Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Đổi mới tư duy kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1986 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (756.95 KB, 110 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
******



ĐOÀN THỊ THU HƯƠNG




ĐỔI MỚI TƯ DUY KINH TẾ
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY



LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: Triết học








Hà Nội - 2012

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
******




ĐOÀN THỊ THU HƯƠNG





ĐỔI MỚI TƯ DUY KINH TẾ
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY



TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: Triết học
Mã số : 60.22.80




Hà Nội - 2012

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNTB: Chủ nghĩa tư bản

CNXH: Chủ nghĩa xã hội
CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CSVN: Cộng sản Việt Nam
LLSX: Lực lượng sản xuất
QHSX: Quan hệ sản xuất
TBCN: Tư bản chủ nghĩa
XHCN: Xã hội chủ nghĩa















1
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 2
NỘI DUNG 11
Chƣơng 1. KHÁI LUẬN CHUNG VỀ ĐỔI MỚI TƢ DUY
KINH TẾ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM 11
1.1. Đổi mới tƣ duy kinh tế 11

1.2. Tính tất yếu đổi mới tƣ duy kinh tế của Đảng Cộng sản Việt
Nam 23
1.2.1. Điều kiện khách quan 23
1.2.2. Nhân tố chủ quan 29
1.3. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đổi mới tƣ duy kinh tế ở Việt Nam
33
1.3.1. Cơ sở lý luận 33
1.3.2. Cơ sở thực tiễn 38
Chƣơng 2. NỘI DUNG ĐỔI MỚI TƢ DUY KINH TẾ VÀ MỘT SỐ
GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ TIẾP TỤC ĐỔI MỚI TƢ DUY KINH TẾ
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM 44
2.1. Đổi mới tƣ duy về kết cấu thành phần và chủ thể kinh tế 46
2.2. Đổi mới tƣ duy về cơ chế quản lý kinh tế 60
2.3. Đổi mới tƣ duy về công nghiệp hóa, hiện đại hóa 67
2.4. Đổi mới tƣ duy về quan hệ kinh tế quốc tế 75
2.5. Một số giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục đổi mới tƣ duy kinh tế
của Đảng Cộng sản Việt Nam 85
KẾT LUẬN 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO 102

2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ là một tổn thất to lớn cho
phong trào cách mạng XHCN trên thế giới, tuy nhiên đó chỉ là bước lùi tạm
thời trong sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa mà
giai đoạn đầu là CNXH.
Chiến tranh lạnh kết thúc, các nước Mỹ và Tây Âu đã chiến thắng
nhưng họ cũng phải gánh chịu không ít hậu quả nặng nề do chiến tranh để
lại. Vì vậy, họ phải gấp rút phát triển kinh tế và trang bị sức mạnh quân sự

cho mình ngày càng hoàn bị hơn. Nhưng sự phát triển đó cũng chính là mối
đe doạ lớn với các nước XHCN còn lại, âm mưu diễn biến hoà bình đang
được các nước này đẩy mạnh trên tất cả các lĩnh vực đặc biệt là kinh tế,
chính trị…
Chính tình hình đó đã làm nảy sinh tư tưởng hoang mang ở một số
nhà lãnh đạo, nhà nghiên cứu. Họ bắt đầu nghi ngờ về tính khả thi của con
đường đi lên CNXH, họ đòi xét lại CNXH. Nhiều tư tưởng mang khuynh
hướng cải lương đã xuất hiện và không ít người hoang tưởng rằng đi theo
con đường TBCN sẽ mang lại một tương lai sán lạn hơn là đi theo CNXH.
Điều này đặt nước ta trước những yêu cầu và thách thức lớn trong sự kiên
định chọn lựa mục tiêu và định hướng xây dựng CNXH.
Việt Nam đã áp dụng một cách máy móc mô hình xây dựng CNXH
của Liên Xô (cũ) trong những năm 1960, 1970 và nửa đầu những năm 1980
của thế kỷ XX. Đường lối đó đã gây ra khủng hoảng trên nhiều lĩnh vực
của đời sống xã hội (đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế). Những biểu hiện cụ
thể của sự khủng hoảng này thể hiện ở sự tụt hậu về kinh tế, nghèo nàn về
sản phẩm tiêu dùng, lạc hậu về khoa học kỹ thuật và công nghệ, quan liêu

3
trong tổ chức hành chính… Thực tế đó đã làm một bộ phận quần chúng
nhân dân giảm dần và đánh mất lòng tin vào chế độ XHCN.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, nhưng có một nguyên
nhân rất quan trọng nằm ngay trong tư duy (đặc biệt là tư duy về kinh tế),
nhận thức chưa đúng, chưa đủ về những khó khăn, phức tạp trên con đường
đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Thực tế đó yêu cầu phải đổi mới tư
duy trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là phải đổi mới tư duy về kinh tế. Đây
là vấn đề rất được quan tâm trong sự lãnh đạo của Đảng ta và là vấn đề cấp
bách, có ý nghĩa chiến lược đối với sự tồn tại và phát triển của mô hình
XHCN hiện thực ở nước ta.
Nghị quyết lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá V nêu ra

“bài học bao trùm” để giải quyết những vấn đề nóng bỏng khi đó là phải
dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện đúng chế độ
tập trung dân chủ, hạch toán kinh tế và kinh doanh XHCN thì mới đẩy
mạnh được sản xuất, kinh doanh có hiệu quả. Xoá bỏ cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp là một yêu cầu cấp bách, là một khâu đột phá có tính quyết
định để chuyển hẳn nền kinh tế sang hạch toán, kinh doanh XHCN trên cơ
sở kế hoạch hoá, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ tập thể của nhân dân
lao động và tính chủ động sáng tạo của các cấp, các ngành và cơ sở. Song
điều có ý nghĩa quan trọng là làm như thế nào và bắt đầu từ đâu để từng
bước xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp? Trước hết, cần phải có sự
chuyển biến trong ý thức, tư tưởng về tư duy kinh tế, cách làm mới trước
hết đòi hỏi phải có cách tư duy mới, suy nghĩ mới, không bao giờ tư duy
kinh tế cũ lại có thể vạch ra được những phương thức hoạt động kinh tế
mới. Ý nghĩa lớn nhất của Nghị quyết hội nghị lần thứ 8 của Trung ương
Đảng (khoá V) là ở chỗ đã đánh dấu một bước ngoặt trong quản lý kinh tế,
xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang hạch toán kinh

