Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Tư tưởng đạo đức của Arixtốt trong tác phẩm đạo đức học của Nicomaque

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (702.58 KB, 103 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




LÊ THỊ BÍCH GIANG




TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA ARIXTỐT
TRONG TÁC PHẨM “ĐẠO ĐỨC HỌC
CỦA NICOMAQUE”




LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học






Hà Nội - 2012





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




LÊ THỊ BÍCH GIANG



TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA ARIXTỐT
TRONG TÁC PHẨM “ĐẠO ĐỨC HỌC
CỦA NICOMAQUE”

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.80




Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Anh Tuấn










Hà Nội – 2012



1
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 2
CHƯƠNG 1. BỐI CẢNH VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ TƯ TƯỞNG
CHO SỰ RA ĐỜI ĐẠO ĐỨC HỌC CỦA ARIXTỐT 11
1.1. Điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh kinh tế - xã hội của
Hy Lạp cổ đại 11
1.1.1. Điều kiện tự nhiên 11
1.1.2. Hoàn cảnh kinh tế - xã hội và khoa học ở
Hy lạp cổ đại 13
1.2. Tiền đề tư tưởng cho sự ra đời đạo đức học Arixtốt 19
1.2.1. Tư tưởng đạo đức học của Xôcrát (470 – 399 Tr. CN) 20
1.2.2. Tư tưởng đạo đức học của Platôn (427 - 347 Tr. CN) 27
1.3. Arixtốt và tác phẩm "Đạo đức học của Nicomaque" 32
1.3.1. Arixtốt: cuộc đời và sự nghiệp triết học 32
1.3.2. Tác phẩm “Đạo đức học của Nicomaque ” 37
CHƯƠNG 2. QUAN NIỆM CỦA ARIXTỐT VỀ CÁC PHẠM TRÙ
ĐẠO ĐỨC CƠ BẢN QUA TÁC PHẨM “ĐẠO ĐỨC HỌC CỦA
NICOMAQUE” 42
2.1. Quan niệm của Arixtốt về “điều thiện” và “hạnh phúc” 43
2.2. Quan niệm của Arixtốt về “đức hạnh” và các thuộc tính của
đức hạnh 53

2.3. Quan niệm của Arixtốt về “tính công bằng” và
“tình thân hữu” 64
2.4. Quan niệm của Arixtốt về tự do ý chí và
giáo dục đạo đức 77
2.5. Giá trị hiện tại của đạo đức học Arixtốt trong tác phẩm
“Đạo đức học của Nicomaque” 85
KẾT LUẬN 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 98



2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chúng ta đang sống trong thời đại phát triển nhanh và toàn diện trên
tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị và văn hoá xã hội, một thời đại gia tăng
mãnh liệt của nền sản xuất cùng với những biến chuyển to lớn trong các
lĩnh vực văn hoá, xã hội, đặt ra nhiều vấn đề không chỉ cho một quốc gia,
dân tộc mà cho toàn thể nhân loại. Sức mạnh công nghệ đã tạo ra bước
ngoặt trong sự phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất, làm cho xã hội
loài người ngày càng văn minh, hiện đại hơn. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích
cực, những hiện tượng tiêu cực vẫn hàng ngày, hàng giờ xâm nhập vào mọi
mặt của đời sống xã hội và có xu hướng ngày càng gia tăng gay gắt hơn.
Những vấn nạn như ô nhiễm môi trường, hủy hoại môi sinh, phân hoá giàu
– nghèo, quan liêu, tham nhũng, đặc biệt là sự tha hóa nhân cách của con
người, sự phá vỡ các giá trị truyền thống, sự rời bỏ mang tính đại chúng các
giá trị đã từng dẫn dắt nhân loại trong suốt chiều dài lịch sử. Điều đó khiến
chúng ta đặt câu hỏi, tại sao lại có nghịch lý như vậy? Phải chăng khi loài
người dư thừa của cải vật chất thì lại dễ rơi vào tình trạng bất lực về
phương diện tinh thần, đạo đức? Thiết nghĩ các phạm trù đạo đức: thiện,

hạnh phúc, đức hạnh, công bằng khó có thể được tính tới trước các quan
hệ kinh tế nhưng lại rất cần thiết để điều hòa các quan hệ đó nhằm tạo ra sự
ổn định lâu dài. Muốn được như thế thì con người cần phải được giáo dục
và học tập một cách tự giác, không chỉ về phương diện tri thức mà còn cả
về tâm hồn, nhân cách.
Trong khi đó, từ cổ đại tới nay, chính các nhà hiền triết là những
người luôn dành toàn bộ cuộc đời mình, phấn đấu, hi sinh để tìm kiếm mục
đích cao cả - các cơ sở tối hậu của nhân tính và con đường đạt tới nó, giải
thoát, cứu rỗi, giải phóng nhân tính khỏi sự áp bức, nô dịch của những cái
phi nhân tính ở nơi con người và ở thế giới bao quanh xã hội loài người.
Quay lại với lịch sử, chắt lọc những tinh hoa sáng tạo của các triết gia, đặc


3
biệt là những tư tưởng then chốt của các ông như một con đường hữu hiệu
để chúng ta tự giáo dục mình trở thành những con người văn hóa, qua đó
tạo lập một xã hội văn minh hiện đại theo đúng nghĩa của nó, là việc làm
cần thiết lúc này hơn lúc nào hết.
Ph. Ăngghen cũng đã từng nói “một dân tộc muốn đứng vững trên
đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận”, nhưng tư
duy lý luận ấy “cần phải được hoàn thiện và muốn hoàn thiện nó thì cho tới
nay, không có một cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học thời
trước” [3, 489], vì “triết học là sự tổng kết lịch sử tư duy” (Heghen). Mặt
khác, vì lịch sử phát triển của tư duy được tổng kết trong lịch sử triết học
nên chính lịch sử triết học là cơ sở để hình thành phép biện chứng tự giác.
Thực tiễn đã chứng minh điều đó. Chính vì vậy để có một tư duy lý luận
sắc bén phục vụ cho sự phát triển của khoa học mà những tư tưởng triết
học, đạo đức học ở mọi thời đại luôn được các thế hệ đi sau đào sâu tìm tòi
và phát triển.
Trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại, Arixtốt là một trong số ít nhà

tư tưởng quan trọng nhất và “trong suốt nhiều thế kỷ là người thầy của tất
cả các nhà triết học” (Hêghen). Trong suốt nhiều thế kỉ người ta đã nói tới
tên của Arixtốt với một lòng nhiệt thành cảm phục. Triết gia ấy kết thúc
một cách rực rỡ thời kì mỹ lệ của văn hoá Hy Lạp. Ông đã kiểm kê, khái
quát lại với một sự cẩn thận, tỉ mỉ, những kiến thức trí tuệ và khoa học;
thiên tài uyên bác của ông đã tổng kết tất cả những gì mà thời đại của ông
đã thực hiện. Ông đã làm việc một cách phi thường để xếp đặt, phân loại
và đồng thời thiết lập một nền triết học mới, mà sau này sẽ trở thành một
trong những di sản tinh thần chính yếu của nhân loại.
Như vậy Arixtốt đã để lại cho hậu thế một gia tài triết học đồ sộ mà
trong đó những tư tưởng đạo đức học của ông xứng đáng được đánh giá
cao nhất - bởi lẽ, về mặt triết học “Arixtốt là người đã có công hệ thống
hoá triết học trong thế giới cổ đại với một sự chính xác đến kinh ngạc, là


