung cơ bản trong tư
tưởng chính trị – xã hội của Khổng Tử.

3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA LUẬN VĂN
* Mục đích:
Luận văn góp phần tìm hiểu một cách có hệ thống về một số nội dung cơ
bản trong tư tưởng chính trị – xã hội của Khổng Tử.
* Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ bối cảnh ra đời tư tưởng chính trị – xã hội của Khổng Tử
- Làm rõ quan niệm về con người chính là nền tảng xây dựng tư tưởng
chính trị xã hội của Khổng Tử.
- Trình bày các yếu tố cấu thành tư tưởng chính trị – xã hội của Khổng
Tử qua các quan niệm nhân, lễ, chính danh.
- Làm rõ giáo dục chính là biện pháp hữu hiệu trong tuyên truyền tư tưởng
chính trị – xã hội của Khổng Tử vào đời sống xã hội đương thời.
4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Nền tảng lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và đường lối chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về con người
và xã hội.
- Vận dụng phương pháp luận của lịch sử triết học, nhất là lịch sử triết
học phương Đông. Chú trọng kết hợp phương pháp lịch sử - lôgíc phân tích –
tổng hợp, khái quát hoá, đối chiếu, so sánh…
5. CÁI MỚI CỦA LUẬN VĂN
Luận văn góp phần đề xuất một ý kiến về cấu tạo nội dung tư tưởng
chính trị – xã hội của Khổng Tử gồm nhân, lễ, chính danh và mối liên hệ giữa
các yếu tố đó, một vấn đề mà các nhà nghiên cứu trước đó chưa đề cập đến
một cách rõ ràng và có hệ thống.
6. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN VĂN
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ nội dung và thực chất tư tưởng chính
trị – xã hội của Khổng Tử.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ sinh viên học tập
và tìm hiểu về Nho giáo nói chung và tư tưởng chính trị – xã hội của Khổng

Tử nói riêng.
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Nội dung
của Luận văn gồm có 2 chương và 6 tiết.
NỘI DUNG


CHƢƠNG 1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ RA ĐỜI TƢ TƢỞNG CHÍNH
TRỊ - XÃ HỘI CỦA KHỔNG TỬ

Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, tư tưởng chính trị – xã hội
của Khổng Tử được hình thành và phát triển trong một hoàn cảnh lịch sử nhất
định. Vì thế, để hiểu rõ tư tưởng chính trị – xã hội của ông, trước hết cần xét
đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và tư tửơng lúc bấy giờ.
1.1. Cơ sở kinh tế, chính trị – xã hội cho sự hình thành tƣ tƣởng chính trị
– xã hội của Khổng Tử
1.1.1. Cơ sở kinh tế
Thời Tây Chu từ thế kỷ XI đến thế kỷ VIII TCN, công cụ sản xuất được
làm bằng đồng thau, tuy nó có tiện lợi hơn công cụ bằng gỗ và đá nhưng chưa
có nhiều để trở thành công cụ phổ biến trên đồng ruộng hoặc chế tác đồ dùng
trong các lò thủ công. Trong khi đó, số nhân khẩu tăng nhanh làm cho nhu cầu
của xã hội lúc này cần phải đẩy mạnh sản xuất, tạo ra nhiều của cải đáp ứng
nhu cầu vật chất của người dân. Đáp ứng nhu cầu thực tiễn lúc bấy giờ, cần
phải có một loại công cụ được làm bằng chất liệu khác tốt hơn đồng thau để
đưa vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất lao động, phát triển sản xuất. Trước
sự đòi hỏi đó, thời Đông Chu, công cụ lao động bằng sắt và hệ thống kênh
mương tưới tiêu nước ra đời. Đây là một cuộc cách mạng cải biến công cụ lao
động trong sản xuất nông nghiệp.
Từ sắt người ta đã làm ra nhiều công cụ lao động, do đó việc canh tác và
làm thuỷ lợi phát triển mạnh đã tạo nên năng suất lao động ngày càng được

