1
G
§¹i häc Quèc gia Hµ Néi
Trêng §¹i häc Khoa häc X· héi vµ Nh©n v¨n
Trêng §¹i häc Khoa häc X· héi vµ Nh©n v¨n
***
NGUYỄN THỊ XUÂN
NGUYỄN THỊ XUÂN
VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT
HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG
CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Hà Nội - 2012
2
§¹i häc Quèc gia Hµ Néi
Trêng §¹i häc Khoa häc X· héi vµ Nh©n v¨n
Trêng §¹i häc Khoa häc X· héi vµ Nh©n v¨n
***
NGUYỄN THỊ XUÂN
NGUYỄN THỊ XUÂN
VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT
HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG
CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và
Chủ nghĩa duy vật lịch sử
Mã số : 62.22.80.05
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. GS. TS Trần Phúc Thăng
2. TS Dương Văn Duyên
Hà Nội - 2012
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
*
4
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
1. Ban chấp hành Trung ương
2. Chủ nghĩa cộng sản
3. Chủ nghĩa tư bản
4. Chủ nghĩa xã hội
5. Chính trị quốc gia
6. Doanh nghiệp nhà nước
7. Kinh tế thị trường
8. Lực lượng sản xuất
9. Nguồn nhân lực
10. Nhà xuất bản
11. Phương thức sản xuất
12. Quan hệ sản xuất
13. Tư bản chủ nghĩa
14. Xã hội chủ nghĩa
Chữ viết tắt
BCHTW
CNCS
CNTB
CNXH
CTQG
DNNN
KTTT
LLSX
NNL
NXB
PTSX
QHSX
TBCN
XHCN
5
MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1
Chương 1
:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI VIỆC PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA NGƯỜI
LAO ĐỘNG CÔNG NGHIỆP
12
1.1
Người lao động công nghiệp và tính tích cực của người lao động
công nghiệp
12
1.2
Vai trò của nhà nước đối với việc phát huy tính tích cực của
người lao động công nghiệp
43
Kết luận chương 1
65
Chương 2:
THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
VIỆC PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA NGƯỜI LAO
ĐỘNG CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
67
2.1
Những nhân tố tác động đến vai trò của nhà nước trong việc
phát huy tính tích cực của người lao động công nghiệp nước ta
hiện nay
67
2.2
Những thành tựu và hạn chế của nhà nước trong việc phát huy
tính tích cực của người lao động công nghiệp Việt Nam hiện
nay
95
2.3
Những vấn đề đặt ra về vai trò của nhà nước đối với việc phát
huy tính tích cực của người lao động công nghiệp Việt Nam
120
Kết luận chương 2
130
Chương 3
:
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA
NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT HUY TÍNH TÍCH
CỰC CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG CÔNG NGHIỆP VIỆT
NAM
132
3.1
Quan điểm cơ bản về nâng cao vai trò của nhà nước trong việc
phát huy tính tích cực của người lao động công nghiệp Việt
Nam
132
3.2
Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sự tác động của nhà
nước trong việc phát huy tính tích cực của người lao động công
nghiệp Việt Nam
151
Kết luận chương 3
184
KẾT LUẬN
185
NHỮNG CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
188
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
189
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mở cửa hội
nhập quốc tế và chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức
đã giải phóng, khơi dậy và phát huy biết bao tiềm năng, trong đó có tiềm năng con
người cho phát triển đất nước. Cùng với việc chủ động, tích cực, sáng tạo của người
lao động vươn lên thích ứng với cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập, vai trò của
Nhà nước cũng được khẳng định và phát huy, nhất là trong việc khơi dậy và phát
huy tính tích cực của con người Việt Nam, trong đó có người lao động công nghiệp.
Chính vì vậy, công cuộc đổi mới vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh đã luôn tạo ra động lực mạnh mẽ và thu được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử.
Trong sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, công nghiệp có vai trò quan
trọng trong giai đoạn thực hiện CNH, HĐH. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
10 năm 2001 - 2010 nhằm: “Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng
cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn
lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế,
quốc phòng, an ninh được tăng cường, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa được hình thành về cơ bản, vị thế của nước ta trên trường quốc tế được
nâng cao” [28, tr.89]. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011- 2020 nêu quan
điểm “phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ
yếu và là mục tiêu của sự phát triển” [34, tr.100]. Công nghiệp hiện đại có yêu cầu
cao về tổ chức, kỉ luật, thái độ, tác phong làm việc của chủ thể trực tiếp vận hành.
Lợi thế cạnh tranh của một ngành công nghiệp là “khả năng sáng tạo và đổi mới của
ngành đó” [24, tr.408]. Theo quan niệm này, ngành nào có khả năng đổi mới và
sáng tạo lớn thì ngành đó có khả năng cạnh tranh cao. Hơn nữa, để có khả năng
cạnh tranh cao, các ngành không chỉ cần những nguồn lực phát triển có tính chất
truyền thống như nguồn đất đai sẵn có, NNL mà phải là những nguồn lực tiên tiến
2
và tinh hoa như đội ngũ các nhà khoa học và công nhân có tay nghề kĩ thuật cao,
cũng như sự phân bố hợp lý các nguồn lực vào các ngành. Nguồn lao động tinh hoa
không phải có sẵn mà phải được xây dựng thông qua hệ thống đào tạo đạt trình độ
phát triển và có chất lượng cao.
Thực tiễn CNH, HĐH trong những năm vừa qua, có hàng loạt những vấn đề
xã hội đang nảy sinh. Tại sao sau bao nhiêu năm công nghiệp hóa mà lượng lao
động công nghiệp của nước ta vẫn chiếm một tỉ lệ nhỏ bé trong cơ cấu lao động của
cả nước? Tại sao khi làn sóng đầu tư nước ngoài ồ ạt đổ vào Việt Nam thì vấn đề
nổi bật lại là hiện tượng thiếu lao động trầm trọng, kể cả nhóm lao động kỹ thuật
phổ thông? Tại sao hàng vạn công nhân đã rời bỏ lao động công nghiệp sang những
lĩnh vực khác mà phần nhiều là trở lại lao động nông nghiệp có trình độ thấp hơn
trình độ lao động công nghiệp? Hiện tượng đình công của công nhân có xu hướng
gia tăng. Những bức xúc về lao động, việc làm chậm được giải quyết. Năng lực làm
chủ, ý thức giác ngộ chính trị, kỷ luật lao động của công nhân có dấu hiệu suy
giảm… Điều này thể hiện tính tích cực của người lao động công nghiệp bị hạn chế,
làm triệt tiêu động lực phát triển kinh tế - xã hội. Trong điều kiện KTTT, nhu cầu
của con người không ngừng tăng lên, nhiều vấn đề xã hội bức xúc nảy sinh từ sự
phát triển kinh tế đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước. Nhu cầu tăng trưởng
của nền kinh tế phải được giải quyết trong tương quan với các nhu cầu của công
bằng xã hội. Phát triển kinh tế phải gắn với phát triển con người, Nhà nước có vai
trò cực kì quan trọng trong quá trình gắn kết đào tạo, sử dụng, việc làm tạo điều
kiện để người lao động phát triển năng lực của mình…
Trước yêu cầu phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức trong bối cảnh toàn cầu hoá
và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế, để tiếp tục khơi dậy và phát huy vai
trò tích cực của người lao động công nghiệp, đòi hỏi vai trò của Nhà nước phải được
đề cao hơn nữa không chỉ trong việc quản lý nguồn nhân lực theo pháp luật, mà
quan trọng hơn là tạo cơ chế, chính sách để phát triển công nghiệp theo hướng hiện
đại hoá và chăm lo ngày một tốt hơn đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động
công nghiệp.