4
người đã vạch ra cấu trúc lôgíc của các quan điểm, các học thuyết triết học
trước, qua đó đem lại sự tường minh cho các vấn đề phức tạp. Arixtốt
không chỉ là người đã có công tổng kết tư tưởng của các bậc tiền bối, mà
còn là người tổ chức, định hướng cho công tác nghiên cứu và phát triển
triết học của những người kế tục ông” [13, 51]. Còn về mặt đạo đức học,
triết gia Arixtốt được nhìn nhận là người hệ thống hoá và kiện toàn bộ môn
đạo đức học. Ngược với đạo đức học lý tưởng hoá của Platôn, Arixtốt chủ
trương một thứ đạo đức học trung dung, vừa tầm tay với của con người.
Theo Arixtốt, thi hành lý tưởng đạo đức là sống như con người. Và sống
như con người là biết sử dụng lý trí để nhận định phải trái, tốt xấu và đạt
tới sự phối hợp hài hoà giữa hành động với lý trí để chọn lựa những hành
động hợp lý, công bằng và thiện ích. Với vai trò là người hệ thống hoá đạo
đức học Hy Lạp cổ đại, ông đã “phân loại các khái niệm đạo đức, xác định
ranh giới của chúng, phân tách các khía cạnh lý luận và thực tiễn của đạo

đức học, định hình những vấn đề chính của nó” [47, 71]. Không ai có thể
bác bỏ được một sự thực là tư tưởng đạo đức học cổ đại đã đạt tới đỉnh cao
trong triết học Arixtốt.
Quả thật, triết học, đạo đức học của Arixtốt có vai trò rất quan trọng
nên đã thu hút đông đảo sự quan tâm của các nhà triết học. Hiện nay đa
phần các sách về lịch sử triết học ở nước ta đều trình bầy đầy đủ hệ thống
triết học của Arixtốt nhưng những tư tưởng đạo đức học của ông thì không
phải quyển sách nào cũng đề cập đến, chứ chưa nói là đầy đủ.
Xuất phát từ những lý do trên cộng thêm lòng yêu thích triết học,
đam mê những tư tưởng đạo đức thời cổ đại Hy Lạp, muốn thấy được vai
trò và vị trí to lớn của triết học, đạo đức học Arixtốt với triết học, đạo đức
học sau này đã khiến tác giả chọn Tư tưởng đạo đức của Arixtốt trong tác
phẩm “Đạo đức học của Nicomaque” làm đề tài luận văn thạc sĩ. Đó là
những tư tưởng đặc trưng nhất, sâu sắc nhất được thể hiện trong tác phẩm
nổi tiếng này mà cho đến nay phần nhiều vẫn còn nguyên giá trị.


5
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu triết học cũng như nghiên cứu những tư tưởng đạo đức
học có một ý nghĩa rất quan trọng đối với sự đổi mới tư duy lý luận nói
chung và sự phát triển của các khoa học triết học nói riêng.
Triết học Arixtốt nói chung và đạo đức học của ông nói riêng đã
được nghiên cứu, diễn giải ngay từ thời cổ đại cho đến tận ngày nay ở
nhiều nước khác nhau. Một trong những lĩnh vực luôn thu hút được sự
quan tâm và nghiên cứu khá kỹ trong hệ thống triết học của ông là đạo đức
học. Những đề tài liên quan đến vấn đề này luôn được tiếp cận dưới nhiều
góc độ khác nhau.
Ở Việt Nam, Arixtốt là một trong số những nhà triết học Hy Lạp cổ
đại được quan tâm hơn cả. Tác phẩm “Đạo đức học của Nicomaque” [1],

xuất bản sau khi ông qua đời đã được dịch giả Đức Hinh dịch sang tiếng
Việt. Luận văn sẽ phân tích nội dung của tác phẩm quan trọng này, đồng
thời kế thừa những thành quả nghiên cứu đã được công bố của những tác
gia khác nữa để thấy được những giá trị tư tưởng đạo đức học của Arixtốt.
Trước tiên phải kể đến những công trình nghiên cứu về triết học Hy
Lạp cổ đại và lịch sử triết học của các tác giả khác nhau với những vấn đề
được đề cập cũng khác nhau trong các sách tham khảo và giáo trình như
“Triết học Hy Lạp cổ đại” của Thái Ninh (1987) [32], trong đó, tác giả đã
trình bày triết học Hy Lạp từ khi hình thành đến thời kỳ Hy Lạp hoá, thời
kỳ suy tàn của chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp cổ đại. Đối với triết gia
Arixtốt, ngoài việc đi vào cuộc đời và sự nghiệp triết học thì tác giả đã
trình bày, phân tích rất nhiều nội dung như: Học thuyết về tồn tại, Logic
học,… và quan niệm về đạo đức, tuy còn rất khái quát nhưng đó cũng là
một nguồn tư liệu quan trọng cho tác giả luận văn tham khảo. Tiếp theo
phải kể đến “Triết học cổ Hy Lạp giản yếu” của Hào - Nguyên Nguyễn
Hóa (2004) [23], trong tập 2 “Tập bài giảng lịch sử triết học Hi La” của
Nguyễn Quang Thông và Tống Văn Chung (1990) [41], “Triết học Hy Lạp


6
cổ đại” của Đinh Ngọc Thạch (2000) [38]. Ở ba cuốn sách này, các tác giả
đã trình bày khá đầy đủ hệ thống triết học cũng như một số phạm trù đạo
đức học - những vấn đề đó được trình bày khá rõ ràng, dễ hiểu, do vậy
chúng là nguồn tư liệu tham khảo tương đối tốt cho luận văn. Có thể kể
đến những ấn phẩm mới xuất bản gần đây như các cuốn “Lịch sử triết học
Tây Phương” (3 tập) của Lê Tôn Nghiêm (2000) [31], Hay những cuốn
sách trùng tên nhưng của các tác giả khác nhau như: “Lịch sử triết học”
của Bùi Thanh Quất và Vũ Tình (2002) [34], “Lịch sử triết học” do
Nguyễn Hữu Vui chủ biên (1998) [46], “Lịch sử triết học Phương Tây”
của Nguyễn Tiến Dũng (2005) [8], cuốn “Đại cương lịch sử triết học

Phương Tây” do Đỗ Minh Hợp chủ biên (2006) [21]. Những cuốn sách
này đều thuần tuý nói về lịch sử triết học, trong đó có lịch sử triết học của
Arixtốt được bàn đến khá đầy đủ bằng những khái quát chung nhất, do vậy
cũng chưa đi sâu vào một lĩnh vực nào của đạo đức học Arixtốt Các công
trình nghiên cứu trên đã cung cấp cho tác giả cái nhìn toàn diện về sự hình
thành cũng như các trường phái triết học tiêu biểu của thời kì Hy Lạp cổ
đại, các học thuyết triết học của các tác giả tiêu biểu, trong đó có một phần
bàn về triết học, đạo đức học Arixtốt.
Ngoài những sách viết về lịch sử triết học và lịch sử triết học Hy Lạp
cổ đại nói trên, còn có những chuyên khảo về triết học Arixtốt như:
Năm 1974 cuốn “Triết học Arixtốt” của Đặng Phùng Quân xuất bản
ở Sài Gòn [35], “Triết học Arixtốt” của Vũ Văn Viên (1998) [44]. Những
tác phẩm này đề cập đến hầu hết các tư tưởng triết học của Arixtốt trong đó
có đạo đức học. Tiếp theo là cuốn “Arixtốt với học thuyết phạm trù” của
Nguyễn Văn Dũng (1996) [10] - cuốn này ngoài việc trình bày tương đối
đầy đủ, chi tiết về con người và sự nghiệp triết học, logic học của Arixtốt,
thì đặc biệt tác giả đi sâu nghiên cứu nội dung của học thuyết “phạm trù”,
việc đọc các cuốn sách này đã giúp tác giả luận văn cơ bản hiểu được cuộc


