Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Vai trò giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây dựng đạo đức cho thanh niên huyện Ba Vì hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (739.09 KB, 103 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN THỊ MAI


VAI TRÒ GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG
DÂN TỘC TRONG VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC
CHO THANH NIÊN HUYỆN BA VÌ HIỆN NAY


Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học
Mã số: 60 22 03 01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Dƣơng Văn Thịnh




Hà Nội, 2014
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Dương Văn Thịnh. Các số liệu và
nguồn tài liệu được dẫn trích trong luận văn là trung thực, chính xác và có
nguồn gốc xuất sứ rõ ràng. Tôi xin chịu mọi trách nhiệm trước nhà trường và
pháp luật về lời cam đoan này của tôi.
Hà Nội, ngày 24 tháng 07 năm 2014


Tác giả


Nguyễn Thị Mai










LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành và biết ơn sâu sắc tới PGS.TS
Dương Văn Thịnh – Người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành
luận văn Thạc sỹ này. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa
Triết – Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà
Nội đã giảng dạy, cung cấp cho tôi những kiến thức cơ bản về triết học để tôi
hoàn thành luận văn Thạc sỹ này trong điều kiện tốt nhất.

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 3
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 7

6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn 7
7. Kết cấu của luận văn 7
NỘI DUNG 8
CHƢƠNG 1: GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC VÀ
VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CHO THANH
NIÊN HUYỆN BA VÌ: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG 8
1.1. Giá trị đạo đức và giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam 8
1.1.1. Giá trị đạo đức 8
1.1.2. Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc 11
1.2. Sự cần thiết và nội dung xây dựng đạo đức cho thanh niên huyện Ba Vì 13
1.2.1. Sự cần thiết xây dựng đạo đức cho thanh niên huyện Ba Vì 13
1.2.2. Nội dung xây dựng đạo đức cho thanh niên huyện Ba Vì 36
1.3. Nội dung vai trò của giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong
xây dựng đạo đức cho thanh niên huyện Ba Vì hiện nay 44
1.3.1. Vai trò nền tảng trong xây dựng đạo đức cho thanh niên Ba Vì của
giá trị đạo đức truyền thống dân tộc 44
1.3.2. Vai trò động lực trong xây dựng đạo đức cho thanh niên Ba Vì
của giá trị đạo đức truyền thống dân tộc 46
1.3.3. Vai trò là nhân tố định hướng trong xây dựng đạo đức cho thanh
niên Ba vì của giá trị đạo đức truyền thống dân tộc 47
Tiểu kết chương 1 51
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THỰC
HIỆN TỐT HƠN VAI TRÒ GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG
DÂN TỘC TRONG XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN
HUYỆN BA VÌ HIỆN NAY 52
2.1. Thực trạng vai trò giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong xây
dựng đạo đức cho thanh niên huyện Ba Vì hiện nay 52
2.1.1. Thành tựu và nguyên nhân đưa đến thành tựu của vai trò giá trị
đạo đức truyền thống dân tộc trong xây dựng đạo đức cho thanh niên Ba
Vì hiện nay 52

2.1.2. Hạn chế và nguyên nhân dẫn đến hạn chế của vai trò giá trị đạo
đức truyền thống dân tộc trong xây dựng đạo đức cho thanh niên Ba Vì
hiện nay 59
2.2. Một số vấn đề đặt ra của việc thực hiện vai trò giá trị đạo đức
truyền thống dân tộc trong xây dựng đạo đức cho thanh niên Ba Vì
hiện nay 63
2.3. Một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn vai trò giá trị đạo đức
truyền thống dân tộc trong xây dựng đạo đức cho thanh niên huyện Ba Vì
hiện nay 70
2.3.1. Kết hợp giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc với xây dựng
môi trường kinh tế - xã hội lành mạnh trong xây dựng đạo đức cho thanh
niên Ba Vì 70
2.3.2. Xây dựng môi trường đạo đức lành mạnh trong gia đình, nhà
trường và xã hội 75
2.3.3.Nâng cao vai trò của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
trong việc phát huy vai trò giá trị đạo đức truyền thống để xây dựng đạo
đức cho thanh niên Ba Vì hiện nay 80
2.3.4. Đổi mới nội dung, hình thức giáo dục đạo đức truyền thống trong
việc xây dựng đạo đức cho thanh niên Ba Vì hiện nay 82
2.3.5. Nâng cao ý thức tự giác rèn luyện, học tập giá trị đạo đức truyền
thống trong xây dựng đạo đức cho thanh niên 87
Tiểu kết chương 2 88
KẾT LUẬN 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO 92


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một quốc gia có nền văn hiến lâu đời với những giá trị truyền

thống tốt đẹp, đặc biệt là các giá trị đạo đức truyền thống mang đậm tính nhân văn
cao cả, đặc trưng cho cốt lõi văn hóa, tinh thần dân tộc. Xã hội càng phát triển, con
người càng cần phải hiểu sâu sắc hơn những giá trị truyền thống của dân tộc mình.
Càng hướng tới sự văn minh và hiện đại, xã hội càng phải chú trọng đảm bảo những
gía trị đạo đức, văn hóa đạo đức trong phát triển. Nếu không biết kế thừa và phát
huy các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc thì xã hội sẽ không thể phát triển
bền vững, cuộc sống của mỗi cá nhân và cả cộng đồng không thể bình yên, hạnh
phúc. Là lực lượng nắm giữ vận mệnh đất nước trong tương lai, hơn ai hết, thế hệ
thanh niên Việt Nam càng cần phải được kế thừa, phát huy các giá trị đạo đức
truyền thống, tiếp thu di sản quý báu mà ông cha để lại, tiếp tục giữ vững và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc, làm cho nó trường tồn cùng lịch sử.
Thực tế cho thấy, ở bất cứ giai đoạn lịch sử nào, thanh niên cũng luôn giữ vai
trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn vong và phát triển của đất nước. Sinh thời,
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đối với thanh niên. Khi
đánh giá về thanh niên Hồ Chí Minh khẳng định: Thanh niên là người chủ tương
lai của nước nhà, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh, một phần lớn là do các
thanh niên. Nhận thức đúng vị trí, vai trò của thanh niên Đảng ta khẳng định:
“Sự nghiệp của đất nước ta thành công hay không, đất nước ta bước vào
thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không chủ yếu là do
lực lượng thanh niên ngày nay quyết định. Tương lai của dân tộc Việt Nam, sự
phát triển của đất nước tuỳ thuộc vào việc bồi dưỡng rèn luyện thế hệ thanh niên”
[71, tr7]. Chính vì vậy việc giáo dục, đào tạo bồi dưỡng thế hệ thanh niên là một
việc làm thường xuyên và cần thiết.
Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam
khởi xướng và lãnh đạo đã và đang mang lại những kết quả to lớn trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Với những thành tựu đó đã tạo điều kiện cho thanh
niên học tập, giao lưu với các nước, đặc biệt là các nước có nền khoa học - công

