HIỆU QUẢ KINH DOANH VÀ VẤN ĐỀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH
DOANH Ở DOANH NGHIỆP
I. HIỆU QUẢ KINH DOANH TRONG DOANH NGHIỆP
1. Hiệu quả kinh doanh
Hoạt động kinh doanh là một phạm trù kinh tế, nó xuất phát và tồn tại từ
xã hội chiếm hữu nô lệ đến xã hội chủ nghĩa, nó phản ánh trình độ sử dụng các
nguồn lực, các yếu tố cần thiết của doanh nghiệp để tham gia vào hoạt động
kinh doanh theo mục đích nhất định.
Do lịch sử phát triển các hình thái xã hội có quan hệ sản xuất khác nhau.
Cách nhìn nhận đánh giá hiệu quả kinh doanh trên mỗi góc độ khác nhau mà có
ý kiến trái ngược nhau về hiệu quả kinh doanh.
Trong xã hội tư bản, giai cấp tư bản nắm quyền sở hữu tư liệu sản xuất, do đó
quyền lợi về kinh tế chính trị đều ưu tiên cho nhà tư bản. Chính vì thế việc phấn đấu
tăng hiệu quả kinh doanh thực chất là đem lại lợi nhuận và nâng cao đời sống của
các nhà tư bản (có thể đời sống của người lao động ngày càng thấp đi). Nhà kinh tế
học người Anh Adam Smith cho rằng: “Hiệu quả là kết quả đạt được trong hoạt động
kinh doanh, là doanh thu tiêu thụ hàng hoá”, và nhà kinh tế học người Pháp Ogiephri
cũng quan niệm như vậy. Ở đây hiệu quả đồng nhất với chỉ tiêu phản ánh kết quả
kinh doanh. Rõ ràng quan điểm này khó giải thích kết quả kinh doanh có thể tăng do
tăng chi phí mở rộng các nguồn sản xuất. Nếu cùng một kết quả có hai mức chi phí
khác nhau thì theo quan điểm này chúng cùng có hiệu quả. Quan điểm này phản ánh
tư tưởng trọng thương.
Quan niệm thứ hai cho rằng: “Hiệu quả kinh doanh là quan hệ tỷ lệ giữa
phần tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí”. Quan niệm này đã
biểu hiện được quan hệ so sánh tương đối giữa kết quả đạt được và chi phí tiêu
hao. Tuy nhiên xét trên quan điểm Mác - Lênin thì sự vật hiện tượng đều có mối
quan hệ ràng buộc hữu cơ tác động qua lại lẫn nhau chứ không tồn tại một cách
riêng lẻ. Hơn nữa kinh doanh là một quá trình trong đó các yếu tố tăng thêm có
sự liên kết mật thiết với yếu tố sẵn có, chúng trực tiếp hoặc gián tiếp tác động
lên quá trình kinh doanh và làm kết quả kinh doanh thay đổi. Theo quan điểm
này tính hiệu quả kinh doanh chỉ được xét đến phần bổ sung và chi phí bổ sung,
nó mới chỉ dừng lại ở mức độ xem xét sự bù đáp chi phí bỏ ra cho quá trình kinh
doanh tăng thêm.
Quan niệm thứ ba cho rằng: Nếu hiểu theo mục đích cuối cùng thì hiệu
quả kinh doanh là hiệu số giữa kết quả thu về và chi phí bỏ ra để đạt được kết
quả đó. Trên góc độ này mà xem xét thì phạm trù hiệu quả có thể đồng nhất với
phạm trù lợi nhuận. Hiệu quả kinh doanh cao hay thấp là tuỳ thuộc vào trình độ
tổ chức sản xuất và tổ chức quản lý trong doanh nghiệp. Đây là quan niệm khá
phổ biến được rất nhiều người thừa nhận. Quan niệm này gắn kết quả với chi
phí, coi hiệu quả kinh doanh là sự phản ánh trình độ sử dụng các chi phí. Tuy
nhiên quan niệm này chưa biểu hiện tương quan về lượng và chất giữa kết quả
và chưa phản ánh hết mức độ chặt chẽ của mối liên hệ này.