4
doanh XHCN. Đó là bước chuyển có tính chất cách mạng trong tư duy kinh
tế. Qua hơn 25 năm đổi mới, chúng ta thấy được những thành tựu to lớn và
có ý nghĩa lịch sử. Thực tiễn phát triển đất nước và những bài học kinh
nghiệm được tổng kết qua chặng đường hơn 25 năm qua cho thấy đường
lối đổi mới của Đảng CSVN trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh là hoàn toàn đúng đắn và sáng tạo, chứng tỏ con đường
đi lên CNXH của cách mạng nước ta là phù hợp với hoàn cảnh thực tế Việt
Nam.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI của Đảng CSVN (12/1986) đã đề
ra đường lối đổi mới toàn diện trên tất cả các mặt, trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội, trong đó lấy đổi mới kinh tế là trọng tâm. Để đổi mới
toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội, trước hết phải đổi mới tư duy,

đặc biệt tư duy về kinh tế. Thực tiễn xã hội đã khách quan hoá vai trò và
tầm quan trọng đặc biệt của lý luận và tư duy lý luận đối với sự phát triển
của đất nước và dân tộc. Công cuộc đổi mới ở Việt Nam khác so với ở các
nước Đông Âu và Liên Xô. Ở Việt Nam nhu cầu đổi mới các chính sách là
xuất phát từ chính lĩnh vực kinh tế, chứ không phải là hệ quả của những
biến động chính trị. Sự chuyển từ thời kỳ chiến tranh sang hoà bình đã làm
bùng nổ các nhu cầu về đời sống, từ đó làm nảy sinh yêu cầu tháo gỡ các
cản trở về quản lý kinh tế và sau đó dẫn tới những thay đổi trong quan niệm
về sự vận hành của nền kinh tế. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VI (1986) nhấn mạnh: “Đối với nước ta, đổi mới đang là yêu cầu bức thiết
của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn…Vì vậy, phải đổi
mới - trước hết là đổi mới tư duy" [28, 132-133]. Đại hội Đảng toàn quốc
lần VI (1986) đã đánh dấu bước ngoặt trong quá trình đổi mới tư duy kinh
tế của Đảng về con đường đi lên CNXH ở nước ta.

5
Nghiên cứu việc đổi mới tư duy về xây dựng kinh tế của Đảng sẽ
giúp chúng ta thấy được ý nghĩa của tư duy kinh tế trong nhận thức và
trong hoạt động thực tiễn, giúp tư tưởng của chúng ta kiên định trước âm
mưu của các thế lực thù địch chống phá con đường đi lên CNXH mà Đảng
và nhân dân ta đã chọn lựa.
Đổi mới tư duy của Đảng là yêu cầu cấp bách đối với sự lãnh đạo
của Đảng, đồng thời là vấn đề cơ bản, lâu dài, có ý nghĩa chiến lược đối với
cách mạng nước ta. Sự coi trọng và cổ vũ đổi mới tư duy của Đảng ta đã
tạo động lực tư tưởng và tinh thần to lớn thức đẩy sự hoạt động của các cơ
quan nghiên cứu và đội ngũ nghiên cứu lý luận của Đảng.
Sau nhiều thập kỷ thực tiễn phong phú và phức tạp của công cuộc
đổi mới ở Việt Nam, việc nghiên cứu, tổng kết quá trình đổi mới tư duy
kinh tế của Đảng có ý nghĩa quan trọng giúp nhận định những thành công
và bất cập, từ đó định vị những định hướng tiếp tục đổi mới tư duy kinh tế

của Đảng trong thời gian tới, nhằm góp phần đẩy nhanh và nâng cao hiệu
quả sự lãnh đạo của Đảng và đẩy mạnh quá trình xây dựng một Việt Nam
dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh…
Cho đến nay, chưa từng có công trình khoa học trong nước nào đề
cập toàn diện và trực tiếp về vấn đề nóng và phức tạp này.
Do đó, tôi chọn “Đổi mới tư duy kinh tế của Đảng CSVN từ năm
1986 đến nay” làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986), với tinh thần
nhìn thẳng sự thật, nói đúng sự thật, Đảng ta đã tiến hành đổi mới toàn diện
trên tất cả các mặt, tất cả các lĩnh vực (đặc biệt là kinh tế), đã có nhiều tác
giả và tập thể tác giả, nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài viết liên quan
đến vấn đề này. Có thể điểm qua một số công trình nghiên cứu sau:

6
Cuốn sách Đổi mới phong cách tư duy của tác giả Phạm Như Cương
[12], có nội dung chia ra làm 3 phần: phần 1 bàn về vấn đề đổi mới phong
cách tư duy; phần 2 bàn đến vấn đề đổi mới nhận thức về CNXH; phần 3
đề cập tới đổi mới tư duy trong một số lĩnh vực cụ thể. Tuy nhiên, cuốn
sách còn bàn về đổi mới tư duy trên các lĩnh vực một cách chung chung
chứ chưa nghiên cứu sâu vào một lĩnh vực nhất định nào đó (đặc biệt là
lĩnh vực kinh tế - lĩnh vực đóng vai trò quyết định trong sự phát triển đất
nước).
Tác giả Nguyển Duy Quý cũng có một số cuốn sách như Những vấn
đề lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam [53] và nhiều
bài viết tạp chí liên quan tới đổi mới tư duy như trên tạp chí Triết học Đổi
mới tư duy trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước [54], Thời đại ngày
nay vẫn là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH [55]. Những cuốn sách và
bài báo này đã giúp chúng ta nhận thức đúng và rõ ràng hơn về nội dung,
tính chất của thời đại hiện nay vẫn là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH

và điều này đã làm cơ sở quan trọng để chúng ta hoạch định đúng đắn
đường lối và sách lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đặc
biệt trong vấn đề đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Cuốn sách Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ 1986 đến
nay của nhóm tác giả Tô Huy Rứa và Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê
Ngọc Tòng [56] chủ biên đã phân tích những tác động của tình hình thế
giới và trong nước tới công cuộc đổi mới đất nước, làm rõ thời cơ, thách
thức và những đặc điểm chủ yếu của đổi mới ở Việt Nam. Ngoài ra, cuốn
sách đã đề cập một cách hệ thống vai trò của lý luận và tư duy lý luận đối
với công cuộc đổi mới, phân tích tư duy lý luận của Đảng về CNXH và xây
dựng CNXH ở Việt Nam trước và sau thời kỳ đổi mới. Đặc biệt, cuốn sách
này cũng đã nêu lên được vấn đề đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta trên