2
nghệ tiên tiến. Từ đó giúp cho thanh niên tích luỹ được nhiều kinh nghiệm quý báu,

có cơ hội tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại. Ngoài ra, chính sự năng
động của cơ chế thị trường đã tôi luyện cho thanh niên có được bản lĩnh đáng quý:
nhạy bén, quyết đoán, thích khám phá cái mới, vươn lên để tự khẳng định mình.
Thế nhưng bên cạnh những thành tựu đạt được đã nảy sinh những hạn chế nhất định
do cơ chế thị trường mang lại, đó là sự xuất hiện đến mức báo động các hiện tượng
phản đạo đức, phi nhân tính trong đời sống xã hội. Chính lối sống thực dụng, chạy
theo đồng tiền, thói ích kỷ, buông thả, phai mờ lý tưởng, bất chấp đạo lý… đang
từng ngày, từng giờ làm xói mòn, băng hoại những nét đẹp văn hoá, đặc biệt là
những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc.
Trước những tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường, công nghiệp
hóa và toàn cầu hóa hiện nay đã đặt ra hàng loạt vấn đề đối với thanh niên là làm
thế nào để thanh niên trong tương lai đủ sức đáp ứng yêu cầu của đất nước đặt
ra? Làm thế nào để họ có thể tự định hướng đúng, hình thành và rèn luyện phẩm
chất đạo đức trong đời sống kinh tế thị trường hiện nay? Làm thế nào để những
ảnh hưởng tiêu cực không làm suy giảm nguồn lực trẻ ? Do vậy, việc xây dựng
đạo đức cho thanh niên càng cần thiết phải chú trọng kế thừa và phát huy các giá
trị đạo đức truyền thống dân tộc, chuẩn bị đầy đủ hành trang từ truyền thống,
nhằm tạo nền tảng, bệ đỡ tinh thần cho họ vững bước vào đời. Có như vậy, sự
phát triển nhân cách, đạo đức của thanh niên mới tránh được những hụt hẫng,
lệch lạc, những xung đột có tính thế hệ và giá trị.
Mặc dù Đảng ta có nhiều quan điểm, chủ trương nhằm kế thừa và phát huy
những giá trị đạo đức truyền thống trong việc xây dựng đạo đức cho mọi tầng lớp
nhân dân nói chung, cho thanh niên nói riêng, thế nhưng việc cụ thể hoá các quan
điểm, đường lối ấy của Đảng ở một số nơi làm chưa tốt.
Ba Vì là một huyện bán sơn địa, nằm phía Tây Bắc cuả thủ đô Hà Nội. Với
số dân là hơn 265.000 người (2009), trong đó thanh niên chiếm tương đối lớn với
khoảng 81000 người (2009). Đây là lực lượng nòng cốt cho sự phát triển kinh tế -
xã hội của Ba vì nói riêng và cả nước nói chung.

3

Mặc dù các chủ thể giáo dục đã có nhiều cố gắng trong quá trình giáo dục
các giá trị đạo đức cho thanh niên, thế nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau đã
làm cho hiệu quả giáo dục chưa cao, thậm chí ở một số nơi cấp ủy Đảng, chính
quyền và tổ chức Đoàn còn xem nhẹ hoặc chưa thấy rõ tầm quan trọng của việc
giáo dục đạo đức cho thanh niên.
Điều đó đang đặt ra yêu cầu bức thiết phải nhận thức đúng đắn, sự cần thiết
và tìm ra những giải pháp thích hợp để phát huy tốt các giá trị đạo đức truyền thống
dân tộc trong việc xây dựng đạo đức cho thanh niên cả nước nói chung và thanh
niên huyện Ba Vì hiện nay nói riêng. Vì vậy, Tôi chọn đề tài “Vai trò giá trị đạo
đức truyền thống dân tộc trong việc xây dựng đạo đức cho thanh niên huyện Ba
Vì hiện nay”làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề giá trị đạo đức và giá trị đạo đức truyền thống trong việc xây dựng
đạo đức nói chung, cho thanh niên nói riêng đã được Đảng ta và nhiều nhà khoa học
bàn đến. Đề cương văn hoá Việt Nam (1943) Đảng ta đã đề cập đến vấn đề kế thừa
giá trị văn hoá truyền thống dân tộc để xây dựng nền văn hoá Việt Nam với nội
dung “dân tộc - khoa học - đại chúng”; Nghị quyết Trung ương 5 Ban chấphành
trung ương khoá VIII (1998) với nội dung: “Xây dựng và phát triển nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”; Công trình của Trần Văn Giầu: giá trị
tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980.
Trong công trình này, tác giả đề cập đến cơ sở hình thành, nội dung và những biểu
hiện của giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc, trong đó chủ yếu là những giá trị
đạo đức.Đề tài KX – 07 – 02 mang tên: Các giá trị truyền thống và con người Việt
Nam, do Phan Huy Lê và Vũ Minh Giang chủ trì, đã nghiên cứu quá trình hình
thành, phát triển và biến đổi của các giá trị truyền thống Việt Nam, phân tích nội
dung cấu thành của truyền thống Việt Nam, đánh giá những mặt mạnh, mặt yếu của
di sản truyền thống đồng thời đưa ra những khuyến nghị về phương hướng và giải
pháp giáo dục, phát huy các giá trị truyền thống để giải quyết một cách hài hòa mối
quan hệ giữa truyền thống và hiện đại.
Khi đất nước chuyển nền kinh tế từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa, tập trung,


4
quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, đã có nhiều
công trình nghiên cứu về sự biến đổi và định hướng giá trị trong nền kinh tế thị
trường. Theo hướng nghiên cứu này, có các công trình tiêu biểu đáng chú ý là
chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX.07 “Con người Việt Nam - mục
tiêu và động lực phát triển kinh tế xã hội”, gồm 19 đề tài, trong đó có đề tài mang
mã số KX.07.04 của các tác gỉa: Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Thạc, Mạc Văn
Trang nghiên cứu về: Giá trị - định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị;
Nguyễn Trọng Chuẩn trong bài viết: Đôi điều suy nghĩ về giá trị và sự biến đổi các
giá trị khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường
Công trình nghiên cứu “Văn hóa đạo đức ở nước ta hiện nay vấn đề và giải
pháp” (Nxb Văn hóa - thông tin và viện văn hóa, 2007) của các tác giả Lê Quí Đức
và Hoàng Chí Bảo đã góp phần quan trọng làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung
về văn hóa đạo đức, trên cơ sở đó, phân tích sâu sắc thực trạng văn hóa đạo đức ở
nước ta hiện nay trên nhiều bình diện, đặc biệt là những biến đổi trong các gía trị
chuẩn mực văn hóa đạo đức. Các ông khẳng định: “Ngày nay hệ giá trị đạo đức dân
tộc đang chịu sự tác động của nhiều yếu tố kinh tế, xã hội mà chủ yếu là việc xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc mở cửa hội nhập
trong xu thế toàn cầu hóa các giá trị, chuẩn mực đạo đức truyền thống tất yếu
cũng biến đổi theo xu hướng tích cực và tiêu cực, tạo nên những màn sáng, tối của
đời sống tinh thần, đạo đức hiện nay”. [63, tr85] Tìm ra nguyên nhân của thực trạng
văn hóa đạo đức hiện nay, các tác giả đề xuất những giải pháp cơ bản, có tính khả
thi cao nhằm xây dựng nền văn hóa ở nước ta hiện nay.
Vấn đề về xây dựng đạo đức nói chung và xây dựng đạo đức cho thanh niên
hiện nay cũng có nhiều công trình khoa học của nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu.
Tác giả Trịnh Duy Huy trong cuốn “xây dựng đạo đức mới trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” (Nxb Chính trị Quốc Gia, 2009) cho rằng:
“đạo đức mới ở Việt Nam là một hình thức đặc thù của đạo đức cộng sản, tính đặc
thù của nó được qui định bởi thực tiễn cách mạng Việt Nam, truyền thống đạo đức