3
CNH, HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ và quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân
tất yếu phải phát huy hơn nữa vai trò của Nhà nước, vai trò của công dân trong xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để đạt được mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nâng cao khả năng cạnh tranh của
các ngành công nghiệp của nước ta trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Trên cơ sở tư
duy mới, cần thiết nghiên cứu một cách có hệ thống về vai trò của Nhà nước trong
việc phát huy tính tích cực của người lao động công nghiệp ở nước ta để từ đó hình
thành những chủ trương, chính sách đúng, hợp lòng người góp phần tạo động lực
cho công cuộc đổi mới, mở cửa hội nhập quốc tế. Do vậy, tôi chọn vấn đề: “Vai trò
của Nhà nước đối với việc phát huy tính tích cực của người lao động công nghiệp ở
Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án Tiến sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Thời gian qua, vấn đề vai trò của nhà nước trong phát triển kinh tế và phát
huy tính tích cực của con người đã được rất nhiều người quan tâm, nhiều bài viết
trong và ngoài nước bàn đến. Các bài viết có thể đề cập các cơ chế, chính sách của
nhà nước trong việc tạo động lực cho người lao động như: Đảm bảo lợi ích chính
đáng cho người lao động, vai trò của đào tạo nghề, vai trò của chính sách kinh tế và
chính sách xã hội
Phạm Minh Hạc (Chủ biên) (1996), “Vấn đề con người trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, phân tích việc kích
thích tính tích cực của người lao động một cách hợp lý trên cơ sở kết hợp đúng đắn
các loại lợi ích, môi trường tâm lý xã hội, dân chủ, xét dưới góc độ là động lực đối
với hoạt động và sáng tạo của con người; trách nhiệm quản lý của nhà nước đối với
sự nghiệp phát triển nguồn nhân lực. Hồ Văn Thông (1998), “Hệ thống chính trị ở
các nước tư bản phát triển hiện nay”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, trong đó có
đề cập đến xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam phải thực sự là nhà nước của
nhân dân lao động, đại diện cho toàn bộ nhân dân lao động, xem lao động trí lực về
lâu dài là LLSX cơ bản và quyết định nhất, hoạt động của nhà nước ta là kiểm soát,
định hướng và khuyến khích tối đa sáng kiến cá nhân. Nolwen Henaff Jean, Yves
4
Martin (2001), “Lao động việc làm và nguồn nhân lực ở Việt Nam 15 năm đổi mới”,
NXB Thế giới, Hà Nội, đề cập đến vấn đề lao động việc làm và sự phát triển công
nghiệp trong những năm 90, những vấn đề đặt ra cho sự phát triển công nghiệp và
đảm bảo quyền lợi hợp lý cho những người lao động có trình độ chuyên môn cao.
Lê Minh Quân (2003), “Xây dựng nhà nước pháp quyền đáp ứng yêu cầu phát triển
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay ”, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, trong đó phân tích vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng
XHCN có nhiệm vụ phát huy các động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, phát huy
nhân tố mở đường, tăng trưởng kinh tế đi đôi với công bằng xã hội. Hoàng Trung
Hải (2006), “Ngành công nghiệp Việt Nam 20 năm đổi mới”, Việt Nam 20 năm đổi
mới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, đề cập đến những thành tựu, hạn chế của
ngành công nghiệp và vấn đề phát triển lao động ngành công nghiệp bằng việc lập
kế hoạch đào tạo và đào tạo lại cán bộ cho ngành: cán bộ quản lý nhà nước, cán bộ
quản lý kinh doanh, cán bộ khoa học - kỹ thuật và đội ngũ công nhân lành nghề. Lê
Thanh Hà (2009), “Phát triển nguồn nhân lực công nghiệp Việt Nam trong quá
trình công nghiệp hóa đất nước và vai trò của công đoàn”, NXB Lao động, Hà Nội,
làm sáng tỏ nhận thức về nguồn nhân lực công nghiệp và các chính sách của Đảng,
Công đoàn trong phát huy tiềm năng nhân lực công nghiệp Việt Nam, các biện pháp
nhằm khai thác, phát huy tiềm năng của đội ngũ công nhân lao động trong điều kiện
mới.
Nguyễn Thị Phi Yến (2000), “Vai trò quản lý nhà nước đối với việc phát huy
nhân tố con người trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay”, Luận án
Tiến sĩ Triết học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia
Hà Nội, đề cập đến quản lý nhà nước phải làm thế nào để phát huy hiệu quả nhân tố
con người trong phát triển kinh tế. Lê Thị Hồng (2001), “Vai trò của định hướng xã
hội chủ nghĩa của nhà nước đối với sự phát triển nền kinh tế Việt Nam hiện nay”,
Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, phân
tích tác động của nhà nước tới quá trình xây dựng và phát triển nền KTTT định
hướng XHCN ở Việt Nam và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò định
hướng XHCN đối với sự phát triển nền KTTT ở Việt Nam hiện nay.
