Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Biện chứng kinh tế và chính trị trong chính sách kinh tế mới của V.I.Lenin và sự vận dụng nó vào việc xây dựng kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.93 MB, 107 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------

LÊ THỊ TÂM HIẾU

BIỆN CHỨNG GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ
TRONG CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI CỦA V.I. LÊNIN VÀ
SỰ VẬN DỤNG NÓ VÀO VIỆC XÂY DỰNG KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội - 2012

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------

LÊ THỊ TÂM HIẾU

BIỆN CHỨNG GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ
TRONG CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI CỦA V.I. LÊNIN VÀ
SỰ VẬN DỤNG NÓ VÀO VIỆC XÂY DỰNG KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Mã số: 60.22.80



Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Ngọc Thành

Hà Nội- 2012

2


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................
1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................................
2. Tình hình nghiên cứu ...........................................................................................
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ..........................................................
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn............................................................
7. Kết cấu của luận văn .............................................................................................
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬN VĂN .................................................................
Chương 1: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ
TRONG CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI CỦA V. I. LÊNIN VÀ LÝ LUẬN
CHUNG VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ..........................................................
1.1. Hoàn cảnh ra đời chính sách kinh tế mới của V. I. Lênin ..............................
1.1.1. Tình hình nước Nga Xơ viết trước khi áp dụng chính sách kinh tế mới .....
1.1.2. Từ chính sách “cộng sản thời chiến” sang chính sách kinh tế mới là một
sự thay đổi về biện pháp xây dựng nước Nga Xô viết của V.I. Lênin ....................
1.2. Nội dung mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong chính
sách kinh tế mới của V.I. Lênin ................................................................................
1. 2.1. Khái niệm kinh tế và khái niệm chính trị ......................................................
1.2.2. Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế...................................................
1.2.3. Chính trị khơng thể khơng giữ vị trí hàng đầu so với kinh tế .......................

1.3. Khái niệm thị trường, kinh tế thị trường và tính tất yếu xây dựng kinh tế thị
trường ở Việt Nam .....................................................................................................
1.3.1. Khái niệm thị trường, kinh tế thị trường ........................................................
1.3.2. Tinh tất yếu xây dựng kinh tế thị trường ở Việt Nam ...................................
Chương 2: SỰ VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA KINH TẾ
VÀ CHÍNH TRỊ TRONG CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI CỦA LÊNIN VÀO
VIỆC XÂY DỰNG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY............
3


2.1. Những điểm tương đồng và khác biệt về hoàn cảnh trong thời gian nước Nga
Xơ viết thực hiện chính sách kinh tế mới và khi Việt Nam bước vào công cuộc đổi
mới ..............................................................................................................................
2.1.1. Những điểm tương đồng .................................................................................
2.1.2. Những nét khác biệt ........................................................................................
2.2. Nội dung sự vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị
trong chính sách kinh tế mới của V.I. Lênin vào xây dựng kinh tế thị trường ở
Việt Nam hiện nay .....................................................................................................
2.2.1. Phát triển kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa ................
2.2.2. Bảo đảm phát triển kinh tế với công bằng xã hội ..........................................
2.2.3. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của nhà nước..
2.3. Những thành tựu đạt được và một số giải pháp để đảm bảo giải quyết đúng
đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị ...............................................................
2.3.1. Những thành tựu đã đạt được ........................................................................
2.3.2. Một số giải pháp để giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị.
KẾT LUẬN ................................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................

4



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cách đây hơn 150 năm, trên cơ sở phân tích sự phủ định biện chứng của chủ
nghĩa Tư bản (CNTB), C. Mác và Ph. Ănghen đã nêu lên những lý luận cơ bản về
CNXH. Đó là chế độ xã hội do nhân dân lao động làm chủ, khơng cịn áp bức, bất
cơng. Những quan điểm của C. Mác và Ph. Ănghen về Chủ nghĩa xã hội (CNXH)
mới chỉ là những khái quát chung nhất về mặt lý luận.
Sau này, V. I. Lênin là người đã đưa những lý luận về CNXH của Mác và
Ănghen vào xây dựng nước Nga Xô viết. Cách mạng tháng Mười Nga thành công và
nước CNXH đầu tiên trên thế giới ra đời. Trước sự bao vây, cấm vận của Đế quốc và
bọn phản động, Lênin đã nhạy bén đổi mới tư duy lý luận về xây dựng CNXH hiện
thực bằng việc thực hiện chính sách kinh tế mới để thay thế chính sách “cộng sản thời
chiến”. Nhờ chính sách kinh tế mới, Lênin đã bảo vệ công cuộc xây dựng CNXH ở
nước Nga, trong hoàn cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”. Trong chính sách kinh tế mới,
Người đã khẳng định tầm quan trọng của mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và
chính trị. Người nhấn mạnh chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế và chính trị
khơng thể khơng giữ vị trí hàng đầu so với kinh tế. Nguyên lý đó chỉ rõ rằng đường
lối, chính sách phải phản ánh được nhu cầu và quy luật kinh tế, đó là sự thể hiện nổi
bật nhất sự phù hợp giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng, giữa lý luận và thực
tiễn. Chỉ như vậy, chính trị mới lãnh đạo, quản lý kinh tế có hiệu quả, mới giữ được
vai trị của chính trị.
Mặc dù chính sách kinh tế mới của Lênin chỉ được thực hiện trong một thời gian
ngắn (từ năm 1921 đến năm 1928) nhưng chính sách kinh tế mới nói chung, mối quan
hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị nói riêng mà Lênin đưa ra có ý nghĩa vơ cùng
quan trọng trong xây dựng CNXH hiện thực. Tác dụng đó khơng chỉ ở nước Nga Xơ
viết mà ngày nay, trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam dường
như đang trở lại với những tư tưởng của Lênin trong chính sách kinh tế mới.
Sau 25 năm đổi mới, thực tiễn trong nước và quốc tế có nhiều biến đổi sâu sắc,
đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam ln phải vừa giữ vững ổn định chính trị, vừa phát

triển kinh tế một cách bền vững. Để làm được điều đó, Đảng phải ln quan tâm và
giải quyết một cách sáng suốt mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị, phải
giữ vững ổn định chính trị để phát triển kinh tế và phát triển kinh tế là góp phần giữ
vững ổn định chính trị. Việc nhận thức được sự tác động qua lại giữa kinh tế và chính
trị, sự chi phối lẫn nhau giữa chúng, có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong việc hoạch
5


định các chính sách, đường lối của Đảng và Nhà nước. Để nhận thực mối quan hệ đó
thì việc nghiên cứu chính sách kinh tế mới của Lênin, đặc biệt là nghiên cứu việc giải
quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị của Người, từ đó vận dụng vào thực tiễn
Việt Nam là điều hết sức cần thiết. Nó vừa có ý nghĩa sâu sắc về mặt lý luận cũng
như thực tiễn.
Bởi vậy, chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Biện chứng giữa kinh tế và chính trị
trong chính sách kinh tế mới của V.I. Lênin và sự vận dụng nó vào việc xây dựng
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu
Chính sách kinh tế mới của Lênin đã được nhiều học giả quan tâm, nghiên cứu.
Có một số tác giả đánh giá rất cao những nội dung mang tính chất cải cách kinh tế
trong chính sách kinh tế mới như: Anđơrét với cuốn sách “Tại sao cần tới chính sách
kinh tế mới”, Épghênhi Ambarrơxumốp với cuốn sách “Chính sách kinh tế mới qua
lăng kính thời đại”...
Ở Việt Nam, khi chúng ta đang tìm con đường để đổi mới, thoát khỏi khủng
hoảng do nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung mang lại, thì chính sách kinh tế mới của
Lênin là một cơ sở lý luận và thực tiễn phù hợp với tiến trình đổi mới ở Việt Nam.
Bởi vậy, nhiều học giả đã nghiên cứu những giá trị của chính sách kinh tế mới của
Lênin và từ đó đánh giá, vận dụng vào sự phát triển của Việt Nam. Một số tác giả ta
có thể kể đến như:
TS Trần Ngọc Hiên với “Chính sách kinh tế mới của Lênin và vận dụng vào
điều kiện ở nước ta” do Nxb Sự Thật xuất bản năm 1989. TS Lê Thanh Sinh với

“Chính sách kinh tế mới của V.I. Lênin với công cuộc đổi mới ở Việt Nam” do Nxb
Chính trị Quốc Gia xuất bản năm 2000. TS Nguyễn Ngọc Thành với “Chính sách
kinh tế mới của V.I. Lênin và cuộc sống đổi mới ở Việt Nam” và “Tính biện chứng
trong chính sách kinh tế mới của V.I. Lênin và ý nghĩa của nó đối với cơng cuộc đổi
mới hiện nay ở Việt Nam”. TS Phạm Ngọc Dũng với “Chính sách kinh tế mới của
Lênin và sự vận dụng phát triển ở Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới”...
Các đề tài trên đã có những đóng góp rất lớn trong việc nhận thức quan điểm
của Lênin về việc xây dựng kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH, đã góp phần vào
phân tích sâu sắc những nội dung trong chính sách kinh tế mới. Từ đó, các đề tài này
đã cho thấy được những giá trị trong chính sách kinh tế mới mà Việt Nam có thể kế
thừa để đổi mới đất nước. Các cơng trình này đã góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận
của đường lối đổi mới và xây dựng đất nước của Đảng ta.
6