dân tộc và dấu ấn Hồ Chí Minh [25, tr.69].
Đó là luận án tiến sỹ triết học của Võ Văn Thắng với đề tài “kế thừa và phát

5
huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc trong việc xây dựng lối sống ở Việt
Nam hiện nay”. Học Viện Chính Trị Quốc Gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2005, trên cơ
sở phân tích thực trạng và những vấn đề đang đặt ra trong quá trình kế thừa và phát
huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc trong xây dựng lối sống ở nước ta hiện
nay, đã nhận định: “Kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc để
xây dựng lối sống mới là một quá trình phấn đấu công phu, bền bỉ và khó khăn, đòi
hỏi phải được tiến hành một cách thường xuyên, kiên trì và thận trọng” [65, tr.134].
Một số chuyên khảo tiêu biểu đi sâu nghiên cứu nhằm xác định các giá trị
đạo đức truyền thống làm cơ sở cho việc xây dựng đời sống văn hoá đặc biệt là đời
sống văn hoá và con người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đó là: luận án tiến sỹ
triết học của Trần Sỹ Phán với đề tài “Giáo dục đạo đức với sự hình thành và phát
triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, Học viện Chính Trị
Quốc Gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1999; “Quan hệ kinh tế và đạo đức với việc xây
dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ hiện nay ở Việt Nam” của Nguyễn Đình Quế (luận
văn thạc sỹ, 2000); “Giá trị đạo đức và biểu hiện của nó trong đời sống xã hội” của
Mai Xuân Lợi, (tạp chí Triết học số 3, 2001); “Vấn đề giáo dục đạo đức truyền
thống cho sinh viên Việt Nam hiện nay”của Doãn Thị Chín (luận văn thạc sỹ, 2004).
Bên cạnh các đề tài nghiên cứu khoa học, sách chuyên khảo, những luận án,
luận văn còn có nhiều bài báo tập trung tìm hiểu vai trò của giá trị đạo đức truyền
thống trong điều kiện hiện nay, chẳng hạn, Lê Thị Tuyết Ba, “vai trò của đạo đức
đối với sự phát triển kinh tế xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường” (Tạp chí triết
học, số 5, 2002); Trần Sỹ Phán, “Vai trò của giáo dục đạo đức đối với việc hình
thành và phát triển nhân cách trong giai đoạn hiện nay” (Tạp chí giáo dục lý luận,
số 1, 1999).
Như vậy, các công trình nghiên cứu trên đã đề cập và luận giải đến nhiều
bình diện khác nhau của đời sống đạo đức xã hội. Trong đó, những vấn đề về vai trò

của giá trị đạo đức truyền thống, xây dựng đạo đức, đặc biệt là xây dựng đạo đức
cho thanh niên nhận được sự quan tâm lớn của các nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, vấn
đề vai trò giá trị đạo đức truyền thống trong việc giáo dục đạo đức nói chung, đạo
đức cho thanh niên nói riêng là vấn đề đang có biến đổi phức tạp, vì thế cần phải

6
tiếp tục đi sâu nghiên cứu.
Do sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Ba Vì tươi đẹp và vì chưa từng có một đề
tài nào nghiên cứu về vai trò của giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây
dựng đạo đức cho thanh niên huyện Ba Vì, nên Tôi chọn đề tài này làm luận văn
thạc sỹ của mình.
Những kết quả nghiên cứu trong một số công trình trên đây là nguồn tư
liệu quý giá để tác giả tham khảo và kế thừa trong quá trình thực hiện đề tài luận
văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở phân tích vai trò giá trị đạo đức truyền thống trong việc xây dựng
đạo đức cho thanh niên huyện Ba Vì những năm vừa qua, luận văn đề xuất một số
giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn vai trò giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong
xây dựng đạo đức cho thanh niên huyện Ba Vì hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Phân tích rõ nội dung giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam.
- Làm rõ sự cần thiết và nội dung xây dựng đạo đức cho thanh niên huyện Ba
Vì hiện nay.
- Phân tích vai trò giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong xây dựng đạo
đức cho thanh niên huyện Ba Vì về mặt lý luận và thực tiễn những năm qua.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn vai trò giá trị đạo đức
truyền thống dân tộc trong xây dựng đạo đức cho thanh niên huyện Ba Vì hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc và vai trò của nó trong việc xây dựng
đạo đức cho thanh niên huyện Ba Vì hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đạo đức, giá trị đạo đức truyền thống là vấn đề phong phú, phứ ctạp, đòi hỏi
phải được nghiên cứu từ nhiều góc độ, nhiều nhân tố tác động và nhiều khía cạnh

7
khác nhau. Trong phạm vi luận văn này chúng tôi chỉ đề cập đến một số giá trị đạo
đức truyền thống dân tộc như: truyền thống yêu nước, truyền thống cần cù lao động,
truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái và vai trò của nó trong việc xây dựng
đạo đứcchothanh niên huyện Ba Vì hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận của luận văn
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận là quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng cộng sản Việt
Nam về đạo đức và đạo đức thanh niên. Ngoài ra luận văn còn tham khảo, kế thừa
có chọn lọc những thành tựu của các công trình nghiên cứu khoa học có liên quan
đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; kết hợp giữa phương pháp lịch sử và logic, phân
tích và tổng hợp. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp so sánh, phân tích, thống
kê để thực hiện mục đích nghiên cứu của đề tài.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Phân tích và làm rõ thực trạng thực hiện vai trò giá trị đạo đức truyền thống
trong việc xây dựng đạo đức cho thanh niên huyện Ba Vì hiện nay.
- Đề ra những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt hơn vai trò giá trị đạo đức
truyền thống dân tộc trong việc xây dựng đạo đức cho thanh niên huyện Ba Vì hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương và 6 tiết