nâng cao, đồng thời nhiều ngành nghề có liên quan đến nông nghiệp cũng được
ra đời và phát triển mạnh mẽ.
Nếu như ở thời Tây Chu, mọi tri thức có tính chất kinh nghiệm và những
gì không giải thích được người ta quy cho là tại trời, tại quỷ thần, thì đến thời
Xuân Thu – Chiến Quốc, người ta đã có sự quan sát, tích luỹ kinh nghiệm và
bước đầu đúc kết nên những tri thức về tự nhiên và sản xuất nông nghiệp.
Người ta đã biết được cây trồng cần phải có nước, có phân, có giống tốt, có
công chăm sóc thì mới sinh hoa lợi; biết được những thứ làm hại cho cây trồng
như bão lũ, hạn hán, sương gió, sâu bệnh để phòng tránh. Người ta cũng biết
được thời tiết có liên quan đến mùa màng, để đến thời thì làm, hết thời thì
dừng lại; biết được các yếu tố không thể thiếu được trong canh tác là người,
đất, trời và đi đến đúc kết rằng: “người làm, đất sinh, trời dưỡng”. Điều này
được ghi chép trong các sách Quản Tử và Lã Thị Xuân Thu ra đời ở thời
Chiến Quốc.
Thời kỳ đầu nhà Chu (thời Tây Chu), là thời đại phong đất, giai cấp quý
tộc cũng chính là thủ lĩnh quân sự, còn nông dân không có quyền sở hữu ruộng
đất và vấn đề giàu nghèo chưa trở thành một hiện tượng bức xúc trong đời
sống xã hội. Bởi vì, thời kỳ này nền kinh tế chưa phát triển mạnh, trong xã hội
còn có trật tự trên dưới, từ thiên tử cho đến thứ dân đều tuân theo quy tắc: Thứ
dân thì phục tùng sĩ, sĩ phục tùng khanh đại phu, khanh đại phu phục tùng chư
hầu, chư hầu phục tùng thiên tử, trên thiên tử còn có trời. Trời là đấng tối cao
khống chế các hành động của thiên tử. Từ quan hệ đó, thiên tử cắt đất phong
cho chư hầu, chư hầu cắt đất phong cho khanh đại phu, khanh đại phu cắt đất
phong cho sĩ, thứ dân thì làm lụng cùng với đất đai của sĩ. Một tổ chức xã hội
đẳng cấp như vậy có tác dụng góp phần làm cho cuộc sống ổn định và có điều
kiện phát triển văn hoá. Nhưng đến thời Xuân Thu- Chiến Quốc (thời Đông
Chu), do sản xuất phát triển, của cải trong xã hội ngày một nhiều đã làm cho
cơ cấu, trật tự giai cấp có sự thay đổi và quan hệ sản xuất cổ truyền bị rạn nứt.
Hệ quả của sự phát triển kinh tế đó, đã làm cho thể chế chính trị thời Tây Chu
băng hoại và những cuộc chiến tranh thôn tính lẫn nhau giữa các nước chư hầu

nổ ra càng khiến cho trật tự xã hội trở nên hỗn loạn. Các nước trước đây vốn
do nhà Chu phong đất cho, nay do kinh tế suy yếu dẫn đến mất quyền hoặc suy
yếu về địa vị và vai trò chính trị. Chiến tranh thôn tính lẫn nhau giữa các nước
chư hầu ngày càng khốc liệt, trật tự xã hội ngày càng rối loạn, làm cho một bộ
phận trong giai cấp thống trị sa sút trở thành bình dân. Ngoài ra, trong nội bộ
tầng lớp quý tộc mỗi nước cũng mâu thuẫn, đấu tranh tiêu diệt lẫn nhau, nên
không ít người phải chết hoặc phải chạy trốn. Như tổ tiên của Khổng Tử vốn là
người nước Tống, vì chiến tranh loạn lạc mà phải chạy đến nước Lỗ để kiếm
sống.
Bên cạnh tầng lớp quý tộc, tầng lớp bình dân cũng có những biến đổi to
lớn. Đại đa số người dân sống dựa vào việc canh tác đất đai, song do nhân
khẩu tăng nhanh, đất đai canh tác không đủ nên đã xảy ra nhiều cảnh cướp
bóc, làm cho nhiều người phải dời bỏ đất đai của mình chạy đi khắp nơi để tìm
kế mưu sinh. Có nhiều người phải đi làm những nghề khác để kiếm sống.
Song, cũng có một số người nhờ vào việc kinh doanh mà phất lên trở thành
những nhà buôn giàu có nổi tiếng như Ninh Thích, Huyền Cao, Bách Lý Hề
Cuối thời Xuân Thu đã xuất hiện việc tự do mua bán ruộng đất. Một phần
ruộng đất công từ tay quý tộc chuyển sang tay các thương gia giàu có, một
phần do chư hầu phong cấp cho các tướng lĩnh có công trong trận mạc, một
phần đất tự khai hoang mở rộng canh tác trở thành đất của các nông dân tự do.
Chế độ sở hữu ruộng đất cổ truyền bị rạn nứt, khiến một phần trong số đó
chuyển sang chế độ sở hữu tư nhân. Cuộc biến pháp của Thương Ưởng là sự
kết thúc của chế độ tỉnh điền. Bắt đầu từ nước Tần, chế độ sở hữu tư nhân về
ruộng đất được xác lập. Sự sụp đổ của chế độ tỉnh điền, cùng với sự phát triển
của công cụ lao động và hệ thống thuỷ lợi đã giúp một số nhà nông có cơ hội
phát triển, mở rộng ruộng đất cho mình và trở thành đại địa chủ. Một số bình
dân có điều kiện học tập, được trang bị kiến thức, những người có kiến thức
được bước lên con đường làm quan như: Ninh Thích làm quan ở nước Tề,
Bách Lý Hề làm quan ở nước Tần. Tình trạng buôn bán ruộng đất tự do đã làm
cho khoảng cách giàu nghèo trong xã hội gia tăng rõ rệt, còn đời sống của