7
các lĩnh vực trọng yếu của đời sống xã hội (trong đó có lĩnh vực kinh tế),
nhưng trong cuốn sách này các tác giả chủ yếu chú ý đặt nghiên cứu mang
tính lý luận chính trị lên hàng đầu trong các hoạt động văn hoá tư tưởng
của Đảng ta. Các tác giả nhấn mạnh quan điểm: xây dựng và phát triển lý
luận (trong đó đặc biệt là về kinh tế và chính trị) là một quá trình vừa cấp
bách, vừa lâu dài và đầy những khó khăn, phức tạp.
Ngoài ra, dựa trên những luận điểm kinh tế của các nhà kinh điển
Mác – Lênin và thực tiễn cách mạng của mỗi thời kỳ, cũng đã có nhiều
công trình nghiên cứu về vấn đề đổi mới, vấn đề kinh tế và tư duy kinh tế
như:
Phạm Ngọc Quang, Nguyễn Viết Thông (2000) với Góp phần tìm
hiểu sự phát triển tư duy lãnh đạo của Đảng ta trong công cuộc đổi mới
trên các lĩnh vực chủ yếu [52]. Các tác giả đã tập trung làm rõ các bước,
các giai đoạn phát triển tư duy lãnh đạo hoạt động kinh tế của Đảng sau gần
15 năm đổi mới. Nguyễn Khánh (1999), Đổi mới - bước phát triển tất yếu
đi lên CNXH ở Việt Nam [34]. Bằng những tư liệu thực tế từ tình trạng nền

kinh tế nước ta những năm trước đổi mới, thường được diễn tả bằng thuật
ngữ “khủng hoảng” tác giả đã luận chứng khá toàn diện cho tính tất yếu
của việc đổi mới ở nước ta những năm giữa thập niên 80 của thế kỷ trước,
nhất là đổi mới tư duy về kinh tế.
Ngoài ra còn phải kể đến các bài tạp chí của các tác giả như Mai
Trung Hậu (1988), Sự lạc hậu về nhận thức lý luận - Nguyên nhân và biện
pháp khắc phục [29], Phạm Xuân Ngọc (2003), Nhận thức mới của Đảng
ta về con đường đi lên CNXH [49]… Hoặc các cuốn sách như Đào Duy
Tùng (1987), Bàn về đổi mới tư duy [61], và Quá trình hình thành con
đường đi lên CNXH ở nước ta [62], Nguyễn Phú Trọng (2001), Về định
hướng XHCN và con đường đi lên CNXH ở nước ta [57], Vũ Viết Mỹ

8
(2002), Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường đi lên
CNXH ở Việt Nam [47] và Đặng Phong (2009), Tư duy kinh tế Việt Nam
1975 - 1989 [50].
Các công trình nghiên cứu nêu trên, dù ngắn hay dài đều cho chúng
ta thấy rằng cách tư duy máy móc, siêu hình, chủ quan, duy ý chí… (đặc
biệt trong tư duy về kinh tế) chính là nguyên nhân cản trở quá trình xây
dựng CNXH ở nước ta. Do vậy, đổi mới tư duy kinh tế là yêu cầu tất yếu.
Mặt khác, các tác giả đã chỉ ra trong quá trình đổi mới chúng ta phải luôn
bám sát thực tiễn, tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận, đó là nhiệm vụ to
lớn mà thực tiễn đã đặt ra cho Đảng ta và những người làm công tác lý luận
khoa học xã hội và nhân văn.
Qua việc tổng quan, tuy mới chỉ là phần nào các tài liệu hiện có, đã
cho thấy việc đổi mới tư duy kinh tế cũng đã nhận được sự quan tâm to lớn
trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn của đông đảo quần chúng, cán
bộ đảng viên nước ta để từ đó họ xác định đúng đắn và vững tin vào con
đường đi lên CNXH mà Đảng và nhân dân ta đã chọn lựa.
Sự nghiên cứu đổi mới tư duy kinh tế của Đảng ta qua việc khảo sát

các văn kiện Đảng ở mỗi tác giả có những đặc trưng và cách tiếp cận
CNXH riêng theo những góc cạnh khác nhau. Tuy nhiên, các công trình
nghiên cứu trên thường dừng lại ở cấp độ lý luận chung, trong khi nghiên
cứu cụ thể, nhất là sự đổi mới tư duy về xây dựng kinh tế của Đảng ta còn
ít được đề cập. Mặt khác, thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội của Việt Nam
luôn vận động, biến đổi và phát triển, làm nảy sinh nhiều vấn đề mới cần
tiếp tục nghiên cứu. Chính vì vậy, đề tài muốn tiếp cận và làm rõ hơn quá
trình đổi mới tư duy kinh tế của Đảng ta, góp phần làm phong phú hơn kho
tàng lý luận và thực tiễn về kinh tế trong giai đoạn hiện nay.