7
đời và sự nghiệp triết học của Arixtốt và một phần khái quát tư tưởng đạo
đức học của ông…
Về triết học, đạo đức học Arixtốt còn có các bài báo, tạp chí khác
nhau cũng đề cập ở mức độ nhất định. Đăng trên tạp chí Triết học có các
bài: “Arixtốt: con người và sự nghiệp” của tác giả Nguyễn Văn Dũng
(1993) [9], hay một bài khác của ông với tiêu đề “Vấn đề phương pháp
trong triết học Arixtốt” (1997) [11]; Nguyễn Bá Dương với bài “Về vai trò
sáng lập lịch sử triết học của Arixtốt” (2002) [13]; “Về tư tưởng giáo dục
Arixtốt” của Nguyễn Bá Thái (2003) [39]… Tham khảo những bài này đã

cho chúng tôi hiểu được không ít vấn đề liên quan đến tư tưởng triết học và
thấy được vai trò to lớn của Arixtốt trên nhiều lĩnh vực, trong đó có tư
tưởng giáo dục đạo đức.
Lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại, tư tưởng triết học của Arixtốt và một
số triết gia khác còn là đề tài nghiên cứu của nhiều khóa luận cử nhân, luận
văn thạc sĩ… trong các năm qua của nhiều thế hệ học trò. Chúng tôi chỉ
điểm qua các công trình gần đây nhất được lưu ở phòng tư liệu khoa Triết
học, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, là: Khóa luận tốt nghiệp
cử nhân của tác giả Lê Thị Bích Giang, với đề tài “Những tư tưởng cơ bản
của logic học Arixtốt” (2008) [18]; Phạm Quỳnh Trang (2009), “Tư tưởng
cơ bản của đạo đức học Xôcrát” [42]…; Và một số luận văn: “Đạo đức
học Epiquya” của tác giả Nguyễn Vũ Ngọc Dung [12]; Phạm Thị Mai
Duyên (2008) với đề tài “Vấn đề đạo đức trong triết học Hy Lạp cổ đại và
ý nghĩa hiện thời của nó” [14]… Các công trình trên cũng là nguồn tham
khảo không thể thiếu cho tác giả, chúng cung cấp cái nhìn toàn diện không
chỉ về lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại với những tác giả, tư tưởng tiêu biểu
mà còn đi sâu vào nội dung đạo đức – là vấn đề chúng tôi quan tâm.
Ngoài những công trình đó, còn có một số công trình dịch thuật về
lịch sử triết học trong đó có cả sách dịch các tác phẩm của Arixtốt và về
Arixtốt: Ngoài tác phẩm “Đạo đức học của Nicomaque” do Đức Hinh


8
dịch, mà tác giả luận văn sử dụng làm tài liệu nghiên cứu thì phải kể đến
những công trình khác như: Tuyển tập danh tác triết học từ Platôn đến
Derrida của Forrest E. Baird [16], là công trình đề cập tới nhiều triết gia,
trong đó có dành một phần để giới thiệu các tác phẩm của Arixtốt, trong đó
có nội dung đạo đức học. Và hàng loạt công trình khác: “Khoa học và triết
học Hy Lạp cổ đại” của Alan C. Bowen [6]; “Câu chuyện triết học” của
Will Durant [15]…

Cũng rất đáng chú ý một số cuốn sách được dịch từ tiếng Nga như
“Đạo đức học: Thử trình bày một hệ thống đạo đức học Mác xít” tác giả
G.Bandzelaze [17]. Công trình này nghiên cứu quan niệm Mác xít về đạo
đức, quá trình phát sinh và phát triển của đạo đức cũng như mối liên hệ
giữa nó với những hình thái ý thức xã hội khác, phác thảo lý thuyết đạo đức
cộng sản chủ nghĩa. “Đạo đức học hiện đại: cội nguồn và những vấn đề”
của nữ giáo sư Nga E.V.Zolotukhina [47] là cuốn sách giáo khoa đạo đức
học được viết phù hợp với trình độ của người học hiện nay. Tác giả cố gắng
dẫn dắt bạn đọc ra khỏi sự giáo huấn đạo đức tẻ nhạt, chỉ ra mối liên hệ của
đạo đức với tâm lý con người, cố gắng soi tỏ đề tài lịch sử đạo đức học, và
vẫn dành sự quan tâm thoả đáng cho những vấn đề đạo đức sống động đang
làm từng người trăn trở. Đây cũng là cuốn sách được viết bằng ngôn ngữ
trong sáng điển hình, tác giả hướng thẳng đến bạn đọc, tự do lập luận về
đối tượng được chọn. Cuốn sách thức tỉnh ý nghĩ, gây ra sự thú vị thực sự.
Cuốn sách có thể là người bạn đồng hành tốt cho sinh viên về các hệ vấn đề
đạo đức và nó cũng là tài liệu tham khảo rất hữu ích cho luận văn của
chúng tôi.
Vậy là có không ít các tác phẩm triết học, các cuốn sách triết học,
các bài báo, tạp chí, các công trình nghiên cứu khác nhau bàn về triết học,
đạo đức học của Arixtốt. Mỗi tác giả lại đề cập theo những vấn đề riêng mà
họ quan tâm. Trong quá trình nghiên cứu thực hiện luận văn này học viên
đã tham khảo, kế thừa trên tổng thể những tài liệu có liên quan đến triết


9
học, đạo đức học của Arixtốt, học viên cũng cố gắng tập trung chúng lại và
bổ sung thêm trong luận văn này để có được sự trình bày của riêng mình
những tư tưởng đạo đức học cơ bản nhất của Arixtốt trong tác phẩm “Đạo
đức học của Nicomaque”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục đích: Luận văn trình bày và phân tích những tư tưởng cơ bản
của đạo đức học Arixtốt trong tác phẩm “Đạo đức học của Nicomaque”,
qua đó phần nào chỉ ra những đóng góp của ông đối với đạo đức học sau
này.
- Để thực hiện mục đích trên, luận văn phải giải quyết ba nhiệm vụ
sau:
+ Khái quát lại bức tranh kinh tế - xã hội Hy Lạp cổ đại và những
tiền đề tư tưởng của đạo đức học Arixtốt.
+ Trình bày và phân tích tư tưởng cơ bản của đạo học Arixtốt trong
tác phẩm “Đạo đức học của Nicomaque” ở các điểm chủ yếu như: Quan
niệm của Arixtốt về: điều thiện và hạnh phúc; về đức hạnh và các thuộc
tính của đức hạnh; về công bằng và tình thân hữu; về tự do ý chí và giáo
dục đạo đức.
+ Đánh giá về giá trị hiện tại của đạo đức học Arixtốt qua tác phẩm
“Đạo đức học của Nicomaque”.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn bao gồm các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật
lịch sử, đặc biệt là phần liên quan đến mối quan hệ giữa ý thức xã hội và tồn tại
xã hội, luận văn cũng dựa vào các tri thức khoa học chuyên ngành khác, như
lịch sử triết học, đạo đức học…
Quán triệt phương pháp luận duy vật biện chứng, luận văn sử dụng
phương pháp thống nhất lôgíc - lịch sử và các thao tác so sánh, đối chiếu,
liệt kê, phân tích, tổng hợp để làm rõ nội dung vấn đề nghiên cứu.



