Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Quan niệm của Ph. Ăngghen về nhận thức trong tác phẩm Chống Đuyrinh và ý nghĩa của nó đối với nhận thức khoa học hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (921.06 KB, 103 trang )


1

Đại học Quốc gia Hà Nội
Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn
=======******=======

Trịnh Vương Cường

Quan niệm của Ph.Ăngghen về nhận thức
trong tác phẩm “Chống Đuyrinh” và ý nghĩa của
nó đối với nhận thức khoa học hiện Nay
Luận văn Thạc sĩ triết học
Chuyên ngành: Triết học
Mã số : 60 22 80
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Dương Văn Thịnh



Hà Nội, 2008

2
Mục lục
Mở đầu 3
Chương 1: Quan niệm của Ph.Ăngghen về nhận thức trong tác phẩm
“Chống Đuyrinh” 10
1.1 Hoàn cảnh ra đời, nội dung cơ bản và ý nghĩa của tác phẩm
“Chống Đuyrinh” của Ph.Ăngghen 10
1.2 Nội dung quan niệm của Ph.Ăngghen về nhận thức 17
1.2.1 Quan niệm về nguồn gốc, bản chất của nhận thức 17
1.2.2 Quan niệm về biện chứng của quá trình nhận thức 23


1.2.3 Quan niệm về chân lý và tiêu chuẩn của chân lý 30
Chương 2: Đặc điểm của nhận thức khoa học hiện nay và ý nghĩa quan
niệm của Ph.Ăngghen về nhận thức đối với nhận thức khoa học hiện nay
40
2.1 Đặc điểm của nhận thức khoa học hiện nay 40
2.1.1 Tinh thần cách mạng của khoa học 40
2.1.2 Về phong cách tư duy của khoa học 46
2.1.3 Quan niệm về sự phát triển các lý thuyết khoa học 55
2.2 ý nghĩa quan niệm của Ph.Ăngghen về nhận thức đối với nhận
thức khoa học hiện nay 69
2.2.1 Luận giải tính biện chứng của cuộc cách mạng trong khoa học tự
nhiên 69
2.2.2 Luận giải vai trò của phương pháp luận duy vật biện chứng đối
với sự phát triển của lý thuyết khoa học 79
Kết luận 90
Tài liệu tham khảo 92



3
Mở đầu
1.Lý do chọn đề tài
“Chống Đuyrinh” là một tác phẩm có vị trí quan trọng trong hệ thống
tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác. ở đó, thiên tài của Ph.Ăngghen - cùng
với C.Mác là những người sáng lập chủ nghĩa cộng sản khoa học - thể hiện
không chỉ ở chỗ đã đập tan, quét sạch tận gốc rễ toàn bộ hệ thống triết học của
Đuyrinh, một mớ hẩu lốn chiết trung chủ nghĩa gồm những hệ thống siêu hình
khác nhau mà ông ta rêu rao như một thứ phương pháp tư duy mới, thực chất
là những bài vở của kẻ bán rong hệ tư tưởng tư sản trong phong trào công
nhân. Hơn thế, do yêu cầu và mục đích của việc viết tác phẩm, thiên bút chiến

trở thành sự trình bày có hệ thống về phương pháp biện chứng và thế giới
quan cộng sản mà chính C.Mác và Ph.Ăngghen làm đại biểu.
Với tài nghệ bút chiến bậc thầy, đứng trên quan điểm của chủ nghĩa
duy vật biện chứng để khái quát những thành tựu của khoa học tự nhiên và
khoa học xã hội đương thời, Ph.Ăngghen đã trình bày khá toàn diện nhưng
không dàn trải mà tập trung vào những vấn đề cốt lõi của chủ nghĩa duy vật
biện chứng; bảo vệ nguyên tắc tính đảng trong triết học; thể hiện một cách sâu
sắc quan điểm duy vật biện chứng trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của
triết học; không chỉ luận chứng rõ ràng mà còn đưa ra những định nghĩa kinh
điển về vận động của vật chất; về phép biện chứng; các quy luật và các cặp
phạm trù; đồng thời phát triển một cách chính diện quan điểm của chủ nghĩa
Mác về những vấn đề có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc.
Trong thời đại của khoa học và công nghệ hiện nay, sự phát triển với
tốc độ chưa từng thấy của nhiều ngành khoa học đã và đang làm nảy sinh
những khái niệm, phạm trù, quan niệm và phương pháp nghiên cứu hết sức
mới mẻ và có tính chất cách mạng thực sự. Sự phát triển như vũ bão của khoa
học cũng đang đặt ra hàng loạt vấn đề ảnh hưởng đến những hoạt động rất

4
khác nhau của đời sống xã hội, đến việc áp dụng những thành tựu khoa học ấy
vì sự tiến bộ xã hội cũng như sự phát triển của bản thân khoa học trong tương
lai. Để có được sự nhìn nhận đúng đắn và giải quyết một cách hợp lý những
vấn đề do sự phát triển của khoa học hiện đại đặt ra - thực tiễn lịch sử phát
triển của khoa học kể từ khi chủ nghĩa Mác xuất hiện đã chỉ rõ - nhất thiết
phải đứng trên lập trường thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin mà cơ sở nền tảng của nó là triết học duy vật biện chứng. Hơn
nữa, “một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao khoa học - như Ph.Ăngghen
đã khẳng định - không thể không có tư duy lý luận”. Song tư duy lý luận chỉ
là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng khả năng mà thôi, nên “năng lực ấy cần
phải được phát triển hoàn thiện” và để “hoàn thiện nó thì cho đến nay, không

có một cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học thời trước”42, 478.
Học tập, nghiên cứu, ứng dụng và phát triển di sản lý luận vô giá của
nhà kinh điển mácxít vĩ đại Ph.Ăngghen thực tế đã trở thành yêu cầu, đòi hỏi
cần thiết và thường xuyên cho hoạt động nhận thức, cải tạo thực tiễn một cách
khoa học và bài bản. Việc làm rõ chức năng, vai trò phương pháp luận của
triết học Mác- Lênin nói chung, lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác nói
riêng nhằm luận chứng cho cơ sở phương pháp nghiên cứu cũng như kiến giải
những thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại thiết nghĩ là bổ ích và cần
thiết. Cũng để góp phần nhỏ bé có tác dụng tham khảo đối với những người
mới học tập - nghiên cứu về triết học, tác giả đã chọn đề tài: “Quan niệm của
Ph.Ăngghen về nhận thức trong tác phẩm “Chống Đuyrinh” và ý nghĩa của nó
đối với nhận thức khoa học hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Mặc dù “Chống Đuyrinh” là tác phẩm mang tính chất bút chiến, song
đã trình bày toàn diện và sinh động một cách có hệ thống tương đối đầy đủ
thế giới quan cộng sản khoa học. Đặc biệt là Ph.Ăngghen đã phát triển một
cách tài tình về những quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng chứa