9
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Luận văn phân tích nội dung của sự đổi mới tư duy kinh
tế của Đảng CSVN từ 1986 đến nay nhằm tìm ra tính quy luật của quá trình
này, từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục thúc đẩy hơn nữa
sự nghiệp đổi mới tư duy kinh tế ở nước ta hiện nay.
- Nhiệm vụ:
+ Trình bày một số vấn đề lý luận chung về đổi mới tư duy kinh tế
của Đảng CSVN.
+ Phân tích những nội dung đổi mới tư duy kinh tế của Đảng CSVN
từ sau năm 1986.
+ Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa
quá trình đổi mới tư duy kinh tế ở nước ta hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng CSVN.
- Phạm vi: Nghiên cứu các quan điểm đổi mới (nhất là đổi mới tư
duy về kinh tế) trong văn kiện các Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng từ
năm 1986 đến nay, Cương lĩnh (1991 và bản sửa đổi, bổ sung 2011) xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận của đề tài là các luận điểm của chủ
nghĩa Mác về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng, giữa LLSX và QHSX.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Phương pháp chủ yếu
là phân tích - tổng hợp, thống nhất lịch sử - logic, khái quát hoá, trừu tượng
hoá, so sánh, thống kê…


10
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn hệ thống hoá và phân tích ở góc độ triết học vấn đề đổi
mới tư duy kinh tế của Đảng CSVN trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở
đó, luận văn kiến nghị một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm tiếp
tục thực hiện đổi mới tư duy kinh tế ở Việt Nam trong giai đoạn sắp tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần làm rõ vai trò của đổi mới tư
duy kinh tế của Đảng CSVN đối với chỉ đạo hoạt động thực tiễn trong quá
trình xây dựng CNXH.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ
nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn học “Những nguyên lý của chủ nghĩa
Mác – Lênin”, "Đường lối cách mạng của Đảng CSVN" cho sinh viên đại
học, cao đẳng; hoặc môn học “giáo dục lý luận chính trị” ở các trường
trung cấp, dạy nghề.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận chung và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm có 2 chương, 8 tiết.





11
NỘI DUNG
Chƣơng 1
KHÁI LUẬN CHUNG VỀ ĐỔI MỚI TƢ DUY
KINH TẾ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1.1. Đổi mới tƣ duy kinh tế
Tư duy là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác
nhau như: triết học, tâm lý học, ngôn ngữ học, logic học… Mỗi khoa học
nghiên cứu tư duy ở những góc độ khác nhau. Chẳng hạn, triết học
nghiên cứu tư duy trong quá trình nhận thức với các mối quan hệ giữa tri
thức và hiện thực, giữa chủ thể và khách thể; tâm lý học nghiên cứu tư
duy trong mối quan hệ với hành vi của con người; ngôn ngữ học nghiên
cứu tư duy trong mối quan hệ với các tín hiệu ngôn ngữ; logic học
nghiên cứu tư duy dưới góc độ tính chân thực hay tính giả dối của tư
tưởng… Vậy tư duy là gì? Theo các tác giả cuốn giáo trình Lôgíc học đại
cương: "Tư duy là sự phản ánh gián tiếp và khái quát hiện thực khách
quan vào đầu óc con người, được thực hiện bởi con người xã hội trong
quá trình hoạt động thực tiễn cải biến thế giới xung quanh” [62, 9]. Với
tư cách là sự phản ánh khái quát về bản chất cùng các tính quy luật sinh
thành, tồn tại, biến đổi và phát triển của đối tượng, tư duy con người được
hiểu như trên đóng vai trò vô cùng quan trọng không chỉ trong nhận thức
mà còn và chủ yếu là trong hoạt động thực tiễn. Không có tư duy con người
không thể hoạt động được, nhờ có tư duy con người có thể hoạt động theo
những mô hình dự kiến, cũng nhờ có tư duy không ngừng được đổi mới và
phát triển, con người có thể cải biến dần các công cụ nhận thức và hoạt
động thực tiễn. Tư duy có một khả năng đặc biệt, nó góp phần tạo ra trong
đời sống con người hình ảnh của toàn bộ thế giới với những chuẩn mực
sống và các hệ giá trị phong phú, phức tạp. Và cũng chính nó lại góp phần


12
xóa bỏ những chuẩn mực cũ, hình thành những chuẩn mực mới cao hơn,
hợp lý hơn. Do vai trò đặc biệt của tư duy trong ý thức xã hội, nên khi đề
cập đến tính độc lập tương đối cúa ý thức xã hội, C.Mác đã đặt vấn đề năng
lực tư duy có khả năng phản ánh hiện thực khách quan, thúc đẩy sự phát
triển của hiện thực khách quan, nhưng cũng có khả năng can thiệp tiêu cực,
thậm chí cản trở sự vận động của đời sống khách quan, trong đó có những
hoạt động kinh tế của con người.
Mọi sự vật - hiện tượng trong thế giới khách quan xung quanh chúng
ta đều có quá trình sinh thành, vận động và phát triển, tiêu vong, nó không
do một lực lượng siêu nhiên nào tạo ra, không phải chịu sự tác động của bất
kỳ sức mạnh thần thánh nào, mà sự hình thành, tồn tại và phát triển của
chúng chỉ chịu sự tác động, chi phối của các quy luật khách quan, phổ biến
như sự tích luỹ dần dần về lượng dẫn tới sự thay đổi về chất và ngược lại,
sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, sự phủ định của phủ định.
Sự tác động của các quy luật đó trong đối tượng đã tạo ra cơ chế, cơ sở,
tiền đề, nguồn gốc và kết quả của sự phát triển. Tuy nhiên, quá trình vận
động, phát triển của sự vật, hiện tượng không diễn ra theo đường thẳng, mà
thường là quanh co, phức tạp, đôi khi bao gồm cả những “bước thụt lùi tạm
thời” để giữ gìn sự tồn tại và chờ thời cơ phát triển về sau. Trong quá trình
vận động và phát triển đó, sự vật hiện tượng chắc chắn cũng bộc lộ những
mặt hạn chế nhất định, không phù hợp với thực tiễn, nó bị biến dạng, tha
hóa, méo mó đi. Vì vậy, một yêu cầu đặt ra ở đây là phải có sự thay đổi, sự
đổi mới nhất định của bản thân đối tượng và của chủ thể nhận thức về nó.
Tuỳ theo đối tượng và lĩnh vực mà chủ thể sẽ có hình thức, cách thức tiếp
cận thay đổi phù hợp, trong hoạt động thực tiễn thì có thể tiến hành cải tổ,
cải cách, đổi mới hoặc thực hiện cả một cuộc cách mạng. Tuy nhiên, dù
diễn ra dưới hình thức nào đi nữa thì đều nhằm mục đích là khắc phục,