Các nhà nghiên cứu chủ yếu nghiên cứu những nội dung có tính chất tổng hợp
trong chính sách kinh tế mới. Đặc biệt trong cuốn sách “Tính biện chứng trong chính
sách kinh tế mới của V.I. Lênin và ý nghĩa của nó đối với cơng cuộc đổi mới đất nước
hiện nay ở Việt Nam” của PGS. TS Nguyễn Ngọc Thành đã nghiên cứu một cách chi
tiết nội dung mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong chính sách kinh
tế mới. Nhưng PGS chưa nghiên cứu một cách cụ thể sự vận dụng mối quan hệ này ở
Việt Nam. Ngồi ra, có một số học giả cũng nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa
kinh tế và chính trị ở Việt Nam như Lê Văn Phụng với “Xử lý mối quan hệ chính trị
với kinh tế trong đổi mới”, Trần Đình Nghiêm “Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị”, Vũ Văn Phúc “Vai trị của chính trị đối với sự phát triển kinh tế”, luận
án Tiến sĩ của Lưu Thị Bích Thu “ Mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị ở nước ta hiện nay”...có đề cập tới mối quan hệ biện chứng giữa
kinh tế và chính trị ở Việt Nam nhưng lại đề cập rất khái quát quan điểm của Lênin
về mối quan hệ này.
Bởi vậy, trong luận văn này, chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu nội dung mối

quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong chính sách kinh tế mới của Lênin
và sự vận dụng nó vào Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Từ quan điểm của Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và
chính trị trong chính sách kinh tế mới, khẳng định Đảng và Nhà nước ta đã lấy đó làm cơ
sở lý luận để thực hiện một số nội dung đổi mới đất nước. Từ đó, luận văn đưa ra một số
giải pháp để phát huy hơn nữa mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị ở Việt Nam.
- Nhiệm vụ: Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
+ Phân tích làm rõ nội dung mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị
trong chính sách kinh tế mới của V.I. Lênin thơng qua các chính sách của Người.
+ Phân tích làm rõ sự vận dụng mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong
chính sách kinh tế mới để xây dựng kinh tế thị trường ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, đề
xuất một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn mối quan hệ này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu: Trong chính sách kinh tế mới có rất nhiều nội dung.
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, chúng tôi chủ yếu đề cập đến mối quan hệ
biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong chính sách kinh tế mới và sự vận dụng ở
Việt Nam.

7


- Đối tượng nghiên cứu: Dưới góc độ triết học, luận văn làm rõ mối quan hệ
biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong chính sách kinh tế mới của Lênin, cũng như
sự vận dụng mối quan hệ này ở Việt Nam như thế nào.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Để thực hiện luận văn này, chúng tôi dựa trên cơ sở lý luận
Chủ nghĩa Mác- Lênin, đặc biệt là lý luận của Lênin về xây dựng CNXH hiện thực,
các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng kinh
tế thị trường. Ngoài ra, chúng tơi cịn dựa trên sự kế thừa có chọn lọc những nghiên

cứu của các tác giả trong và ngoài nước.
- Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện luận văn, chúng tôi dựa trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử,
phương pháp phân tích- tổng hợp, logic- lịch sử, so sánh, đối chiếu và một số phương
pháp khác.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về mặt lý luận: Luận văn đã làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và
chính trị trong chính sách kinh tế mới của Lênin, chỉ ra đó là cơ sở lý luận để Đảng ta
thực hiện một số nội dung đổi mới.
- Về mặt thực tiễn: Hoàn thành luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho
những người nghiên cứu về triết học Mác- Lênin, chính sách trong thời kỳ đổi mới
của Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khả, luận văn được kết
cấu với 2 chương, 6 tiết.

8


NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬN VĂN
Chương 1: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH
TRỊ TRONG CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI CỦA V. I. LÊNIN VÀ LÝ LUẬN
CHUNG VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Hoàn cảnh ra đời chính sách kinh tế mới của V. I. Lênin
1.1.1. Tình hình nước Nga Xơ viết trước khi áp dụng chính sách kinh tế mới
Cách mạng tháng Mười nổ ra và một đất nước CNXH đầu tiên trong lịch sử đã
ra đời ở nước Nga- Xô viết; đã biến những lý luận về CNXH của Mác- Ănghen thành
hiện thực. Tuy nhiên, một đất nước còn non trẻ, lại là một nước Xã hội chủ nghĩa
(XHCN) đầu tiên trên thế giới nên luôn phải đương đầu với những chống phá từ bên
trong và bên ngoài. Bởi vậy, từ khi cách mạng tháng Mười thành công vang khắp

năm châu, từ 1914 đến đầu năm 1921, trải qua 7 năm tồn tại, nước Nga Xô viết bị tàn
phá nặng nề và lâm vào khủng hồng trầm trọng. Đó là do hai ngun nhân chủ yếu
là chiến tranh và thực hiện chính sách “cộng sản thời chiến”.
Nguyên nhân thứ nhất: Sự tàn phá nặng nề của chiến tranh.
Sau cách mạng tháng Mười, nước Nga Xô viết chưa kịp bắt tay vào xây dựng
CNXH đã phải đối đầu với chiến tranh liên miên. Trong cuộc chiến tranh thế giới lần
I (1914- 1918), nước Nga đã bị tàn phá nặng nề. Sau đó, nước Nga chỉ có được 4
tháng ( từ tháng 3 đến tháng 7 năm 1918) là thời gian ngừng chiến để ký hoà ước Brét
và củng cố lại lực lượng. Nhưng ngay sau đó, từ tháng 7/ 1918 đến tháng 3/ 1919
nước Nga phải đối mặt với cuộc nội chiến. Lúc này, yêu cầu trước mắt là cần phòng
thủ đất nước, động viên toàn bộ sức người, sức của để chống bọn phản cách mạng.
Điều quan trọng là phải đảm bảo lương thực đầy đủ cho quân đội và nhân dân thành
phố, những người trực tiếp tham gia chiến tranh.
Mùa hè năm 1919, giới cầm quyền ở Mỹ, Anh, Pháp và các nước khác của
khối đồng minh lại mở một cuộc tiến công quân sự mới chống nước Nga Xô viết mà
đứng đầu là kẻ phản cách mạng Đênikin. Lúc này, nhân dân Xô viết phải đẩy lùi hai
cuộc chiến tranh (nội chiến và can thiệp của nước ngồi) trong tình thế kinh tế hết sức
khó khăn: thiếu ngun nhiên liệu, giao thơng rối loạn, dịch bệnh hoành hoành.
Đầu năm 1920, nước Nga Xơ viết về cơ bản đã lâm vào tình trạng kinh tế suy
sụp nghiêm trọng do 4 năm chiến tranh đế quốc và 2 năm can thiệp vũ trang nước
ngoài và nội chiến gây ra. Chưa kịp bắt tay vào xây dựng, tháng 5/ 1920 đến tháng
11/ 1920, nước Nga Xô viết phải đối đầu với cuộc tấn công của khối đồng minh nhằm
đè bẹp hoàn toàn nước XHCN non trẻ, trong khi, trong nước cuộc nội chiến vẫn chưa
9


kết thúc. Nước Nga Xô viết non trẻ từ sau cách mạng tháng Mười phải liên tiếp đối
đầu với 4 năm chiến tranh thế giới I và 3 năm nội chiến và can thiệp của nước ngoài.
Đến cuối năm 1920 chính phủ tư sản Ba Lan đã kí kết đình chiến. Mưu toan của bọn
đế quốc tất cả các nước liên kết với bọn phản cách mạng trong nước hòng tiêu diệt