5
đựng trong phần nội dung triết học của tác phẩm. Nghiên cứu và học tập toàn
bộ nội dung tác phẩm nói chung và phần triết học nói riêng là một công việc
quan trọng và cần thiết trong hoạt động lý luận cũng như trong hoạt động cải
tạo thực tiễn hiện nay.
Trên thực tế, tác phẩm “Chống Đuyrinh” đã trở thành đối tượng nghiên
cứu của nhiều công trình khoa học ở những cấp độ và quy mô khác nhau.
Những công trình ấy, ở phương diện nhất định, đã đóng góp nhiều thành quả
đáng kể, mang lại lợi ích thiết thực cũng như hàm chứa nhiều giá trị nhận thức
khoa học sâu sắc.
Trước hết, có thể khẳng định do tính thời sự không hề cũ của các quan
điểm được các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin đề xuất, nên việc cần phải

quay lại tìm hiểu kỹ hơn, có hệ thống hơn những quan điểm này là một sự cần
thiết và có ý nghĩa thực tiễn to lớn. Nổi bật trong các công trình nghiên cứu về
tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác trong thời gian gần đây là công trình
Vấn đề triết học trong tác phẩm của C.Mác – Ph.Ăngghen, V.I.Lênin (Doãn
Chính và Đinh Ngọc Thạch đồng chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, 2008.
Công trình tập trung nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cốt lõi
thông qua việc khảo sát các tác phẩm và bài viết tương đối tiêu biểu của các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác. Luận văn này sẽ kế thừa nhiều kết quả
nghiên cứu từ công trình trên.
Cũng nhằm hướng tới nghiên cứu di sản chủ nghĩa Mác thông qua các
tác phẩm quan trọng, một công trình khác cũng có giá trị trong thời gian gần
đây là công trình Giới thiệu kinh điển triết học Mác – Lênin của tập thể giảng
viên Khoa triết học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội,
Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2007. Công trình tập trung làm rõ những nội
dung cơ bản, giá trị thực tiễn và khoa học nổi bật của các tác phẩm kinh điển
trên cơ sở sắp xếp theo trình tự thời gian, tiến trình lịch sử triết học của chủ

6
nghĩa Mác, qua đó cho thấy ý nghĩa của triết học mácxít trong lịch sử cũng
như của chủ nghĩa Mác đối với nhận thức, thực tiễn hiện thời.
Bên cạnh các công trình đi sâu nghiên cứu di sản kinh điển, có thể kể
tới một số công trình đề cập ít nhiều đến nội dung các tác phẩm chủ yếu của
các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác như: Triết học Mác, trích trong bộ Lịch sử
triết học của Viện hàn lâm khoa học Liên Xô, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1963.
Công trình tiếp cận các tác phẩm và những luận điểm đã trở thành kinh điển
trên bình diện tổng thể, xem xét chúng trong bối cảnh, tiến trình lịch sử cụ
thể, qua đó thấy được sự tiếp nối, kế thừa và phát triển trong những giai đoạn
lịch sử khác nhau.
Một công trình khác là C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin: Về mối quan hệ
giữa triết học và khoa học tự nhiên, dịch giả Nguyễn Văn Nghĩa, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội, 1973. Công trình tập trung vào những luận điểm chính
của các tác giả kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan quan hệ
giữa triết học và khoa học tự nhiên, đặc biệt là các quy luật của phép biện
chứng được chọn từ góc độ biểu hiện của chúng trong khoa học tự nhiên. Do
vậy, đây là tài liệu tham khảo khá gần gũi với luận văn của tác giả.
Đề cập đến mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên, không thể
không nhắc tới công trình Vai trò phương pháp luận triết học Mác – Lênin
đối với sự phát triển của khoa học tự nhiên, Nguyễn Duy Thông chủ biên,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977. Công trình tập trung phân tích vai trò
phương pháp luận của triết học Mác – Lênin đối với sự phát triển của khoa
học tự nhiên, đồng thời đặt vấn đề về đánh giá phương pháp khái quát của
khoa học hiện đại cũng như vạch ra mối quan hệ của chúng với phép biện
chứng duy vật. Vấn đề này đến nay vẫn còn giữa nguyên tính thời sự nóng
hổi.
Bên cạnh đó, có thể kể tới công trình Triết học và các khoa học cụ thể,
do Viện triết học biên soạn và giới thiệu, Nxb Khoa học xã hội, 1972. Công

7
trình tập trung nhiều bài viết sâu sắc của các nhà nghiên cứu tên tuổi xoay
quanh vấn đề mối quan hệ giữa triết học và các khoa học cụ thể, đặc biệt là
vấn đề về chức năng phương pháp luận của triết học đối với các khoa học cụ
thể.
Ngoài ra, cũng có thể kể đến một công trình ra mắt chưa lâu bàn về vấn
đề này: Khoa học cơ bản thế kỷ XX đối với một số vấn đề lớn của triết học,
tác giả Lê Văn Giang, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. Công trình đem
lại một cách nhìn tương đối toàn diện về những thành tựu của khoa học cơ
bản thế kỷ XX; và đặc biệt là mối quan hệ tương hỗ giữa khoa học cơ bản và
triết học. Qua đó khẳng định vai trò nền tảng của triết học Mác – Lênin, điều
này ngày càng được chứng minh bằng những thành tựu khoa học.
Đề cập đến khoa học hiện đại, đặc biệt là những vấn đề về nhận thức

khoa học hiện đại đang đặt ra, có thể kể đến một công trình nhận được khá
nhiều sự quan tâm của đông đảo cộng đồng khoa học: Cấu trúc của các cuộc
cách mạng khoa học của Thomas S. Kuhn, dịch giả Nguyễn Quang A, Nxb
Tri thức, Hà Nội, 2005. Đây là công trình về triết học khoa học có nhiều giá
trị, phân tích cấu trúc của các cuộc cách mạng khoa học, về cộng đồng khoa
học cũng như sự phát triển khoa học đang phổ biến trong giới khoa học hiện
nay.
Bên cạnh đó có thể kể tới tác phẩm Đạo của Vật lý của Fritjof Karpa,
dịch giả Nguyễn Tường Bách, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2007. Tác
giả đưa ra một cái nhìn tổng thể về những thành tựu của vật lý học, về những
vấn đề lớn hiện nay khiến vật lý dường như đang bị chôn chân trong một cuộc
khủng hoảng về nhận thức luận. Thông qua sự trình bày một cách cặn kẽ,
khúc chiết các vấn đề vật lý, tác phẩm này đồng thời đề cập đến những “mẫu
hình mới” trong tư duy khoa học hiện nay với các tiêu chí cụ thể. Chính vì
vậy, Đạo của vật lý có ý nghĩa ở khía cạnh giúp chúng tôi tiếp cận với những
đặc điểm của tư duy khoa học hiện đại trong tính thời sự của nó.