8
NỘI DUNG

CHƢƠNG 1
GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC VÀ VAI TRÒ
CỦA NÓ TRONG XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN
HUYỆN BA VÌ: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG

1.1. Giá trị đạo đức và giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam
1.1.1. Giá trị đạo đức
Với tư cách là yếu tố cấu thành hệ thống các giá trị tinh thần của đời sống xã
hội, giá trị đạo đức được xác định là những chuẩn mực, những khuôn mẫu lý tưởng,
những quy tắc ứng xử nhằm điều chỉnh và chuẩn hóa hành vi con người trong quá
trình hình thành và phát triển nhân cách.
Trong mỗi một vùng miền, dân tộc, mỗi thời kỳ lịch sử, có hệ thống các giá
trị đạo đức tồn tại ở những mức độ khác nhau, được sắp xếp theo những thang bậc
khác nhau trong quá trình giáo dục và hoạt động của cá nhân, cũng như trong quá
trình tác động qua lại giữa cá nhân với môi trường xung quanh.
Mỗi thời đại lịch sử, có những mẫu hình giá trị đạo đức khác nhau. Trong
thời cổ đại, giá trị đạo đức cao quí nhất là phục tùng các giá trị của cộng đồng, mọi
người không được ăn cắp. Mẫu người điển hình là những người anh hùng khỏe
mạnh, có khả năng bảo vệ được cộng đồng; thời Trung cổ, do ảnh hưởng nặng nề
của tôn giáo, giá trị đạo đức cao nhất là sự phụng chúa hết mình. Mẫu người lý
tưởng là những người truyền giáo, những con chiên ngoan đạo; sang thời tư bản chủ
nghĩa, đây là thời kỳ kinh tế, khoa học, kỹ thuật phát triển và việc đề cao lý tính con
người ở một mức độ nhất định, con người phải tự biết định đoạt số phận của mình,
nên đã hình thành những giá trị đạo đức như tự chủ cá nhân, tài năng được đề cao,

đặc biệt là lao động trí óc; ở trong xã hội cộng sản chủ nghĩa, giá trị đạo đức cao quí
nhất của con người là mang hết sức mình phục vụ mọi người, mình vì mọi người và
mọi người vì mình. Đó là xã hội mà tất cả mọi người dân đều được hưởng ấm no,
hạnh phúc.

9
Bởi vậy, khi phán xét, thẩm định một hệ thống giá trị đạo đức nào đó, chúng
ta không thể dừng lại ở chỗ lý giải nội dung khái niệm của nó mà phải đi sâu tìm
hiểu nguồn gốc xã hội, đặc điểm kinh tế, nền tảng kinh tế xã hội, nghĩa là phải hiểu
tồn tại xã hội đã nảy sinh ra nó. Chuẩn mực đạo đức luôn thay đổi theo tồn tại xã
hội và do vậy, theo các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác “không thể có thứ đạo đức tồn
tại vĩnh viễn”.
Những giá trị đạo đức tiêu biểu bao giờ cũng phản ánh những yêu cầu cơ bản
của xã hội, nó có nhiệm vụ định hướng hành vi con người phù hợp với hoàn cảnh xã
hội. Khi điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi, sẽ dẫn đến những thay đổi trong hệ giá
trị tinh thần xã hội, trong đó có giá trị đạo đức. Đó là sự phản ánh quá trình vận
động và phát triển thường xuyên của các giá trị đạo đức và đó cũng là biểu hiện hợp
qui luật của quá trình vận động, phát triển của đời sống tinh thần xã hội dưới tác
động của những biến đổi diễn ra trong đời sống kinh tế - xã hội.
Các giá trị đạo đức với những biểu hiện khác biệt nhau luôn từ một nền văn
hóa này, một xã hội này di chuyển, thẩm thấu, ảnh hưởng tới một nền văn hóa khác,
một xã hội khác. Trong một chừng mực nhất định, các nhân tố của môi trường
hướng các cá nhân vào các giá trị nào đó và gây ảnh hưởng đến việc lựa chọn các
giá trị, đánh giá các mẫu hành vì tiêu biểu bằng năng lực bản thân. Nếu như năng
lực này kém phát triển sẽ làm giảm khả năng đánh giá các giá trị đạo đức, giảm
thiểu mối quan tâm đến người khác và do đó hạn chế khả năng, phạm vi hoạt động
của con người. Như vậy, bên cạnh những yếu tố môi trường, năng lực bản thân
đóng vai trò rất lớn trong việc tiếp nhận giá trị nào đó để hình thành nên một nhân
cách mới phù hợp với yêu cầu xã hội.
Giá trị đạo đức vừa có tính chuẩn mực, lại vừa có tính mềm dẻo, linh hoạt và

luôn vận động, biến đổi cùng với sự vận động, biến đổi chung của đời sống kinh tế -
xã hội. Giá trị đạo đức không phải là bất biến, mà sẽ thay đổi để phù hợp với hoàn
cảnh xã hội khi xã hội thay đổi. Có thể thấy điều này qua sự xung đột giữa các giá
trị truyền thống và hiện đại. Những lúc ấy, con người sẽ đứng trước sự lựa chọn khó
khăn. Giá trị đạo đức này có thể không biến đổi, nhưng gía trị đạo đức khác lại có
thể biến đổi. Có sự biến đổi đó là do điều kiện sống của con người thay đổi làm cho

10
nhận thức của mỗi người, mỗi thế hệ, mỗi thời đại quan niệm về giá trị đạo đức
khác nhau. Chúng ta có thể lấy ví dụ như quan niệm “ trung với vua” trong học
thuyết Nho giáo. Học thuyết này cho rằng: tất cả mọi người trong thiên hạ, đặc biệt
là quan lại phải trung thành với vua, với dòng họ nhà vua trong bất kỳ hoàn cảnh
nào. Chính quan niệm đó đã tạo ra những nhà nho trung với vua một cách cứng
nhắc. Hay ngay cả trong xã hội ta hiện nay, chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị
trường với những yêu cầu về đạo đức được đề cao như tính tự chủ cá nhân thì tâm
lý ỷ lại, dựa vào tập thể trong nhiều trường hợp vẫn còn ăn sâu trong ý thức của con
người Việt Nam. Nhưng không phải ai cũng tỏ ra bảo thủ trước những biến đổi của
đời sống xã hội.
Vậy giá trị đạo đức là gì?
Giá trị đạo đức là những chuẩn mực đạo đức có tính phổ biến ổn định tương
đối được con người lựa chọn nhằm định hướng ý nghĩ, hành vi của mình. Nó có sức
mạnh điều chỉnh hành vi của các cá nhân trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
thông qua dư luận xã hội lành mạnh. Trong sự vận động hiện thực, nếu không có
một nhà nước pháp quyền đủ mạnh thì giá trị đạo đức dễ bị đẩy xuống hàng thứ yếu.
Trong tiến trình phát triển lịch sử của xã hội loài người, hệ thống giá trị tinh
thần của đời sống xã hội nói chung, các giá trị đạo đức nói riêng luôn được coi là
yếu tố cấu thành diện mạo của một thời đại, một xã hội, một dân tộc, một nền văn
hóa và của nhân cách con người. Do vậy, mọi phương thức thẩm định, định hướng
giá trị nói chung, giá trị đạo đức nói riêng đều phải dựa trên cơ sở tính ổn định
tương đối của các giá trị đó.