5
Hoàng Chí Bảo (2003), “Chính sách xã hội - những định hướng và chuẩn
mực trong phát triển”, Thông tin chuyên đề, số 2, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, phân tích sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội
trong việc tạo động lực cho người lao động, cơ sở của động lực phát triển xã hội. Đỗ
Văn Quân (2007), “Tính năng động xã hội của người dân trong bối cảnh đổi mới
đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế”, Lý luận chính trị, số 4, cho rằng cơ chế thị
trường buộc con người phải cạnh tranh để tồn tại và phát triển, con người phải luôn
vươn lên tìm kiếm những cơ may và vận hội mới trong công việc, con người phải có
tính năng động xã hội. Nguyễn Hữu Dũng (2007), “Phát triển khu công nghiệp với
vấn đề lao động - việc làm ở Việt Nam”, Lý luận chính trị, số 6, phân tích những
mặt được chủ yếu, tồn tại và những vấn đề phát sinh trong quá trình phát triển các
khu công nghiệp, đối với lao động các khu công nghiệp. Lưu Bình Nhưỡng (2009),
“Chiến lược phát triển nguồn nhân lực và trách nhiệm của Nhà nước trong lĩnh vực
đào tạo nghề”, Thông tin tư liệu chuyên đề, số 4, Trung tâm thông tin khoa học,
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, đề cập đến việc tập trung
đào tạo nghề là vấn đề đang đặt ra cho nhà nước những thách thức rất lớn để tạo ra
đội ngũ lao động có trình độ thực hành giỏi, trực tiếp tham gia hoạt động sản xuất
kinh doanh. Phạm Ngọc Quang (2009), “Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, số 4,
đề cập vai trò của Nhà nước trong nền KTTT thông qua đó ưu tiên bảo vệ lợi ích
hợp pháp chính đáng của người lao động là một vấn đề có tính nguyên tắc cùng với
việc bảo đảm lợi ích hợp lí của doanh nhân.
Đáng chú ý là một số công trình đề cập trực tiếp đến tính tích cực xã hội của
con người như: Trịnh Trí Thức (1994), “Một số nhân tố khách quan tác động đến
tích cực xã hội của sinh viên Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”, Luận án Tiến sĩ Triết
học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, bàn
về tính tích cực xã hội của sinh viên. Hồ Anh Dũng (2002), “Phát huy yếu tố con
người trong lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay”, NXB Khoa học Xã hội, đề
cập đến việc phát huy yếu tố con người với tư cách là LLSX bằng việc luôn quan
tâm đúng mức tới lợi ích và nhu cầu của người lao động, xây dựng môi trường xã
6
hội đảm bảo các điều kiện phát huy yếu tố con người, giáo dục đào tạo là phương
hướng quan trọng trong phát huy yếu tố con người. Nguyễn Văn Hoà (2007), “Phát
huy tính tích cực xã hội của đội ngũ giảng viên trong các trường sĩ quan quân đội
nhân dân Việt Nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quân
sự, Hà Nội, đã phân tích tính tích cực xã hội của con người nói chung, từ đó phân
tích tính tích cực xã hội của đội ngũ giảng viên trong các trường sĩ quan quân đội và
phát huy tính tích cực bằng việc xây dựng môi trường dân chủ và kỷ luật, đảm bảo
lợi ích
Cũng có nhiều sách chuyên khảo, các công trình nghiên cứu, các bài viết trên
các tạp chí đề cập đến giai cấp công nhân, các nhân tố ảnh hưởng tới tính tích cực
của giai cấp công nhân và xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp công nhân đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH như:
Cao Văn Lượng (Chủ biên) (2001), “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự
phát triển giai cấp công nhân”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội đã đưa ra lý luận
về giai cấp công nhân, sự phát triển của giai cấp công nhân trong thời kỳ đổi mới,
thực hiện CNH, HĐH, những chính sách và giải pháp xây dựng, củng cố tăng cường
vị trí giai cấp công nhân trong xã hội. Nguyễn Đăng Thành (2007), “Góp phần xây
dựng giai cấp công nhân Việt Nam từ thực trạng công nhân thành phố Hồ Chí
Minh”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, phân tích thực trạng công nhân thành phố,
tình hình thực hiện chính sách và pháp luật đối với công nhân thành phố có ảnh
hưởng gì tới tính tích cực của giai cấp công nhân, quan điểm và giải pháp phát huy
vai trò của đội ngũ công nhân thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới. Nguyễn
An Ninh (2008), “Về xu hướng công nhân hoá ở nước ta hiện nay”, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, đưa ra những nghiên cứu mới về thực trạng và sự phát triển của
giai cấp công nhân hiện nay, phân tích xu hướng công nhân hoá trong thời kỳ đổi
mới đất nước như là một tất yếu, những giải pháp nhằm chủ động tích cực hoá xu
hướng này phù hợp với mục tiêu phát triển của đất nước. Văn Tạo (2008), “Đổi
mới tư duy về giai cấp công nhân - kinh tế tri thức và công nhân tri thức”, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, trình bày những quan điểm lý luận, tư tưởng về giai cấp
công nhân nói chung cũng như giai cấp công nhân Việt Nam nói riêng cho đến thế
7
kỷ XX, đưa ra những nhận thức mới về giai cấp công nhân Việt Nam với kinh tế tri
thức đầu thế kỷ XX : Người công nhân hiện đại là người lao động công nghiệp có
ba yếu tố thuộc về bản chất là lao động sáng tạo, khoa học và cách mạng. Hoàng
Chí Bảo, Nguyễn Viết Thông, Bùi Đình Bôn (Đồng chủ biên) (2010), “Một số vấn
đề phát triển lý luận về giai cấp công nhân Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị
trường đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế“, NXB Lao
động, Hà Nội, trong đó phân tích những nhân tố ảnh hưởng tới cơ cấu giai cấp công
nhân, vai trò của Đảng, Công đoàn, trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước đối với
giai cấp công nhân. Đặng Ngọc Tùng (Chủ biên) (2010), “Xây dựng giai cấp công
nhân Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020”, NXB Lao động, Hà Nội, làm rõ quan điểm,
đường lối của Đảng, hệ thống giải pháp cho việc xây dựng giai cấp công nhân trong
thập niên tới, cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách, xác định nội
dung xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 của Đảng và
Nhà nước ta.
Trần Thị Bích Liên (2001), “Tích cực hoá nhân tố chủ quan để giai cấp công
nhân Việt Nam thực hiện và hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình”, Luận án Tiến sĩ
Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, khảo sát hiện trạng
nhân tố chủ quan và tích cực hoá nhân tố chủ quan của giai cấp công nhân Việt
Nam hiện nay, đưa ra các giải pháp nhằm tích cực hoá nhân tố chủ quan để giai cấp
công nhân Việt Nam thực hiện và hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình trong thời
kỳ CNH, HĐH. Dương Xuân Ngọc (Chủ nhiệm đề tài) (2005), “Xu hướng biến đổi
giai cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước”, Tổng quan khoa học đề tài cấp bộ, Phân viện Báo chí và Tuyên
truyền, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, làm rõ một số khái niệm
giai cấp công nhân nói chung, giai cấp công nhân Việt Nam nói riêng trong giai
đoạn CNH, HĐH; phân tích thực trạng, dự báo xu hướng biến đổi giai cấp công
nhân Việt Nam trong giai đoạn CNH, HĐH và đề xuất một số quan điểm, giải pháp
để phát huy vai trò giai cấp công nhân nước ta hiện nay.