13
vượt qua những mặt còn hạn chế, nhằm làm cho sự vật - hiện tượng hoàn
thiện hơn, tiến bộ và phát triển hơn.
Sự phát triển của tư duy cũng tuân theo các quy luật khách quan đó,
và nó cũng diễn ra đồng thời với quá trình hoạt động thực tiễn. Cùng với
việc phản ánh hiện thực khách quan vào đầu óc con người bằng các giác
quan, truyền tải những dữ liệu, hình ảnh từ thế giới khách quan bên ngoài
đến hệ thần kinh trung ương, qua quá trình xử lý, phân tích hình ảnh, dữ
kiện bởi các thao tác chuyên môn, tư duy tạo ra tri thức về bản chất của sự
vật hiện tượng. Sự phát triển của tư duy cũng không diễn ra theo một
đường thẳng tắp, mà có lúc chậm, lúc nhanh, có lúc thường biến, có lúc đột
biến nhảy vọt. Tư duy với tư cách là hình thức phản ánh thế giới khách
quan, luôn mang tính thời đại và tính lịch sử. Không có tư duy chung cho
mọi thời đại, mà ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, nó lại mang những đặc
trưng bởi một hình thức tư duy riêng của nó phản ánh trình độ nhận thức
của thời đại ấy.
Như vậy, mọi sự vật hiện tượng luôn trong trạng thái vận động và
phát triển không ngừng, điều kiện tình hình thực tiễn luôn thay đổi nên yêu
cầu chủ thể cũng cần phải luôn đổi mới trên tất cả các mặt, các lĩnh vực
hoạt động thực tiễn và nhận thức của mình.
Trong tiếng Việt, đổi mới được hiểu là thay đổi hoặc làm thay đổi
cho tốt hơn, tiến bộ hơn so với trước, đáp ứng được yêu cầu của sự phát
triển. Cải cách, là sửa đổi cái cũ đã trở thành lạc hậu để cho phù hợp, đáp
ứng được yêu cầu của tình hình mới. Cách mạng, là sự biến đổi xã hội –
chính trị lớn và căn bản, thực hiện bằng việc lật đổ một chế độ xã hội lỗi
thời, thiết lập một chế độ xã hội mới tiến bộ hơn, tốt đẹp hơn. Việc sử dụng
các thuật ngữ đổi mới, cải cách, cải tổ, cách mạng ở mỗi nước có thể là
khác nhau, nhưng xét về mặt bản chất thì đều có nghĩa là làm cho thay đổi

14

tốt hơn, tiến bộ hơn. Đổi mới là đặc điểm có tính quy luật của quá trình
phát triển nói chung, của CNXH nói riêng. Thời kỳ đầu (nửa sau những
năm 80 của thế kỷ trước) ở nước ta đổi mới được hiểu như là những suy
nghĩ, những hành động riêng lẻ, cụ thể nhằm thay đổi một nhận thức, một
cách làm nhất định nào đó có tính tình thế. Càng về sau, chúng ta càng
nhận thức đầy đủ hơn về đổi mới như là vấn đề chiến lược lâu dài trong quá
trình xây dựng CNXH; nó bao quát toàn diện, không trừ lĩnh vực nào của
quá trình đó. Đổi mới là quá trình loại bỏ những gì kìm hãm và cản trở sự
phát triển, tổ chức lại xã hội, đưa vào cơ chế vận hành của xã hội một hệ
thống đồng bộ các yếu tố vật chất và tinh thần, tạo nên xung lượng mới cho
sự phát triển vượt bậc. Đổi mới là quá trình giải phóng mang ý nghĩa đầy
đủ nhất của từ đó – giải phóng về tư tưởng, giải phóng LLSX, giải phóng
mọi tiềm năng sáng tạo của con người, giải phóng khả năng trí tuệ của nhân
dân… để phục vụ cho sự phát triển con người, bảo đảm tự do, sáng tạo của
nhân dân. Đổi mới còn là quá trình sửa lại những nhận thức chưa đúng về
“cái cũ”, vận dụng nó hiệu quả hơn vào thực tiễn mới. Đổi mới còn là làm
rõ cái gì là đúng của ngày hôm qua, nhưng do hoàn cảnh đã thay đổi, hôm
nay không còn thích hợp, cần từ tổng kết thực tiễn để khái quát lý luận
nhằm bổ sung, phát triển nhận thức, phát triển nền tảng tư tưởng của chúng
ta, nhằm làm cho nền tảng tư tưởng đó thực hiện hiệu quả hơn chức năng là
cơ sở hoạch định và triển khai đường lối của Đảng, thúc đẩy đất nước phát
triển.
Như vậy, đổi mới có thể có nhiều mức độ, quy mô và phương thức
khác nhau. Từ yêu cầu cấp bách là sửa chữa sai lầm cho đến yêu cầu căn
bản là xóa bỏ hệ thống quan điểm cũ kỹ lạc hậu lỗi thời để thay thế bằng
hệ thống quan điểm mới hiện đại, tiên tiến. Đổi mới từ phương pháp tư
duy cho đến nội dung tư duy.