8
Trên đây là những công trình cơ bản có ảnh hưởng đến luận văn của tác
giả. Nhìn chung, các công trình đó, ở những phương diện khác nhau đều có
đóng góp nhất định cho việc nghiên cứu di sản tư tưởng của các nhà sáng lập
chủ nghĩa Mác trong bối cảnh khoa học hiện nay, song không có công trình
nào đề cập đến hệ thống quan niệm về nhận thức trong tác phẩm chống
Đuyrinh của Ph.Ăngghen như một đối tượng nghiên cứu chủ đạo.
Dựa trên những nguồn tài liệu về triết học mácxít, kế thừa các công
trình nghiên cứu đã được công bố, thông qua lựa chọn đề tài luận văn tác giả
cố gắng tìm hiểu, đi sâu và trình bày có hệ thống quan niệm về nhận thức của
Ph.Ăngghen trong tác phẩm “Chống Đuyrinh” và ý nghĩa của nó đối với nhận
thức khoa học hiện nay.
Mặc dù cùng với bộ “Tư Bản” của C.Mác, phải đến tác phẩm “Biện

chứng của tự nhiên” thì toàn bộ sợi dây biện chứng xuyên suốt thế giới quan
cộng sản khoa học mới được gắn kết và hoàn thiện, song với hệ thống quan
điểm duy vật được trình bày và luận giải một cách khoa học, đặc biệt là quan
niệm về nhận thức trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng - trong
bối cảnh khoa học hiện đại phát triển với tốc độ không ngừng, ngày càng có
ảnh hưởng to lớn đến nhiều mặt của đời sống xã hội và đặt ra hàng loạt vấn đề
liên quan như nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu cũng như việc ứng dụng
các thành tựu của nó… - cũng đủ để nhân loại tiến bộ nhắc đến tác phẩm
“Chống Đuyrinh” như một kho tàng hàm chứa một đỉnh thế giới quan khoa
học và cách mạng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Nghiên cứu quan niệm của Ph.Ăngghen về nhận thức trong
tác phẩm “Chống Đuyrinh” từ đó làm rõ ý nghĩa phương pháp luận của quan
niệm đó đối với nhận thức khoa học trong giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ: để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết
những nhiệm vụ sau:

9
- Nghiên cứu, phân tích những luận điểm của Ph.Ăngghen, làm rõ quan
niệm của Ph.Ăngghen về nhận thức trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”.
- Khái quát đặc điểm của nhận thức khoa học trong giai đoạn hiện nay.
- Phân tích ý nghĩa phương pháp luận quan niệm của Ph.Ăngghen về
nhận thức đối với nhận thức khoa học trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Quan niệm nhận thức của triết học Mác –
Lênin và ý nghĩa của nó đối với việc nhận thức khoa học hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Quan niệm về nhận thức trong tác phẩm
“Chống Đuyrinh” và ý nghĩa của quan niệm đó đối với nhận thức khoa học
nói chung hiện nay.
5 Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

- Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử là
cơ sở lý luận của luận văn
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng chủ yếu phương pháp kết hợp
phân tích và tổng hợp, so sánh; khái quát hoá và trừu tượng hoá dựa trên văn
bản trích từ tác phẩm “Chống Đuyrinh” của Ph.Ăngghen và các tài liệu thực
tế về tình hình phát triển khoa học hiện nay.
6. Những đóng góp của luận văn
- Trình bày một cách hệ thống quan niệm về nhận thức của Ph.Ăngghen được
đề cập trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”.
- Luận giải những nội dung và đóng góp của quan niệm về nhận thức của
Ph.Ăngghen đối với nhận thức khoa học hiện nay.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn:
- ý nghĩa lý luận: Làm rõ vai trò của triết học Mác – Lênin, đặc biệt là vai trò
của lý luận nhận thức duy vật biện chứng đối với sự phát triển của khoa học
tự nhiên giai đoạn hiện nay.
- ý nghĩa thực tiễn: Luận văn góp phần dùng làm tài liệu tham khảo cho sinh
viên, những người quan tâm tìm hiểu về mối quan hệ giữa triết học và khoa
học tự nhiên.
8. Kết cấu luận văn

10
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung luận văn
được kết cấu thành hai chương, bốn tiết.




































11
Chương 1:

Quan niệm của Ph.Ăngghen về nhận thức
trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”

1.1 Hoàn cảnh ra đời, nội dung cơ bản và ý nghĩa của tác phẩm
“Chống Đuyrinh” của Ph.Ăngghen
Tác phẩm “Chống Đuyrinh”, còn có tên “Ông Oighen Đuyrinh đảo lộn
khoa học” được Ph.Ănghen viết trong khoảng thời gian từ tháng 5 năm 1876
đến tháng 7 năm 1878. Ban đầu, tác phẩm này được đăng thành từng phần
trên báo “Tiến lên” của Cơ quan Trung ương Đảng công nhân Dân chủ – Xã
hội Đức ở Lai-pxích, đến đầu năm 1878 được xuất bản thành sách riêng,
nhưng ngay sau đó đã bị cấm không được lưu hành. Tác phẩm “Chống
Đuyrinh” ra đời trong bối cảnh lịch sử chính trị, xã hội nước Đức những năm
70 của thế kỷ XIX với những đặc điểm nổi bật dưới đây.
Phong trào đấu tranh của công nhân phát triển mạnh đưa đến việc hình
thành Đảng dân chủ – Xã hội Đức để lãnh đạo cuộc đấu tranh của công nhân.
Tuy nhiên, chủ nghĩa cơ hội mà đại diện là Látxan đã phá hoại phong trào từ
bên trong. Látxan tự xưng là học trò của Mác, nhưng khi tuyên truyền vận
động công chúng ông ta không đi quá việc lập những hội sản xuất do nhà
nước trợ cấp, nghĩa là ông ta chỉ muốn hướng phong trào công nhân theo chủ
nghĩa cải lương.
Năm 1875, Oighen Đuyrinh (1833-1921), giáo sư cơ học trường Đại
học Béclin, xuất hiện trên sân khấu triết học với tuyên bố về những khám phá
mới của mình, đã gây sự chú ý từ các nhà hoạt động chính trị và hoạt động
khoa học. Nhà tư tưởng đại diện cho chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản phản động
đã viết một loạt bài báo thể hiện những quan điểm sai lầm của ông ta về triết
học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, trong ba cuốn sách
được xuất bản là “Bài giảng về triết học”, “Bài giảng về kinh tế chính trị và