Trần Hữu Tiến (2007), “Một số quan điểm về xây dựng, phát huy vai trò giai
cấp công nhân giai đoạn hiện nay”, Lý luận chính trị, số 4, đề cập tới các quan điểm
8
thực tiễn, cân đối và đồng bộ, thống nhất giữa kinh tế và chính trị để xây dựng và
phát huy vai trò đội ngũ giai cấp công nhân. Nguyễn Đức Bách (2007), “Học thuyết
Mác Lê-nin về nền sản xuất công nghiệp hiện đại và sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân”. Nguyễn Văn Huyên (2007), “Suy nghĩ về giai cấp công nhân và xây
dựng giai cấp công nhân Việt Nam”, Lý luận chính trị, số 11, đề cập đến vai trò tác
động của nền công nghiệp hiện đại đối với giai cấp công nhân về trình độ số lượng,
chất lượng cơ cấu giai cấp công nhân với tư cách là LLSX hiện đại. Đặng Ngọc
Tùng (2008), “Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh đáp ứng yêu cầu
của sự phát triển đất nước”, Tạp chí Cộng sản, số 2, đề cập đến thực trạng giai cấp
công nhân trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, xây dựng giai cấp công
nhân lớn mạnh là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách hiện nay.
Các công trình và bài viết trên đều có những ý kiến, những lý giải về vai trò
của Nhà nước đối với việc phát huy tính tích cực của con người, về phát huy vai trò
của giai cấp công nhân, về tính tích cực xã hội của con người từ phương diện này
hay phương diện khác. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả kế thừa các giá trị khoa
học trong các đề tài đó làm cơ sở nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, chưa có một
công trình chuyên biệt nào trình bày tập trung có hệ thống vấn đề vai trò của Nhà
nước đối với việc phát huy tính tích cực của người lao động công nghiệp ở Việt
Nam hiện nay. Luận án này là một nỗ lực nhằm góp phần khắc phục khoảng trống
đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của Nhà nước Việt Nam trong việc
phát huy tính tích cực của người lao động công nghiệp những năm đổi mới, luận án
đề xuất một số quan điểm và giải pháp để nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc
phát huy tính tích cực của người lao động công nghiệp đối với quá trình phát triển
đất nước theo định hướng XHCN.
Nhiệm vụ của luận án
9
- Làm rõ khái niệm người lao động công nghiệp Việt Nam, tính tích cực của
người lao động công nghiệp Việt Nam, vai trò của Nhà nước đối với việc phát huy
tính tích cực của người lao động công nghiệp Việt Nam.
- Phân tích thực trạng vai trò của Nhà nước đối với việc phát huy tính tích
cực của người lao động công nghiệp ở Việt Nam trong những năm đổi mới và
những vấn đề đặt ra.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu để nâng cao vai trò của Nhà
nước trong việc phát huy tính tích cực của người lao động công nghiệp Việt Nam
hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án
Luận án nghiên cứu vai trò của nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam trong phát huy tính tích cực của người lao động công nghiệp ở nước ta những
năm đổi mới.
Phạm vi nghiên cứu của luận án
Luận án chỉ giới hạn ở việc làm rõ vai trò của Nhà nước đối với việc phát huy
tính tích cực của người lao động ngành công nghiệp trong phát triển kinh tế của đất
nước thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế từ năm 1986 đến nay, những giải
pháp để nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc phát huy tính tích cực của người
lao động ngành công nghiệp từ nay đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản, nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam về vai trò của Nhà nước trong quản lý xã hội nói chung, trong phát huy tính
tích cực của người lao động công nghiệp nói riêng.
Luận án kế thừa những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học và những
công trình nghiên cứu có liên quan.
Phương pháp nghiên cứu
10
Luận án vận dụng những quan điểm phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong đó đặc biệt chú ý phương
pháp phân tích và tổng hợp, khái quát hoá và trừu tượng hoá, phương pháp thống
kê…
6. Đóng góp mới của luận án
Luận án góp phần làm rõ khái niệm người lao động công nghiệp Việt Nam,
tính tích cực của người lao động công nghiệp Việt Nam.
Luận án làm rõ vai trò và thực trạng vai trò của nhà nước Việt Nam đối với
việc phát huy tính tích cực của người lao động công nghiệp Việt Nam, tạo cơ sở lý
luận để Nhà nước nâng cao vai trò của mình trong việc phát huy tính tích cực của
người lao động công nghiệp Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận của luận án
Luận án góp phần nghiên cứu vai trò của Nhà nước đối với việc phát huy
tính tích cực của người lao động công nghiệp ở Việt Nam trong những năm đổi mới
và những vấn đề đặt ra, qua đó đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu để
nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc phát huy tính tích cực của người lao động
công nghiệp Việt Nam hiện nay.
Ý nghĩa thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong quá
trình giảng dạy nghiên cứu vấn đề vai trò của Nhà nước trong việc phát triển kinh tế
và phát huy vai trò của nhân tố con người trong sự nghiệp CNH, HĐH.
8. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận án gồm 3
chương 7 tiết.
Chương 1
11
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC
PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG CÔNG
NGHIỆP
1.1. NGƯỜI LAO ĐỘNG CÔNG NGHIỆP VÀ TÍNH TÍCH CỰC CỦA
NGƯỜI LAO ĐỘNG CÔNG NGHIỆP
1.1.1. Khái niệm người lao động công nghiệp Việt Nam
Quan điểm mác xít về người lao động công nghiệp
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã luận giải sự phát triển của xã hội loài người như
một quá trình lịch sử tự nhiên. Quá trình đó cũng là quá trình phát triển của LLSX
từ thấp đến cao, gắn liền với sự hình thành và phát triển của các lực lượng lao động
xã hội. Trước CNTB, lực lượng lao động cơ bản của xã hội là lao động nông nghiệp
và thủ công nghiệp gắn với nền sản xuất nhỏ. Sự ra đời và phát triển của CNTB đã
hình thành lực lượng lao động mới, người lao động công nghiệp. Sản xuất công
nghiệp qui mô ngày càng lớn với trình độ cơ khí, tự động hóa, công nghệ thông tin
và sự đa dạng về ngành nghề cùng chức năng sản xuất ra tư liệu sản xuất đã đóng
một vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội hiện đại, làm cho người lao
động công nghiệp trở thành lực lượng lao động hàng đầu của nhân loại. V.I. Lênin
cũng chỉ rõ: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại là công nhân, là người
lao động”
[59, tr. 430]. V.I. Lênin đã nói đến giai cấp công nhân như là bộ phận
quan trọng nhất trong đội ngũ những người lao động. Thực tế là C. Mác - Ph.