15
Đổi mới tư duy trước hết là đổi mới sự nhận thức của con người về

đối tượng. Khi thực tiễn thay đổi, những vấn đề mới nảy sinh từ những vấn
đề cũ, lý luận vốn phản ánh hiện thực cũ có thể còn phù hợp nhưng cũng có
thể không còn phù hợp. Những quan điểm, tư tưởng có thể còn đúng nhưng
chưa đầy đủ, hoặc đã lỗi thời, không còn phù hợp với điều kiện tình hình
thực tiễn, vì vậy buộc chủ thể tư duy phải đổi mới, có nhận thức mới. Đổi
mới tư duy nhằm mục đích phản ánh xác thực hơn bản chất và các tính quy
luật vận động của đối tượng. Muốn như vậy, tư duy phải bám sát đối tượng,
theo dõi sự vận động và phát triển của đối tượng, phải gắn liền với đối
tượng ở cả những hình thức quanh co và những đường thẳng. Đổi mới để
tiếp cận hiện thực khách quan một cách chính xác hơn, hiệu quả hơn. Nếu
không đổi mới thì không tạo ra được sự phát triển trong tư duy, do vậy
cũng không thể góp phần thực hiện những bước chuyển trong hiện thực.
Lôgic học có nhiều căn cứ khác nhau để phân chia khái niệm tư duy,
mà thực chất là chỉ ra các hình thức tồn tại hay biểu hiện của tư duy. Trong
các tài liệu thường bắt gặp các cụm từ chỉ các loại hình tư duy như tư duy
biện chứng – tư duy siêu hình – tư duy hình thức (đó là căn cứ vào phương
thức tiếp cận, cách thức phản ánh đối tượng, trong đó tư duy biện chứng
phản ánh đối tượng trong vô vàn các mối liên hệ của nó với các đối tượng
khác, trong sự vận động, biến đổi của nó ); Tư duy lý luận (khoa học) - Tư
duy kinh nghiệm thông thường (đó là căn cứ vào trình độ phản ánh về đối
tượng); Tư duy khách quan - Tư duy chủ quan (các thuật ngữ của Hêghen
và sau này được K. Popper dùng lại để chỉ quá trình tư duy và sản phẩm
của quá trình đó, chứ "chủ quan” ở đây không có nghĩa như trong cụm từ
"bệnh chủ quan duy ý chí”); Tư duy hiện đại - Tư duy truyền thống (theo
sự phân kỳ thời gian - lịch sử); Tư duy phương Tây - Tư duy phương Đông
(theo khu vực địa lý mà các chủ thể tư duy sinh sống, hoạt động)

16
Cái gọi là ”tư duy mới” mà luận văn này hướng tới phân tích về bản
chất là tư duy biện chứng, vì đối tượng của nó - đời sống kinh tế của xã hội

ta – là vô cùng phức tạp với vô vàn những mối liên hệ chằng chịt bên trong
và bên ngoài và đó cũng là sự vận động đầy quanh co. Nó cũng thuộc về
trình độ tư duy lý luận, bởi vì trong công cuộc xây dựng kinh tế chúng ta
không thể máy móc áp dụng kinh nghiệm của nước này hay nước khác vào
nước ta, cũng không thể áp dụng kinh nghiệm của chính chúng ta ở những
thời kỳ cách mạng đã qua cho hiện nay, mà đó là quá trình liên tục tổng kết
thực tiễn, rút ra những bài học thành công và thất bại để đổi mới và làm
giàu thêm lý luận xây dựng CNXH ở nước ta. Tư duy đó cũng phải dựa
chắc vào tư duy truyền thống phương Đông và Việt Nam, đó là linh hoạt,
mềm dẻo, "thiên biến, vạn hoá”, "dĩ bất biến ứng vạn biến”, mà cái bất biến
ở đây là "độc lập dân tộc và CNXH”. Nhưng cũng phải liên tục học hỏi, kế
thừa những thành tựu của tư duy nhân loại, bổ sung thêm cho nó tính hiện
đại để dân tộc ta tự tin đi vào hội nhập với thế giới toàn cầu hoá.
Trong luận văn này để có công cụ khảo sát quá trình đổi mới tư duy ở
nước ta, chúng tôi còn nhắc đến các loại hình tư duy chia thành thành các cặp
như: Tư duy cũ - Tư duy mới; Tư duy bao cấp (kế hoạch tập trung) - Tư duy thị
trường (tự do cạnh tranh); Tư duy tập thể (của nhiều người, chẳng hạn tập thể
lãnh đạo) - Tư duy cá thể (cá nhân một người, một đồng chí lãnh đạo cấp cao
của Đảng và Nhà nước Việt Nam); Tư duy XHCN - Tư duy TBCN (thường để
nói đến lối tư duy, nếp tư duy)
Còn có thể phân loại tư duy theo những căn cứ phức tạp hơn, theo đó có
thể chia thành các loại hình tư duy khác nhau nữa, như theo thành phần hay chủ
thể xã hội: Tư duy nông dân, tư duy công nhân, tư duy địa chủ, tư duy tư sản, tư
duy tiểu tư sản ; theo thành phần dân tộc, như tư duy Kinh, tư duy Thái, tư
duy Mường, tư duy Tày, tư duy Êđê, tư duy Bana ; theo thành phần quốc gia

17
dân tộc, như tư duy Việt Nam, tư duy Trung Hoa, tư duy ấn Độ, tư duy Nga, tư
duy Pháp
Ngoài ra người ta thường phân loại tư duy theo hình thái ý thức xã hội

như tư duy triết học, tư duy khoa học, tư duy nghệ thuật, tư duy đạo đức, tư duy
pháp luật, tư duy tôn giáo Đáng chú ý nhất ở đây và phù hợp với nội dung
nghiên cứu của luận văn là phân loại tư duy theo lĩnh vực hoạt động, như tư
duy chính trị, tư duy kinh tế, tư duy văn hoá, tư duy quân sự, tư duy ngoại
giao (khách thể nghiên cứu của luận văn là tư duy trên lĩnh vực kinh tế).
Như vậy, tư duy kinh tế là một khái niệm vừa lâu đời, vừa mới mẻ.
Sự nghiệp xây dựng CNXH hiện thực đã mang lại những kết quả rực rỡ,
song nó đặt ra không ít những vấn đề cần phải giải đáp. Sự tìm kiếm những
câu trả lời cho những mâu thuẫn trong nền kinh tế, cho những hiện tượng
kinh tế không diễn ra theo ý muốn chủ quan của mọi người, từ đó đã buộc
các nhà kinh tế học phải xem xét, đánh giá lại những nhận thức của mình
trước đây đối với CNXH, đối với các quy luật kinh tế khách quan của
CNXH, đối với việc vận dụng những quy luật ấy vào cuộc sống thực tiễn
Tóm lại, cần phải có sự đổi mới trong tư duy kinh tế, phải khắc phục được
những quan niệm lỗi thời trước đây. Chẳng hạn, từ lâu nay sự mất cân đối,
sự thiếu hụt có nguyên nhân khách quan đã được các nhà kinh tế học coi là
một hiện tượng tất nhiên, và trong thực tế những kế hoạch không cân đối ấy
vẫn cứ được thông qua với hi vọng sẽ khắc phục được “trong quá trình thực
hiện”. Như vậy, điều kiện đã biến đổi, nhưng nhận thức của con người vẫn
chưa biến đổi, vẫn giữ nếp tư duy kinh tế cũ, sự bảo thủ trong tư duy kinh
tế cũ rõ ràng sẽ có hại. Từ đó, có thể hiểu tư duy kinh tế là sự phản ánh vào
ý thức của con người dưới dạng một hệ thống khái niệm về các hiện tượng,
quá trình và quy luật của nền sản xuất xã hội nhằm sử dụng chúng để đạt
tới những mục tiêu nhất định.