12
kinh tế xã hội”, “Lịch sử phê phán của khoa kinh tế chính trị và kinh tế – xã

hội”, Đuyrinh tự tuyên bố là người gắn bó với chủ nghĩa xã hội và công kích
thậm tệ chủ nghĩa Mác. Ông ta đem đối lập học thuyết về bình đẳng, công lý
trừu tượng với lý luận về cách mạng xã hội, phản bác hoặc làm lệch nội dung
của chủ nghĩa duy vật biện chứng, đưa ra quan đểm có tính phê phán về chân
lý. Thực chất những quan điểm triết học của Đuyrinh là sự pha trộn một cách
chiết trung chủ nghĩa duy vật tầm thường, chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa
thực chứng. Cách tiếp cận như thế đối với các vấn đề triết học, kinh tế, chủ
nghĩa xã hội gây nên tác hại không nhỏ cho quá trình củng cố và phát triển
chủ nghĩa Mác sau những năm 60-70. Vậy mà nhiều người, ngay cả một số
lãnh tụ của phong trào công nhân như Bêben lại đánh giá cao những cuốn
sách của Đuyrinh, coi đó là những tác phẩm hay nhất sau bộ tư bản của
C.Mác. Họ còn có ý định phổ biến rộng rãi những cuốn sách đó cho công
nhân, thay thế chủ nghĩa Mác bằng chủ nghĩa xã hội theo phương án chiết
trung chính trị. Điều đó thật nguy hiểm cho phong trào công nhân, làm cho
nội bộ Đảng dân chủ – Xã hội Đức lúc đó còn non trẻ có thể bị chia rẽ, không
thống nhất về tư tưởng, phong trào công nhân sẽ mất phương hướng. Trước
tình hình đó một số người bạn của C.Mác và Ph.Ăngghen đã đề nghị các ông
viết bài phê phán học thuyết của Đuyrinh trên tờ “Tiến lên”. Để ngăn chặn
khuynh hướng sai lầm, chia rẽ trong Đảng và bảo vệ chủ nghĩa Mác,
Ph.Ăngghen đã tạm gác việc viết tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên” để thực
hiện nhiệm vụ này.
Còn một điểm nữa là nhận thức của công nhân về tình hình kinh tế,
chính trị, xã hội, về chủ nghĩa xã hội còn rất ấu trĩ. Trước sự phát triển mạnh
mẽ của chủ nghĩa tư bản từ nửa sau thế kỷ XIX, trong lực lượng công nhân,
mà một bộ phận của nó lấy chủ nghĩa Mác làm lý luận nền tảng, đã diễn ra
quá trình nhận thức lại về nội dung của chủ nghĩa Mác, trong đó có cả những
vấn đề về thế giới quan, phương pháp luận, đặc biệt là phương pháp luận đấu

13
tranh cách mạng; các học thuyết xét lại và cơ hội sau Công xã Pari bắt đầu

đưa ra những giải thích mới về chủ nghĩa Mác, mà thực chất là xa rời các luận
điểm cơ bản của nó, chủ trương dung hoà với trật tự xã hội hiện tại, hoặc tìm
kiếm một cương lĩnh chính trị dựa trên sự thoả hiệp giai cấp nhân danh tiến
bộ xã hội và văn minh. Sự ấu trĩ về nhận thức còn thể hiện ở chỗ họ chưa
phân biệt được đâu là thực sự khoa học, đâu là phản khoa học, thích đưa “ra
những lời rỗng tuyếch khoa trương và tiến cử những kẻ lên mặt huênh hoang
về một “khoa học” mà họ thực ra chưa học được cái gì cả”. Chính sự hạn chế
về nhận thức như thế nên hệ thống các quan điểm sai lầm của Đuyrinh càng
dễ được chấp nhận. Do vậy, việc phê phán Đuyrinh càng trở nên cấp bách.
Đó là những đòi hỏi khách quan đối với sự ra đời tác phẩm “Chống
Đuyrinh”. Có thể nói tác phẩm này là kết quả trực tiếp của cuộc đấu tranh tư
tưởng trong nội bộ Đảng dân chủ – Xã hội Đức, chống lại quan điểm sai lầm
của Đuyrinh, bảo vệ và phát triển quan điểm khoa học của chủ nghĩa Mác[42,
15 - 19].
Cùng với tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” và một số tác
phẩm khác của C.Mác và Ph.Ăngghen, tác phẩm “Chống Đuyrinh” được xem
là tác phẩm “gối đầu giường” của những người cộng sản. ở tác phẩm này,
trong khi bóc trần bản chất cơ hội của Đuyrinh, Ph.Ăngghen đã trình bày một
cách rõ ràng và có hệ thống những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác gồm
cả ba bộ phận cấu thành là triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội
khoa học, từ đó bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác, chống lại những quan
điểm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm, duy vật siêu hình hòng xuyên tạc chủ
nghĩa Mác. Mục đích chính của tác phẩm là tiếp tục làm rõ vai trò lịch sử toàn
thế giới của giai cấp vô sản, tức là làm rõ ba vấn đề lớn: Một là, chủ nghĩa xã
hội là gì? Trên phương diện lý luận thì phải vạch ra những nét đại thể của nó.
Triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học đều chỉ ra xu
hướng tất yếu của sự phát triển xã hội sẽ đưa đến sự ra đời của xã hội xã hội

14
chủ nghĩa, thay thế cho chủ nghĩa tư bản; Hai là, lực lượng nào có khả năng

xây dựng được chủ nghĩa xã hội? Theo C.Mác và Ph.Ăngghen đó là giai cấp
vô sản, là giai cấp công nhân công nghiệp. Điều này đang là vấn đề cấp bách
và có nhiều ý kiến khác nhau; Ba là, vì sao giai cấp vô sản lại có sứ mạng lịch
sử đó và muốn hoàn thành sứ mạng đó nó phải được tổ chức như thế nào.
Rõ ràng tác phẩm này không đơn thuần chỉ là sự phê phán, mà còn bao
hàm một nội dung quan trọng hơn, đó là luận chứng cho sự ra đời tất yếu của
chủ nghĩa xã hội, sứ mạng lịch sử của giai cấp vô sản. Đây là tác phẩm thể
hiện rõ thế giới quan và hệ tư tưởng chính trị của giai cấp vô sản.
Toàn bộ tác phẩm “Chống Đuyrinh” gồm có “Lời tựa cho ba lần xuất
bản”, “Phần mở đầu”, “Phần I: Triết học”, “phần II: Kinh tế chính trị học”,
“Phần III: Chủ nghĩa xã hội”.
Trong “Lời tựa cho 3 lần xuất bản”, Ph.Ăngghen trình bày vắn tắt hoàn
cảnh ra đời, mục đích của tác phẩm, vai trò của tác phẩm đối với sự phát triển
lý luận và thực tiễn xã hội, những thay đổi trong mỗi lần xuất bản.
Phần mở đầu gồm hai chương: “Chương 1: Nhận xét chung” và
“Chương 2: Ông Đuyrinh hứa những gì”. Trong phần này Ph.Ăngghen tóm tắt
sự phát triển của triết học, đặc biệt là sự phát triển phép biện chứng, chỉ ra
tính tất yếu của sự ra đời triết học duy vật biện chứng, vai trò của phép biện
chứng duy vật đối với việc nghiên cứu lịch sử xã hội, vạch ra mâu thuẫn trong
xã hội tư bản tất yếu sẽ đưa chủ nghĩa tư bản đến chỗ bị tiêu diệt và thay vào
đó là chủ nghĩa xã hội. Ph.Ăngghen cũng đã chỉ ra những lời lẽ huênh hoang
của Đuyrinh.
“Phần 1: Triết học” gồm 12 chương, từ chương III đến chương XIV,
trong đó Ph.Ăngghen đã phê phán quan điểm triết học của Đuyrinh trên một
loạt các vấn đề như mối quan hệ giữa hình ảnh trong tư duy của chúng ta về
thế giới với bản thân thế giới; về tính thống nhất của thế giới; về không gian,
thời gian; về sự vận động và đứng im của vật chất; về nguồn gốc sự sống và