10
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là tư tưởng đạo đức học Arixtốt
Phạm vi nghiên cứu là lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại cụ thể là triết

học, đạo đức học Arixtốt thông qua tác phẩm “Đạo đức học của
Nicomaque” do Đức Hinh dịch.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần nghiên cứu, làm sáng tỏ và hệ thống hoá những
nội dung cơ bản trong tư tưởng đạo đức của Arixtốt thông qua tác phẩm
“Đạo đức học của Nicomaque” mà đến nay vẫn còn giá trị và bước đầu
đưa ra một vài nhận xét, đánh giá về giá trị của tư tưởng đạo đức học
Arixtốt.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm và trình bày có hệ thống hơn
những tư tưởng đạo đức học của Arixtốt, do vậy sẽ có ích cho việc tìm tòi
và lĩnh hội những kiến thức về đạo đức học của một vĩ nhân trong lịch sử.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những người
nghiên cứu quan tâm tới triết học cổ đại, tới tư tưởng đạo đức học và cho
sinh viên, học viên cao học khoa triết học trong việc nghiên cứu đạo đức
học và triết học.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
phần nội dung được kết cấu thành hai chương, tám tiết.






11
CHƯƠNG 1. BỐI CẢNH VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ TƯ TƯỞNG
CHO SỰ RA ĐỜI ĐẠO ĐỨC HỌC CỦA ARIXTỐT
1.1. Điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh kinh tế - xã hội của Hy Lạp
cổ đại

1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Tìm hiểu về đất nước Hy Lạp cổ đại, chúng ta thấy từ xa xưa các bộ
lạc Hy Lạp gọi mình bằng những tên riêng. Đến khoảng thế kỉ thứ VIII –
VII Tr. CN, người Hy Lạp mới gọi mình là Helen và gọi đất nước mình là
Hellas tức Hy Lạp. Hy Lạp cổ đại là một quốc gia ở khu vực Địa Trung
Hải, đây là một lãnh thổ vô cùng rộng lớn, lớn hơn nhiều lần so với đất
nước Hy Lạp ngày nay. Hy Lạp cổ đại bao gồm miền lục địa Hy Lạp (Nam
bán đảo Bancăng), vùng ven biển Tiểu Á và các đảo của vùng biển Êgiê,
trong đó miền lục địa Hy Lạp có tầm quan trọng nhất. Từ cuộc di cư ồ ạt
vào các thế kỉ VIII – VII Tr. CN, người Hy Lạp chiếm thêm miền nam
Italia, đảo Sicily, vùng ven biển Đen. Sau này những cuộc viễn chinh toàn
thắng của Alêchxanđrơ vào cuối thế kỉ IV Tr. CN đã đưa đến sự ra đời của
các quốc gia Hy Lạp trải rộng từ Sicily ở phía tây sang Ấn Độ ở phía đông,
từ biển Đen ở phía bắc đến tiếp giáp sông Nil ở phía nam.
Miền lục địa Hy Lạp có thể chia thành 3 khu vực: Bắc, Trung và
Nam. Nét nổi bật của địa hình Hy Lạp là ở 3 khu vực đều có sự đan xen
của những cấu trúc đồng bằng, cao nguyên, rừng, núi, đồi, sông, suối… Từ
Bắc xuống Nam, về đường bộ, người Hy Lạp buộc phải vượt qua đèo
Técmôpin. Miền trung Hy Lạp có địa hình khác hẳn, ở đây có nhiều rừng
núi chạy dọc, ngang đã chia vùng này thành nhiều khu vực địa lý nhỏ. Đây
là vùng có nhiều đồng bằng trù phú như đồng bằng Áttích và Bêôxi. Đồng
thời ở đây còn có nhiều thành phố quan trọng, trong đó được biết đến
nhiều nhất là Aten. Nam Hy Lạp là một bán đảo nhỏ, hình bàn tay có 4
ngón duỗi thẳng xuống Địa Trung Hải. Đây là vùng đất trù phú nhất với
nhiều đồng bằng như Lacôni, Métxêni. Người Hy Lạp gọi bán đảo này là


12
Pêlôpône. Vùng bờ biển phía đông của Hy Lạp khúc khuỷu, hình răng
cưa tạo ra nhiều vịnh, nhiều hải cảng tự nhiên, an toàn, thuận tiện cho

việc đi lại của tàu thuyền, tạo điều kiện phát triển các cảng biển. Bờ biển
phía tây của miền Tiểu Á cũng có địa hình tương tự như bờ phía đông
lục địa Hy Lạp. Vùng đất liền ven bờ biển Tiểu Á là vùng đất trù phú,
tạo thành vùng đệm nối Hy Lạp với các nền văn minh phương Đông. Hy
Lạp cổ đại có nhiều đảo lớn, nhỏ nằm rải rác trên vùng biển Egiê thuộc
Địa Trung Hải, tạo thành một hành lang cầu nối giữa miền lục địa Hy
Lạp với Tiểu Á. Trong khi đó biển Egiê lại như một cái hồ lớn nên càng
tạo điều kiện thuật lợi cho nghề đi biển trong điều kiện đóng tàu, thuyền
khá thô sơ.
Với sự phân bố đất đai và điều kiện tự nhiên thuận lợi như vậy, đất
nước Hy Lạp đã toạ lạc vào một vị trí vô cùng lý tưởng. Khí hậu, đất đai,
biển cả và lòng nhiệt thành của con người là những tài vật, tài lực vô giá để
tạo ra sự phát triển đa dạng ở các vùng. Có vùng phù hợp với sự phát triển
của nông nghiệp với điều kiện tự nhiên mưa thuận gió hoà. Có vùng thuận
lợi cho sự tăng trưởng của thương nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp do
có nhiều hải cảng ở vùng biển Êgiê. Cũng nhờ những điều kiện đó mà tư
duy của con người nơi đây được tự do bay bổng, sự thông thương giữa Hy
Lạp với các nước, các vùng văn minh khác thời kỳ đó không ngừng được
mở rộng về mọi mặt.
Cũng giống như các quốc gia cổ đại khác, điều kiện tự nhiên đã có
những tác động không nhỏ tới khuynh hướng phát triển kinh tế cũng như
thiết chế nhà nước của Hy Lạp. Do điều kiện địa hình phức tạp như trên,
cho nên Hy Lạp cổ đại bị phân tán thành nhiều khu vực (các thành bang),
chia cắt bởi thung lũng và các ngọn đồi bao quanh, các hòn đảo ven biển.
Các khu vực đó có sắc tộc, lợi ích, cách thức quản lý đôi khi khác xa nhau,
dẫn đến tình trạng hiềm khích, xung đột triền miên. Ngay cả trong phạm vi
một khu vực, mối liên hệ giữa các nhóm không cùng huyết thống cũng