Ăngghen - V.I. Lênin đã xem xét giai cấp công nhân với tư cách là sản phẩm và chủ
thể của quá trình phát triển kinh tế qua các giai đoạn công trường thủ công - công
nghiệp cơ khí - công nghiệp trong điều kiện tri thức đã chuyển hoá thành LLSX trực
tiếp. Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, khi cuộc cách mạng công nghiệp và CNTB
cạnh tranh tự do mới phát triển ở giai đoạn đầu, các ông đã dùng thuật ngữ giai cấp
công nhân công nghiệp, giai cấp công nhân hiện đại. Đến những năm 50 của thế kỷ
XIX, thành phần giai cấp công nhân đã được mở rộng hơn như nhân viên văn
phòng, nhân viên thương nghiệp và công nhân làm thuê có trình độ chuyên môn cao
hơn lao động công nghiệp trung bình của xã hội, như nhân viên tri thức hay công
12
nhân dịch vụ công nghiệp hoặc có tính chất công nghiệp. Từ những năm 70 của thế
kỷ XIX do LLSX đã đạt đến trình độ cao hơn và xuất hiện CNTB độc quyền, C.
Mác đã đề cập đến công nhân có sở hữu trong các hợp tác xã công nhân. Người
công nhân với tư cách là người lao động làm công ăn lương đã xuất hiện từ rất sớm
trong lịch sử, nhưng giai cấp công nhân hiện đại chỉ xuất hiện ở thời kỳ TBCN.
Công nhân công nghiệp hiện đại chủ yếu là công nhân công nghiệp cơ khí như trong
tác phẩm “Tình cảnh của giai cấp lao động ở Anh” của Ph. Ăngghen, ngày nay đã
có nhiều biến đổi lớn. Số lượng công nhân và lao động trong nhiều ngành công
nghiệp truyền thống giảm đi, số lượng công nhân và lao động trong nhiều ngành
công nghiệp hiện đại, mũi nhọn, trong các ngành dịch vụ lại tăng lên. CNTB hiện
đại phát triển mạnh mẽ, hệ thống doanh nghiệp mở rộng, xuất hiện đội ngũ làm thuê
lớn. Lực lượng lao động công nghiệp được mở rộng tăng lên cả về số lượng và chất
lượng. Với những quốc gia có trình độ phát triển cao, lực lượng lao động công
nghiệp đã chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số lao động xã hội như: Nhật Bản 72%, Pháp
90%, Mĩ 91%, Anh 92% [88, tr.14]. Nhu cầu khách quan của nền sản xuất xã hội
hóa, của quá trình công nghiệp hóa là những nhân tố chủ đạo thúc đẩy và tạo ra đội
ngũ lao động công nghiệp. Vị thế của người lao động trong doanh nghiệp là khác
nhau, quan hệ giữa người lao động và giới chủ trở nên phức tạp và đặc biệt khi kinh
tế tri thức hình thành thì cả lao động trực tiếp và lao động quản lý đều có thay đổi.
Ở nước ta hiện nay đang diễn ra sự chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội, cơ
cấu lao động trong nông nghiệp từ 57,1% (năm 2005) giảm xuống 48,2% (năm
2010); trong công nghiệp và xây dựng từ 18,2% (năm 2005) tăng lên 22,4% (năm
2010) và dịch vụ từ 24,7% (năm 2005) tăng lên 29,4% (năm 2010). Để giảm tỷ lệ
lao động nông nghiệp xuống dưới 50%, tăng tỷ lệ lao động công nghiệp, xây dựng
và dịch vụ lên hơn 50% vào năm 2010 [34, tr.152] thì tất yếu phải thúc đẩy quá
trình CNH, HĐH.
Vậy là khi sản xuất công nghiệp ra đời, một lực lượng lao động mới đã hình
thành, người lao động công nghiệp. Người lao động công nghiệp luôn là đối tượng
nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau từ khi CNTB ra đời cho đến nay.
Theo nghĩa truyền thống, người lao động công nghiệp được hiểu là giai cấp công
13
nhân và lao động trong lĩnh vực sản xuất trực tiếp. Ý kiến khác cho rằng người lao
động công nghiệp là người lao động nói chung trong quá trình công nghiệp hoá.
Thậm chí còn có quan niệm người lao động công nghiệp chỉ gồm những người lao
động đã đạt đến trình độ hiện đại. Vậy người lao động công nghiệp ở Việt Nam hiện
nay bao gồm những người như thế nào? Cơ cấu và vai trò của nó ra sao?
Bộ phận quan trọng nhất trong cấu trúc của LLSX là người lao động, người
lao động công nghiệp Việt Nam được coi là có chất lượng cao hơn so với người lao
động Việt Nam nói chung, do phương thức lao động hiện đại, trực tiếp hay gián tiếp
vận hành các công cụ sản xuất công nghiệp, tạo ra các sản phẩm công nghiệp dưới
hình thức tư liệu sản xuất hoặc tư liệu tiêu dùng. Người lao động công nghiệp có thể
trong các lĩnh vực công nghiệp, thương nghiệp hoặc nông nghiệp. Trong phạm vi
của luận án, chỉ giới hạn trong lĩnh vực công nghiệp.
Ở Việt Nam hiện nay, người lao động công nghiệp là người lao động trong
lĩnh vực công nghiệp ở thời kỳ CNH, HĐH đất nước. Đó là người lao động công
nghiệp Việt Nam và người lao động công nghiệp nước ngoài làm việc tại Việt Nam.
Trong phạm vi của luận án ta chỉ nghiên cứu người lao động công nghiệp Việt Nam.
Người lao động công nghiệp Việt Nam là sản phẩm và là chủ thể của quá
trình CNH, HĐH. Đó là lực lượng lao động trên lĩnh vực sản xuất ra các sản phẩm
công nghiệp dưới hình thức tư liệu sản xuất hoặc tư liệu tiêu dùng, các hoạt động
dịch vụ phục vụ cho sản xuất công nghiệp ở tất cả các doanh nghiệp, tập đoàn kinh
tế nhà nước, ngoài nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Thành phần của lực lượng lao động này bao gồm:
Thứ nhất là: Các công nhân viên trực tiếp sản xuất kinh doanh (công nhân
ngành nghề và chuyên gia, nghệ nhân), trực tiếp thao tác và đứng máy.
Thứ hai là: Các công nhân viên chức phục vụ trong doanh nghiệp như thợ
điện và nước, sửa chữa máy móc, nhân viên văn thư, tiếp cận thị trường, phân phối
sản phẩm. Bản thân thợ điện và nước, sửa chữa máy móc có thể đưa về thành phần
thứ nhất.