những người lao động ngày càng khó khăn.
Thời kỳ này, kinh tế thương nghiệp ở các thành thị cũng phát triển nhộn
nhịp. Do đó, các nhà buôn có thể trao đổi, buôn bán gia súc, vải vóc và muối
giữa các nước với số lượng lớn như: Muối của nước Tề, vải vóc của nước Sở,
gạo, ngũ cốc của nước Tần, gia súc của hai nước Yên và Triệu là những mặt
hàng được trao đổi thường xuyên. Đồng thời tiền tệ cũng được ra đời và được
đưa vào trao đổi.
Thời Chiến quốc công thương phát triển mạnh làm cho các nhà buôn trở
nên giàu có và một số đã có điều kiện thay đổi địa vị của mình từ tầng lớp bình
dân trở thành quý tộc và có ảnh hưởng lớn đến nhà vua. Chính sự phát triển
của kinh tế dẫn đến phân hoá giai cấp, giai cấp quý tộc suy đồi, còn giai cấp
bình dân, người thì mở mang ruộng đất trở thành địa chủ, người thì làm giàu
bằng con đường kinh doanh, trong xã hội hình thành nên các tầng lớp xã hội:
địa chủ, nông dân tự do, kẻ sĩ, quý tộc mới.
1.1.2. Cơ sở xã hội
Sự phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực kinh tế đã làm xuất hiện một cục
diện mới trong đời sống xã hội. Trước hết, là do sự thay đổi các hình thức sở
hữu ruộng đất và kết cấu giai cấp của xã hội dẫn đến những mâu thuẫn vốn có
trong lòng xã hội và những mâu thuẫn mới nảy sinh ngày càng thêm sâu sắc.
Trước sự cạnh tranh khốc liệt bởi những mâu thuẫn ấy, giai cấp quý tộc ngày
càng mục nát, hủ bại. Nếu như trước đây, đất đai, thần dân dưới gầm trời này
không ở đâu không phải là của vua, thì bấy giờ quyền sở hữu tối cao đó bị giai
cấp địa chủ mới lên có sức mạnh kinh tế tấn công và chiếm dụng. Tình trạng
mất đất đã làm cho giai cấp quý tộc nhà Chu suy yếu. Từ sự suy yếu về kinh tế
đã dẫn đến sự yếu về địa vị xã hội và vai trò chính trị của nhà Chu. Tôn ti, trật
tự theo thang bậc từ trên xuống dưới: thiên tử – chư hầu – khanh đại phu – sĩ –
thứ dân được hình thành từ thời Tây Chu đến lúc bấy giờ chỉ còn là danh
nghĩa. Việc lễ, nhạc, việc chinh chiến, hình phạt trước đây đều do thiên tử nhà
Chu đề ra và các nước chư hầu phải theo đó mà thực hiện, thì đến lúc này hầu
như rơi vào tay chư hầu và khanh đại phu nắm giữ. Các bá vương như; Tề