15
sự phát triển của thế giới có sự sống; về những quy luật và phạm trù của phép

biện chứng duy vật… Ph.Ăngghen đã vạch rõ rằng: quan điểm triết học của
Đuyrinh thực chất là quan điểm duy tâm, siêu hình, không đưa ra được một tư
tưởng mới nào, mà đơn giản chỉ là sự lặp lại có tính chất chiết trung những tư
tưởng của Hêghen và một số các nhà triết học trước kia. Đồng thời với việc
phê phán quan điểm triết học của Đuyrinh, Ph.Ăngghen đã trình bày một cách
có hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, khái quát
những thành tựu của khoa học tự nhiên đương thời để chứng minh tính khoa
học của các quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phân biệt với các
quan điểm duy tâm, siêu hình trong lịch sử triết học.
“Phần 2: Kinh tế chính trị học” gồm 10 chương. ở đây, Ph.Ăngghen tập
trung phê phán quan điểm của Đuyrinh về những vấn đề của kinh tế chính trị
học. Ph.Ăngghen đã chỉ rõ phương pháp của Đuyrinh khi nghiên cứu kinh tế
chính trị là có tính chất duy tâm, siêu hình, phi lịch sử. Vì thế Đuyrinh đã
không thấy được thực chất mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất, giữa phương thức sản xuất hiện tại với phương thức sản
xuất cũ, giữa kinh tế với chính trị và văn hoá, giữa sản xuất vật chất và sản
xuất tinh thần. Đuyrinh đã không thể nào hiểu được quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đã quy định sự thay thế
các phương thức sản xuất trong lịch sử, tính chất tạm thời của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa, không hiểu được đời sống kinh tế quyết định đời
sống chính trị. Những quan điểm của Đuyrinh về các quan hệ xã hội chỉ là sự
tưởng tượng từ đâu óc của ông ta. Cùng với việc phê phán quan điểm duy
tâm, siêu hình của Đuyrinh, Ph.Ăngghen đã trình bày một cách có hệ thống
quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong luận giải các vấn đề của
kinh tế chính trị học. Ông khẳng định quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng coi sản xuất vật chất là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển xã hội, do vậy
việc xem xét sự vận động của sản xuất xã hội trong lịch sử là chìa khoá để

16
xem xét sự biến đổi của các mặt khác của đời sống xã hội; giữa kinh tế và

chính trị có mối quan hệ biện chứng với nhau, nhưng suy đến cùng kinh tế giữ
vai trò quyết định đối với chính trị, chính trị có tính độc lập tương đối và tác
động trở lại kinh tế nhưng không thể vượt quá những điều kiện kinh tế cho
phép, không thể thoát ly trình độ phát triển của kinh tế. Trong sự phát triển
của sản xuất vật chất thì quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển
của sản xuất. Do vậy, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời và tồn tại là do
sự phát triển của lượng lượng sản xuất xã hội quyết định. Quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa dựa trên chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất ngày càng
trở nên trật hẹp, không phù hợp với lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá
cao, do vậy nhất định nó phải bị thay thế bằng một quan hệ sản xuất mới phù
hợp hơn – quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Đó chính là tất yếu kinh tế của
sự tồn tại tạm thời của chủ nghĩa tư bản.
“Phần thứ 3: Chủ nghĩa xã hội” gồm 5 chương. Trong phần này
Ph.Ăngghen tập trung phê phán quan điểm duy tâm siêu hình của Đuyrinh về
những vấn đề của chủ nghĩa xã hội. Ph.Ăngghen đã chỉ rõ những sai lầm của
Đuyrinh trong việc đánh giá học thuyết của các nhà xã hội chủ nghĩa không
tưởng là Ôoen, Xanhximông và Phuriê. Sai lầm của Đuyrinh là ở chỗ phủ
định sạch trơn những học thuyết của họ, không thấy được những mặt tích cực
của các học thuyết đó, không thấy được cơ sở kinh tế của những mặt hạn chế
trong các học thuyết ấy. Chính vì vậy ông Đuyrinh cũng rơi vào sai lầm
không tưởng. Những dự kiến của Đuyrinh về việc xây dựng một xã hội mới
không phải xuất phát từ những yêu cầu của hiện thực khách quan, mà chỉ xuất
phát từ mong muốn thuần tuý chủ quan của cá nhân ông ta. Đối lập với quan
điểm của Đuyrinh, Ph.Ăngghen trình bày quan điểm duy vật về lịch sử của
chủ nghĩa Mác cho rằng sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, do vậy
phải xuất phát từ những quan hệ sản xuất hiện thực để giải thích các mặt của
đời sống xã hội. áp dụng quan điểm này vào việc nghiên cứu chủ nghĩa tư bản

17
đã cho thấy, chính mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất có tính xã hội hoá cao

với quan hệ sản xuất vẫn dựa trên chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất
trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là mâu thuẫn cơ bản. Mâu thuẫn
này biểu hiện thành mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Việc
giải quyết mâu thuẫn này tất yếu đưa đến việc thay thế quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa bằng quan hệ sản xuất khác, thay thế chủ nghĩa tư bản bằng
một xã hội mới – xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đó chính là tất yếu kinh tế của
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Tác phẩm “Chống Đuyrinh” có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Về lý
luận, thông qua cuộc đấu tranh với Đuyrinh về hàng loạt vấn đề triết học, kinh
tế chính trị, chủ nghĩa xã hội để bác bỏ các luận chứng thiếu cơ sở khoa học,
Ph.Ăngghen đã tổng kết, hệ thống hoá những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác gồm cả ba bộ phận hợp thành của nó là triết học, kinh tế chính trị học,
chủ nghĩa xã hội khoa học. Cùng với việc phê phán các quan điểm duy tâm,
siêu hình của Đuyrinh, tác phẩm đã làm sâu sắc và phong phú hơn nội dung
triết học của chủ nghĩa Mác, bao gồm nhiều quan điểm, phương diện như vấn
đề cơ bản của triết học, phép biện chứng duy vật, lý luận nhận thức, chủ nghĩa
duy vật lịch sử… “Chống Đuyrinh” đã bảo vệ vững chắc chủ nghĩa duy vật
biện chứng trước sự xuyên tạc của Đuyrinh, đóng góp lớn về mặt lý luận đối
với quá trình phổ biến các giá trị của chủ nghĩa Mác vào đời sống, nhất là vào
phong trào công nhân quốc tế và các phong trào đấu tranh vì dân chủ và công
bằng xã hội, chống xu hướng độc quyền đang thịnh hành. Về thực tiễn, tác
phẩm đã đóng vai trò quan trọng trong đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội,
ngăn chặn việc truyền bá quan điểm sai lầm của Đuyrinh trong phong trào
công nhân, từ đó giúp cho phong trào công nhân có cơ sở khoa học để xác
định đúng mục tiêu, phương hướng của cuộc đấu tranh cách mạng, thống nhất
về mặt tư tưởng và hành động.