Thứ ba là: Các viên chức chuyên môn nghiệp vụ thừa hành trong doanh
nghiệp như chuyên viên cao cấp, kỹ sư cao cấp; chuyên viên chính, kinh tế viên
14
chính, kỹ sư chính; chuyên viên, kinh tế viên, kỹ sư; cán sự, kỹ thuật viên, tư vấn
pháp luật cho doanh nghiệp. Những đối tượng này sẽ ngày càng nhiều trong xã hội
công nghiệp.
Thứ tư là: Viên chức quản lý doanh nghiệp (giám đốc, phó giám đốc, kế toán
trưởng), quản lý nhân sự, quản lý kỹ thuật, quản lý chất lượng sản phẩm, quản lý
môi trường sản xuất được hưởng lương theo quy định của nhà nước hoặc theo ký
kết hợp đồng.
Có thể chia đội ngũ này thành lao động trực tiếp (thành phần thứ nhất, thứ hai
và thứ ba) và lao động quản lý (thành phần còn lại).
Để làm rõ khái niệm người lao động công nghiệp Việt Nam, cần nghiên cứu
khái niệm và cơ cấu của giai cấp công nhân Việt Nam.
Trả lời cho câu hỏi giai cấp công nhân Việt Nam bao gồm những ai, đang
tham gia vào lĩnh vực nào, hiện cũng còn nhiều ý kiến khác nhau. Nhóm ý kiến thứ
nhất cho rằng, giai cấp công nhân Việt Nam chỉ bao gồm bộ phận lao động trực tiếp
trong công nghiệp (cũng có thể cả bộ phận lao động trực tiếp trong sản xuất và dịch
vụ có tính chất công nghiệp). Nhóm ý kiến thứ hai cho rằng, giai cấp công nhân Việt
Nam bao gồm tất cả những người làm công hưởng lương. Nhóm ý kiến thứ ba cho
rằng, giai cấp công nhân Việt Nam bao gồm những người lao động chân tay và trí
óc làm công hưởng lương trong các loại hình doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và
dịch vụ công nghiệp hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp.
Trên thực tế, nhóm ý kiến thứ ba nhận được nhiều sự đồng tình hơn cả và nó cũng
phù hợp với thực trạng và xu hướng phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam
hiện nay.
Văn kiện hội nghị lần thứ sáu BCHTW khoá X có viết: “Giai cấp công nhân
Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao
động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh
doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất
công nghiệp”[33, tr.23].
Từ quan niệm trên về giai cấp công nhân Việt Nam trên cho thấy, giai cấp
công nhân hiện nay bao gồm những người lao động chân tay, trí óc trong lĩnh vực
15
công nghiệp và dịch vụ công nghiệp có thu nhập chủ yếu bằng tiền lương, tiền công;
những kỹ sư, cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý, cán bộ nghiên cứu áp dụng những
thành tựu khoa học, kỹ thuật vào sản xuất công nghiệp, sản xuất và tái sản xuất ra
của cải vật chất, trong các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, công ty cổ phần, lao động trực tiếp trong các
nông, lâm trường, làm việc trong các khách sạn, trong các doanh nghiệp thuộc
ngành bưu chính, viễn thông, ngân hàng… Trong điều kiện hiện nay, ở lĩnh vực
công nghiệp còn có lực lượng lao động công nghiệp thời vụ. Đây chính là các lao
động ở các lĩnh vực khác có thời gian nhàn rỗi, họ tham gia sản xuất công nghiệp
theo những hợp đồng ngắn hạn. Những người này có cuộc sống chưa gắn bó với
công việc tại các cơ sở công nghiệp, dịch vụ công nghiệp, tác phong công nghiệp
còn hạn chế, ý thức giai cấp chưa rõ ràng, nên chưa thể coi là công nhân, nhưng có
thể coi họ là người lao động công nghiệp trong thời gian họ tham gia sản xuất công
nghiệp.
Quan điểm về “trí thức hóa công nhân” cũng được thể hiện ở Nghị quyết
Trung ương sáu khóa X về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước: “Nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân, không
ngừng trí thức hóa giai cấp công nhân là một nhiệm vụ chiến lược” [33, tr.48]. “Trí
thức hóa công nhân” mang tính tất yếu do sự phát triển ngày càng cao của LLSX và
nền công nghiệp hiện đại. Trí thức hóa công nhân ở nước ta được hiểu là quá trình
nâng cao trình độ tri thức và năng lực hoạt động thực tiễn để họ xứng đáng với vai
trò tiên phong của mình vì thắng lợi của sự nghiệp CNH, HĐH theo định hướng
XHCN. Ngày nay “trí thức hóa công nhân” gắn liền và bị tác động bởi cách mạng
khoa học công nghệ và kinh tế tri thức. Trong nền kinh tế tri thức, công nhân là sản
phẩm của nền kinh tế này và được mệnh danh là công nhân trí thức, thực chất là
công nhân đã được trí thức hóa với các đặc trưng: Lao động trong các ngành công
nghệ cao, được đào tạo kỹ càng, có bằng cấp học vấn cao (thường ít nhất ở bậc đại
học), chuyên môn sâu (lành nghề, tay nghề thuộc những bậc cao nhất, nhạy cảm với
khoa học và công nghệ hiện đại), không chỉ tham gia sản xuất và dịch vụ sản xuất
vật chất với năng suất rất cao mà còn sáng tạo khoa học - nghệ thuật góp phần to lớn
16
vào sự nghiệp phát triển xã hội nói chung. Đây cũng là lực lượng quan trọng của đội
ngũ lao động công nghiệp.
Khái niệm giai cấp công nhân như trên nói chung phù hợp với những quan
điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với
những đặc điểm của thời đại và của đội ngũ công nhân nước ta trong điều kiện đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước, phát triển KTTT định hướng XHCN, hội nhập kinh tế
quốc tế, vận dụng và phát triển kinh tế tri thức. Với khái niệm này, đã sơ bộ xác
định được bước đầu số lượng công nhân nước ta là khoảng 9,5 triệu người [33,
tr.24].
Việc phân định thành phần giai cấp và tầng lớp xã hội chủ yếu gắn với tính
chất công việc đang làm của mỗi người. Do vậy, giữa thành phần giai cấp, tầng lớp
xã hội xuất thân của mỗi người, có thể đồng nhất hoặc không đồng nhất với tính
chất công việc đang làm. Đã là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam thì về nguyên
tắc đều mang bản chất giai cấp công nhân, là thành viên của đội tiền phong của giai
cấp công nhân, đồng thời là đội tiền phong của nhân dân lao động và của dân tộc,
phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc. Tuy nhiên tuỳ
thuộc công việc đang làm hiện tại của mỗi người, mà họ có thể là công nhân, nông
dân, công chức, quân nhân, công an hoặc chủ doanh nghiệp…
Với sự phát triển KTTT, bản thân giai cấp công nhân có thể phân thành các
bộ phận khác nhau:
Người lao động trong các DNNN, bộ phận lao động này được Nhà nước
chăm lo phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng, nhất là về văn hoá, khoa học, kỹ
thuật đến nay đang bị phân hoá dữ dội.