13

lỏng lẻo, trừ khi tất cả cư dân phải hợp sức với nhau chống kẻ thù bên
ngoài. Chính yếu tố trên đã chi phối sự hình thành, phát triển và tan rã của
Hy Lạp cổ đại.
1.1.2. Hoàn cảnh kinh tế - xã hội và khoa học ở Hy Lạp cổ đại
Điều kiện tự nhiên khác nhau giữa các vùng góp phần quyết định sự
phát triển khác nhau của các ngành kinh tế và do đó cũng quyết định sự
phát triển đa dạng các mặt khác trong đời sống xã hội, kể cả các quan điểm
triết học, các tư tưởng đạo đức học.
Thời cổ đại, nền kinh tế Hy lạp phát triển đều cả về nông nghiệp, thủ
công nghiệp, và thương nghiệp.
Vào thế kỷ XV cho đến thế kỷ IX Tr. CN, xu hướng chuyển sang chế
độ chiếm hữu nô lệ đã hiện dần và ngày càng lộ rõ. Sự phát triển mạnh mẽ
của nông nghiệp, thủ công nghiệp từ cuối thế kỷ thứ VII Tr. CN là lực đẩy
quan trọng cho trao đổi, buôn bán, giao lưu trong khu vực, dẫn đến sự ra
đời các thành bang (Polis) và các trung tâm văn hoá lớn như Aten, Spác.
Thành bang Aten nằm trên vùng đồng bằng thuộc trung bộ Hy Lạp,
là nơi có nhiều hải cảng thuận lợi cho việc trao đổi mậu dịch, làm xuất hiện
các quan hệ tiền - hàng từ rất sớm và chính quan hệ này đã giúp cho giai
cấp chủ nô giàu lên nhanh chóng. Do vị trí địa lý như vậy nên Aten phát
triển mạnh mẽ về thủ công nghiệp, thương nghiệp. Còn ở Spác lại tăng
trưởng về nông nghiệp. Cơ sở của nền kinh tế ở Hy Lạp chính là dựa trên
chế độ chiếm hữu nô lệ. Thời kỳ này, nô lệ là những người giữ vai trò rất
quan trọng trong sản xuất. Trong dân cư, lực lượng này chiếm đa số (ở
Aten có tới 250 nghìn nô lệ trên 340 nghìn dân). Tuy họ bị coi là “công cụ
biết nói”, “động vật biết nói” nhưng chính họ lại là lực lượng quyết định sự
đi lên mạnh mẽ của nền kinh tế thời cổ đại này. Lực lượng sản xuất trong
xã hội không ngừng phát triển đã kéo theo sự phân công lao động trong xã
hội: giữa lao động chân tay và lao động trí óc, trong nông nghiệp chăn nuôi
tách khỏi trồng trọt, nghề thủ công xuất hiện. Lúc này, những người lao



14
động trí óc đầu tiên cũng xuất hiện ở Aten. Họ là một bộ phận trong giai
cấp chủ nô giàu có được học hành. (Aten đã trở thành, không chỉ là một
trung tâm văn hoá của Hy Lạp cổ đại mà còn là chiếc nôi của triết học
Châu Âu). Điều này góp phần phát sinh các ngành khoa học, trong đó có
triết học, đạo đức học.
Chế độ công xã nguyên thủy tan rã, chế độ chiếm hữu nô lệ ra đời. Xã
hội có giai cấp đầu tiên của loài người xuất hiện. Giai cấp chủ nô và nô lệ là
hai giai cấp cơ bản của xã hội chiếm hữu nô lệ, bên cạnh đó còn có dân tự do.
Giai cấp chủ nô nắm trong tay toàn bộ quyền hành còn giai cấp nô lệ không
được tham gia và không đủ khả năng tham gia các hoạt động xã hội, chính trị
và văn hoá. Họ không có một chút quyền lợi nào ngoài sự lao động bị cưỡng
bức tàn bạo. Tài sản nằm trong tay giai cấp chủ nô thực chất có được là do bóc
lột sức lao động của những người nô lệ. Cuộc sống khổ cực của giai cấp nô lệ
chính là bản án tố cáo mặt trái của xã hội chiếm hữu nô lệ. So với phương
Đông, chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp cổ đại phát triển cao hơn và đầy đủ
nhất đến mức điển hình.
Chế độ nô lệ là một chế độ xã hội có hình thức áp bức bóc lột tàn bạo
nhất, dã man nhất, vô nhân đạo nhất trong lịch sử so với tất cả các hình
thức áp bức bóc lột ở các chế độ xã hội có giai cấp khác. Do vậy, ở xã hội
này luôn luôn diễn ra những cuộc nổi dậy tự phát của nô lệ chống lại chủ
nô song kết cục thường thất bại, thậm chí bị đàn áp rất dã man. Nguyên
nhân chính của những thất bại đó là do họ không có khả năng xây dựng
một hệ tư tưởng phản ánh những quyền lợi của mình. Họ xuất thân từ
những người lao động chân tay nặng nhọc ở các bộ lạc khác nhau với
những ngôn ngữ khác nhau, do đó họ đã không có tiếng nói chung, ngôn
ngữ chung. Tuy nhiên, nhờ có chế độ đó, giai cấp chủ nô Hy Lạp cổ đại
mới có thể thoát ly được hoạt động lao động chân tay vất vả để xây dựng
các khoa học, trong đó có triết học, nghệ thuật. Ph. Ăngghen trong tác

phẩm “Chống Đuyrinh” đã khẳng định: “Không có chế độ nô lệ thì không


15
có quốc gia Hy Lạp, không có nghệ thuật và khoa học Hy Lạp, không có
chế độ nô lệ thì không có đế quốc La Mã mà không có cái cơ sở của nền
văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã, thì không có Châu Âu hiện đại được”
[3, 254]. Phải có những khả năng của chế độ nô lệ mới tạo ra được sự phân
công lao động quy mô lớn trong nông nghiệp và công nghiệp, mới làm lên
sự giàu có của đất nước Hy Lạp cổ đại.
Xã hội chiếm hữu nô lệ hình thành, nền kinh tế phát triển về mọi mặt
đã dần dần dẫn tới sự tách rời thành thị với nông thôn, các quốc gia – thị
thành Hy Lạp được thành lập. Đó là nơi tập trung những cơ quan đầu não
về kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao do giai cấp chủ nô xây dựng
nhằm bảo vệ và củng cố quyền sở hữu, quyền áp bức bóc lột của họ đối với
nô lệ và dân tự do. Sự thành lập và phát triển của các thành thị góp phần
làm cho văn hoá Hy Lạp tiến bộ. Ở các thành thị từng bước xuất hiện nền
công nghiệp, thương nghiệp và những hình thức đầu tiên của khoa học, triết
học và nghệ thuật.
Sự tranh giành quyền bá chủ Hy Lạp giữa các thành bang chính là đặc
điểm chính về phương diện chính trị của chế độ nô lệ Hy Lạp cổ đại. Sự tranh
giành quyền lực đó diễn ra trên nền cuộc đấu tranh giai cấp ngày càng gay gắt,
phức tạp giữa chủ nô và nô lệ, giữa những người giàu có với dân “tự do”. Trong
bản thân giai cấp chủ nô cũng có mâu thuẫn. Đó là mâu thuẫn giữa chủ nô quý
tộc - tập trung ở thành bang Spác nơi nông nghiệp phát triển với chủ nô dân chủ
- tập trung ở thành bang Aten hình thành trên cơ sở của sự phát triển thương
nghiệp, thủ công nghiệp. Những mâu thuẫn này đã dẫn đến cuộc chiến tranh tàn
khốc kéo dài trên 30 năm, làm cho đất nước Hy Lạp suy yếu, lực lượng sản
xuất bị tàn phá nghiêm trọng. Chiến tranh, nghèo đói đã châm ngòi cho các
cuộc nổi dậy của nô lệ. Chớp lấy thời cơ đó, nhà nước Maxêđoan ở phía bắc Hy