18
“Chống Đuyrinh”, như tên gọi của cuốn sách, trước hết là chống lại thế
giới quan duy tâm và duy vật tầm thường, phê phán phương pháp siêu hình,

chủ nghĩa cải lương và chủ nghĩa không tưởng chính trị, xác lập phương pháp
biện chứng thống nhất với chủ nghĩa duy vật, đưa ra cách hiểu đúng đắn về
mối quan hệ giữa triết học và các khoa học cụ thể, giữa triết học và đời sống.
Tác phẩm là một công trình tổng thể, nhưng không dàn trải mà tập trung vào
những vấn đề cốt lõi, trong đó có những vấn đề được giải quyết một phần
(vấn đề cơ bản của triết học, vấn đề tồn tại, đạo đức, pháp quyền…), có những
vấn đề được trình bày khá hoàn chỉnh. Trong tác phẩm này, lý luận nhận thức
của chủ nghĩa duy vật biện chứng đã được Ph.Ăngghen trình bày một cách có
hệ thống.
1.2 Nội dung quan niệm của Ph.Ăngghen về nhận thức
Lý luận nhận thức hay còn gọi là nhận thức luận là vấn đề được nêu ra
xem xét ngay từ khi triết học mới ra đời. Tất cả các trào lưu triết học đều xuất
phát từ lập trường thế giới quan của mình để đưa ra hệ thống quan điểm nhất
định về vấn đề nhận thức. Xuất phát từ cách giải quyết đúng đắn vấn đề cơ
bản của triết học, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã xem xét hoạt động nhận
thức trên cơ sở hoạt động thực tiễn, nên đã đưa ra được những quan điểm
đúng đắn về hàng loạt vấn đề phức tạp, nan giải của nhận thức, hình thành
nên lý luận nhận thức thực sự khoa học, một bộ phận quan trọng và không thể
thiếu được của triết học mácxít.
1.2.1 Quan niệm về nguồn gốc, bản chất của nhận thức
Để có thể biến đổi sự vật, cải tạo thế giới khách quan con người phải
hiểu biết sự vật, phải có những tri thức về thế giới. Tri thức không có sẵn
trong con người, không được đem lại cho con người dưới dạng “bẩm sinh”.
Muốn có tri thức, con người phải tiến hành một loạt hoạt động đặc biệt – hoạt
động nhận thức. Nhưng, những tri thức mà con người thu nhận được trong
quá trình nhận thức là gì? Chúng có quan hệ như thế nào với các sự vật, hiện

19
tượng, quá trình của thế giới khách quan? Trong lịch sử triết học, đã diễn ra
tranh luận rất gay gắt giữa các nhà triết học duy vật và các nhà triết học duy

tâm xoay quanh vấn đề này.
Trong thời cổ đại, nhà triết học duy vật Đêmôcrít coi nhận thức như là
sự phản ánh, là sự tri giác những hình ảnh đã tách khỏi sự vật.
Nhà triết học duy tâm Platôn coi nhận thức chỉ là sự hồi tưởng của linh
hồn về những điều mà nó đã thấy và đã trải qua khi còn ở thế giới bên kia –
vương quốc của những tư tưởng và cái đẹp thuần túy. Những nhà triết học
duy tâm trong mọi thời đại, bằng nhiều cách khác nhau, đã bác bỏ lý luận
phản ánh duy vật. Họ cho rằng, nhận thức chỉ là một quá trình sản sinh ra tư
tưởng từ trong chiều sâu của ý thức chủ thể, là qúa trình tự sinh của tri thức.
Mặc dù vậy, chủ nghĩa duy tâm bên cạnh những sai lầm trong quan niệm về
sự sáng tạo thế giới bởi tư tưởng, tinh thần lại nói lên được tính tích cực, chủ
động của ý thức, của trí tuệ con người.
Tuy còn nhiều hạn chế, những đại biểu của chủ nghĩa duy vật cũ cũng
đã có những đóng góp to lớn vào lý luận nhận thức. Họ thừa nhận sự tồn tại
của thế giới khách quan độc lập với ý thức của con người và thừa nhận thế
giới đó như là nguồn gốc của nhận thức. Thiếu sót căn bản của chủ nghĩa duy
vật cũ là ở chỗ, họ quan niệm nhận thức như là một sự phản ánh đơn giản,
máy móc và trực quan. Các sự vật, hiện tượng và quá trình hiện ra trong ý
thức của con người như sự phản ánh qua một tấm gương, dưới dạng của
những ấn tượng đã bị đơn giản hóa và thu gọn lại.
Tiếp thu tất cả những yếu tố hợp lý và tích cực mà các trào lưu triết
học của những thời đại trước đây đã đạt được, C.Mác và Ph.Ăngghen đã giải
thích một cách biện chứng nhận thức như là một quá trình phản ánh tích cực,
sáng tạo thế giới khách quan của con người. Các ông đã quán triệt những
nguyên tắc căn bản của thế giới quan duy vật biện chứng trong lý luận nhận
thức. Thế giới không phải là cái gì khác ngoài vật chất đang vận động và phát

20
triển. Không phải ý thức con người sản sinh ra thế giới vật chất như các nhà
duy tâm quan niệm, mà ngược lại, vật chất tồn tại độc lập với con người. Vì