Với tư cách là sản phẩm của tiến trình phát triển lịch sử, của sự phát triển
kinh tế - xã hội và mang tính thực tiễn - lịch sử cụ thể, các giá trị đạo đức được xác
định là tất cả những gì đem lại sự phát triển, sự tiến bộ cho xã hội và cho cá nhân
mỗi con người. Bởi thế, mọi giá trị đạo đức đều phải hướng tới tính nhân văn đó.
[39, tr.29]
Không có một dân tộc, một xã hội nào lại không có gía trị đạo đức của riêng
mình. Vấn đề đặt ra là con người phải biết lựa chọn những giá trị đạo đức nào là

11
phù hợp, là mang lại ý nghĩa thiết yếu với yêu cầu phát triển của bản thân, của thời
đại, để góp phần vào sự phát triển chung của xã hội.
1.1.2. Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc
Những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc có nguồn gốc sâu xa và bắt
nguồn từ đời sống hiện thực của con người, những hoàn cảnh địa lý, môi trường tự
nhiên và lịch sử xã hội. Nhận thức sâu sắc và định hướng đúng đắn việc kế thừa các
gía trị đạo đức truyền thống dân tộc là tiền đề cơ bản để tạo nên đạo đức lành mạnh
của xã hội, góp phần giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hóa dân tộc, phát huy mặt tích
cực và hạn chế đến mức thấp nhất mặt trái của cơ chế thị trường.
Các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc là bộ phận cốt lõi trong các giá
trị tinh thần truyền thống của dân tộc. Nói đến các giá trị đạo đức truyền thống dân
tộc là nói đến những phẩm chất đạo đức tốt đẹp đã được hình thành, phát triển dần
qua suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Đó là những giá trị nhân văn mang tính cộng
đồng, tính ổn định tương đối, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, thể
hiện trong các chuẩn mực phổ biến, cơ bản nhằm điều chỉnh và đánh giá hành vi
của các cá nhân.
Các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc vừa là kết quả, vừa là cơ sở,
động lực của quá trình đấu tranh dựng nước, giữ nước và giao lưu văn hóa lâu dài
của dân tộc, góp phần tạo dựng bản lĩnh dân tộc, nhân cách con người Việt Nam.
Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc là sự kết tinh toàn bộ tinh hoa được
cô đúc nên trong suốt quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của dân tộc. Cho

nên, giá trị đạo đức truyền thống là cái thể hiện bản chất nhất, đặc trưng nhất của
cốt lõi văn hóa dân tộc tạo nên một sức mạnh tiềm tàng và bền vững.
Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc không phải là những gì sẵn có khi
dân tộc đó xuất hiện, mà do các thế hệ người nối tiếp nhau trong lịch sử tạo thành.
Tuy nhiên, mỗi dân tộc cũng không thể lựa chọn cho mình những giá trị truyền
thống như mong muốn, mà những giá trị truyền thống được hình thành dựa trên cơ
sở những điều kiện kinh tế, lịch sử, xã hội của chính dân tộc đó trong suốt tiến trình
lịch sử của mình. Theo C.Mác, “con người làm ra lịch sử của chính mình, nhưng
không phải làm theo ý muốn tùy tiện của mình, trong những điều kiện tự mình chọn

12
lấy, mà là trong những điều kiện trực tiếp có trước mắt, đã có sẵn và do quá khứ để
lại.[49, tr.145]
Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc cũng không phải là giá trị vĩnh cửu,
nó có lõi bất biến đồng thời có phần biến động để có thể bổ sung, đổi mới, ngày
càng phong phú và phù hợp với đặc trưng, tính chất thời đại. Một giá trị khi đã trở
thành giá trị truyền thống không có nghĩa là nhất thành, bất biến và có giá trị cao
cho mọi thời đại, mà cùng với sự vận động, biến đổi của lịch sử nó cũng có sự thay
đổi cho phù hợp. Giáo sư Trần Văn Giầu nhận định: “nếu mỗi lúc một thay thì tính
truyền thống không còn nữa; nói truyền thống là nói lâu dài qua nhiều thời mà lõi
cốt vẫn giữ; nói của dân tộc là nói chung của đại đa số người dân. Trong giá trị
truyền thống dân tộc thì người xưa và người nay đều cơ bản đồng tình, người sau
nối chí người trước, phát huy lên, làm giầu mãi mãi” [20, tr.51]. Nói cách khác, giá
trị đạo đức truyền thống trong quá trình biến đổi vẫn giữ được cái cốt lõi của nó, và
chỉ bổ sung, chuyển hóa hay thay đổi hình thức cho phù hợp với yêu cầu của thời đại.
Như vậy, giá trị đạo đức truyền thống dân tộc luôn luôn gắn với quá trình
hình thành, tồn tại và phát triển của dân tộc, nó gắn liền với đời sống, với những
thăng trầm của dân tộc. Toàn bộ gía trị đạo đức truyền thống dân tộc là cái thể hiện
cô đọng nhất, độc đáo nhất, rõ nét nhất bản chất dân tộc. Đồng thời nó cũng chính là
sức mạnh nội sinh để một dân tộc, một đất nước tồn tại và phát triển.

Giá trị đạo đức truyền thống có một vị trí vô cùng quan trọng trong sự tồn tại
và phát triển của dân tộc. Việc kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống
dân tộc có một ý nghĩa vô cùng to lớn trong giai đoạn phát triển mới của mỗi quốc
gia. Chính vì vậy, việc kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc
có một ý nghĩa vô cùng to lớn trong giai đoạn phát triển của mỗi quốc gia. Khi lịch
sử có những biến động lớn thì mỗi dân tộc không vì thế mà phủ định sạch trơn
những giá trị truyền thống đã có từ ngàn xưa mà cần phải biết chắt lọc, kế thừa
những giá trị đó, bổ sung, phát triển làm cho nó trở thành động lực thúc đẩy tiến
trình đi lên của đất nước. Một dân tộc có những giá trị truyền thống bền vững, mạnh
mẽ, có bản sắc văn hóa đậm đà sẽ không bao giờ bị hòa tan hay xóa nhòa cho dù đất
nước có bị xâm lược, có nguy cơ bị thôn tính hay ở trong vòng xoáy của hội nhập.