Thứ nhất là phân hoá về cơ cấu ngành nghề
Chủ trương giảm mạnh các DNNN, nhất là DNNN do địa phương quản lý,
những doanh nghiệp này đã xuất hiện rất nhiều thời kỳ bao cấp từ huyện, tỉnh, đến
Trung ương và hiện đang được đẩy mạnh việc cổ phần hoá khiến số lượng công
nhân trong DNNN giảm đi nhiều. Việc sắp xếp, tổ chức lại sản xuất trong các doanh
nghiệp làm cho giai cấp công nhân có sự chuyển đổi từ ngành này sang ngành khác,
17
thường là từ những ngành nghề truyền thống như cơ khí, luyện kim, xây dựng…
sang các ngành mới như điện tử, tin học, dầu khí và các dịch vụ khác.
Thứ hai là phân hoá về thu nhập
Một số ngành như dầu khí, bưu chính viễn thông, ngân hàng - tài chính, các
công ty vận tải viễn dương, v.v… lương bổng khá cao. Một số ngành như lâm
nghiệp, khai thác than, công nghiệp nhẹ như mây, tre, đan… lại gặp khó khăn và
đang ở trong tình trạng không ổn định. Ngay trong một doanh nghiệp, bộ phận lao
động quản lý cũng có mức lương khá cao, bộ phận lao động trực tiếp lương còn
thấp.
Thứ ba là có sự thay đổi vị trí xã hội
Một số công nhân có nhiều cổ phần, được chia lợi nhuận có đời sống khá giả,
thậm chí trở thành chủ doanh nghiệp; một số có tay nghề cao, ra khỏi biên chế để
kinh doanh độc lập, trở thành tiểu chủ; một số rơi vào hàng ngũ thất nghiệp…
Công nhân các doanh nghiệp tư nhân tăng mạnh nhưng không bền vững, vì
một số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, vì sự biến động của thị trường và sự cạnh tranh
của hàng nhập ngoại, …
Công nhân các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài cũng có sự phân hoá,
phân tầng. Một số được học tập có tay nghề, có mức lương cao; còn đại đa số tay
nghề thấp, mức lương thấp. Bộ phận công nhân này như C. Mác đã khẳng định, họ
trở thành những người bị lệ thuộc vào máy móc. Đặc biệt một số ít bị chủ bạc đãi,
chế độ đãi ngộ không thoả đáng.
Số công nhân thất nghiệp hay bán thất nghiệp mà trước kia, C.Mác xếp vào
hàng ngũ lực lượng dự trữ của công nghiệp, nhà tư bản dựa vào đó mà hạn chế
lương công nhân ở mức thấp, có khi dưới giá trị sức lao động. Ngày nay ở Việt
Nam, nạn thất nghiệp được Nhà nước tích cực giải quyết bằng nhiều biện pháp.
Ngoài việc thu hút vốn đầu tư, đẩy mạnh công nghiệp hóa, Nhà nước còn chăm lo
đào tạo tay nghề cho công nhân, trong đó có tái đào tạo những công nhân thất
nghiệp nhưng còn khả năng lao động…
Trong cuốn sách “Đổi mới tư duy về giai cấp công nhân - kinh tế tri thức và
công nhân tri thức” của G.S.Văn Tạo có viết: “Giai cấp công nhân Việt Nam là một
18
lực lượng xã hội to lớn bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công
hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc
sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp, trong đó công nhân công
nghiệp hiện đại, công nhân tri thức (knowledge workers) làm nòng cốt; là giai cấp
lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản Việt
Nam; đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, đi đầu trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”, đưa đất nước tiến nhanh lên kinh tế tri thức; là nòng cốt trong liên minh
công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; hiện đang phát
triển nhanh về số lượng, nâng cao không ngừng về chất lượng, đa dạng về cơ cấu
ngành nghề; có những đóng góp tích cực vào phong trào công nhân quốc tế và vào
tiến bộ xã hội của toàn thể nhân loại”[105, tr.106].
Như vậy giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn có các
đặc điểm:
Họ gồm những người lao động chân tay hoặc lao động trí óc trong lĩnh vực
sản xuất công nghiệp. Do sự phát triển của LLSX, một bộ phận trí thức đã gia nhập
giai cấp công nhân. Đó là những nhà nghiên cứu, sáng chế, áp dụng khoa học, kỹ
thuật vào sản xuất, cán bộ trực tiếp quản lý lao động hoặc tham gia vào quá trình
sản xuất công nghiệp, sản xuất và tái sản xuất ra của cải vật chất, thực hiện chức
năng của người công nhân lành nghề trong sản xuất. Và thêm nữa, cả những người
lao động trong các ngành dịch vụ công nghiệp mà lao động của họ có tính chất công
nghiệp. Bộ phận trí thức này gắn trực tiếp với quy trình sản xuất công nghiệp, tạo ra
của cải vật chất cho xã hội. Trí thức trong những ngành xã hội - nhân văn, y tế, giáo
dục, văn hóa, dịch vụ (không quan hệ trực tiếp đến sản xuất công nghiệp), tri thức
nghiên cứu, sáng tạo ra những sản phẩm văn hóa, tinh thần, lý luận… không có sản
phẩm trực tiếp hoặc không tham gia vào quy trình sản xuất công nghiệp thì không
gia nhập vào giai cấp công nhân.
Họ phải là người “làm công hưởng lương”, có nghĩa là giám đốc các doanh
nghiệp tư nhân là chủ sở hữu tư liệu sản xuất không làm công hưởng lương thì
19
không thuộc giai cấp công nhân. Còn các giám đốc quản lý DNNN hưởng lương của
nhà nước không có nhiều cổ phần lại thuộc về giai cấp công nhân.
“Trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp hoặc sản
xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp” - bao gồm tất cả các ngành
công nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế: nhà nước, liên doanh, tư nhân và các
ngành phục vụ hay dịch vụ cho công nghiệp như thương nghiệp, giao thông vận tải,
ngân hàng tiền tệ, bưu chính viễn thông… đảm bảo việc lưu thông, phân phối, tiếp
liệu, tiếp thị cho công nghiệp.
Trong cuốn sách “Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam giai đoạn 2011-
2020” của Tiến sĩ Đặng Ngọc Tùng (chủ biên) có viết: “Giai cấp công nhân Việt
Nam là lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển cùng với sự phát triển của nền công
nghiệp hiện đại, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công, hưởng
lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp,
trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất và tái sản xuất của cải vật chất; là giai cấp
có sứ mệnh lãnh đạo Cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng Sản Việt
Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; lực lượng xã hội nòng
cốt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” [125, tr.70].