vậy nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc của con người.
Sự phản ánh đó không phải là một hành động nhất thời, máy móc, giản đơn và
thụ động mà là một quá trình phức tạp của hoạt động trí tuệ tích cực và sáng
tạo.
Trong tác phẩm của mình, Ph.Ăngghen chỉ rõ: Đuyrinh cho rằng triết
học là sự phát triển cao nhất của ý thức về thế giới và về đời sống, nó bao
quát những nguyên lý của mọi hiểu biết và ý chí - những nguyên lý mà một
khi người ta đã nắm được, thì không những có ý nghĩa đối với cái đã trực tiếp
biết được và nắm được, mà cả đối với thế giới không biết và không thể nắm
được đối với chúng ta. Như vậy, đối với Đuyrinh, giới tự nhiên, dù hoàn bị và
hài hòa đến mức độ nào, cũng không thể tự thiết định mình, vì thế cần áp đặt
cho nó những tính quy định hình thức, những phạm trù của tư duy. Nói cách
khác, bản thiết kế “thuần túy” của tư duy, trong dạng nguyên chất của nó, là
chìa khóa để mở cánh cửa của thế giới bí hiểm…
Quan niệm trên cho thấy, mặc dù tự nhận mình là nhà duy vật, song
Đuyrinh lại bộc lộ những sai lầm duy tâm ngay trong luận điểm xuất phát của
mình.
Ph.Ăngghen nhận xét: “… Ông Đuyrinh nói lên những nguyên lý rút ra
từ tư duy, chứ không phải từ thế giới bên ngoài, đến những nguyên lý hình
thức phải được ứng dụng vào giới tự nhiên và loài người, do đó, giới tự nhiên
và loài người phải phù hợp với chúng”. Như vậy, Đuyrinh đã đảo lộn mối
quan hệ hiện thực, đã “cấu tạo thế giới hiện thực từ tư duy, từ những đồ thức,
những phương án, hay những phạm trù tồn tại vĩnh cửu ở đâu đó trước khi có
thế giới, hoàn toàn theo kiểu của một Hêghen nào đó”[42, 54]. Nói cách khác,
quan niệm của Đuyrinh thực chất là sự vay mượn ý tưởng từ học thuyết về ý
niệm tuyệt đối của Hêghen. Và vì vậy, lập luận của Đuyrinh, do đó cũng hàm

21
chứa lời giải đáp cho vấn đề cơ bản của triết học – vấn đề quan hệ giữa tồn tại
và tư duy trên quan điểm duy tâm. Nghĩa là khi nói về sự vận động của nhận

thức từ đồ thức luận của tư duy đến thực tiễn, Đuyrinh đã đặt mình vào vị trí
của nhà duy tâm.
Phê phán quan niệm của Đuyrinh, Ph.Ăngghen đã đồng thời chỉ ra quan
điểm duy vật về mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, đó là quan điểm thừa
nhận rằng: “Các nguyên lý không phải là điểm xuất phát mà là kết quả cuối
cùng của sự nghiên cứu. Nguyên lý không phải được ứng dụng vào giới tự
nhiên và lịch sử loài người mà là được rút ra từ trong tự nhiên và lịch sử loài
người. Không phải giới tự nhiên và lịch sử loài người phải phù hợp với các
nguyên lý mà trái lại, các nguyên lý chỉ đúng trong chừng mực nó phù hợp
với giới tự nhiên và lịch sử. Đó là quan điểm duy vật duy nhất đối với sự
vật”42, 55.
Ph.Ăngghen còn giải thích rằng giữa tư duy và tồn tại, giữa những quy
luật của tư duy và những quy luật của tồn tại có sự phù hợp nhau, vì tư duy, ý
thức “là sản vật của bộ óc con người và bản thân con người lại là sản vật của
tự nhiên, một sản vật đã phát triển trong một môi trường nhất định và cùng
với môi trường đó. Vì vậy, lẽ tự nhiên những sản vật của bộ óc con người, -
quy đến cùng, cũng là những sản vật của giới tự nhiên, - không mâu thuẫn mà
lại còn phù hợp với mối liên hệ còn lại của giới tự nhiên”42, 56.
Thực vậy, mặc dù chúng ta không nhìn được ý thức, không chụp ảnh
được ý thức, nhưng ý thức không phải là một hiện tượng siêu tự nhiên, tồn tại
độc lập với vật chất. ý thức tách khỏi vật chất, bị tuyệt đối hoá thành “vị thần
sáng tạo ra hiện thực” - đó chỉ là một sự trừu tượng chết, một điều bịa đặt phi
lý kiểu thần học. Trong tác phẩm của mình, Ph.Ăngghen còn mở rộng nguyên
lý của chủ nghĩa duy vật về quan hệ giữa tư duy và tồn tại vào trong lĩnh vực
toán học để phê phán quan điểm duy tâm của Đuyrinh khi cho rằng “có thể

22
trực tiếp rút toàn bộ môn toán học thuần tuý từ đầu óc của con người một
cách tiên nghiệm, nghĩa là không cần đến kinh nghiệm mà từ thế giới bên
ngoài cung cấp cho chúng ta”, “trong toán học thuần túy, lý tính phải đụng

chạm tới “những sản vật mà bản thân nó sáng tạo ra một cách tự do”; những
khái niệm về số và hình là đối tượng đầy đủ của toán học và do bản thân toán
học sáng tạo ra, và vì thế toán học có một ý nghĩa độc lập với kinh nghiệm
đặc biệt và đối với nội dung hiện thực của thế giới”[42, 58].
Ph.Ăngghen cho rằng quan niệm nêu trên của Đuyrinh là sai lầm, rơi
vào quan điểm duy tâm, Bởi vì theo Ph.Ăngghen: “Những khái niệm về số
lượng và hình dáng không thể rút ra từ đâu khác, mà chỉ có thể là từ thế giới
mà thôi”, “Phải có những vật có hình thức xác định và người ta phải đem so
sánh các hình thức của những vật ấy, trước khi có thể đi đến một khái niệm về
hình dáng. Đối tượng của toán học thuần tuý là những hình không gian và
những quan hệ số lượng của thế giới hiện thực, tức là một chất liệu rất hiện
thực. Việc chất liệu này xuất hiện dưới một hình thức hết sức trừu tượng, chỉ
có thể che đậy một cách yếu ớt cái nguồn gốc của nó là từ thế giới bên
ngoài”[42, 59]. Như vậy, toán học cũng như tất cả các khoa học khác, sinh ra
từ những nhu cầu thực tiễn của con người, từ việc đo diện tích các khoảnh đất
và việc đo dung tích của những bình chứa, từ việc tính toán thời gian và từ cơ
học. Nó phản ánh một phần những hình thức liên hệ vốn có của thế giới và
chính vì vậy nó mới được ứng dụng vào thế giới.
Sau này, một số nhà triết học phương Tây thường tập trung phê phán lý
luận phản ánh của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Họ lập luận rằng, khái niệm
phản ánh không nói lên được tính tích cực trong hoạt động nhận thức của con
người. Thực ra, trong khi khẳng định nhận thức là quá trình phản ánh trong
đầu óc con người các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan, lý luận nhận
thức mácxít không quan niệm đây là một sự tái hiện giản đơn, máy móc,
nguyên xi mà là một sự phản ánh mang tính chất tích cực và sáng tạo. Đề cập