nhà nước Xơ viết đã hồn tồn bị thất bại.
Như vậy, từ năm 1914 đến 1920, nước Nga Xô viết liên tiếp xảy ra chiến tranh.
Thời gian tạm ngừng chiến chỉ đủ cho nước Nga Xô viết củng cố lại quân đội, thu
dọn lại những đống đổ nát để tiếp tục chiến đấu, khơng cịn thời gian cho việc xây
dựng lại cơ sở hạ tầng cũng như chăm lo đời sống vật chất của nhân dân. Lúc đó, cả
nước Nga như một chiến trường và mọi người dân là những người chiến sỹ. Đó là
thời kỳ vơ cùng khó khăn và túng quẫn. Người ta chỉ có thể nghĩ làm sao để sống, để
qua khỏi cuộc chiến tranh này, để chiến thắng một cách anh dũng, bảo vệ thành quả
cách mạng chứ chưa thể nghĩ tới làm kinh tế như thế nào. Lênin đã nhấn mạnh “nước
Nga ra khỏi chiến tranh trong một tình cảnh giống như một người đã bị đánh gần chết,
trong 7 năm trời, nó bị đánh khắp mình mẩy và may mà nó vẫn có thể chống nạng mà
đi được” [60,81]. Trong các nước bị lơi cuốn vào cuộc chiến tranh đế quốc, khơng có
một nước nào phải chịu đau khổ bằng nước Nga. Trong đó, cuộc nội chiến đã làm
nước Nga bị tàn phá và hoang tàn nhiều hơn, tai hại hơn cuộc chiến tranh với nước
ngoài. Do vậy, Lênin khẳng định chiến tranh “ là nguồn gốc chủ yếu gây ra những
khó khăn mà chúng ta đang phải chịu đựng lúc này, lúc mà một lần nữa, vấn đề chủ
chốt, vấn đề cơ bản của cách mạng lại là vấn đề quân sự, vấn đề chiến đấu…nhân dân
đã bị chiến tranh làm cho mệt mỏi và hơn bao giờ hết chiến tranh đã làm cho họ kiệt
quệ hồn tồn…là nguồn gốc chính của những khó khăn to lớn mà chúng ta đang
phải chịu đựng”[54,17]. Thời kỳ này có thể nhấn mạnh là thời kỳ biểu hiện mối quan
hệ chặt chẽ giữa chính trị và quân sự và nhiệm vụ của thời kỳ này cũng là chính trị và
quân sự.
Nguyên nhân thứ hai: Những hạn chế của chính sách “cộng sản thời chiến”
được bộc lộ một cách rõ ràng sau chiến tranh.
Trong 7 năm chiến tranh, để giúp nước Nga vừa có thể đương đầu chống lại
thù trong, giặc ngoài, vừa xây dựng đất nước, Lênin đã dùng đến chính sách “cộng
sản thời chiến”, một chính sách mà ngay cái tên của nó đã tốt lên tồn bộ ý nghĩa:
đây là chính sách của những người cộng sản nhằm bảo vệ đất nước trong thời chiến.
Nội dung của chính sách “cộng sản thời chiến” nổi bật bao gồm việc thực hiện
chế độ trưng thu lương thực thừa. Chính sách này buộc những người nơng dân phải

10


nộp tất cả sản phẩm thừa, đôi khi cả sản phẩm nông nghiệp cần thiết của họ cho Nhà
nước. Việc thực hiện chính sách này về trước mắt sẽ có lương thực cho qn lính và
người cơng nhân sản xuất và bảo vệ tổ quốc. Đây cũng là điểm đặc biệt trong chính
sách “cộng sản thời chiến”. Nếu khơng làm như vậy thì theo Lênin “ chúng ta đã
khơng thể thắng được bọn địa chủ và tư bản trong cái nước tiểu nơng bị tàn phá này”
[60, 264]. Người cịn khẳng định thêm: “ và việc chúng ta đã thắng…chẳng những
chứng tỏ rằng cơng nhân và nơng dân đều có khả năng làm những việc anh dũng phi
thường trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng mà cịn chứng tỏ rằng bọn men-sê-vích,
bọn xã hội chủ nghĩa- cách mạng, Cau-xky và bè lũ đã đóng vai trị đầy tớ của giai
cấp tư sản, khi chúng trách chung ta về cái “chế độ cộng sản thời chiến” ấy. Nhưng
đó lại là thành tích của chúng ta” [60, 264-265].
Ngồi việc thực hiện chính sách trưng thu lương thực thừa thì chính sách
“cộng sản thời chiến” còn nhấn mạnh tới việc hạn thế thương nghiệp, phân phối chủ
yếu bằng hiện vật, nhanh chóng quốc doanh hoá và quản lý tập trung cao độ.
Chúng ta khoan hẵng bàn những hậu quả mà chính sách “cộng sản thời chiến”
đã để lại. Đầu tiên phải nhận thấy rằng, trong cuộc chiến tranh ác liệt, một mất một
cịn, khó khăn chồng chất, cái chết ln cận kề thì chính sách “cộng sản thời chiến” là
chính sách duy nhất phù hợp, duy nhất đúng. Nó đã giúp nước Nga Xơ viết sống sót
ra khỏi chiến tranh, chiến thắng cả thù trong giặc ngoài, đã làm cho Chủ nghĩa tư bản
(CNTB) phải biết kiềng nể và bọn phản động phải rút lui. Vị thế của Nhà nước Xô
viết được củng cố và đồng thời nó biểu lộ sự bất lực của lực lượng Tư bản thế giới.
Tuy nhiên bên cạnh đó cần phải khẳng định, chính sách này tuyệt nhiên khơng
phải là chính sách của Chủ nghĩa cộng sản (CNCS) đích thực. Chính khi nói về thời
kỳ này, Lênin thường chủ yếu, mặc dù không thường xuyên sử dụng từ “Chủ nghĩa
cộng sản” và tính từ “ thuộc về chủ nghĩa cộng sản” trong ngoặc kép. Là một người
Mác xít có nhận thức sâu rộng, Người hiểu rõ tính hạn chế, tính ước lệ của những kết
quả đạt được nhờ những biện pháp đó, bởi đó khơng phải là CNCS đích thực- chỉ có

thể đạt được nhờ vào cơ sở vật chất- kỹ thuật phát triển cao và sản phẩm dồi dào.
Nước Nga Xơ viết khi đó vẫn cịn là một nước nghèo nàn lạc hậu, nền kinh tế nổi bật
là sự quyện chặt giữa Tư bản độc quyền hiện đại và tàn tích phong kiến hay mâu
thuẫn giữa một bên là chế độ sở hữu ruộng đất lạc hậu và một bên là CNTB cơng
nghiệp tài chính tiên tiến nhất.
Việc thực thi chính sách “cộng sản thời chiến” cũng nhận được sự đồng thuận
trong dân chúng rất cao. Cần nhấn mạnh rằng việc chán ghét chiến tranh, mong muốn
11


sớm chấm dứt cuộc chiến tranh này đã tạo nên một sự phản kháng ác liệt của các giai
cấp trong các lĩnh vực của đời sống khác nhau, từ kinh tế đến chính trị và quân sự, đã
thúc đẩy chính sách “cộng sản thời chiến” được thực thi nhanh hơn, tương ứng với nó
là có những biện pháp cách mạng kiên quyết trong những hồn cảnh đặc biệt. Chính
lịng nhiệt tình sơi sục của quần chúng nhân dân đã đẩy việc thực hiện chính sách
“cộng sản thời chiến” lên cao trào. Lúc đó “ được cao trào nhiệt tình lơi cuốn, chúng
ta, những người đã từng thức tỉnh nhiệt tình của nhân dân, - trước hết là về mặt chính
trị, rồi sau về mặt quân sự, - chúng ta đã tính là có thể dựa vào nhiệt tình đó mà trực
tiếp thực hiện những nhiệm vụ kinh tế cũng to tát như những nhiệm vụ chính trị
chung, như những nhiệm vụ quân sự” [61,189]. Lúc đó, hầu như mọi người dân đều
khẳng định rằng bằng lịng nhiệt tình cách mạng thì điều gì cũng có thể làm được,
muốn làm gì là có thể làm ngay được. Lúc đó, tất cả đều mong muốn có thể trực tiếp
xây dựng nhà nước theo kiểu CSCN.
Chính bởi vậy mà nhân dân, nhất là người nơng dân, đã chấp nhận những
chính sách có phần kỷ luật, nghiêm ngặt của chính quyền Xơ viết, ngay cả chế độ
trưng thu lương thực thừa. Bởi họ mong mỏi được kết thúc chiến tranh, muốn sao cho
mức sống tối thiểu của họ được cải thiện nhanh chóng. Do đó, có thể khẳng định,
chính sách “cộng sản thời chiến” được đẩy nhanh, làm mạnh trước hết từ bên dưới.
Chính lịng nhiệt tình cách mạng của nhân dân đã khiến mọi người cho rằng:
“…tưởng có thể dùng pháp lệnh của nhà nước vô sản để tổ chức theo kiểu cộng sản

chủ nghĩa trong một nước tiểu nông…Đời sống thực tế đã vạch rõ sai lầm của chúng
ta” [61, 189]. Bản thân Lênin, khi đó, đã nhận thấy những nguy cơ tiềm ẩn từ lịng
nhiệt tình đó. Người đã nhiều lần kêu gọi “ không huỷ bỏ (tạm thời) tiền tệ và không
ngăn cấm những sự giao dịch mua bán cá biệt giữa các hộ cá biệt” [53,93], “ không
thể thủ tiêu tiền tệ trong thời gian đầu của bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa cộng sản” [55,147].
Lênin đã nhận thấy những chính sách, đặc biệt là chính sách trưng thu lương
thực thừa, xét về mặt khách quan, về mặt lợi ích kinh tế là nó chưa phù hợp. Nhưng
hãy thử nghĩ xem công việc bảo vệ đất nước, mà bọn men sê vích cho rằng đó là công
việc “ gàn dở”, trong khi các cường quốc lại xúm lại viện trợ cho bọn bạch vệ, thì
phải nói tình thế của nhà nước và nhân dân Xơ viết “ cực kỳ khó khăn” đến mức độ
nào. Sau này, Lênin có nhận xét rằng thắng lợi của Xơ viết trong 7 năm chiến tranh
đó là “ lúc đó giai cấp công nhân và nông dân đã tự nguyện chịu những sự hy sinh có
thể nói là vượt quá sức chịu đựng của con người. Chưa bao giờ giai cấp công nhân đã
12