Trong khi cơ cấu kinh tế - xã hội Việt Nam đang chịu tác động mạnh mẽ của
quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, CNH,HĐH và KTTT, nền kinh tế Việt
Nam đang phát triển theo hướng công nghiệp hiện đại, khái niệm trên không những
đã nêu lên cơ cấu đa dạng sinh động và phức tạp mà còn khẳng định tính chất tiên
tiến và bản chất cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay.
Giai cấp công nhân nước ta hiện nay bao gồm nhiều bộ phận. Họ không chỉ
là những người lao động sản xuất và dịch vụ công nghiệp thuộc các DNNN mà còn
là những người công nhân thuộc khu vực kinh tế tư nhân, các công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty, tổng công ty, những tập đoàn kinh tế hợp tác liên doanh với nước
ngoài, những doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, có mặt ở mọi thành phần
kinh tế, mọi ngành kinh tế, mọi lĩnh vực kinh tế, có công nhân nông nghiệp (bao
gồm cả lâm nghiệp, chăn nuôi, thuỷ hải sản), công nhân công nghiệp, dịch vụ. Họ
cũng đang có mặt ở mọi miền đất nước.
20
Cùng với đẩy mạnh CNH, HĐH và phát triển kinh tế tri thức, số lượng trí
thức trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất công nghiệp và dịch vụ công nghiệp
ngày một nhiều. Họ đã và đang trở thành đội ngũ công nhân trí tuệ và góp phần
nâng cao chất lượng, tính tiên tiến và hiện đại của giai cấp công nghiệp Việt Nam.
Cùng với bộ phận công nhân công nghiệp, họ đang trở thành nòng cốt, tinh hoa của
giai cấp công nghiệp Việt Nam hiện nay.
Những viên chức và người lao động tham gia vào guồng máy sản xuất, quản
lý sản xuất công nghiệp và dịch vụ mang tính công nghiệp cần được xếp vào hàng
ngũ giai cấp công nhân.
Những người lao động dịch vụ thuộc các ngành và các thành phần kinh tế
hiện đang chiếm một tỷ lệ khoảng 1/3 trong tổng số công nhân lao động; đông nhất
là ở các ngành công nghiệp, thương mại, dịch vụ… Trong hàng ngũ này, những
người nào gắn với quy trình sản xuất công nghiệp hiện đại đều có thể là những
người trong hàng ngũ giai cấp công nhân.
Giai cấp công nhân nước ta đang trong quá trình phát triển, chưa định hình rõ,
nên có sự đan xen, chuyển dịch giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội trong quá trình
phát triển, chưa thể phân định thật rạch ròi, do đó các khái niệm trên mới chỉ là
tương đối. Trên cơ sở cách hiểu này phải tiếp tục tìm tòi, tổng kết, nghiên cứu, bổ
sung để hoàn chỉnh dần.
Theo sự phân tích trên thì người lao động công nghiệp và giai cấp công nhân
là hai khái niệm giao nhau. Người lao động công nghiệp gắn với sản xuất công
nghiệp và dịch vụ trực tiếp cho sản xuất công nghiệp. Người lao động công nghiệp
bao hàm trong nó công nhân công nghiệp và công nhân dịch vụ cho công nghiệp.
Giai cấp công nhân ngoài việc gắn với sản xuất công nghiệp và dịch vụ trực tiếp cho
sản xuất công nghiệp còn gắn với các dịch vụ khác. Lao động sản xuất kinh doanh
và dịch vụ có tính chất công nghiệp là công nhân không là người lao động công
nghiệp. Lao động thời vụ là người lao động công nghiệp, không là công nhân. Giai
cấp công nhân với tư cách là một giai cấp xã hội theo định nghĩa giai cấp của
V.I.Lênin phải được xác định trên các tiêu chí gắn liền với các yếu tố của QHSX
như: quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý sản xuất, cách thức
21
hưởng thụ và về phần của cải mà họ được hưởng. Người lao động công nghiệp chủ
yếu căn cứ vào hoạt động của họ dựa trên cơ sở chính là công cụ lao động gắn với
đại công nghiệp. Người lao động công nghiệp có thể chia thành lao động trực tiếp
và lao động quản lý. Nếu nhìn nhận theo quan điểm lịch sử thì giai cấp công nhân sẽ
mất đi khi giai cấp không còn tồn tại, nhưng người lao động công nghiệp thì vẫn
ngày càng phát triển và tồn tại đến khi không còn giai cấp và đấu tranh giai cấp nữa.
Người lao động trong lĩnh vực công nghiệp gồm người lao động công nghiệp
Việt Nam và người lao động công nghiệp nước ngoài, các chủ doanh nghiệp ngoài
kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Người lao động công nghiệp Việt Nam gồm
công nhân công nghiệp, công nhân dịch vụ cho công nghiệp, các viên chức chuyên
môn, thừa hành, quản lý trong các doanh nghiệp và các lao động trong các loại hình
công nghiệp, dịch vụ cho công nghiệp của các hộ kinh doanh cá thể, những người
lao động thời vụ, từ các lĩnh vực khác, nhất là từ nông nghiệp chuyển sang.
Vai trò của người lao động công nghiệp với tư cách là LLSX của xã hội
Vai trò của công nghiệp gia tăng dẫn đến vai trò của người lao động công nghiệp
cũng gia tăng trong xã hội hiện đại. Trong xây dựng xã hội mới cần nhìn người lao
động công nghiệp với tư cách là một “LLSX quan trọng hàng đầu của xã hội”, họ là
người trực tiếp thao tác, vận hành hay quản lý công cụ lao động trong thời đại khoa
học - công nghệ. Do vậy phải chú trọng đến các yếu tố khoa học, công nghệ, chuyển
giao công nghệ, sức lao động và sản phẩm lao động của họ trong cơ chế thị trường và
kinh tế nhiều thành phần.
Một là, người lao động với tư cách là yếu tố hàng đầu, năng động và quyết
định sự phát triển của LLSX, trong đó người lao động công nghiệp là bộ phận quan
trọng nhất.
Trong các yếu tố cấu thành của LLSX (người lao động, đối tượng lao động và
tư liệu lao động), con người là chủ thể sáng tạo và là chủ thể sử dụng mọi yếu tố của
tư liệu sản xuất. Chỉ có yếu tố con người với trí tuệ phát triển mới có năng lực tự
sinh, tự phát triển và hoàn thiện mình với tư cách là một bộ phận của LLSX. Con
người phát triển LLSX đến đâu thì cũng đồng thời tự nâng cao năng lực sản xuất
của mình đến đó. Trong điều kiện cách mạng khoa học - công nghệ hiện nay, với xu