Hoàn Công, Tống Tương Công, Tần Mục Công, Sở Trang Vương, Ngô Vương
Hạp Lư, Việt Vương Câu Tiễn làm mưa làm gió trên chính trường và chiến
trường. Chư hầu đã vậy, khanh đại phu cũng không kém. Quý Thị là khanh đại
phu nước Lỗ, ở vào hàng thứ ba của trật tự quý tộc mà lại dùng nhạc thiên tử
để thiết triều, dùng lễ của thiên tử để tế thần núi Thái Sơn, làm cho Khổng Tử
bất bình. Các nước chư hầu dùng chiến tranh thôn tính lẫn nhau, xã hội loạn
lạc, nhân tài ở các nước nổi lên, sự xuất thân cao quý của tầng lớp quý tộc
thống trị không được coi trọng như trước đây nữa. Chư hầu lấn quyền thiên tử,
khanh đại phu lấn quyền chư hầu, tôi giết vua, con giết cha, trật tự xã hội hết
sức rối loạn.
Tình trạng chiến tranh liên miên giữa các nước chư hầu đã làm cho đời
sống nhân dân ngày càng khốn khó đến cùng cực. Đồng thời, sự rối loạn trật tự
xã hội đã tạo ra một tình trạng phi nhân tính, vô đạo đức, các mối quan hệ giữa
người với người bị đảo lộn.
Tình hình đó khiến nhiều người phải đi tìm lời giải thích nguyên nhân, vì
sao thiên tử nhà Chu ngày càng mất khả năng trị nước?. Vì sao chiến tranh,
loạn lạc kéo dài mãi?. Có người cho rằng, vận trời “hết thái rồi bĩ, hết bĩ rồi
thái” như sách Kinh Dịch viết; “nhà Chu hết thịnh rồi suy, hết suy rồi thịnh”.
Có người cho rằng, trời chỉ thương người có đức như Chu Công nói: “Trời
không thân với ai, chỉ giúp đỡ người có đức”, “các vua thời Đông Chu không
có đức, nên trời không giúp nữa”. Có người cho rằng, tư tưởng cai trị của các
tập đoàn thống trị đối với xã hội có chỗ còn thiếu sót, như không khôi phục lễ,
nhạc, không coi trọng pháp luật,… chỉ cần khắc phục những điều đó là xã hội
sẽ lập lại kỷ cương, nề nếp. Các ý kiến trên đều nhằm cung cấp cơ sở nhận
thức cho nhà cầm quyền đương thời hoạch định đường lối, chính sách để bình
ổn xã hội. Vì, thực sự xã hội đương thời đang khủng hoảng về đường lối trị
nước.
Thực trạng cùng những nguyên nhân bất ổn của xã hội, lúc bấy giờ nói lên
rằng, cách tổ chức và quản lý xã hội của nhà Chu từ trước đến lúc bấy giờ là không
còn phù hợp nữa. Vậy, mọi mâu thuẫn trong lòng xã hội và những biến đổi trật tự

xã hội xét đến cùng, là do sự ra đời và phát triển của công cụ lao động bằng sắt.
Loại công cụ mới ra đời đã đưa lại năng suất lao động trong sản xuất nông nghiệp
tăng lên không ngừng và các nghề thủ công nghiệp cũng phát triển mạnh mẽ dẫn
đến mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vốn có của nó. Đầu
thời Tây Chu ở Trung Quốc quan hệ sản xuất chủ yếu là quan hệ giữa chủ nô và nô
lệ, thì đến thời Xuân Thu- Chiến Quốc (thời Đông Chu), quan hệ giữa chủ nô và nô
lệ dần dần bị phá vỡ và thay thế vào đó là quan hệ giữa địa chủ và nông dân tự do
đang dần được xác lập và tồn tại xen kẽ với quan hệ chủ nô và nô lệ. Giai cấp địa
chủ mới ra đời từng bước thay thế vai trò của giai cấp chủ nô chi phối mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội và xu thế xã hội đang dần dần thay thế chế độ quý tộc chủ nô
bằng chế độ địa chủ phong kiến. Đây là quy luật của sự vận động phát triển khách
quan của lịch sử xã hội. Tuy nhiên, việc lựa chọn giải pháp trên con đường hợp
nhất được cho là có hiệu quả, nhưng ở đây con đường hợp nhất là chiến tranh thôn
tính lẫn nhau, là giết chóc đã gây nên bao đau khổ cho nhân dân lao động. Trước
tình hình xã hội loạn lạc, giai cấp thống trị băng hoại, cuộc sống con người bấp
bênh đang đặt ra yêu cầu và nhiệm vụ thực tiễn là phải khôi phục lại trật tự, kỷ
cương của xã hội, phải làm sao để cứu đời, cứu người. Với sự xuất hiện nhiều
trung tâm, tụ điểm của tầng lớp kẻ sĩ; hiện tượng “trăm hoa đua nở”, “trăm nhà đua
tiếng” là kết quả của việc tìm giải pháp đáp ứng yêu cầu bình ổn và phục hưng xã
hội, khắc phục tình trạng khủng hoảng về đường lối cai trị. Sự xuất hiện nhiều trào
lưu tư tưởng, trong đó có Nho giáo nhằm đáp ứng nhu cầu lịch sử thời đại lúc
đương thời.
1.1.3. Cơ sở chính trị
Sự phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực kinh tế đã làm cho xã hội Trung
Quốc dịch chuyển từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến, những
mâu thuẫn xã hội ngày càng thêm gay gắt làm cho trật tự của các giai cấp, tầng
lớp trong xã hội cũng bị thay đổi. “Triều đại nhà Chu suy sụp từ đầu Đông Chu
đến đây là hết hẵn. Tình trạng xen kẽ lẫn nhau giữa hình thái kinh tế xã hội
Chiếm hữu nô lệ cứ lùi dần và hình thái kinh tế xã hội Phong kiến cát cứ mới
nảy sinh với xu thế hướng tới tập quyền ngày càng mạnh mẽ cũng chấm dứt”