phải chịu ăn thiếu thốn, phải chịu một nạn đói như trong những năm đầu nó nắm
quyền chun chính. Rõ ràng là muốn hồn thành được nhiệm vụ đó, thì ngoài việc
thực hiện chế độ trưng thu với ý nghĩa là lấy tất cả lương thực thừa, và ngay cả một
phần các vật phẩm cần thiết của nông dân nữa, chúng ta khơng cịn biện pháp nào
khác” [60,179]. Bên cạnh đó, chính sách này có nhiệm vụ xây dựng đất nước trong
hoàn cảnh chiến tranh, lúc mà “ xung quanh chúng ta là những người, những giai cấp
và những chính phủ đang công khai tỏ ra cực kỳ căm thù chúng ta” [61, 364].
Chiến tranh diễn ra trong một thời gian khá dài, đồng nghĩa với việc áp dụng
chính sách “cộng sản thời chiến” trong một thời gian dài khiến nó ăn sâu vào nền
kinh tế, vào quản lý kinh tế, vào ý thức của người dân. Do đó, khi chiến tranh kết
thúc, chính sách này vẫn được thực hiện một phần do quán tính, hơn nữa những biện
pháp, pháp lý hành chính dễ hơn và quen hơn so với những biện pháp kinh tế. Đồng
thời, phần lớn những người lãnh đạo, đặc biệt là ở cơ quan hành chính coi đây là con

đường ngắn nhất để xây dựng chủ nghĩa Cộng sản.
Tuy vậy, chính sách này vi phạm một điều rất rõ rệt và nó chỉ bộc lộ ra khi
chiến tranh kết thúc, là nó vi phạm lợi ích người lao động, nhất là người nông dân
cũng như những kích thích cần thiết để phát triển kinh tế. Vào thời điểm chiến tranh,
mọi người dân đều chấp nhận và với lịng nhiệt tình cách mạng cao nên lợi ích riêng
tư, lợi ích cá nhân bị xếp sau lợi ích toàn dân. Bản thân Lênin sau này cũng nhấn
mạnh nhiều lần rằng chính sách “cộng sản thời chiến” chỉ là biện pháp tình thế, chính
sách tạm thời và “ trong hoàn cảnh nội chiến chúng ta phải dùng những biện pháp của
thời chiến. Tuy nhiên, nếu từ đó chúng ta rút ra kết luận rằng những biện pháp và
quan hệ đó là duy nhất có thể áp dụng được thì thật là một sai lầm lớn vô
cùng”[60,35].
Sau chiến tranh, việc tiếp tục chính sách “cộng sản thời chiến” cộng với sự tàn
phá nghiêm trọng của chiến tranh, nước Nga Xô viết lâm vào cuộc khủng hoảng trầm
trọng, tình trạng suy thoái đã rơi vào vực thẳm. Đời sống của tầng lớp nhân dân càng
thêm điêu đứng, khổn khó tới mức không sao chịu nổi nữa.
Thực chất cuộc khủng hoảng ở nước Nga Xô viết đã bắt đầu xuất hiện từ đầu
năm 1920 nhưng phải tới sau chiến tranh, khi tất cả bắt tay xây dựng lại đất nước,
biểu hiện này mới dần xuất hiện rõ rệt và nhận biết rõ hơn. Cần phải khẳng định một
điều là ngay sau chiến tranh 11/ 1920, Lênin cũng bắt tay vào xây dựng lại kinh tế,
nhận thức lại tình hình kinh tế để có những biện pháp, bước đi phù hợp, Người khơng
hề có ý định kéo dài chính sách “cộng sản thời chiến”, hay coi đó là chính sách để
13


xây dựng đất nước đi lên CNCS. Bởi vậy, đến tháng 3/ 1921 tức là sau cuộc chiến
tranh cuối cùng hơn 3 tháng, Lênin và chính quyền Xơ viết đã chuyển từ chính sách
“cộng sản thời chiến” sang chính sách kinh tế mới. Và lúc này, chính sách “cộng sản
thời chiến” đã hồn thành vai trị lịch sử của nó sau khi đảm bảo thắng lợi trước bọn
bạch vệ và bọn đế quốc can thiệp. Nó chính là cái nạng giúp cho nhân dân và chính
quyền Xơ viết thốt ra khỏi cuộc chiến tranh và “ không cần chống nạng mà cũng có

thể thốt ra khỏi tình trạng đó thì thật khơng hiểu gì hết!”[60,81].
Tuy nhiên, có một điều rằng, khi thực thi chính sách cũ nhiều người đã nghĩ đó
là một biện pháp xây dựng đất nước đi lên CNXH. Chính chính sách ấy đã giúp nước
Nga chiến thắng trong cuộc chiến tranh khốc liệt nhưng lại làm cho những người dân
Nga khi đó đã ngộ nhận rằng việc tổ chức sản xuất tập thể, theo một kế hoạch thống
nhất và phân phối sản phẩm theo nguyên tắc bình quân cũng như việc xoá bỏ quan hệ
hàng hoá- tiền tệ là điều có thể thực hiện được. Nó chỉ là biện pháp tất yếu và thiết
thực. Nhưng nó cũng không phải là một biện pháp lỗi thời như một số nhà tư tưởng
nhận định. Nó là chính sách chưa hợp thời, là chính sách mà thực tiễn chưa vận động
đến chỗ phù hợp cho nó phát huy hiệu quả.
1.1.2. Từ chính sách “cộng sản thời chiến” sang chính sách kinh tế mới là
một sự thay đổi về biện pháp xây dựng nước Nga Xô viết của V.I. Lênin
Cuộc nội chiến và chiến tranh can thiệp của nước ngoài vào nước Nga Xô viết
đã kết thúc với thắng lợi to lớn của nước Nga non trẻ. CNXH đã chứng minh quyền
tồn tại của mình trong trận chiến đấu gay go, ác liệt. Sau chiến tranh, nhiệm vụ xây
dựng kinh tế được đặt ra thay cho các nhiệm vụ đàn áp kẻ thù của giai cấp bằng quân
sự. Tuy nhiên, việc xây dựng kinh tế của nước Nga hiện giờ khó khăn hơn nhiều so
với năm 1918 bởi sự tàn phá nặng nề của chiến tranh nhất là cuộc nội chiến, gần như
làm khánh kiệt nước Nga, khiến giai cấp công nhân và nơng dân mệt mỏi về tinh thần,
bất bình vì lợi ích riêng của họ và gia đình họ khơng được bảo đảm. Lúc này, cần có
một chính sách kinh tế mới thích hợp với nhiệm vụ xây dựng kinh tế trong hồ bình.
Theo Lênin đã đến lúc phải thay liên minh quân sự và chính trị của giai cấp công
nhân và nông dân bằng liên minh kinh tế. Chính sách kinh tế mới đã xuất phát từ đó
để xây dựng nước Nga trong tình hình mới. Đây là một sự thay đổi chiến thuật và sự
thay đổi chiến thuật này theo Lênin được ví như hành động chuyển từ “ xung phong”
sang “ bao vây”.
Trước tiên, việc chuyển chiến thuật chắc chắn sẽ khiến cho nhiều người cảm
thấy bực dọc, chán nản, than khóc, phàn nàn. Tuy nhiên, với Lênin “ bị một phen thất
14



bại không nguy hiểm bằng không dám thừa nhận sự thất bại, khơng dám rút ở đó ra
tất cả những kết luận” [61,254]. Muốn chuyển chiến thuật thì cần có sự thay đổi
trong tư duy, và sự thay đổi trong tư duy đầu tiên là thừa nhận có những sai lầm trong
chính sách cũ, dù sai lầm đó trong chính sách cũ là không thể tránh khỏi nhưng trong
thời kỳ mới cần phải sửa chữa nó. Thừa nhận những sai lầm để làm tốt hơn, chu đáo
hơn, thận trọng hơn và có hệ thống hơn trong những chính sách sau. Lênin còn nhấn
mạnh: “ Nếu chúng ta cho rằng thừa nhận một thất bại cũng giống như bỏ một vị trí, sẽ
gây ra tâm trạng chán nản và làm nhụt chí đấu tranh, thì phải nói rằng những nhà cách
mạng như thế không đáng giá một xu” [61,255]. Việc tiếp sau của việc thừa nhận sai
lầm trong tư duy đó là việc phải từ đó chuyển sang phương thức khác để phát triển,
theo Lênin đó là phương thức “ bao vây” tức là sử dụng chính sách kinh tế mới.
Giai đoạn “xung phong” là giai đoạn từ khoảng đầu năm 1918 cho đến mùa
xuân 1921. Đây là thời kỳ mà chính quyền Xơ viết dùng con đường ngắn nhất, nhanh
nhất, trực tiếp nhất để thực hiện việc sản xuất và phân phối theo nguyên tắc XHCN.
Với Lênin, khi nhận định lại chính sách cũ là sai lầm hay khơng sai lầm, Người đã
khẳng định: “Đương nhiên giờ đây, khi chúng ta nhìn vào triển vọng của sự phát triển
lịch sử mà đánh giá các sự kiện, chúng ta không thể không thấy rằng sắc lệnh ấy là
ngây thơ và - xét về một mặt nào đó- là sai lầm"[61,251]. Nhưng nó cũng khơng hồn
tồn sai lầm vì “ nhà nước, tức là giai cấp vô sản, đã thử chuyển sang những quan hệ
xã hội mới bằng cách có thể nói là hết sức tìm cách thích ứng với những quan hệ xã
hội tồn tại khi ấy, hết sức tìm cách tiến hành từ từ và không quá mạnh” [61,252].
Lênin biết rõ xây dựng nước Nga hồi đó như thế nào. Vì Người đã nhận thức rõ tình
hình kinh tế của nước Nga Xơ viết khi đó là chế độ ruộng đất lạc hậu nhất cùng với
tình trạng nơng thơn dốt nát nhất và một bên là chủ nghĩa tư bản cơng nghiệp và tài
chính tiên tiến nhất. Khi đó, ở nước nga, người nông dân chiếm 82,4% dân số, sản
phẩm nông nghiệp chiếm 51,4% tổng sản phẩm quốc dân. Hơn ai hết, Lênin hiểu cần
đưa ra chính sách phù hợp với kinh tế như thế nào để phát triển. Tuy nhiên, chính
quyền Xơ viết non trẻ đã nhận một lời tuyên chiến của kẻ thù. Chúng muốn xem
chính quyền non trẻ ấy có thể đứng vững được bao lâu. Và lúc đó chỉ có thể giải