Quan niệm thứ tư cho rằng: Nếu đứng trên góc độ từng yếu tố riêng lẻ để
xem xét thì hiệu quả là thể hiện trình độ và khả năng sử dụng các yếu tố đó
trong quá trình sản xuất. Quan điểm này ra đời và phát triển cùng với sự ra đời
và phát triển của nền sản xuất cơ giới hoá, nó phân quá trình kinh doanh thành
những yếu tố, những công đoạn và hiệu quả được xem xét cho từng yếu tố. Tuy
nhiên hiệu quả của từng yếu tố đạt được không có nghĩa là hiệu quả kinh doanh
cũng đạt được, nó chỉ đạt được khi có sự thống nhất, có tính hệ thống và đồng
bộ giữa các bộ phận, các yếu tố.
Trong xã hội chủ nghĩa phạm trù hiệu quả kinh doanh vẫn tồn tại vì sản
phẩm của xã hội chủ nghĩa sản xuất ra vẫn là hàng hoá. Tuy nhiên mục đích của
nền sản xuất xã hội chủ nghĩa khác với nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, trong xã
hội chủ nghĩa, sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu của mọi người trong xã hội một
cách tốt nhất. Chính vì đứng trên lập trường tư tưởng đó mà quan niệm về hiệu
quả kinh doanh trong xã hội chủ nghĩa cho rằng: “Hiệu quả kinh doanh là mức
độ thoả mẵn yêu cầu của các quy luật kinh tế cơ bản của xã hội chủ nghĩa, tiêu
dùng với tư cách là chỉ tiêu đại diện cho mức sống của mọi người trong các
doanh nghiệp, là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh”. Khó khăn ở đây là đưa
ra được phương tiện đo lường thể hiện tư tưởng định hướng đó. Nguyên nhân
là do đời sống nhân dân nói chung và mức sống nói riêng rất đa dạng và phong
phú, có nhiều hình thức phản ánh trong các chỉ tiêu mức độ nhu cầu hay mức độ
nâng cao đời sống
Qua các quan niệm trên có thể thấy: Mặc dù chưa có sự hoàn toàn thống
nhất trong quan niệm về hiệu quả kinh doanh. Nhưng ở các quan niệm khác
nhau đó lại có sự thống nhất quan điểm cho rằng phạm trù hiệu quả kinh doanh
phản ánh mặt chất lượng của hoạt động kinh doanh. Đó là do các quan điểm đã
phản ánh đúng bản chất của hiệu quả kinh doanh - phản ánh mặt chất lượng
của hiệu quả kinh doanh, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất để
đạt được mục tiêu cuối cùng của hoạt động kinh doanh - mục tiêu tối đa hoá lợi
nhuận.
“Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng
các yếu tố của quá trình kinh doanh ở doanh nghiệp nhằm đạt kết quả cao nhất
với chi phí thấp nhất”.
Vấn đề nâng cao hiệu quả kinh doanh chính là việc thực hiện hàng loạt
các biện pháp có hệ thống, có tổ chức, có tính đồng bộ và có tính liên tục tại
doanh nghiệp nhằm đạt mục tiêu cuối cùng đó là hiệu quả cao.
Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bao gồm rất nhiều khâu với
các mối liên hệ, tác động qua lại mang tính chất quyết định và hỗ trợ cùng nhau
thực hiện mục tiêu tổng thể của hoạt động kinh doanh. Nâng cao hoạt động của
tất cả các khâu trong kinh doanh là nhiệm vụ trọng tâm trong công tác tổ chức
điều hành hoạt động của bất cứ một doanh nghiệp nào.