[27; 21]. Sự chuyển biến rõ rệt nhất được thể hiện ở các hình thức sở hữu về
ruộng đất. Thiên tử có quyền ban phát nhiều hay ít ruộng đất cho những người
thuộc hoàng tộc, những tướng lĩnh có công với nhà Chu theo thứ bậc của họ.
Bởi vì, nhà Chu cho rằng, “dưới gầm trời không đâu không phải là đất của nhà
vua, ngoài vùng biên viễn không đâu không phải thần dân của nhà vua” đã nói
lên tình trạng kinh tế - chính trị nhà Chu mang tính thế tập theo tông pháp của
riêng mình. Sở dĩ chính sách cai trị đó tồn tại được là do trong tư tưởng chính
trị của nhà Chu còn khoác lên mình một tấm mành tôn giáo về “ý trời”, “mệnh
trời” để cai trị nhân dân. Do đó, kẻ nào chống lại nhà vua là chống lại mệnh
trời, thì nhà vua vâng mệnh trời trừng phạt. Thực tế, trong đời sống chính trị ở
Trung Quốc từ trước cho đến thời Khổng Tử, giai cấp thống trị cũng ít nhiều
quan tâm đến đời sống của nhân dân, đến vai trò của người dân. Điều này được
ghi nhiều trong sách Kinh Thư như: “Trời nhìn tự dân ta nhìn”, “Trời nghe tự
dân ta nghe”, “sự sáng suốt ở trời thể hiện ở sự sáng suốt ở dân”,… chứng tỏ
cho dù khoác lên mình tấm áo choàng tôn giáo về ý trời, mệnh trời, nhưng ở
một mức độ nào đó, nhà vua vẫn phải quan tâm đến đời sống của nhân dân.
Đến đầu thời Xuân Thu, sự suy yếu về mọi mặt của nhà Chu cho thấy sự
linh thiêng và bất khả xâm phạm của thần quyền không còn được như trước.
Vua nhà Chu không còn đủ thế và lực để nắm toàn bộ đất đai, thần dân cũng
như các nước chư hầu của mình nữa. Cùng với sự suy đồi của tầng lớp thống
trị là trật tự, kỷ cương trong xã hội bị đảo lộn, bên dưới không còn chịu mệnh
lệnh từ vương thất. Trong xã hội thường xuyên diễn ra cảnh “nồi da xáo thịt”
như; bề tôi giết vua, con giết cha, anh em đánh giết lẫn nhau vì lợi ích riêng.
“Chư hầu lấn quyền thiên tử, khanh đại phu lấn quyền chư hầu, tôi giết vua,
con giết cha, trật tự xã hội rất rối loạn” [1; 25-26]. Hiện tượng khanh đại phu
giết vua hoặc đuổi vua ra khỏi nước mình trở nên phổ biến. Cùng với việc các
khanh đại phu chấp chính, thì các bồi thần đối với khanh đại phu cũng giống
hệt như khanh đại phu đối với vua. Tuy bồi thần chỉ có quyền trong một ấp,
thế lực có hạn, nhưng họ không chịu sự ước thúc và ngày càng hoành hành
ngang ngược. Do đó, chính quyền nhà Chu ngày càng suy yếu, chiến tranh loạn

lạc làm cho đời sống nhân dân ngày càng khó khăn. Như vậy, chế độ “phong
hầu kiến quốc” của nhà Chu đã không còn phù hợp cả về kinh tế lẫn chính trị,
vì quan hệ sản xuất mới đã hình thành, chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất đã phát triển. Giai cấp thống trị mới đã xuất hiện, khiến cho các mệnh
lệnh của thiên tử ban ra không được vua các nước chư hầu tuân theo răm rắp
như trước. Những quy định về lễ pháp, cương thường của xã hội trước đây do
thiên tử nhà Chu quy định vốn được vương hầu tự giác chấp hành thì nay bị vi
phạm nghiêm trọng.
Nếu như thời Xuân Thu dựa vào chế độ phân phong để thiết lập thành
quận huyện, thì đến thời Chiến Quốc, các nước thôn tính lẫn nhau rồi xác lập
biên giới quận huyện. Do đó, chế độ phong đất mang tính cát cứ do giai cấp
quý tộc đặc quyền dần dần trở thành chính quyền quan lại. Các bậc vương
công ban thưởng cho quan lại, thường dùng gạo hoặc vàng, chứ rất ít khi
phong đất. Quan hệ giữa quan lại với nhà vua mang tính chất là công việc
chung chứ không còn là quan hệ riêng tư như trước đây nữa.
Ở thời phong đất, quý tộc là thủ lĩnh của một tập đoàn kinh tế và vũ
trang, còn nông dân vừa là lao dịch cho quân đội, vừa có thể được chính thức
tham gia quân đội. Đến thời Xuân Thu phạm vi chiến tranh được mở rộng,
quân đội cần nhiều người hơn nên cần rất nhiều nông dân làm binh lính, các
quý tộc cũ mất đi địa vị lãnh đạo và đang dần hình thành một chế độ quân sự
mới. Các vương hầu tự mình xưng hùng, xưng bá, lợi dụng danh nghĩa bảo vệ
và tôn vinh nhà Chu để tập hợp lực lượng đi xâm lược, trừng phạt và tiêu diệt
các nước khác mà thực chất là tiếm quyền, chiếm giữ địa vị thiên tử của nhà
Chu về tay mình để cai trị thiên hạ.
Chiến tranh khốc liệt, kéo dài giữa các nước làm cho nhân dân khổ cực,
gia đình ly tán, sản xuất đình trệ, ruộng vườn bỏ hoang , những quy định về
lễ nghĩa bị vi phạm, việc triều hội, triều cống và chinh phạt giữa các nước bị
chư hầu lợi dụng danh nghĩa thiên tử làm cho mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp
thống trị ngày càng trở nên gay gắt, xã hội ngày càng rối loạn. Đặc biệt những
quy định về Lễ của nhà Chu trước đây được các vua chư hầu, khanh đại phu tự