Lạp dưới sự chỉ huy của vua Philip đã đem quân thôn tính toàn bộ Hy Lạp và
đến thế kỷ II Tr. CN, cuối cùng Hy Lạp đã bị đế chế La Mã thôn tính.


16
Sự phát triển của thương nghiệp và thủ công nghiệp đưa tới sự xuất hiện
tầng lớp chủ nô dân chủ. Địa vị của những chủ nô dân chủ về kinh tế, chính trị
ngày càng được nâng cao. Song, họ lại bị chủ nô quý tộc kìm hãm. Vì thế, tầng
lớp chủ nô dân chủ đấu tranh quyết liệt với chủ nô quý tộc. Cuộc đấu tranh này
được phản ánh rõ rệt trong triết học. Cũng từ sự phát triển của nền sản xuất
nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và hàng hải của Hy Lạp cổ đại đã
đặt ra những nhu cầu thực tiễn quyết định sự phát sinh và phát triển những tri
thức về thiên văn học, khí tượng học, toán học và vật lý học. Khoa học thực
nghiệm (quan sát) đã cho phép thu được những tri thức khoa học như: phát
minh ra lịch một năm gồm 12 tháng với 365 ngày của Talét, những phát kiến về
toán học của Talét và Pitago, hình học của Ơcơlít, vật lý học của Acsimét đã
tạo điều kiện rất lớn thúc đẩy sự hình thành triết học, hình thành những tư
tưởng đạo đức học. Những tri thức này đòi phải giải thích tự nhiên như là tổng
thể. Chúng làm cho các quan niệm thần thoại truyền thống và các tôn giáo
nguyên thuỷ vào khoảng thế kỷ VII - VI Tr. CN đã không còn đáp ứng và lý
giải được những vấn đề mới của thế giới quan. Những khám phá khoa học đầu
tiên của con người cổ đại đã cho thấy sự giả dối của bức tranh vũ trụ quan và
nhân sinh quan của các tôn giáo và thần thoại, đòi hỏi con người phải có cách lý
giải mới về thế giới xung quanh và cuộc sống của mình. Trong hình thức sơ
khai ban đầu những tri thức này xen kẽ với tri thức triết học, với quan điểm
chính trị và chúng gắn quyện với nhau tạo thành một khối thống nhất chặt chẽ
không thể chia cắt được. Lúc này, triết học và các khoa học khác chưa có sự
phân ngành rõ rệt. Các nhà triết học đồng thời là các nhà toán học, thiên văn
học, vật lý học, đạo đức học Qua đó có thể thấy, triết học Hy Lạp cổ đại ngay
từ khi ra đời đã gắn chặt với nhu cầu của thực tiễn và không tách rời các khoa

học.
Sự phát triển của khoa học Hy Lạp cổ đại còn chịu ảnh hưởng từ các
khoa học ở phương Đông. Sự tiếp biến tư tưởng Đông - Tây đã tạo điều
kiện cho triết học Hy Lạp phát triển, quan hệ chính trị, giao lưu văn hoá,


17
nghệ thuật, khoa học với phương Đông là cơ sở cho sự nảy nở rực rỡ của tư
tưởng triết học và tính muôn màu muôn vẻ của nó trong thời kỳ cổ đại Hy
Lạp.
Do nhu cầu buôn bán, trao đổi hàng hoá mà các chuyến vượt biển
đến với các nước phương Đông đã trở nên thường xuyên. Khi những con
thuyền tung mình lướt sóng thì tầm nhìn của những người Hy Lạp cổ đại
cũng được mở rộng, các thành tựu văn hoá của Ai Cập, Babilon đã lôi
cuốn con người Hy Lạp. Những tinh hoa về toán học, thiên văn học, địa
lý, hệ thống đo lường và cả những yếu tố huyền học cũng được người
Hy Lạp đón nhận. Các nhà triết học đầu tiên của Hy Lạp như Pitago,
Đêmôcrít đã từng chu du sang Ai Cập, Babilon tiếp thu những tri thức
khoa học đã được tích lũy ở đây Alan Cbower cho rằng “nền khoa học
mới phát triển ở Ionia vào thế kỷ VI Tr. CN chịu ảnh hưởng nặng nề của
thiên văn học Babylon, hầu như việc tạo ra bảng chữ cái là dựa vào các
tư liệu của người Phoenicia cũng như sự sáng tạo về điêu khắc và kiến
trúc Hy Lạp dựa trên các mẫu vật của Ai Cập (Theo nghĩa rộng nhất, đây
là tất cả những gì thuộc về thời kỳ Phương Đông hoá văn hoá Hy Lạp)”
[6, 17].
Những bước phát triển của tư duy đã đưa người Hy Lạp cổ đại sáng
tạo ra chữ viết từ thế kỷ VIII Tr. CN với 24 chữ cái.
Những thành tựu trên đã tạo ra một trong những nền văn hoá rực rỡ
nhất, sớm nhất của nhân loại. Nó vẫn còn giá trị cho đến tận ngày nay.
Quá trình lịch sử trên đây góp phần tạo lên sự hình thành và phát

triển về mọi mặt của đời sống xã hội Hy Lạp cổ đại, trong đó có triết học.
Sự hình thành triết học cũng như tư tưởng đạo đức học Hy Lạp
không diễn ra một cách ngẫu nhiên mà là kết quả tất yếu của việc kế thừa
những di sản tinh tuý của truyền thống trong sáng tác dân gian, trong thần
thoại, trong các hình thái sinh hoạt tôn giáo, trong các mầm mống của tri
thức khoa học và là kết quả của đời sống kinh tế - xã hội.