13
Cùng với chiều dài của lịch sử dân tộc, cùng với thời gian, các giá trị đạo đức
truyền thống dân tộc Việt Nam được hình thành và phát triển. Những giá trị đạo đức
truyền thống đã trở nên ổn định và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác
và trở thành động lực, sức mạnh, bản sắc của nhân cách con người Việt Nam.
Theo Giáo sư Vũ Khiêu, giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam
bao gồm: “lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết, lao động cần cù, tinh thần nhân
đạo, lòng yêu thương và quí trọng con người” [33, tr.74- 86]. Giáo sư Trần Văn
Giầu cho rằng các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam bao gồm: yêu
nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa. Trong các văn
kiện của Đảng ta, đặc biệt là nghị quyết của Bộ chính trị về một số định hướng lớn
trong công tác tư tưởng đã xác định: “những giá trị văn hóa truyền thống bền vững
của dân tộc Việt Nam là lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý
thương người như thể thương thân, đức tính cần cù, vượt khó, sáng tạo trong lao
động” [13, tr.19]
Như vậy từ quan điểm của Đảng và các nhà khoa học ta có thể khẳng định:
dân tộc Việt Nam có một di sản giá trị đạo đức vô cùng phong phú, trong đó các giá
trị điển hình là: tinh thần yêu nước, lòng thương người sâu sắc, tinh thần đoàn kết,

tinh thần lao động cần cù, tiết kiệm.
Đó là những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cần phải được trân trọng và
phát huy làm cơ sở cho việc nắm bắt, tiếp thu và vận dụng sáng tạo những tri thức
khoa học, công nghệ của nhân loại để phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước. Những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc là cái không dễ bị phai
mờ khi đối mặt với những biến chuyển dồn dập của xã hội hiện đại.
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay của đất nước, bên cạnh việc
tiếp thu những tinh hoa của các dân tộc trên thế giới, chúng ta cần phải kế thừa và
phát huy vai trò giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc mình để xây dựng đạo đức
cho con người Việt Nam nói chung và cho thanh niên Ba Vì nói riêng.
1.2. Sự cần thiết và nội dung xây dựng đạo đức cho thanh niên huyện Ba Vì
1.2.1. Sự cần thiết xây dựng đạo đức cho thanh niên huyện Ba Vì
Đặc thù thanh niên và thanh niên huyện Ba Vì

14
Thanh niên là tương lai của đất nước, là lực lượng hùng hậu, có tiềm
năng to lớn, xung kích trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.Vì thế,
trong suốt tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, vấn đề thanh niên đã được
tất cả các quốc gia và nhân loại coi là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt. Khi nói đến
thanh niên có rất nhiều khái niệm khác nhau tuỳ thuộc vào từng cách tiếp cận của vấn
đề này, nó phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế chính trị, đặc điểm truyền thống,
tuổi thọ bình quân mà mỗi quốc gia có quy định độ tuổi thanh niên khác nhau. Hầu
hết, các nước trên thế giới đều có sự thống nhất tuổi thanh niên bắt đầu từ 14 hoặc 15
tuổi và kết thúc ở tuổi nào thì có sự khác biệt. Có nước quy định là 25 tuổi, có nước
quy định là 30 và cũng có nước quy định là 40 tuổi.
Ở Việt Nam đã có giai đoạn tuổi thanh niên được hiểu gần như đồng nhất
với tuổi đoàn viên (15 đến 28 tuổi). Ngày nay, do điều kiện kinh tế, chính trị, xã
hội phát triển, thời gian học tập, đào tạo cơ bản của tuổi trẻ dài hơn nên tuổi
thanh niên được xác định là 15 đến 30 tuổi. Tương lai độ tuổi của thanh niên
Việt Nam có thể sẽ tăng vì theo khoản 2 điều 1 của dự thảo luật thanh niên, độ

tuổi của thanh niên từ 16 đến 35. Tuy nhiên, vấn đề này còn nhiều ý kiến khác
nhau. Tuỳ thuộc vào nội dung và góc độ nghiên cứu mà có nhiều cách quan niệm
khác nhau về thanh niên. Trong thực tế Việt Nam có rất nhiều cách định nghĩa
khác nhau về thanh niên.
Hồ Chí Minh, khi nói đến thanh niên Người đã đưa ra một khái niệm đầy
hình ảnh: “Một năm bắt đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ
là mùa xuân của xã hội” [54, tr.69]. Hồ Chí Minh cho rằng thanh niên là lứa tuổi
sống động nhất, mạnh mẽ và đẹp đẽ nhất của cuộc đời.
Trong cuốn: “Tìm hiểu một số thuật ngữ về công tác thanh niên” – “Thanh
niên là một tầng lớp người - xã hội đặc thù, với độ tuổi nằm trong giới hạn từ 14,
15 đến trên dưới 30 tuổi”. Trong đề tài nghiên cứu “Tình hình tư tưởng thanh niên
và công tác giáo dục của đoàn thanh niên giai đoạn hiện nay”, quan niệm “Thanh
niên là nhóm nhân khẩu - xã hội đặc thù có độ tuổi nhất định được phân bố rộng
khắp trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, trong các ngành kinh tế xã hội của
đất nước”

15
Từ những quan niệm khác nhau về thanh niên, ta có thể khái quát một số
nét về thanh niên:
Thứ nhất, thanh niên là một nhóm nhân khẩu xã hội đặc thù có độ tuổi từ
14, 15 đến trên dưới 30 tuổi. Thanh niên dù xét dưới bất cứ góc độ nào, phương
diện nào cũng thuộc phạm trù con người, phạm trù xã hội. Họ là một lớp người,
một thế hệ sống trong cộng đồng xã hội với những đặc điểm chung, riêng trong
quan hệ với chính họ.
Thứ hai, thanh niên là giai đoạn đang trưởng thành có khả năng phát triển
về trí tuệ và nhân cách mạnh mẽ cùng với sự phát triển nhanh về thể chất. Đây là
giai đoạn có những biến đổi mạnh về tâm sinh lý.
Về sinh lý, lứa tuổi thanh niên được coi là một cấp độ phát triển hoàn
thiện về mặt thể chất như: chiều cao, cân nặng, sự phát triển hoàn thiện của các
cơ quan chức năng Sự phát triển này là điều kiện để thanh niên tự khẳng định