Xét theo nghĩa rộng hơn thì hiệu quả kinh doanh là nâng cao năng suất
lao động xã hội và tiết kiệm lao động xã hội. Đây là hai mặt có quan hệ mật thiết
của vấn đề hiệu quả. Chính vì khan hiếm nguồn lực và việc sử dụng chúng có tính
cạnh tranh nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội, đặt ra yêu cầu
phải khai thác, tận dụng triệt để và tiết kiệm các nguồn lực. Để đạt được mục
tiêu kinh doanh, các doanh nghiệp buộc phải chú trọng các điều kiện nội tại,
phát huy năng lực, hiệu năng của yếu tố sản xuất và tiết kiệm mọi chi phí.
Bên cạch đó cần hiểu phạm trù hiệu quả một cách toàn diện trên cả hai
mặt định lượng và định tính. Về mặt định lượng, hiệu quả kinh doanh biểu hiện
ở mối tương quan giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra. Nếu xét về tổng lượng
thì kinh doanh chỉ đạt hiệu quả khi kết quả lớn hơn chi phí, chênh lệch này càng
lớn hiệu quả kinh doanh càng cao và ngược lại.
Về mặt định tính, hiệu quả kinh doanh cao phản ánh sự cố gắng, lỗ lực,
trình độ và khả năng sử dụng các yếu tố trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Hiệu quả kinh doanh vừa là một phạm trù cụ thể vừa là một phạm trù
trừu tượng, nếu là phạm trù cụ thể thì trong công tác quản lý phải định lượng
thành các chỉ tiêu, con số để tính toán so sánh; nếu là phạm trù trìu tượng phải
được định tính thành các mức độ quan trọng hoặc vai trò của nó trong lĩnh vực
kinh doanh.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, thì mục tiêu kinh doanh cơ bản của
các doanh nghiệp là lợi nhuận. Lợi nhuận là phần giá trị rôi ra mà doanh nghiệp
thu được ngoài các chi phí cần thiết (chi phí kinh doanh). Nâng cao hiệu quả
kinh doanh chính là việc cực đại hoá giá trị này thông qua hàng lạt các biện
pháp cải tiến sản xuất, tiết kiệm trong thu mua, thúc đẩy tiêu thụ và phát huy tất
cả các nguồn lực của doanh nghiệp.
Việc đánh giá hiệu quả kinh doanh rất phức tạp vì bản thân kết quả kinh
doanh và chi phí kinh doanh nhiều khi không được phản ánh chính xác. Nguyên
do là có những chi phí và kết quả không phản ánh được bằng các đơn vị đo
lường thông thường (như uy tín, phi phí vô hình...). Có lẽ vì vậy mà một đặc điểm
quan trọng nhất của hiệu quả kinh doanh là khái niệm phức tạp và khó đánh
giá chính xác. Hiệu quả kinh doanh được xác định từ kết quả thu được và chi phí
bỏ ra, trong khi đó kết quả và chi phí lại rất khó đo lường vì vậy đo lường đánh
giá hiệu quả kinh doanh là rất khó khăn.
Về kết quả kinh doanh: Hầu như rất ít các doanh nghiệp xác định được
chính xác kết quả kinh doanh ở một thời điểm cụ thể. Nguyên nhân là do quá
trình kinh doanh không trùng khớp với nhau, vả lại tại các doanh nghiệp sản
xuất xác định sản phẩm đã tiêu thụ trong khâu hàng gủi bán tại các điểm tiêu
thụ, đại lý hay đơn vị bạn...là rất khó khăn. Bên cạnh đó việc ảnh hưởng của
thước đo giá trị cũng là nguyên nhân gây lên khó khăn trong việc đánh giá chính
xác hiệu quả kinh doanh (thay đổi của giá trị đồng tiền trên thị trương theo địa
điểm và thời gian).
Việc xác định chi phí kinh doanh cũng không dễ dàng. Về nguyên tắc, chi
phí kinh doanh của doanh nghiệp được xác định từ chi phí hữu hình và chi phí vô
hình. Xác định chi phí vô hình thường mang tính ước đoán, chúng ta không thể
xác định chính xác chi phí vô hình trong một thương vụ kinh doanh. Chi phí vô
hình là một cản trở lớn cho các không chỉ doanh nghiệp mà còn cả nền kinh tế
quốc dân trong xác định được chính xác chi phí bỏ ra.