quyết bằng một cuộc chiến tranh và cuộc chiến tranh này vì là một cuộc nội chiến nên
vô cùng tàn khốc và “ cuộc đấu tranh càng trở nên khó khăn thì càng ít có khả năng
thực hiện một bước quá độ thận trọng được” [61,253] và phải dùng những biện pháp
đấu tranh hết sức gắt gao, tàn khốc, quyết liệt. Đây chính là biện pháp “ xung phong”,
dốc toàn bộ lực lượng ra để cho chiến tranh bảo vệ đất nước và chính quyền thời đó.
15


Chính quyền Xơ viết buộc phải chuyển từ nhiệm vụ kinh tế sang nhiệm vụ qn sự và
chính vì vậy mà trên mặt kinh tế, theo Lênin, “ chúng ta đã bị thất bại rất nặng nề…
đó là điều khơng thể nghi ngờ gì nữa đối với những người cộng sản” [61,198].
Khi chuyển sang giai đoạn “bao vây” cũng là lúc phải chấm dứt những sai
lầm của chiến thuật cũ và những gì dính líu đến sai lầm đó gây trở ngại cho sự hoạt
động cần được thay đổi và chuyển hẳn sang chiến thuật mới. Lênin đã khẳng định,
nếu cứ thừa nhận chính sách thời chiến có thể áp dụng cho thời bình mà khơng chịu
thay đổi thì “ có nghĩa là sự phá sản của chính quyền Xơ- viết và chun chính vơ
sản” [60,35]. Lênin đã cảnh báo việc tiếp tục thực hiện chính sách cũ sẽ dần tới một
tai hoạ cho chính quyền Xơ viết non trẻ. Người thấm nhuần quan điểm của Mác,
Ănghen cho rằng trong những điều kiện, hồn cảnh khác nhau cần phải có những
bước đi phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể đó. Nếu trái lại thì sẽ phá vỡ quy luật và
chịu thất bại. Chuyển sang chính sách kinh tế mới là bước đi phù hợp với quy luật ấy.
Chuyển sang “ bao vây” cũng tức là tiến công một cách từ từ, rút lui có tính chất
chiến lược, "trong khi họ chưa đánh bại hẳn được chúng ta, chúng ta hãy rút lui và
xây dựng lại tất cả, nhưng một cách chắc chắn hơn"[61,198].
Có nhiều người nhận định chính sách kinh tế mới chỉ là chính sách tình thế
Lênin vội đưa ra để khắc phục chính sách cũ, mà khơng có sự chuẩn bị tư tưởng.
Hồn tồn khơng phải vậy. Người đã định xây dựng nước Nga với những chính sách
kinh tế được xây dựng năm 1918 nhưng do chiến tranh nên chính sách xây dựng đất
nước cũng phải thay đổi. Lênin đã khẳng định phải có những biện pháp kinh tế mà
trước đây chưa có thể thực hiện được do chiến tranh và thực sự sai lầm khi kéo dài

chính sách ấy. Lênin cũng thừa nhận những sai lầm trong chính sách cũ như đi quá xa
trong việc quốc hữu hóa thương nghiệp và cơng nghiệp, trong việc đình chỉ những sự
trao đổi địa phương.
Chuyển sang chính sách kinh tế mới là để phù hợp với những điều kiện mới và
vì vậy, nó là chính sách mới nhưng có những cái phải lùi hơn so với chính sách cũ.
Lênin đã cho rằng cái chính sách kinh tế mà người ta gọi là “mới”, mới so với chính
sách kinh tế của ta trước kia. Nhưng về thực chất, trong chính sách đó có nhiều cái cũ
hơn chính sách kinh tế trước kia của ta. Nó được gọi là mới theo Lênin “ vì nó quay
trở lại đàng sau”[61,350]. Chính chính sách này là một bước lùi của chính quyền Xôviết, chưa nên xây dựng trực tiếp CNXH, mà trong nhiều lĩnh vực kinh tế cần phải lùi
về CNTB nhà nước tức là “ từ bỏ biện pháp tấn công chính diện và bắt đầu một cuộc
bao vây lâu dài, khơng thích thú, khó khăn và gian khổ, địi hỏi phải rút lui trên hàng
16


loạt vấn đề” [61,255]. Lênin cũng thừa nhận rằng với việc thực hiện chính sách kinh
tế mới là chúng ta dường như lùi bước “ nhưng sau đó lấy đà nhảy một bước mãnh
liệt hơn về phía trước. Chính chỉ với điều kiện như vậy, chúng ta mới đã lùi bước
bằng cách thực hiện hiện chính sách kinh tế mới của chúng ta” [62,350].
Trong chính sách kinh tế mới, Lênin khẳng định chưa thể xoá bỏ thương
nghiệp mà phải phục hồi nó, thực hiện trao đổi thơng qua thị trường. Việc phân phối
bằng hiện vật cũng đã chuyển sang phân phối sản phẩm thơng qua lưu thơng hàng
hố, sử dụng lại đồng tiền trong lưu thông, đẩy mạnh sản xuất hàng hố để từ đó đẩy
mạnh phát triển nơng nghiệp và cơng nghiệp, cải thiện đời sống nhân dân…
Chính sách kinh tế mới có nhiều điểm “lùi” hơn so với chính sách “cộng sản
thời chiến”, nó có những thay đổi trong tư duy của Lênin về con đường đi lên CNXH.
Một trong những thành công của Lênin khi áp dụng thành cơng chính sách kinh tế
mới vào thực tiễn là đã thực sự giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính
trị, chuyển từ mối quan hệ giữa chính trị và quân sự trong chính sách cũ sang mối
quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong chính sách kinh tế mới.
1.2. Nội dung mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong

chính sách kinh tế mới của V.I. Lênin
1. 2.1. Khái niệm kinh tế và khái niệm chính trị
Thứ nhất: Khái niệm "kinh tế".
Kinh tế có thể được hiểu là tổng hồ các mối quan hệ tương tác lẫn nhau của
con người và xã hội liên quan trực tiếp đến việc sản xuất, trao đổi, phân phối và tiêu
dùng các loại sản phẩm hàng hoá và dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng cao
của con người trong một xã hội nhất định.
Nguyên nghĩa của khái niệm này là “kinh bang tế thế”, là công việc của một vị
vua phải đảm nhiệm để chăm sóc đời sống vật chất của bề tơi, chăm lo đời sống tinh
thần của cộng đồng. Chữ Kinh trong “kinh bang” có nghĩa là trị nước, cịn chứ “Tế”
trong “tế thế” có nghĩa là giúp đời. Nguồn gốc của chữ này do vua Minh Trị của Nhật
đã yêu cầu dịch ra từ tiếng Latinh, nhờ chữ này mà Minh Hồng mới lơi kéo được
tầng lớp trí thức Nho giáo tham gia kinh doanh, buôn bán và làm giàu.
Thuật ngữ này có thể được hiểu theo hai nghĩa. Nghĩa hẹp chỉ hoạt động sản
xuất và làm ăn của cá nhân hay hộ gia đình. Nghĩa rộng chỉ tồn bộ các hoạt động sản
xuất, trao đổi, phân phối, lưu thông của cả một cộng đồng dân cư, một quốc gia trong
một khoảng thời gian nhất định.
Ngày nay, khái niệm kinh tế được hiểu với hai nghĩa cơ bản:
17


Một là: tổng thể các quan hệ sản xuất nhất định trong lịch sử phù hợp với mỗi
trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất.
Hai là: toàn bộ các ngành kinh tế quốc dân hay một bộ phận của nền kinh tế
quốc dân. Nó bao gồm các hình thức sản xuất theo ngành kinh tế, thành phần kinh tế
và vùng kinh tế (tức cơ cấu kinh tế) và cơ chế quản lý kinh tế.
Như vậy, thuật ngữ “kinh tế” phản ánh hoạt động sản xuất của một xã hội nhất
định, các điều kiện sống của con người, các mối quan hệ trong quá trình sản xuất và
tái sản xuất của con người. Nói đến kinh tế cịn là nói đến vấn đề sở hữu và lợi ích,
đây là hai vấn đề quan trọng nhất, cốt lõi nhất của kinh tế.