18
Những điều kiện lịch sử cụ thể, những cơ sở của một nền kinh tế - xã
hội phát triển đến một trình độ nhất định đã làm thành tiền đề cho những tư
tưởng triết học, đạo đức học ở Hy Lạp cổ đại ra đời. Và sự xuất hiện của
các nhà triết học đầu tiên đã gần như đặt dấu chấm hết sự phát triển của
thần thoại. Những viễn cảnh bóng bẩy do tư duy của con người tạo ra đã
bớt đi sự hấp dẫn trong khi những nhu cầu của đời sống thường nhật đã trở
nên bức bách đòi hỏi phải được giải đáp bằng tri thức chân thực. Niềm tin
chất phác, ngây thơ vào sự tồn tại của thần thánh đã được thay thế bằng
những luận giải sâu sắc hơn của lý tính, của sự thông thái.
Với tính cách là tinh hoa tinh thần của thời đại, những tri thức triết
học đã cố gắng đem đến lời giải đáp nghiêm túc, sâu sắc, hợp lý, có hệ
thống về những gì diễn ra xung quanh, về vị trí của con người trong thế
giới và thế giới của chính con người, do con người tạo ra cùng những giá
trị, chuẩn mực, những định hướng cho mình. Đó là lí do vì sao các nhà triết
học đầu tiên lại được gọi là những người yêu mến sự thông thái.
Triết học Hy Lạp không chỉ hình thành, ra đời ở một địa điểm, mà nó
đã xuất hiện trên những mảnh đất khác nhau của Đại Hy Lạp. Sự giao lưu
giữa các “vùng”, các “nôi” triết học khác nhau tạo nên sự đan xen nội tại
của triết học Hy Lạp. Sự giao lưu của các dòng khác nhau đã hoàn tất vẻ
phức tạp đa dạng toàn diện của triết học Hy Lạp.
Như vậy, bên cạnh sự kế thừa thuần tuý những tư tưởng ở bên ngoài

(toán học, thiên văn học ) Hy Lạp cổ đại đã không ngừng tự mình vươn lên
trên cơ sở những điều kiện do thiên nhiên và con người nơi đây tạo ra. Điều
kiện quyết định sự hình thành và phát triển của triết học Hy Lạp, của những tư
tưởng đạo đức học phôi thai chính là kết quả nội sinh tất yếu của cả một dân
tộc, một thời đại, Mác cho rằng, các nhà triết học không phải là những cây
nấm mọc trên đất. Họ là sản phẩm của thời đại mình, dân tộc mình mà những
tinh lực tinh tế nhất, quý giá nhất và khó nhìn thấy nhất đã được suy tư trong
các khái niệm triết học.


19
1.2. Tiền đề tư tưởng cho sự ra đời đạo đức học Arixtốt
Triết học thời cổ đại bao gồm nhiều bộ môn chuyên ngành: Đạo đức
học, thẩm mĩ học, logic học, triết học tự nhiên Qua quá trình phát triển từ
cổ đại tự bản thân nó đã hình thành nên những chuyên ngành như vậy, trong
đó đạo đức học là ngành luôn luôn “kề vai sát cánh” cùng triết học và đóng
một vai trò rất quan trọng. Tại sao vậy? Bởi vì đạo đức học bao giờ cũng là
những suy tư mang tính triết học trực tiếp nhất về con người. Những vấn đề
đạo đức học thường là vấn đề trung tâm của nhiều hệ thống triết học. Các tư
tưởng khác nhau về bản thể luận, nhận thức luận nhiều khi lại đóng vai trò
làm cơ sở để nêu ra và luận chứng cho các tư tưởng đạo đức học. Mặt khác,
đạo đức học có vị trí, vai trò quan trọng như vậy trong triết học là do nó được
coi là triết học của đời sống thực tiễn, mà lợi ích và chân lý của thực tiễn
thường cao hơn lý thuyết thuần túy. Nhưng để giải quyết những vấn đề thực
tiễn của mình, nó cũng cần cơ sở lý luận chung để dựa - đó chính là triết học.
Ngược lại, đạo đức học lại trưng ra những dữ kiện và vấn đề thực tiễn cho
những suy tư, lập luận triết học. Những tư tưởng đạo đức học sinh ra trong
lòng và do những nhu cầu của bản thân triết học, ra đời song song với triết
học. Ngay từ khi ra đời, trên mảnh đất Hy Lạp này, đã sớm xuất hiện nhiều
nhà triết học, nhiều trường phái triết học có những tư tưởng khác nhau

thậm chí đối lập nhau, luôn đấu tranh bảo vệ quan điểm của riêng mình,
của trường phái mình. Trong những cuộc tranh luận triết học đó, các tư
tưởng đạo đức học đã xuất hiện để trở thành những định hướng tìm kiếm
tiêu chuẩn đánh giá phẩm hạnh đạo đức của con người. Đó chính là nguyên
nhân xuất hiện những tư tưởng đạo đức học.
Đặc trưng nổi bật của những tư tưởng đạo đức học trước Arixtốt
là, tuy xuất hiện, hình thành cùng với triết học nhưng chưa trở thành
một hệ thống, còn tản mạn trong các tư tưởng triết học của các triết
gia. Chính vì vậy mà các tư tưởng triết học và đạo đức học chưa tách
bạch nhau, chúng nằm lẫn trong các lập luận triết học, đan xen vào


20
nhau để tiếp nối kiếm tìm các câu giải đáp về chân lý và lẽ sống. Ngay
thời cổ đại người ta đã không yên về những câu hỏi: Vì sao sống? Sống
bằng cách nào? Sống như thế nào? Tìm cách trả lời cho ba vấn đề bao
trùm đó là các phân môn tương ứng của triết học như nhận thức luận,
đạo đức học và mỹ học.
Triết học Hy Lạp cổ đại có rất nhiều trường phái, triết gia. Song
trong phạm vi luận văn này, chúng tôi chỉ xem xét những triết gia có tư
tưởng triết học, đạo đức học điển hình. Cụ thể là Xôcrát và Platôn vì đây là
hai nhà triết học tiền bối ngay trước và riêng Platôn còn là thầy học của
Arixtốt đã đặt ra các nền tảng đạo đức, triết lý chính trị, các nguyên tắc
luân lý, chú trọng đến tầm quan trọng của kiến thức con người để đạt đến
chân, thiện, mỹ và công lý. Tên tuổi của họ góp phần làm lừng danh, làm
rạng rỡ nền văn minh Hy Lạp và hơn nữa những tư tưởng triết học nói
chung và đạo đức học nói riêng của Xôcrát và Platôn đã được Arixtốt tiếp
thu có phê phán và trên cơ sở đó đưa ra quan điểm đạo đức của mình.
1.2.1. Tư tưởng đạo đức học của Xôcrát (470 – 399 Tr. CN)
Xôcrát là nhà triết học nổi tiếng ở Hy Lạp cổ đại, người thầy của

Platôn, theo nhận xét của Heghen “ông đã làm một bước ngoặt lịch sử vĩ
đại” trong triết học cổ Hy Lạp và La Mã - Xôcrát là trung tâm của thời đại
cổ đại. Ông là tâm điểm của lịch sử tư tưởng cổ đại, vì ở ông hội tụ các con
đường phát triển trước đó, mở ra những xu hướng phát triển mới cho suốt
giai đoạn tiếp theo.
Xôcrát sinh khoảng năm 470 Tr. CN ở Aten. Cha ông là nhà điêu
khắc, còn mẹ làm bà đỡ. Lối sống của ông khiêm nhường và giản dị.
Xôcrát không quan tâm tới một nghề nào khác ngoài triết học. Chính ông
đã trở thành mẫu hình lý tưởng về nhà thông thái và nhà triết học đối với
mọi thời đại sau này, vì tinh thần triết lý sống động của ông hiện diện trong
ý thức của mỗi người quan tâm đến cuộc đời và triết học Xôcrát.