23
vấn đề này, trong “Bút ký triết học”, V.I.Lênin viết: “ý thức con người không
phải chỉ phản ánh thế giới khách quan mà còn tạo ra thế giới khách quan”38,
228. Tính chất sáng tạo trong hoạt động phản ánh của con người được thể

hiện qua nhiều khía cạnh, nhiều mức độ; không chỉ tái hiện nguyên xi mà tiến
hành phân tích, tổng hợp để từ những nguyên liệu có sẵn trong thực tại khách
quan hình dung, tưởng tượng ra những cái chưa có, nhưng cần có cho con
người; không phải chỉ phản ánh cái bề ngoài, những mối liên hệ đơn nhất,
ngẫu nhiên mà cả cái bên trong, những mối liên hệ phổ biến mang tính quy
luật. Đây là sự phản ánh riêng của con người khác hẳn hành vi phản ánh của
động vật.
Một câu hỏi lớn luôn được đặt ra đối với loài người thuộc bao nhiêu thế
hệ là: về nguyên tắc, con người có khả năng nhận thức được thế giới hay
không? Trong lịch sử đã có nhiều cách trả lời khác nhau chung quanh vấn đề
này. Những người theo thuyết hoài nghi không phủ nhận về nguyên tắc tính
có thể nhận thức được thế giới, nhưng họ lại nghi ngờ về tính chất đáng tin
cậy của tri thức thu nhận được. Những người theo thuyết không thể biết thì
cho rằng, cái mà sự vật hiện ra với ta khác về nguyên tắc với cái mà sự vật tồn
tại tự nó. Chúng ta chỉ biết được các hiện tượng của sự vật mà không thể biết
được chúng tồn tại thực sự như thế nào. ở đây, tính phức tạp và tính mâu
thuẫn của quá trình nhận thức đã bị xuyên tạc. Bởi lẽ, những mâu thuẫn đó
không được xem như là sự phản ánh tính phức tạp của bản thân khách thể
cũng như của con đường nhận thức khách thể mà được xem như là biểu hiện
bất lực của nhận thức con người. Những thành tựu, những bước tiến lớn lao
mà con người đạt được trong quá trình nhận thức đã bác bỏ dứt khoát quan
niệm của thuyết không thể biết và chứng minh khả năng của con người mãi
mãi tiến gần đến chân lý khách quan.
Như đã nói ở trên, giới tự nhiên bao giờ cũng tồn tại một cách khách
quan, độc lập với ý thức con người. Nó vận động, biến đổi và phát triển

24
không ngừng theo các quy luật biện chứng nội tại của nó. Nhiệm vụ của khoa
học chính là tìm ra các quy luật ấy. Muốn vậy thì nhà khoa học bao giờ cũng
phải tự giác hay tự phát đứng trên lập trường duy vật, phải có quan điểm duy

vật và biện chứng. Trường hợp người nghiên cứu không tự giác thì bản chất vật
chất và biện chứng của đối tượng, của các sự kiện thực tiễn và thực nghiệm,
cũng như lôgic nghiên cứu cũng sẽ buộc người nghiên cứu vừa phải là người
duy vật tự phát vừa phải biện chứng tự phát. Nghĩa là trên thực tế nhà khoa học
phải xuất phát từ việc thừa nhận sự tồn tại khách quan của đối tượng nghiên
cứu, xem xét sự vật như nó vốn có. Nếu không như vậy mà lại cố tình phủ nhận
sự tồn tại khách quan của đối tượng nghĩa là duy tâm một cách có ý thức ngay
khi tiến hành nghiên cứu thì chắc chắn sẽ không tránh khỏi thất bại và sai lầm.
Đó chính là áp lực của thế giới khách quan, của thực tiễn đồng thời cũng là tiền
đề quan trọng để cho nhà khoa học dù có ý thức hay không có ý thức, dù tự
đánh giá hay không tự đánh giá thế giới quan của mình, có thể nhận thức được
đối tượng như chính nó tồn tại.
Trong khi phê phán quan điểm duy tâm và siêu hình của Đuyrinh về
nhận thức, Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Nếu đồ thức về vũ trụ được rút ra – không
phải từ bộ óc, mà chỉ nhờ bộ óc – từ thế giới hiện thực, nếu những nguyên lý
của tồn tại được rút ra từ những cái đang tồn tại, thì để làm việc đó, chúng ta
không cần đến một triết học nào cả, mà chỉ cần đến những hiểu biết thực
chứng về thế giới và về những gì diễn ra trong thế giới đó; và những gì thu
được từ việc đó cũng không phải là triết học mà là khoa học thực chứng… cái
quan niệm cho rằng toàn bộ những quá trình của tự nhiên đều nằm trong một
mối liên hệ có hệ thống, sẽ thúc đẩy khoa học phải chỉ rõ mối liên hệ có hệ
thống ấy ở khắp mọi nơi, trong bộ phận cũng như trong toàn bộ”42, 51.
Như vậy là, xuất phát từ sự phê phán quan điểm duy tâm của Đuyrinh
về mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, Ph.Ăngghen đã khẳng định lập trường
triết học duy vật đúng đắn khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, đồng

25
thời đưa ra quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về nguồn gốc và bản
chất của nhận thức. Theo đó, nhận thức là quá trình phản ánh một cách sáng
tạo hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người. Nguồn gốc của nhận

thức là thế giới bên ngoài “chứ không phải nảy sinh ra trong đầu óc như một
sự vật của tư duy thuần túy”[42, 59].
1.2.2 Quan niệm về biện chứng của quá trình nhận thức
Khẳng định nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo thế giới
khách quan vào đầu óc của con người, các nhà sáng lập chủ nghĩa cộng sản đã
quán triệt những nguyên tắc căn bản của thế giới quan duy vật biện chứng
trong lý luận nhận thức. Theo đó, thế giới vật chất không ngừng vận động và
phát triển, tồn tại độc lập với con người, bản chất của nhận thức chính là sự
phản ánh trong bộ óc người hiện thực khách quan rộng lớn và muôn vẻ ấy.
Tuy nhiên, sự phản ánh đó không phải là một hành động nhất thời và
thụ động mà là một quá trình phức tạp của hoạt động trí tuệ tích cực, năng
động và sáng tạo. Trong nhận thức, sự phù hợp giữa tư tưởng (thuộc con
người) với hiện thực khách quan là một quá trình. Nói cách khác, sự phản ánh
đúng đắn thế giới khách quan trong ý thức con người là quá trình vận động
của sự nhận thức vô tận về thế giới với cả một chuỗi những sự trừu tượng,
hình thành khái niệm, quy luật. Những khái niệm này cũng bao quát một cách
tương đối, gần đúng những quy luật phổ biến của giới tự nhiên vĩnh viễn vận
động và phát triển, tạo nên một bức tranh sinh động, khoa học về thế giới
khách quan.
Lịch sử phát triển của khoa học đã cho thấy nhiều trường hợp những tài
liệu, những sự kiện thu nhận được trong quá trình quan sát và thực nghiệm đã
hoàn toàn bất ngờ và vượt ra ngoài dự kiến của nhà khoa học, trái ngược với
những quan niệm và hiểu biết thông thường. Điều đó không làm cho con
người mất đi lòng tin vào giá trị của những tri thức cũ cũng như khả năng
nhận thức của mình. Trái lại, đó chính là cơ sở, là điểm tựa để con người bổ

×