Trong xã hội có giai cấp, quan hệ giữa các giai cấp trước hết và chủ yếu biểu
hiện quan hệ giữa các lợi ích mà các giai cấp đó đang theo đuổi. Trong các lợi ích đó,
lợi ích ưu trội, vai trị chi phối là lợi ích vật chất. Thực tiễn của sự vận động và phát
triển của xã hội loài người cho thấy, giai cấp nào chiếm lĩnh được hầu hết tư liệu sản
xuất trong tay, hoặc là tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội thì giai cấp đó sẽ sản xuất
ra được nhiều sản phẩm cho xã hội hơn, và đồng thời là giai cấp nắm vị trí chi phối
trong việc tổ chức lao động trong xã hội, quản lý xã hội cũng như quyết định việc
phân phối sản phẩm xã hội.
Trong xã hội có giai cấp, chính việc vi phạm lợi ích vật chất của các giai cấp
sẽ dẫn tới mâu thuẫn giai cấp hay nói chính xác hơn, lợi ích là nguồn gốc sâu xa của
mọi cuộc cách mạng trong xã hội.
Thứ hai: Khái niệm “chính trị”.
Chính trị là lĩnh vực phức tạp nhất của đời sống xã hội có giai cấp. Chính trị
khơng xuất hiện cùng với sự xuất hiện của lồi người. Chỉ khi nào xã hội có sự phân
chia thành các giai cấp, có đấu tranh giai cấp khơng thể điều hoà được, dẫn tới việc ra
đời nhà nước để nhằm giữ đấu tranh giai cấp trong vòng trật tự. Nhà nước ra đời thì
chính trị cũng xuất hiện. Chính trị là lĩnh vực nhạy bén nhất trong các yếu tố của kiến
trúc thượng tầng. Nó tác động nhanh nhất tới các mặt của đời sống xã hội. Trong các
cuộc đấu tranh giai cấp, cuộc đấu tranh trên lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực tư tưởng
khơng có vai trò quan trọng bằng cuộc đấu tranh trên lĩnh vực chính trị. Bởi cuộc đấu
tranh tranh trên lĩnh vực chính trị sẽ dẫn đến xuất hiện các chính Đảng đại diện cho
các giai cấp, sẽ có bạo lực cách mạng nổ ra khơng phải chỉ để địi hỏi quyền lợi về
mặt kinh tế mà là quyền lực chính trị. Nói cách khác, khi có đấu tranh về chính trị tức
sẽ có cuộc cách mạng nổ ra nhằm thay đổi chế độ cũ bằng chế độ mới tiến bộ hơn.
Do đó, nó trở thành một động lực cho sự phát triển xã hội.
18


Chủ nghĩa Mác- Lênin, với quan điểm duy vật về lịch sử, đã xem chính trị là
một hiện tượng đặc biệt của đời sống xã hội, có liên quan tới các đảng phái và Nhà

nước. Nó phản ánh quan hệ giữa các giai cấp, dân tộc, các nhóm xã hội có lợi ích
khác nhau, mâu thuẫn với nhau, trong đó trước hết và căn bản nhất là lợi ích kinh tế.
Theo Lênin chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp; là sự tham gia của nhân
dân vào công việc Nhà nước, định hướng hoạt động Nhà nước; xác định hình thức,
nhiệm vụ, nội dung hoạt động Nhà nước. Bất kỳ hoạt động nào cũng có tính chất
chính trị nếu như việc giải quyết nó trực tiếp hay gián tiếp gắn với lợi ích giai cấp,
gắn với vấn đề quyền lực chính trị.
Vấn đề cơ bản nhất, chủ yếu nhất của chính trị là quyền lực nhà nước. Lợi ích
căn bản của các giai cấp được thể hiện tập trung nhất là ở vấn đề quyền lực nhà nước,
quyền lực chính trị. Quyền lực chính trị theo Mác và Ănghen là bạo lực có tổ chức
của một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác. Quyền lực chính trị của giai cấp cầm
quyền được tổ chức thành nhà nước, từ đó ra đời quyền lực nhà nước; nó được thực
hiện bằng nhà nước, thông qua nhà nước và tồn bộ hệ thống chính trị nói chung.
Trước đây, Mác- Ăghen khi nghiên cứu và phát triển triết học khoa học về lịch
sử, đã cho thấy một cách rõ ràng các yếu tố và các mối liên hệ cơ bản của kết cấu xã
hội chung tất yếu, tức hình thái kinh tế- xã hội: 1, Các lực lượng sản xuất ở một trình
độ phát triển nhất định và quan hệ sản xuất phù hợp; 2, Cơ cấu kinh tế và kiến trúc
thượng tầng pháp lý, chính trị và các hình thái ý thức xã hội tương ứng với nó; 3,
Phương thức sản xuất và các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung.
Mác khơng những chỉ ra quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất mà ơng cịn đặc biệt chú ý phân tích mối quan
hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Mác đã chỉ rõ cơ sở hạ tầng xã hội bao
giờ cũng là nhân tố quyết định kiến trúc thượng tầng hay quan hệ kinh tế, quan hệ sản
xuất là những quan hệ xã hội cơ bản quyết định mọi quan hệ về chính trị, pháp luật, tư
tưởng… Giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về kinh tế cũng chiếm địa vị thống trị trong
đời sống tinh thần của xã hội. Mâu thuẫn trong đời sống kinh tế xét đến cùng quyết
định mâu thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng. Cuộc đấu tranh giai cấp trong lĩnh vực chính
trị, tư tưởng là biểu hiện của những đối kháng trong đời sống kinh tế.
Mác đã khẳng định không thể lấy bản thân những quan hệ pháp quyền cũng
như những hình thái nhà nước, hay lấy cái gọi là sự phát triển chung của tinh thần của

con người, để giải thích những quan hệ và hình thái đó, mà trái lại, phải thấy rằng
những quan hệ và hình thái đó bắt nguồn từ những điều kiện sinh hoạt vật chất. "Nếu
19


ta không thể nhận định về một con người căn cứ vào ý kiến của chính người đó đối
với bản thân, thì ta cũng khơng thể nhận định về một thời đại đảo lộn như thế căn cứ
vào ý thức của thời đại ấy. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn
của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa lực lượng sản xuất xã hội và
những quan hệ sản xuất” [45, 15]. Như vậy, muốn xây dựng và phát triển xã hội, xây
dựng nhà nước bền vững thì phải giải quyết những vấn đề liên quan đến sản xuất vật
chất. Ở nơi đó, mâu thuẫn ln tồn tại và ln phải giải quyết mâu thuẫn đó nếu
khơng sẽ dẫn đến sự phá huỷ xã hội.
Từ việc đưa ra quan điểm về đời sống vật chất quyết định đến vấn đề ý thức,
tinh thần của xã hội thì Mác và Ănghen khẳng định vai trò quyết định của kinh tế đối
với đời sống xã hội nói chung, tới hoạt động chính trị của nhà nước nói riêng. Theo
ơng tương ứng với những điều kiện vật chất, phương thức sinh hoạt kinh tế, xã hội
nhất định, thì có những hình thức nhà nước, và cả những cá nhân hoạt động chính trị
thích hợp. “ Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan
hệ nhất định, tất yếu, không tuỳ thuộc vào ý muốn của họ- tức những quan hệ sản
xuất, những quan hệ này phù hợp với trình độ phát triển nhất định của các lực lượng
sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế
của xã hội tức là cái cơ sở hình thức trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp
lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện
thực đó. Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã
hội, chính trị và tin thần nói chung. Không phải ý thức của con người quyết định tồn
tại của họ, trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ” [45,14-15]. Kinh tế
là cơ sở mà các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị, tinh thần đều được nảy sinh trên
cơ sở ấy và một khi “ cơ sở kinh tế thay đổi thì tồn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ
sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng” [45,15] trong đó có cả chính trị nữa.