giác thực hiện và đã từng góp phần vào việc bảo vệ cũng như làm hưng thịnh
chế độ tông pháp nhà Chu, thì đến lúc này bị họ coi nhẹ, làm cho các giá trị
đạo đức suy giảm, xã hội bị coi là vô đạo. Sự mục ruỗng của xã hội làm cho
chế độ chính trị nhà Chu suy tàn nhanh chóng, những mâu thuẫn trong xã hội
đạt đến đỉnh cao đòi hỏi phải có những giải pháp khắc phục tình hình mọi mặt
của xã hội đương thời. Ở thời Tây Chu, việc cai trị chủ yếu dựa vào lễ và tập
tục. Trên cơ sở lễ và tập tục, quý tộc chủ nô tuỳ tiện dùng hình phạt khắc
nghiệt để diệt trừ những kẻ chống đối mình, không làm theo ý mình. Đến thời
Xuân Thu – Chiến Quốc cách cai trị này đã gây nên sự oán thán trong nhân
dân.
Từ những bế tắc trong xã hội, đòi hỏi cần phải có một cuộc cải cách về
đường lối trị nước. Hàng loạt các học thuyết chính trị- xã hội được xem là lý
tưởng do những mưu sĩ đưa ra và được vua các nước chư hầu tuỳ chọn làm
công cụ cai trị. Trong lúc bấy giờ, giai cấp thống trị các nước rất coi trọng tầng
lớp trí thức, vì họ là những người hiểu biết, có kinh nghiệm, hiểu được thời
thế, tâm tư nguyện vọng của dân cũng như quyền lợi của giai cấp thống trị và
một số trí thức cũng muốn mưu cầu lợi ích cho riêng mình. Trên con đường
tìm hiểu, luận giải những phương thức cai trị mới, một số đường lối trị nước
của họ đã phát huy được trong thực tiễn, giúp các vương hầu, quý tộc giữ được
địa vị thống trị của mình, lấn át được người khác, nước khác như: đường lối
của Tô Tần, Trương Nghi. Trước nhu cầu thực tiễn đó đã xuất hiện các học
thuyết chính trị - xã hội. Một trong số những nhà tư tưởng đại diện thời đó là
Khổng Tử.
1.2. Tiền đề tƣ tƣởng cho sự hình thành tƣ tƣởng chính trị – xã hội của
Khổng Tử
Sự xuất hiện tư tưởng chính trị – xã hội của Khổng Tử không chỉ từ cơ sở
kinh tế, chính trị – xã hội, mà còn trên cơ sở tiếp thu, kế thừa nhiều tư tưởng đã có
từ trước đến lúc bấy giờ.
Dựa vào nguồn tài liệu Bốc từ (loại văn tự xuất hiện sớm nhất ở Trung
Quốc) người ta đã biết sơ qua tình hình kinh tế, xã hội và tư tưởng thời đại Ân