21
Giống như nhiều nhà ngụy biện khác, ông cũng quan tâm tới chính
trị - xã hội, con người, đạo đức. Tên tuổi của ông gắn liền với việc đưa các
suy tư triết học quay trở lại với con người. Ông đặc biệt quan tâm tới vấn
đề con người, coi đó là trung tâm của các suy tư, (cố nhiên đây là con
người có chân lý và giá trị), là chủ đề chính trong các cuộc đàm thoại triết
học của mình. Có thể khẳng định rằng, vấn đề về những phẩm chất đạo đức
của con người là trung tâm của toàn bộ triết học Xôcrát. Về thực chất, triết
học Xôcrát là triết học đạo đức, ông được đánh giá là nhà triết học đạo đức
đầu tiên trong lịch sử châu Âu đặt nền móng cho đường hướng khai sáng –
duy lý trong đạo đức học muộn hơn sau này. Chính từ giá trị to lớn của tư
tưởng đạo đức của ông mà sau này Arixtốt đã chịu ảnh hưởng rất nhiều.
Trong quan niệm về đạo đức của Xôcrát, nổi lên những vấn đề cơ
bản như:
* Đạo đức là mục đích của tư duy
Có thể xác định đối tượng của tư duy là: các việc làm của con người,
nhận thức bản thân của con người, những vấn đề của cuộc sống có đạo đức

và việc đạt tới cái phúc. Với Xôcrát, tìm kiếm chân lý trùng hợp với khát
vọng về một cuộc sống tốt đẹp nhất, về cái phúc.
* Quan niệm về cái phúc
Trong quan niệm về phúc, Xôcrát có một quan điểm khác căn bản so
với các nhà ngụy biện đương thời với ông. Lập trường của phái ngụy biện
là không nhất quán. Một mặt, một nguyên tắc có hiệu lực ở trong nó là: cái
gì phù hợp với cái lợi và sở thích của tôi thì chân thực, là phúc và đích thực
với tôi. Mặt khác, trong hàng loạt trường hợp, các nhà ngụy biện lại
nhượng bộ các quan điểm truyền thống.
Xôcrát giữ một lập trường quan điểm khác. Phúc (chân lý, đạo đức)
thực sự do con người phát hiện ra, chỉ vì con người có lý tính, tức biết tư
duy trừu tượng. Theo ông, chỉ có lý tính mới chỉ cho tôi thấy phúc và họa là
gì. Do vậy, có duy nhất một phúc là tri thức, duy nhất một họa là – ngu dốt.


22
Logic ở đây là như sau: nếu tôi biết phúc là gì, thì không bao giờ tôi gây ra
họa, vả lại đề cao cái xấu hơn cái tốt là một điều ngu xuẩn. Do vậy, vấn đề
về cuộc sống đạo đức được quy về nhận thức cái thiện. Từ đó là vai trò
quyết định của nhận thức lý tính trong việc đạt tới cuộc sống đạo đức.
Xôcrát phát triển năng lực tư duy không phải để làm cho bản thân tư
duy trở nên tinh tế mà vì tính hợp lý là cơ sở của đạo đức. Con người càng
tư duy hợp lý hơn, nó càng đạo đức hơn. Thêm vào đó, dù thiện và chân do
bản thân con người khám phá ra, song con người vẫn dựa vào “cái ngã” tự
ý của mình, mà không dựa vào lý tính. Vậy Xôcrát nhận thấy nội dung phổ
biến, hợp lý của cái thiện là gì?
* Cái thiện là tri thức
Cái thiện, trong quan niệm của Xôcrát chính là đối tượng của triết
học nói chung. Cái thiện ấy chính là cái thiện phổ quát – khái niệm dùng để
giảng nghĩa hành vi của con người trong hoạt động sống của mình.

Ông phê phán những quan niệm sai lầm về cái thiện. Ở thời ông, mỗi
khi bàn về vấn đề giá trị, thì phải thông qua các khái niệm cái thiện, kỹ
năng, cái đức hạnh và cái hạnh phúc. Các khái niệm này có thể diễn tả theo
ba khuynh hướng.
Có thể quan niệm cái thiện theo cách hiểu của chủ nghĩa vị lợi
(Utilitarismus) như cái gì đó có mục đích, hữu ích, cần thiết.
Hay theo cách hiểu của chủ nghĩa khoái lạc, cái thiện là cái dễ chịu,
khao khát, ham muốn tương ứng.
Chủ nghĩa tự nhiên lại coi cái thiện là sự vượt trội và là sức mạnh
của kẻ thống trị.
Vậy thì đâu là chuẩn mực mới của cái thiện? Xôcrát đã chỉ ra một
cách tích cực nội dung cấu thành bản chất giá trị của đức hạnh. Từ những
hội thoại của Platôn thời trẻ, ta thấy câu trả lời của Xôcrát luôn là: người ta
cần thông thái và nhanh trí. Trong cái cười hiện lên lòng dũng cảm, lòng
nhiệt thành (trong hội thoại Euthyphron), ở trong hội thoại Charmides là lẽ


23
phải, trong hội thoại Protagor đã toát lên cái đức hạnh nói chung là tri thức.
Theo ông, người hiểu biết là người thông thái, nhà thông thái là tốt, tư
tưởng đó được thể hiện ngắn gọn trong cuốn sách đầu tiên bàn về Nhà
nước. Điều này phù hợp với Arixtốt, người mà sau Xôcrát tin rằng: tất cả
những người có đức hạnh đều sống trong sự hiểu biết.
Xôcrát vạch ra hai con đường đạo đức. Theo Xôcrát, có hai con
đường nhận thức chủ yếu về cái thiện (tức là về đạo đức cá nhân và công
bằng xã hội với tư cách một chỉnh thể thống nhất và không phân chia
được).
- Con đường thứ nhất, khi luật pháp được xem là biểu thị của cái
thiện, thì cuộc sống của nhà nước – thành bang cũng theo đó mà được tổ
chức. Cái thiện trong trường hợp này là chấp hành luật pháp của nhà nước,

là hoàn thành các nghĩa vụ công dân của mình.
- Con đường thứ hai, tuân thủ ý chí của thần linh với tư cách biểu
hiện tối cao, cũng như cội nguồn của cái thiện và của công bằng. Cần nhận
thấy rằng, Xôcrát không quyết định xác định ý chí của thần linh để tuân
theo trong mỗi trường hợp, trong mỗi tình huống tồn tại và trong mỗi hiện
tượng, mỗi cá nhân.
Xôcrát nhận thấy sự thống nhất giữa cá nhân và thần linh là chỗ dựa
cho các hành vi và số phận nói chung của con người. Lập trường như vậy
chuyển việc giải quyết vấn đề về cái thiện hoàn toàn sang địa hạt của trách
nhiệm cá nhân. Về thực chất, thang bậc đạo đức tối cao là “tiếng nói của
lương tâm”. Đây là sức mạnh và sự mạo hiểm của lập trường Xôcrát. Vì
không bao giờ có thể tin tưởng con người nhận biết đúng “lời khuyên răn từ
bên trên”. Dành quyền tự do lựa chọn đạo đức cho cá nhân, Xôcrát đồng
thời cũng trao toàn bộ gánh nặng trách nhiệm đạo đức cho cá nhân. Điều
này tạo ra một tình huống tồn tại hoàn toàn mới của con người như tình
huống không thể có trong xã hội, khi các giá trị cộng đồng và tộc loại
chiếm ưu thế.

×