Tuy nhiên với tư duy biện chứng, Mác- Ănghen không chỉ thừa nhận sự quyết
định của kinh tế đối với chính trị mà cịn nhận thấy sự tác động trở lại của chính trị
đối với sự phát triển kinh tế. Theo các ơng thì “ tác động ngược lại của quyền lực nhà
nước đối với sự phát triển kinh tế có ba loại. Nó có thể tác động cùng hướng khi ấy sự
phát triển diễn ra nhanh hơn; nó có thể tác động ngược lại sự phát triển kinh tế- khi ấy
thì hiện nay ở mỗi dân tộc lớn, nó sẽ tan vỡ. Sau một khoảng thời gian nhất định,
hoặc là nó có thể cản trở sự phát triển kinh tế ở những hướng nào đó và thúc đẩy sự
phát triển ở những hướng khác. Trường hợp này rốt cuộc dẫn đến một trong hai
trường hợp trên. Tuy nhiên, rõ ràng là trong trường hợp thứ hai và thứ ba, quyền lực
20


chính trị có thể gây tác hại lớn cho sự phát triển kinh tế và có thể gây ra sự lãng phí to
lớn về sức lực và vật chất”[47,678]. Ănghen đã phân tích rõ vai trị ảnh hưởng của
nhà nước thơng qua hình tượng của bạo lực như sau: sau khi bạo lực chính trị đã trở
thành độc lập đối với xã hội, sau khi đã từ đầy tớ trở thành người chủ rồi, thì nó có thể
tác động theo hai chiều hướng. Thứ nhất, nó tác động theo hai ý nghĩa và chiều hướng
của sự phát triển kinh tế có tính quy luật. Như thế giữa bạo lực chính trị và sự phát triển
kinh tế khơng có sự xung đột nào và sự phát triển kinh tế được đẩy mạnh hơn. Thứ hai,
nó chống lại sự phát triển kinh tế và khi đó trừ một vài ngoại lệ ra, thường thường nó
chịu sức ép của sự phát triển kinh tế. Như vậy, dù chính trị có can thiệp như thế nào
vào kinh tế, có thể đẩy nhanh hoặc kìm hãm sự phát triển kinh tế cùng với những hệ
quả về chính trị và pháp luật bắt nguồn từ sự phát triển kinh tế ấy thì cuối cùng vẫn
phải tuân theo sự phát triển ấy. Lênin đã tiếp thu những quan niệm giá trị về mối quan
hệ kinh tế, chính trị của Mác, Ănghen để xây dựng nước Nga Xô viết.
1.2.2. Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế
Kế thừa quan điểm của Mác, Ănghen, Lênin đã vận dụng mối quan hệ đó để
giải quyết vấn đề kinh tế xã hội nước Nga Xô viết sau chiến tranh, thể hiện qua chính
sách kinh tế mới. Lênin chủ trương xây dựng lại đất nước bắt đầu từ kinh tế, chuyển
từ những lợi ích chính trị, quân sự vào con đường xây dựng kinh tế và “ trước hết

phải khôi phục nền kinh tế của chúng ta, làm cho nền kinh tế đó được vững
chắc”[59,166].
Việc đầu tiên phải khẳng định là việc chuyển hướng từ phục vụ lợi ích
chính trị và quân sự để phục vụ cho kinh tế, lợi ích kinh tế sẽ tạo nên một sự dao
động, một sự phản ứng. Bởi nước Nga vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh nhưng
nguy cơ chiến tranh vẫn chưa hết, nên có quan niệm cho rằng vẫn cần phải xây
dựng lực lượng quân sự vững mạnh để đối phó và ngăn chặn tất cả những nguy
cơ phát triển của CNTB ở trong nước. Với tư tưởng đó, một số người vẫn khơng
muốn chuyển sang chính sách mới.
Hơn ai hết, Lênin hiểu rằng để có một nền quân sự vững mạnh đương đầu với
những thế lực thù địch, để có một nền chính trị ổn định, các giai cấp đồn kết, yên tâm
xây dựng CNXH thì cần phải giải quyết vấn đề kinh tế mà cơ bản là lợi ích kinh tế.
Mác, Ănghen ngay thời kỳ xây dựng học thuyết khoa học và cách mạng của
mình đã nhấn mạnh rằng mọi sự biến thiên của lịch sử dù dích dắc đến thế nào thì
cuối cùng vẫn là thấy tính tất yếu kinh tế chi phối sự vận động của lịch sử. Xét đến
cùng, kinh tế là nhân tố quyết định mọi tiến bộ lịch sử. Nó là nhân tố quan trọng và
21


quyết định cuối cùng chứ không phải là nhân tố duy nhất quyết định. Nếu chúng ta
tách rời tư tưởng với lợi ích thì tư tưởng sẽ bị mất “ tín nhiệm”, nghĩa là “ tự nó làm
nhục bản thân nó”.
Từ đó, Lênin đã nhận thấy, nhà nước chun chính vơ sản sẽ khơng có tác
dụng gì khi nó rao giảng về CNXH, con đường đi lên CNXH lại trở nên bất lực trong
việc giải quyết các nhiệm vụ kinh tế. Đặc biệt, với Lênin, từ kinh nghiệm thực tiễn
của cách mạng Tháng Mười và những năm đầu xây dựng CNXH của nước Nga Xôviết, Người cũng nêu lên những luận đề, nhằm tổng kết sâu sắc về vai trò của kinh tế
và chính trị cũng như mối quan hệ biện chứng giữa chúng.
Sự thâm nhập và chuyển hoá lẫn nhau giữa kinh tế và chính trị, đến mức mà
Lênin nhận xét rằng, khi đi vào xây dựng kiến thiết CNXH ở Nga thì nhiệm vụ nổi
bật hàng đầu là phát triển kinh tế. Bởi thế cần phải nhận thức rằng, cái chính trị quan

trọng nhất, có ý nghĩa nhất, lý thú nhất lúc này là làm kinh tế. Theo Lênin, người ta
cần đến kinh tế để khỏi bị chết đói và cần đến chính trị, thứ chính trị đúng đắn và
sáng suốt, để khỏi tự giết chết mình. Cả hai cái đều giúp con người tồn tại nhưng
trước hết phải có ăn đã thì mới làm chính trị, làm tư tưởng được. Do đó, chính trị thời
kỳ này là biểu hiện tập trung của kinh tế. Các chính sách đưa ra chủ yếu nhằm giải
quyết các vấn đề kinh tế của nước Nga. Tuy vậy, để đưa ra những chính sách đúng thì
cần phải có một tư duy chính trị mang tính khái quát.
Thứ nhất, chính trị phải biết được muốn xây dựng kinh tế thì phải bắt đầu từ
đâu, giải quyết khâu nào?. Từ nhiều sự phân tích, Lênin cho rằng cần phải bắt đầu từ
nông dân, từ chính thực tiễn sản xuất vật chất và lợi ích của họ. Vì sao lại như vậy?.
Một là: Mâu thuẫn xã hội nảy sinh găy gắt nhất mà thông qua thực tiễn Lênin
nhận thấy đó là ở nơng dân. Người nơng dân trong chính sách cũ họ đã góp một
phần rất lớn để nuôi sống giai cấp công nhân và chính quyền Xơ viết thơng qua
chính sách trưng thu lương thực thừa. Họ tình nguyện chấp nhận chính sách gần
như cho không số lương thực mà họ phải vất vả làm ra để hy vọng sau chiến tranh
đời sống của họ sẽ khá hơn. Nhưng chiến tranh đã kết thúc, cộng thêm nạn hạn hán,
mất mùa xảy ra họ không thể sản xuất thêm lương thực. Thêm vào đó, số lương
thực ít ỏi mà họ sản xuất ra lại bị trưng thu mất khiến đời sống của họ càng thêm
cực khổ. Bên cạnh đó, người nơng dân khơng thể hiểu và tiếp thu nổi kiểu nông
trang tập thể “ một lớn hai cơng hữu”. Chỉ có 0,4% tổng số hộ nông dân tham gia
nông trang tập thể. Hơn nữa bản thân nông trang tập thể “ ăn chung nồi to” đã làm
cho nơng dân khơng cịn hứng thú sản xuất.
22


Sau chiến tranh, lợi ích của nơng dân khơng đảm bảo, đời sống khốn khó lại
phải chịu thêm chính sách trưng thu lương thực thừa dẫn đến việc họ không có hứng
thú sản xuất, trồng trọt nữa. Họ hoặc là sản xuất ít hoặc là đem ra chợ đen bán sản
phẩm chứ không cho nhà nước trưng thu hết. Bên cạnh đó sự bất bình cuả nơng dân
càng ngày càng tăng cao thành sự nổi loạn, đơn cử là cuộc bạo loạn ở Crơnxtát, ở tỉnh