vai trò, vị trí và trách nhiệm của mình trong xã hội.
Về tâm lý, thanh niên là những người luôn giầu ước mơ và hoài bão, đầy
lòng nhiệt tình, hăng say, ý chí, nghị lực, luôn có nhu cầu tìm hiểu thích khám
phá, giầu óc tưởng tượng , có nhu cầu cao trong tình bạn, tình yêu nam nữ và
lập gia đình. Mặt khác, ngày nay do điều kiện sinh hoạt vật chất ngày càng được
nâng cao nên con người sinh lý đã phát triển, nhưng những phẩm chất xã hội thì
chưa hoàn thiện, chưa ổn định vững vàng. Lúc này sự giáo dục của gia đình, nhà
trường và xã hội là hết sức cần thiết. Bên cạnh những ưu điểm nổi bật, trong
thanh niên vẫn tiềm ẩn những nhân tố tiêu cực và những hạn chế nhất định, bên
cạnh sự dám nghĩ, dám làm là tính bồng bột thiếu kinh nghiệm và cả sự liều lĩnh;
là những người giầu ước mơ, hoài bão, nhưng khi gặp khó khăn, thất bại thì dao
động, tự ti và chán nản; có tính tự lập, nhưng cũng dễ tự cao, kiêu ngạo, không
phân biệt được thật giả, đúng sai; giàu óc tưởng tượng, nhạy cảm nhưng hay thần
tượng hóa, dễ thay đổi Như vậy có thể thấy rằng, tuổi trẻ là nhiệt tình, năng
động, giầu sinh lực, ham hiểu biết và khám phá cái mới, sáng tạo, coi trọng lẽ
phải, yêu thích sự công bằng, say sưa trong công việc thế nhưng họ lại là
những người thiếu kinh nghiệm, thiếu hiểu biết trong cuộc sống. Đây chính là

16
một trong những điểm để kẻ xấu lợi dụng và mua chuộc họ. Điều đó cho thấy lứa
tuổi thanh niên rất cần đến những tác động tích cực của xã hội.
Thứ ba, thanh niên là đối tượng có mặt ở tất cả các vùng miền, các thành
phần kinh tế, xã hội. Tùy theo môi trường hoạt động và đặc điểm nghề nghiệp
mà thanh niên được phân thành nhiều nhóm khác nhau, các đối tượng xã hội
khác nhau: thanh niên nông thôn, thanh niên thành phố, thanh niên công nhân,
thanh niên trí thức, thanh niên quân đội, công an, thanh niên sinh viên, thanh
niên dân tộc mỗi nhóm lại có đặc điểm nhu cầu, sở thích riêng, nguyện vọng riêng.
Thanh niên hiện nay có vai trò quan trọng: Thứ nhất, thanh niên là nguồn lực
chủ yếu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thứ hai, thanh niên
là lực lượng chính bảo vệ Tổ quốc và bảo đảm an ninh xã hội. Thứ ba, thanh niên là

lực lượng kế thừa và tiếp bước các thế hệ cha anh trong tất cả các lĩnh vực.
Có thể thấy, thanh niên là lứa tuổi bắt đầu nở rộ tiềm năng, là lực lượng kế
thừa, tiếp bước thế hệ cha anh để bảo vệ, xây dựng đất nước và thúc đẩy xã hội phát
triển. Vai trò, vị trí của các thế hệ thanh niên ngày càng được nâng cao hơn, nhất là
trong thực tiễn của sự nghiệp đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày
nay. Bởi vậy thế hệ thanh niên đóng vai trò vô cùng to lớn trong sự nghiệp cách
mạng của đất nước. Xã hội kỳ vọng vào thế hệ thanh niên nghị lực tiềm tàng và tính
năng động trong cuộc sống, ở sự tha thiết hướng vào công cuộc đổi mới vào tinh
thần tiên phong dám nghĩ, dám làm, tinh thần trách nhiệm của họ. Xác định được
vai trò và vị trí của thanh niên có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong công tác thanh
niên nói chung và công tác giáo dục đạo đức truyền thống cho thanh niên nói riêng.
Ngoài những đặc điểm của thanh niên nói chung, do ảnh hưởng của điều
kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế, xã hội, truyền thống lịch sử, văn hóa, phong tục,
tập quán của địa phương, thanh niên Ba Vì lại có những đặc điểm riêng.
Huyện Ba Vì được thành lập trên địa bàn các huyện cũ Bất Bạt, Tùng
Thiện và Quảng Oai của Tỉnh Sơn Tây. Thời kỳ 1975 - 1978, Huyện thuộc Tỉnh
Hà Sơn Bình. Từ năm 1978 đến năm 1991 thuộc Thành Phố Hà Nội. Sau đó lại
trở về Tỉnh Hà Tây và từ tháng 8 năm 2008 lại thuộc về Thành Phố Hà Nội.

17
Ba Vì là huyện thuộc vùng bán sơn địa, nằm về phía Tây Bắc thủ đô Hà Nội
với tổng diện tích 424km
2
, dân số hơn 265 nghìn người (bao gồm 3 dân tộc Kinh,
Mường, Dao), toàn huyện có 31 xã, một thị trấn, trong đó có 7 xã miền núi, một xã
giữa sông Hồng. Phía đông giáp thị xã Sơn Tây, phía nam giáp tỉnh Hòa Bình, phía
tây giáp tỉnh Phú Thọ và phía Bắc giáp tỉnh Vĩnh Phúc.
Địa hình của huyện thấp dần từ phía Tây Nam sang phía Đông Bắc, chia
thành 3 tiểu vùng khác nhau: Vùng núi, vùng đồi, vùng đồng bằng ven sông Hồng.
Đất đai huyện Ba Vì được chia làm 2 nhóm, nhóm vùng đồng bằng và nhóm

đất vùng đồi núi. Nhóm đất vùng đồng bằng có 12.892 ha bằng 41,1% diện tích đất
đai toàn huyện. Nhóm đất vùng đồi núi: 18.478 ha bằng 58,9% đất đai của huyện.
Ba Vì là nơi có mạng lưới thủy văn hết sức độc đáo, xung quanh gần như
được bao bọc bởi hai dòng sông lớn là sông Hồng và sông Đà. Ngoài ra trong khu
vực còn có nhiều dòng suối nhỏ bắt nguồn từ trên đỉnh núi xuống, mùa mưa lượng
nước lớn tạo ra các thác nước đẹp như thác Ao Vua, thác Ngà, thác Khoang Xanh
Đứng trên đỉnh núi Ba Vì ta có thể quan sát được toàn cảnh non nước của vùng.
Phía Tây là dòng sông Đà chảy sát chân núi. Phía Đông là hồ Đồng Mô, phía Bắc là
Hồ Suối Hai, xa hơn là dòng sông Hồng. Tất cả tạo nên cảnh trí non nước hữu tình
thơ mộng hiếm có của vùng núi Ba Vì.
Theo số liệu thống kê năm 2008, diện tích rừng toàn huyện có 10.724,9 ha,
trong đó rừng sản xuất 4.400,4 ha, rừng phòng hộ 78,4 ha và 6.246 ha rừng đặc
dụng. Diện tích rừng tự nhiên tập trung chủ yếu ở vùng núi Ba Vì từ độ cao 400m
trở lên. Rừng tự nhiên được phủ xanh bằng các loại thảm thực vật phong phú, đa
dạng, trong đó có nhiều loại cây đặc trưng của rừng nhiệt đới thuộc phạm vi Vườn
quốc gia Ba Vì.
Động thực vật Ba Vì rất đa dạng, phong phú. Hiện nay các nhà thực vật học
Việt Nam ước tính khoảng 2000 loại. Gồm thực vật nhiệt đới, á nhiệt đới bước đầu
kê được 812 loài thực vật bậc cao với 88 họ thực vật, 270 loài bậc cao gồm nhiều
loại gỗ quý hiếm như lát hoa, kim giao sến mật, sồi, dẻ gai Hai loại cây rất quý
được ghi vào “Sách đỏ Việt Nam” là Bách xanh và Thông đỏ đang được bảo vệ
nghiêm ngặt. Động vật có 44 loài thú, 104 loại chim, 15 loại bò sát, 9 loại lưỡng cư