18
Tư duy kinh tế phản ánh đối tượng đặc biệt là nền sản xuất xã hội.
Sự phản ánh đối tượng là nền sản xuất xã hội tức là tư duy kinh tế phục vụ
cho việc giải quyết những nhiệm vụ kinh tế trên nhiều mặt. Do vậy, tư duy
kinh tế là một loại hình tư duy tương đối độc lập, riêng biệt và bản thân nó

lại có những quy luật vận động đặc thù.
Tư duy kinh tế chính là sự nhận thức của con người đối với thực tiễn
kinh tế (thực tiễn này bao gồm cả những điều kiện tự nhiên và trình độ kỹ
năng của một xã hội). Đó là xuất phát điểm để đi tới những lựa chọn,
những quyết sách xây dựng kinh tế. Tư duy kinh tế là công cụ nhận thức và
cải tiến nền sản xuất xã hội, nó không phải chỉ là công cụ để nắm bắt những
tri thức nhất định mà điều chủ yếu là chức năng sử dụng những tri thức ấy
tức là từ việc nghiên cứu những khái niệm mà giải quyết những nhiệm vụ
sản xuất. Tư duy kinh tế do đó chứa đựng sức mạnh sáng tạo lớn lao. Vai
trò tích cực của tư duy kinh tế đối với phát triển sản xuất xã hội là ở chỗ nó
đảm bảo mối liên hệ tất yếu giữa điều kiện khách quan của sản xuất với
hoạt động của con người. Tư duy kinh tế không chỉ còn là việc riêng của
Nhà nước, mà nó đã trở thành một hiện tượng của xã hội, nó có thể tồn tại
dưới nhiều hình thức khác nhau trên “thị trường trí tuệ”, và Nhà nước có
thể lựa chọn trên “thị trường” đó những chính sách kinh tế của mình. Trong
bài nói “Nắm vững quy luật, đổi mới quản lý kinh tế” tại Hội nghị lần thứ 6
của Ban chấp hành trung ương Đảng khoá V ngày 3/7/1984, cố tổng bí thư
Lê Duẩn đã khẳng định: “Nếu không nhận rõ những vấn đề có tính quy luật
chung, không quán triệt những tư tưởng cơ bản của đường lối, thì sẽ không
thể có những quyết định đúng về quản lý kinh tế”. Do đó, cần đổi mới tư
duy kinh tế, có đổi mới tư duy kinh tế thì mới đổi mới được hoạt động kinh
tế, bởi vì con người chúng ta trước khi làm gì đó đều phải suy nghĩ xem sẽ
làm như thế nào, đề ra mục đích, dự kiến được kết quả sẽ đạt được ở cuối

19
quá trình lao động sẽ diễn ra. Nói khác, con người luôn hành động theo
những ý nghĩ, tư tưởng đã được định hình từ trước và sẽ ít nhiều biến đổi
trong khi thực hiện; cần phải có ý nghĩ đúng thì mới có hành động đúng.
Đổi mới là hoạt động cần phải diễn ra thường xuyên, liên tục và toàn
diện: từ đổi mới tư duy kinh tế có ý nghĩa thiết thực cho đến tư duy triết

học mang tính thế giới quan và phương pháp luận chung làm cơ sở của
nhận thức và hoạt động thực tiễn. Thực chất của công cuộc đổi mới ở
nước ta hiện nay là một cuộc cách mạng trong tư duy, nhằm quán triệt và
vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều
kiện cụ thể mới của đất nước là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN trong bối cảnh hội nhập. Do hoàn cảnh lịch sử, nước ta đang quá
độ lên CNXH từ một xã hội nông nghiệp lạc hậu, tiền công nghiệp.
CNXH là mục tiêu của cách mạng Việt Nam. Để xây dựng thành công xã
hội XHCN, chúng ta phải đổi mới quan niệm về CNXH. Công cuộc đổi
mới tư duy của chúng ta hiện nay phải được nghiên cứu tổng kết trên cơ
sở khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh nhằm đáp ứng tốt hơn các yêu cầu và đòi hỏi cấp thiết mà thực tiễn
xã hội nước ta đang đặt ra.
Cuộc sống đã phơi bày những tác động tiêu cực của cơ chế quản lý
kinh tế quan liêu bao cấp. Cơ chế quản lý bao cấp do lối tư duy nào tạo ra?
Nếu trả lời một cách chung nhất thì cơ chế ấy đã dựa trên cơ sở tư duy kinh
tế thiếu tính khách quan, khoa học, nghĩa là lối tư duy không xuất phát đầy
đủ từ những quy luật kinh tế và những điều kiện khách quan của sản xuất,
từ tính mục đích và nguyên tắc của quản lý. Đó là chủ nghĩa duy ý chí
trong quản lý kinh tế. Suy đến cùng, kiểu tư duy kinh tế ấy không tính đến
hiệu quả kinh tế và quyền làm chủ về kinh tế của quần chúng lao động.

20
Từ đây, ta cũng có thể thấy rằng: khi điều kiện đã thay đổi thì tư duy
cũng phải thay đổi theo. Đặc trưng chung nhất của nếp tư duy kinh tế mới
là tính khoa học sâu sắc, tính hiện thực, sự đánh giá có cân nhắc, sự kết hợp
có tính kế thừa trong khi phân tích các quá trình kinh tế xã hội và chính trị
với cách tiếp cận sáng tạo đổi mới trong việc giải quyết những vấn đề do
cuộc sống đặt ra.
Đổi mới tư duy kinh tế là phương thức để loại bỏ quan niệm cũ, lỗi