Cũng chính vì việc xác định kết quả kinh doanh và chi phí kinh doanh khó
khăn mà dẫn tới khó xác định hiệu quả kinh doanh. Hơn nữa, điều này cũng dẫn
đến tình trạng hiệu quả kinh doanh ngắn hạn và hiệu quả kinh doanh dài hạn
không phù hợp với nhau, đôi khi là mâu thuẫn. Chẳng hạn doanh nghiệp chú
trọng vào các mục tiêu trước mắt mà bỏ qua các đoạn thị trường, bạn hàng
truyền thống, về ngắn hạn có thể đem lại hiệu quả kinh doanh cao cho các doanh
nghiệp. Nhưng về dài hạn có thể đem lại hiệu quả xấu.
2. Phân loại hiệu quả kinh doanh.
Phân loại hiệu quả kinh doanh là một việc làm hết sức thiết thực, nó là
phương cách để các doanh nghiệp xem xét đánh giá những kết quả mà mình đạt
được và là cơ sở để thành lập các chính sách, chiến lược, kế hoạch hoạt động của
doanh nghiệp. Trong công tác quản lý, phạm trù hiệu quả được biểu hiện ở nhiều
dạng khác nhau, mỗi dạng thể hiện những đặc trưng và ý nghĩa cụ thể của nó.
Việc phân loại hiệu quả kinh doanh theo những tiêu thức khác nhau có tác dụng
thiết thực trong việc điều hành tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp.
2.1 Hiệu quả cá biệt và hiệu quả kinh tế quốc dân
Hiệu quả cá biệt là hiệu quả thu được từ hoạt động kinh doanh của từng
doanh nghiệp, với biểu hiện trực tiếp là lợi nhuận kinh doanh và chất lượng
thực hiện những yêu cầu xã hội đặt ra cho nó. Hiệu quả kinh tế quốc dân được
tính cho toàn bộ nền kinh tế, về cơ bản nó là sản phẩm thăng dư, thu nhập quốc
dân hay tổng sản phẩm xã hội mà đất nước thu được trong mỗi thời kỳ so với
lượng vốn sản xuất, lao động xã hội và tài nguyên đã hao phí.
Trong việc thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, không
những cần tính toán và đạt được hiệu quả trong sản xuất kinh doanh của từng
doanh nghiệp, mà còn cần phải đạt được hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế quốc
dân; mức hiệu quả kinh tế quốc dân lại phụ thuộc vào mức hiệu quả cá biệt.
Nghĩa là phụ thuộc vào sự cố gắng của mỗi người lao động và mỗi doanh nghiệp.
Đồng thời xã hội thông qua hoạt động của cơ quan quản lý Nhà nước cũng có
tác động trực tiếp đến hiệu quả cá biệt. Một cơ chế quản lý đúng tạo điều kiện
thuận lợi cho việc nâng cao hiệu quả cá biệt, ngược lại một chính sách lạc hậu,
sai lầm lại trở thành lực cản kìm hãm nâng cao hiệu quả cá biệt.
2.2 Hiệu quả của chi phí bộ phận và chi phí tổng hợp
Hiệu quả chi phí tổng hợp thể hiện mối tương quan giữa kết quả thu được
và chi phí bỏ ra để thực hiện hoạt động kinh doanh.
Hiệu quả chi phí bộ phận lại thể hiện mối tương quan giữa kết quả thu
được với lượng chi phí từng yếu tố cần thiết để thực hiện nhiệm vụ ấy (lao động,
thiết bị nguyên vật liệu ....)
Việc tính toán chỉ tiêu chi phí tổng hợp cho thấy hiệu quả hoạt động
chung của doanh nghiệp. Việc tính toán chỉ tiêu chi phí bộ phận cho thấy sự tác
động của những yếu tố nội bộ hoạt động kinh doanh đến hiệu quả kinh tế chung.