18
(tài liệu quy hoạch Vườn quốc gia Ba Vì). Đây là nguồn tài nguyên rừng quý hiếm
được bảo vệ nghiêm ngặt.
Ba Vì được thiên nhiên ưu đãi ban tặng cả bức tranh sơn thuỷ hữu tình, với
hệ sinh thái phong phú, thảm thực vật đa dạng, được coi là “lá phổi xanh” phía Tây
thủ đô Hà Nội, là điểm đến của khách du lịch trong và ngoài nước. Đó chính là
Vườn Quốc Gia Ba Vì. Nơi đây có rất nhiều cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp như:

Núi, rừng, thác, suối, Sông, hồ cùng với các danh lam thắng cảnh nổi tiếng như: Ao
Vua, Khoang Xanh - Suối Tiên, Hồ Tiên Sa, Thiên Sơn - Suối Ngà, Khu du lịch
Tản Đà, Thác Đa, Hồ Suối Hai, Hồ Cẩm Quỳ, Rừng nguyên sinh Bằng Tạ - Đầm
Long, Đồi cò Ngọc Nhị Nơi có nhiều trang trại đồng quê, nhiều sản phẩm nông
nghiệp phong phú; Có nguồn nước khoáng nóng thiên nhiên tại Thuần Mỹ rất thuận
lợi cho phát triển du lịch nghỉ dưỡng.
Bên cạnh những Điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của
huyện. Chúng ta có thể thấy những khó khăn thử thách đặt ra với nhân dân Ba Vì
nói chung và thế hệ thanh niên ở Ba Vì nói riêng trong quá trình xây dựng cuộc
sống mới, con người mới.
Là huyện có địa hình khá phức tạp chia cắt nhiều, với diện tích đồng bằng ít
hơn chỉ có 41,1% trong khi nhóm đất vùng đồi núi chiếm 58,9%. Lại là Huyện bán
sơn địa, có rừng núi, trung du và đồng bằng ven sông. Đặc biệt là có xã Minh Châu
nằm ở giữa sông Hồng. Là nơi hợp lưu của ba con sông: sông Đà, sông Thao và
sông Lô cùng đổ vào sông Hồng. Dòng chảy của sông có tốc độ cao, khi có mưa lớn
đập Hòa Bình xả lũ gây ra tình trạng ngập úng, nước tràn, làm vỡ các công trình đê
kè gây ra lũ lụt trên địa bàn các xã ven sông gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống
của nhân dân, đồng thời làm ảnh hưởng tới việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, dẫn đến
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân còn thấp.
Tóm lại, thiên nhiên ở Ba Vì đa dạng, phong phú, muôn hình, muôn vẻ tạo
cho con người nhiều điều kiện thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn trong quá
trình sử dụng cải tạo và chinh phục tự nhiên để tồn tại và phát triển kinh tế - xã hội.
Cuộc đấu tranh giữa con người và thiên nhiên ở đây luôn diễn ra. Con người
Ba Vì luôn phải vật lộn với thiên tai, đã hao tổn biết bao sức lực và trí tuệ để chế

19
ngự được phần nào những khó khăn do thiên nhiên gây ra, đồng thời khai thác và sử
dụng các nguồn lực do thiên nhiên ưu đãi. Chính cuộc đấu tranh gian khổ giữa con
người với tự nhiên đã góp phần hun đúc nên tinh thần lao động cần cù, sáng tạo,
chịu thương, chịu khó, ý chí tự lực, tự cường, tình yêu con người với con người, con

người với thiên nhiên Chính đây là môi trường tự nhiên đã góp phần tạo nên ý chí,
bản lĩnh nghị lực và nhiều phẩm chất tốt đẹp cũng như những mặt còn hạn chế của
con người và tuổi trẻ Ba Vì.
Về kinh tế xã hội: Mặc dù là một huyện giàu truyền thống cách mạng, kiên
cường, bất khuất thế nhưng Ba Vì trước đây vẫn là một Huyện nông nghiệp nghèo,
trình độ phát triển kinh tế còn thấp so với nhiều huyện trong khu vực và cả nước.
Tuy nhiên, trong những năm qua, được sự quan tâm của thành phố, sự nỗ lực của
Đảng bộ, nhân dân các dân tộc huyện Ba Vì đã từng bước phát triển nền kinh tế đưa
huyện Ba Vì thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Cụ thể:
Về nông nghiệp: huyện đang từng bước đẩy mạnh cơ cấu cây trồng có giá trị
kinh tế cao, tăng diện tích gieo trồng lên 28.567 ha. Phát triển chăn nuôi toàn diện,
đa dạng hóa vật nuôi, tăng đàn bò lên 30 ngàn con, hàng năm cung cấp 4.200 tấn
sữa và 1.400 tấn thịt. Quy hoạch 4 khu vành đai rau sạch có diện tích hàng chục ha.
Với đặc thù đồng đất chia làm ba vùng là núi, bán sơn địa và đồng bằng,
những năm qua, huyện Ba Vì còn đẩy mạnh thực hiện các dự án chăn nuôi bò sữa,
bò thịt, trồng chè, nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi gia súc, gia cầm… phù hợp từng
vùng để khai thác thế mạnh. Đến nay, diện tích trồng chè toàn huyện chiếm khoảng
1.650 ha, sản lượng hằng năm đạt gần 13 nghìn tấn, giá trị đạt trên 50 triệu đồng/ha;
tổng đàn bò sữa đạt gần 3.000 con, đàn bò thịt phát triển mạnh với hơn 50.000 con.
Ngoài ra, Ba Vì còn định hướng các xã vùng bán sơn địa và miền núi phát triển
chăn nuôi lợn quy mô lớn. Toàn huyện hiện có gần 100 trang trại chăn nuôi lợn tập
trung với quy mô (500-2.000 con). Đối với 15 xã đồng bằng, huyện chỉ đạo đưa
giống mới năng suất cao, chất lượng tốt vào sản xuất, đồng thời chuyển giao tiến bộ
khoa học kỹ thuật cho nông dân để nâng cao năng suất cây trồng. Ở những vùng đất
trũng, canh tác lúa kém hiệu quả, huyện đã chỉ đạo chuyển đổi sang nuôi trồng thủy

×