thời lạc hậu, và xây dựng một quan niệm mới về các lĩnh vực hoạt động
kinh tế tiến bộ hơn và phát triển hơn, phù hợp với điều kiện tình hình thực
tiễn đất nước. Đổi mới kinh tế ở nước ta là công cuộc đổi mới toàn diện,
chúng ta đã chuyển đổi từ mô hình tập trung bao cấp sang mô hình kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Quá trình chuyển dịch này bao gồm hàng loạt thay
đổi sâu rộng trong quan điểm và trên thực tế về cơ cấu thành phần kinh tế, chế
độ và hình thức sở hữu tư liệu sản xuất, hình thức tổ chức và cơ chế quản lý
kinh tế. Dù mang tính định hướng XHCN nhưng nền kinh tế nước ta vẫn phải
thể hiện đầy đủ bản chất và đặc trưng chung của kinh tế thị trường. Về bản
chất, kinh tế thị trường là hệ quả tất yếu của trình độ xã hội hoá LLSX, là hệ
thống những quan hệ kinh tế do nền sản xuất hàng hoá tạo ra, là kiểu tổ chức
sản xuất có "đầu vào" và "đầu ra" đều là hàng hoá, là chuỗi sản xuất kinh
doanh trong đó các chủ thể kinh tế vừa độc lập, vừa lệ thuộc lẫn nhau, cạnh
tranh và hợp tác với nhau nhằm mục tiêu đạt giá trị gia tăng ngày càng nhiều
hơn. Đặc trưng của kinh tế thị trường là các hoạt động kinh tế vận hành theo
cơ chế thị trường dưới sự chi phối của các quy luật thị trường trước hết là quy
luật giá trị và quy luật cung cầu; quan hệ giữa các chủ thể kinh tế là quan hệ
tiền tệ; thị trường trở thành căn cứ chủ yếu để phân bố các nguồn lực kinh tế;
ngoài ra giá trị gia tăng và lợi nhuận tối đa trở thành động lực bên trong trực
tiếp chi phối hoạt động của các doanh nghiệp; kinh tế thị trường là tự do hoá

21
kinh tế, mở cửa và hội nhập. Đó là bước đột phá trong tư duy của Đảng ta. Vì
vậy, cần tiếp tục không ngừng đổi mới và nâng cao năng lực tư duy để đáp
ứng được những yêu cầu mà nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đặt ra.
Con đường cải cách, đổi mới trên lĩnh vực kinh tế không đơn giản, không
thể diễn ra trong thời gian ngắn, mà phải mất nhiều thời gian, phải đối diện
với nhiều khó khăn, thử thách, kể cả những cản trở, kìm hãm bởi sự cạnh
tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường. Do vậy, chúng ta cần dũng cảm
đương đầu với thách thức, vì mục tiêu: độc lập dân tộc gắn liền CNXH và

bảo vệ vững chắc tổ quốc XHCN, cần phát huy hết tiềm năng nội lực và
ngoại lực mà chúng ta đã có (đặc biệt vai trò của nhân tố con người), nhất
là với sự phát triển kinh tế hiện nay nhân tố con người luôn là yếu tố trung
tâm, là động lực thúc đẩy phát triển mạnh mẽ. Vì vậy, chúng ta luôn luôn
đổi mới để con đường phát triển đi lên CNXH được rút ngắn nhất và việc
thực thi nó mang lại nhiều hiệu quả nhất.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) của Đảng CSVN mở
đầu cho thời kỳ đổi mới ở nước ta. Đại hội đã khởi xướng đường lối đổi
mới, coi đó là chiến lược phát triển của cách mạng Việt Nam trong tình
hình mới. Đổi mới là một quá trình lịch sử, là một bước ngoặt trên con
đường phát triển của nước ta. “Đại hội VI của Đảng đề ra đường lối đổi
mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước
ta” [19, 15]. Sứ mệnh lịch sử của đổi mới trước hết là đưa đất nước thoát
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng từ thập kỷ 80 của thế kỷ XX,
tạo lập thế ổn định và xây dựng những tiền đề để phát triển, làm thay đổi
tính chất và trạng thái phát triển của xã hội từ một nước nông nghiệp nghèo
nàn lạc hậu tiến lên trở thành một nước công nghiệp phát triển năng động,
tiến kịp mặt bằng phát triển chung trong khu vực và trên thế giới theo con
đường CNH, HĐH. Đổi mới là một quyết sách chính trị trọng đại, có ý

22
nghĩa lớn nhằm tìm kiếm một mô hình XHCN có hiệu quả, vạch ra phương
hướng và con đường đi tới XHCN phù hợp với quy luật khách quan, phản
ánh đúng xu thế của thời đại, của bối cảnh quốc tế và tình hình thế giới hết
sức phức tạp lúc bấy giờ với sự đan xen cả thời cơ, vận hội lớn lẫn những
thách thức trên con đường phát triển. Đổi mới không chỉ nhằm tìm lối thoát
ra khỏi khủng hoảng nặng nề, trầm trọng về kinh tế - xã hội mà còn cần để
tiếp tục sự nghiệp xây dựng CNXH theo một cách mới trong những điều
kiện và hoàn cảnh mới nhằm thực hiện thành công lý tưởng và mục tiêu mà
Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra: Độc lập dân tộc gắn liền với

CNXH, giữ vững nền độc lập tự do của tổ quốc, xây dựng thành công
CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta vẫn phải xác định đổi mới kinh tế
là nhiệm vụ trọng tâm: Đại hội VI đã đánh dấu bước phát triển quan trọng
trong sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, đại hội nhấn mạnh phải đổi mới tư
duy mà trước hết là tư duy kinh tế, lấy đó làm bước đột phá trong tư duy lý
luận của Đảng, tạo tiền đề cho việc triển khai đồng bộ và nhất quán các giải
pháp phát triển kinh tế, giải phóng LLSX trên cơ sở phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hướng xoá bỏ cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN và làm rõ nhận thức của Đảng về mối quan hệ giữa phát
triển kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội trên nguyên tắc tăng trưởng
kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội.
Đổi mới là một thời cơ lớn, một vận hội lớn để phát triển nhanh đất
nước và dân tộc. Đổi mới để tạo ra nhiều khởi sắc, để Việt Nam nhanh
chóng trở thành một nước năng động và phát triển, đó sẽ là một bước ngoặt
to lớn trong sự phát triển của nước ta. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng chịu
sức ép lớn trong cạnh tranh kinh tế. Đây chính là thách thức về điều kiện

×