– Thương. Mặc dù trình độ phát triển của công cụ sản xuất thấp và lạc hậu,
nhưng dựa vào điều kiện tự nhiên thuận lợi nên nền kinh tế sản xuất nông
nghiệp, chăn nuôi và săn bắn khá phát triển. Hình thức quan hệ sản xuất thời
Ân là chế độ nô lệ gia trưởng kiểu phương Đông ở trình độ thấp chưa có sự
phân biệt rõ rệt về khái niệm “sở hữu” đối với tư liệu sản xuất.
Dựa vào sự vận hành của mặt Trăng, các vì sao, tính chất chu kỳ của
nước sông dâng lên và quy luật sinh trưởng của các loại cây trồng mà người
Ân đã phát minh ra lịch mùa (Âm lịch). Phép làm lịch của người Ân là lấy hệ
thống can- chi để ghi ngày. Lấy mười ngày (từ Giáp, đến Quý) làm một tuần.
Một tháng có 30 ngày (3 tuần), tháng thiếu có 29 ngày. Một năm có 2 mùa là
Mùa Xuân và Mùa Thu. Lấy 12 tháng làm một năm, nếu gặp năm nhuận thì 13
tháng. Việc phát minh ra can – chi để ghi thời gian và việc làm ra lịch mùa đã
phản ánh tri thức về khoa học tự nhiên của người Ân đã phát triển tương đối
toàn diện. Tuy nhiên, nó vẫn không thể thoát ra khỏi sự ảnh hưởng bởi những
quan niệm về tôn giáo, thần bí, như những tư tưởng thần thoại về sự vận hành
của các thiên thể; quan niệm ghi mùa gắn liền với việc tế tự tổ tiên…
Về tư tưởng tôn giáo:
Nhà Ân chỉ tôn sùng và cúng tế một vị thần toàn năng, đó là thần tổ tiên,
vì nhà Ân cho rằng, phàm mọi việc như mưa gió, bệnh tật, hạn hán, được mùa,
mất mùa, chinh chiến đều do sự giáng phúc, giáng hoạ của tổ tông.
Ở thời kỳ này chưa có quan niệm rõ ràng, chưa có ý thức về ý nghĩa đạo
đức, trong sinh hoạt cộng đồng người ta mới chỉ có tư tưởng là đề cao, tôn
sùng người cầm đầu thị tộc.
Vào khoảng thế kỷ XI TCN, tộc Chu từ phía Bắc tiến vào đất Ân và tiêu
diệt hoàn toàn nhà Ân lập nên nhà Chu. Tiếp tục truyền thống tế Đế tổ, tiên
vương của người Ân, người Chu còn thêm tư tưởng kính trời, thờ thượng đế,
hợp mệnh trời, người với trời hợp nhất. Họ cho rằng, Thượng đế và thần tổ tiên
nguyên là hai không thể lẫn làm một. Nhà Ân do không biết “mệnh trời”, hành
động không hợp “mệnh trời” nên nay Thượng đế không còn ưa người Ân nữa,
cho nên ban mệnh xuống trao cái quyền ấy cho nhà Chu, để người Chu lập ấp,

dựng nước. Lại ban mệnh cho nhà Chu “nhận dân, nhận cõi” (quyền sở hữu
ruộng đất và sức lao động), cho tổ tiên người Chu được “sánh ngang với
Thượng đế” và nhận mệnh làm vương, làm hậu, làm hoàng; do đó, con cháu
nhà Chu phải dốc tâm gìn giữ truyền thống ấy để nhà Chu đời đời được trị dân,
trị nước, trị thiên hạ. Đây rõ ràng là tư tưởng tôn giáo đã bị chính trị hoá, phản
ánh tư tưởng chính trị bảo thủ và phản động của giai cấp thống trị quý tộc thị
tộc.
Về tư tưởng chính trị, đạo đức
Trên cơ sở một quan niệm tôn giáo như vậy, nhà Chu xây dựng nên một
thứ văn hoá, một thứ học thức “học ở quan phủ” chỉ giành riêng cho tầng lớp
quý tộc thị tộc, không xuống đến người dân.
Trong các lời cáo ở sách Kinh Thư, ở Vu đỉnh của Kim Văn có những
câu như: “Đây là ta noi theo tiên vương, nhận dân, nhận bờ cõi” (Đại Vu
đỉnh) ; “Được nhận mệnh ấy, cả nước ấy, dân ấy” (Khang Cáo). “Hết sức giữ
yên ổn những dân mà vua Văn, Vũ đã nhận Nhân theo đấy mà giữ lấy dân
của Văn tổ người đã nhận mệnh” (Lạc Cáo); Giúp ta nhận dân để trị dân ta
đã nhận” (Lập chính). Qua đó cho thấy, tư tưởng chính trị của nhà Chu đã
được tôn giáo hoá một cách toàn diện. Mọi chính sách của nhà Chu đều được
giải thích là “vâng Mệnh trời”, “thuận theo Mệnh trời”. Giai cấp quý tộc Chu
cho rằng, kẻ chịu “Mệnh trời” để thống trị thiên hạ là Thiên Tử. Thiên Tử cùng
sánh với trời, với Đế. Nhân dân, bờ cõi, đất đai là thuộc quyền sở hữu của
Thiên Tử, cái quyền đó nhận được từ trời và do Tiên Vương ban cho. Do đó,
Thiên tử phải kính cẩn, sợ uy trời và tôn trọng phép tắc của Tiên Vương. Rõ
ràng, trong tư tưởng chính trị, đạo đức của nhà Chu lấy hai chữ Đức và Hiếu
làm nền tảng.
Dựa vào quan niệm tôn giáo và đạo đức, nhà Chu khẳng định, họ thay
nhà Ân cai trị nước, trị dân là do có đức, cho nên các vua đời sau phải biết
kính cái đức đó, phải biết bồi dưỡng nó để cho con cháu nhà Chu được hưởng
nước, hưởng dân lâu dài. Hiếu là phải thờ phụng tổ tiên, phải nhớ công lao của
tổ tiên mà giữ phép tắc do tổ tiên để lại, phải giữ được cái đức, cái hiếu. Có thi