sản xuất lúa mì Tambốp. Hầu hết những người biểu tình đều có cùng một lý do là sợ
chế độ trưng thu lương thực thừa vì vậy khơng mở rộng diện tích gieo trồng. Họ giết
gia súc hoặc cất giấu chúng và theo họ, cuối cùng là, sản xuất để làm gì nếu người ta
cứ lấy hết sản phẩm thừa. Chỉ cần bãi bỏ chế độ trưng thu lương thực thừa thì các lực
lượng bạo loạn sẽ giải tán ngay tức khắc. Số người biểu tình khơng chỉ có nơng dân
mà cịn có các binh lính giải ngũ, vì trong khi họ chiến đấu ác liệt ngồi chiến trường
thì gia đình họ ở nơng thơn lại bị áp lực của chế độ trưng thu lương thực thừa.
Khi giai cấp nông dân không muốn sản xuất cho chính quyền Xơ viết thì giai
cấp cơng nhân khơng có thực phẩm để sinh hoạt, khơng đủ ngun liệu để sản xuất.
Một điều nữa là khi họ khơng cịn nhiệt huyết cho chế độ thì tức là họ, giai cấp nơng
dân, khơng cịn tin cậy ở giai cấp cầm quyền thì đó sẽ là lúc giai cấp tư sản đẩy nông
dân chống lại công nhân, đẩy thế lực tiểu tư sản tự phát vơ chính phủ chống lại cơng
nhân. Nếu như vậy, theo Lênin, nó sẽ trực tiếp đưa tới chỗ lật đổ nền chun chính vơ
sản và tức là khơi phục lại CNTB, khơi phục lại chính quyền tư bản- địa chủ cũ. Đây
chính là mối nguy hiểm chính trị to lớn, rõ ràng mà nguyên nhân sâu xa là do sự
khơng đáp ứng đầy đủ lợi ích kinh tế.
Lênin đã nhìn thấy được mối nguy hại đó. Chính sự khơng ổn định về kinh tế,
sự vi phạm lợi ích kinh tế sẽ dẫn tới sự mất ổn định về chính trị. Người đã có lần
tun bố trước Đảng cộng sản rằng: “ Các đồng chí hãy coi chừng sự thống trị của
giai cấp công nhân và nền chun chính của giai cấp cơng nhân đang bị đe dọa”
[60,19]. Nhưng khi đó nhiều người đã khơng nhận thức được điều đó và cịn tun bố
“đó là một cách doạ dẫm”, “ khủng bố” tinh thần của Lênin. Họ tập trung đi vào
nghiên cứu những vấn đề chi tiết, vụn vặt của cương lĩnh và “làm việc đó ngay cả
trong những điều kiện mất mùa, khủng hoảng, trong những điều kiện bị tàn phá và
phục viên quân đội” [60,20]. Họ hoàn toàn xa rời với cuộc sống thống khổ đến chết
đói khơng lối thốt của nhân dân, ngoảnh mặt với những mâu thuẫn, căng thẳng đang
nảy sinh và ngày càng nghiêm trọng trong xã hội.
Hai là: Lênin đã nhấn thấy “trong một nước như vậy, cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa chỉ có thể thắng lợi triệt để với hai điều kiện. Điều kiện thứ nhất là có sự
23



ủng hộ kịp thời của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở một nước hay một số nước
tiên tiến…Điều kiện nữa là sự thoả thuận giữa giai cấp vô sản đang thực hiện sự
chun chính của mình hoặc đang nắm chính quyền nhà nước với đại đa số nơng dân”
[60,69]. Hai điều kiện đó, như thực tiễn cách mạng XHCN ở nhiều nước cho thấy, là
hình thành khối liên minh bằng hai sức mạnh: bên trong là liên minh giữa hai giai cấp
cơng nhân và nơng dân, bên ngồi là sự liên minh quốc tế XHCN. Trong một nước có
nền kinh tế lạc hậu khơng thể thiếu hai sức mạnh này, được ví như “ sức đẩy hai cánh
của con chim đại bàng. Thiếu một không thể được. Thiếu cả hai thì cách mạng nhất
định thất bại” [25,71]. Với sức mạnh đó, chính quyền non trẻ của giai cấp cơng nhân
trong một nước có nền kinh tế lạc hậu mới có thể đứng vững và tiến lên vững chắc.
Tuy nhiên, khối liên minh cơng nơng chỉ có thể thực hiện được một cách tốt
nhất nếu như liên minh chính trị giữa họ được củng cố bắng liên minh kinh tế. Liên
minh kinh tế giữa vô sản và nông dân, giữa nền công nghiệp XHCN và nền kinh tế
tiểu nông chỉ vững chắc khi bảo tồn và sử dụng các quan hệ hàng hố- tiền tệ. Thực
chất, đó là cho phép áp dụng rộng rãi nguyên tắc khuyến khích vật chất đối với công
nhân và nông dân nhằm phát triển sản xuất vật chất, nâng cao năng suất lao độngmột trong những điều kiện chủ yếu để CNXH chiến thắng CNTB.
Chính thực tiễn kinh tế và mâu thuẫn về lợi ích kinh tế như vậy, Lênin đã phân
tích và đưa ra các chính sách phù hợp với thực tiễn đất nước để củng cố và phát triển
đất nước. Bắt đầu là từ người nông dân và với lương thực của họ.
Từ những điều trên, Lênin đã nhận thấy xuất phát điểm của chính sách kinh tế
mới của Xơ viết là giải quyết lợi ích về mặt kinh tế cho người nông dân, tức là bắt
đầu từ nông nghiệp chứ không phải là từ công nghiệp. Điều này đã vấp phải sự phản
kháng của một số người cộng sản phái tả chồng chính sách này. Họ thấy chính quyền
là của giai cấp công nhân nhưng lại bắt đầu nâng cao mức sinh hoạt vật chất cho
người nơng dân. Theo họ, đó hồn tồn vơ lý và khơng thể chấp nhận được và cần
phải thực hiện các chính sách trước như: tăng khẩu phần cho cơng nhân đang đói,
phân phối rộng rãi nhiên liệu… và muốn làm được như vậy thì chính sách trưng thu
lương thực thừa phải ln là chính sách cần thiết, kể cả trong thời bình. Đây gần như

là một cuộc đấu tranh về lợi ích kinh tế, giành lợi ích kinh tế cho nơng dân hay cho
cơng nhân, tức là ưu tiên phát triển nông nghiệp hay công nghiệp, là vấn đề đang đặt
ra hiện nay.
Theo Lênin, những người phái tả đã quên mất rằng 80% dân số của nước Nga
Xô viết là nông dân và nền kinh tế của nước Nga vẫn phụ thuộc phần lớn vào nông
24


nghiệp. Bản thân giai cấp nông dân đã nuôi sống giai cấp cơng nhân và chính quyền
của họ, đổi lại họ cần chính quyền tạo điều kiện cho họ sản xuất, phát triển. Lênin đã
nhấn mạnh “ Chúng ta phải hiểu rằng trong điều kiện cuộc khủng hoảng của kinh tế
nông dân, chúng ta không thể tồn tại được bằng cách nào khác là dựa vào nền kinh tế
nông dân đó để giúp đỡ thành thị và nơng thơn” [60,29] và “ kẻ thù có vũ khí đang
rình chúng ta và để khỏi bị nó quật ngã, chúng ta cần thiết lập những quan hệ đúng
đắn giữa công nhân và nông dân” [59,386].
Đúng như vậy. Giai cấp công nhân muốn tồn tại cần có một mối quan hệ chặt
chẽ với nơng dân. Nếu khơng ngồi việc khơng được người nơng dân cung cấp thực
phẩm, giai cấp cơng nhân và chính quyền Xơ viết cịn đối mặt với một điều nguy hại
hơn đó là “nơng dân cịn đi theo giai cấp tư sản và cơng nhân cịn bị cơ lập, thì họ
(giai cấp cơng nhân) sẽ cịn bị đè bẹp. Nếu chúng ta quên điều đó, chúng ta sẽ bị tư
bản đánh bại”[59,386]. Vì sao ư, vì giai cấp nơng dân theo Lênin, không phải là
những người XHCN. Cho nên Lênin ví việc đưa ra các kế hoạch xây dựng CNXH
của nước Nga Xô viết trên nền tảng coi nông dân là người XHCN thì khơng khác gì
việc xây dựng trên cát.
Vì vậy, cần bắt đầu từ nơng dân, bắt đầu từ nơng nghiệp. Đó là cách thức để
nhà nước Xơ viết giữ được chính quyền, phát triển kinh tế, xã hội và đoàn kết được
giai cấp để đấu tranh chống thế lực thù địch. Một điều nữa mà chỉ Lênin và những
người Mác xít thấy được đó là cải thiện đời sống của nơng dân cũng chính là cải thiện
đời sống của cơng nhân. Cơng nhân phải có lúa mì để sống và có nguyên liệu để sản
xuất. Vậy để có nó thì phải làm thế nào, thì “chỉ có thể tăng thêm sản xuất và thu

hoạch lúa mì, tăng thêm dự trữ và vận tải nhiên liệu bằng cách cải thiện đời sống của
nông dân, bằng cách nâng cao lực lượng sản xuất của họ. Phải bắt đầu từ nơng
dân”[60,263]. Theo Lênin, người nào khơng hiểu điều đó mà coi chính sách với nơng
dân như là một sự từ bỏ chun chính vơ sản thì là họ khơng suy nghĩ kỹ càng và bị
lời nói trống rỗng chi phối.
Theo Lênin, chun chính vơ sản là sự lãnh đạo của giai cấp vô sản và giai cấp
vô sản với sự lãnh đạo của mình phải biết đưa ra những chính sách để giải quyết
những vấn đề cấp bách nhất và vấn đề cấp bách nhất ở đây nằm chính ở giai cấp nông
dân. Người cho rằng: “ trong thời kỳ quá độ này, trong một nước mà nông dân chiếm
đa số, chúng ta phải biết chuyển sang những biện pháp nhằm bảo đảm những yêu cầu
của nông dân về mặt kinh tế, biết tiến hành đến mức tối đa những biện pháp để cải
thiện tình cảnh kinh tế của nơng dân. Trong khi chúng ta chưa cải tạo được nông
25


×