hành đúng đạo hiếu đó, thì mới nhận được mệnh trời mà hưởng nước, hưởng
dân mãi mãi. Đây chính là mục đích tuyên truyền nhằm củng cố sự tồn tại vĩnh
viễn địa vị thống trị của tầng lớp quý tộc nhà Chu. Tất nhiên, việc đề xuất tư
tưởng Đức và Hiếu trong đường lối cai trị đã phản ánh một thực tế rằng, nhà
Chu bắt đầu dao động trong quan niệm về vai trò của thiên mệnh (Mệnh trời)
và bắt đầu chú ý đến việc người, việc trần thế.
Cuối thời Tây Chu, khi chế độ nô lệ xuất hiện nguy cơ quyền uy của kẻ
thống trị đang bị lung lay; trong xã hội, tình hình chính trị đen tối và thiên tai
thường xuyên xảy ra gây nên bao đau khổ cho con người, dẫn tới việc nhà Chu
dần dần nghi ngờ về sự linh nghiệm trong thờ cúng thần tổ tiên và thượng đế,
họ bắt đầu hoài nghi, thậm chí còn phủ định vai trò chi phối của trời đối với sự
việc của người. Họ mắng nhiếc thượng đế không linh nghiệm, oán thần tổ tiên
không có năng lực “Thiên mệnh bất triệt” (mệnh trời không vững vàng). Tuy
nhiên, ở một số chương trong sách Kinh Thi vẫn cho rằng, “xã hội hỗn loạn và
dân gặp sự không may, không phải do thượng đế giáng xuống mà là do người
gây ra” (Hạ dân chi nghiệt, phi giáng tự nhiên chức cách do nhân). Điều này
cho thấy, trong ý thức của mọi người, chưa hoàn toàn đoạn tuyệt, phủ định địa
vị và vai trò chi phối của thượng đế, thiên mệnh, nhưng đã bắt đầu hoài nghi.
Đến thời Xuân Thu trở về sau, kinh tế phát triển làm cho chính trị – xã
hội có nhiều biến đổi, tầng lớp dân tự do xuất hiện, đặc biệt là sự ra đời của
các thành thị phồn vinh và những thành quả đạt được trong lĩnh vực khoa học
tự nhiên (nhất là về thiên văn, y học), đã có những bước tiến bộ rõ rệt, đồng
thời uy quyền thống trị của bọn quý tộc chủ nô bị giảm sút, cho nên đã hình
thành trào lưu tư tưởng tiến bộ phủ định trời, coi trọng người, xuất hiện tư
tưởng vô thần lấy âm dương ngũ hành và Chu Dịch làm nội dung cơ bản.
Như phần trên đã phân tích, đến thời Đông Chu, xã hội Trung Quốc rơi
vào cảnh loạn lạc, chiến tranh liên miên, trật tự, kỷ cương xã hội đảo lộn. Chư
hầu lấn quyền thiên tử, khanh đại phu lấn quyền chư hầu, tôi giết vua, con giết
cha… Thực trạng rối loạn trong xã hội lúc bấy giờ cho thấy cách quản lý xã
hội theo mô hình của nhà Chu không còn phù hợp nữa. Trước tình hình đó, vì

sự tồn vong của từng nước, mà giai cấp quý tộc ở nước nào cũng cần có một
đường lối trị nước, một học thuyết chính trị lý tưởng. Do đó, xã hội xuất hiện
nhu cầu “chiêu hiền đãi sĩ” của các đấng quân vương. Và để đáp ứng nguyện
vọng đó của các minh chủ, các nhà tư tưởng, nhiều kẻ sĩ (tầng lớp trí thức
đương thời) đã đề ra nhiều học thuyết cứu đời, nhằm thiết lập trật tự kỷ cương

×