Về nguyên tắc, hiệu quả chi phí tổng hợp phụ thuộc vào hiệu quả của chi phí bộ
phận.
2.3 Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh
Trong hoạt động kinh doanh, việc xác định và phân tích hiệu quả nhằm
hai mục đích:
Một là, phân tích đánh giá trình độ quản lý và sử dụng các loại chi phí
trong kinh doanh.
Hai là, phân tích luận chứng về kinh tế - xã hội các phương án khác nhau,
trong việc thực hiện một nhiệm vụ cụ thể nào đó để.
Hiệu quả tuyệt đối được tính toán cho từng phương án bằng các xác định
mối tương quan giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra, khi thực hiện mục tiêu.
Hiệu quả so sánh được xác định bằng cách so sánh các chỉ tiêu hiệu quả
tuyệt đối, hoặc so sánh tương quan các đại lượng thể hiện chi phí hoặc kết quả
của các phương án với nhau.
Cách phân loại này được sử dụng khá phổ biến và rộng rãi trong việc thực
hiện thẩm định các dự án mới đầu tư, với các doanh nghiệp đi vào hoạt động thì
chỉ tiêu hiệu quả so sánh được xác định bằng cách so sánh các chỉ tiêu hiệu quả
tuyệt đối trong hai mốc thời gian khác nhau.
II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG
Trong quá trình kinh doanh các doanh nghiệp phải luôn gắn mình với thị
trường nhất là trong một nền kinh tế mở. Do vậy mà để thấy được vai trò của
nâng cao hiệu quả kinh doanh đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế trước hết
chúng ta xem xét cơ chế thị trường và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
trong thị trường.
Thị trường là nơi diễn ra quá trình trao đổi, điều tiết và lưu thông hàng
hoá. Nó tồn tại một cách khách quan và gắn liền với lịch sử phát triển của nền
sản xuất hàng hoá. Thông qua thị trường các doanh nghiệp có thể nhận biết
được sự phân phối các nguồn lực thông qua hệ thống giá cả trên thị trường.
Trên thị trường luôn tồn tại các quy luật vận độngcủa hàng hoá giá cả và tiền
tệ.... như các quy luật giá trị, quy luật giá cả, quy luật lưu thông, quy luật cạnh
tranh.... Các quy luật này tạo thành một hệ thống thống nhất và hệ thống này
chính là linh hồn của cơ chế thị trường. Dưới hình thức các quan hệ mua bán
hàng hoá, dịch vụ trên thị trường cơ chế thị trường tác động đến việc điều tiết
sản xuất, tiêu dùng, đầu tư và từ đó làm thay đổi cơ cấu sản phẩm cơ cấu
ngành....Nói cách khác, cơ chế thị trường điều tiết quá trình phân phối, phân
phối lại các nguồn lực của nền kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội một cách
tối ưu.
Sự vận động đa dạng, linh hoạt của cơ chế thị trường dẫn đến sự biểu
hiện gần đúng nhu cầu và sự đáp ứng nhu cầu đó của thị trường, hay thị trường
là nơi phát ra các tín hiệu về cung, cầu, giá cả điều tiết các thành viên của nó
hoạt động theo các quy luật vốn có. Tuy nhiên điều này không phải là tuyệt đối,
thị trường cũng biểu hiện rất nhiều các khuyết tật mà nó không tự khắc phục
được như: cạnh tranh không hoàn hảo, phá huỷ môi trường, làm ăn phi pháp,
lừa lọc....Để tránh những tác động tiêu cực này của thị trường, thì doanh nghiệp
phải xác định cho mình mội cơ chế hoạt động trên hai thị trường đầu vào và thị
trường đầu ra để đạt được kết quả cao nhất.
Các doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh với động cơ là kiếm lợi
nhuận. Trong cơ chế thị trường, thì lợi nhuận là mục tiêu của kinh doanh, là
động lực kinh tế để doanh nghiệp cũng như mỗi người lao động không ngừng sử
dụng hợp lý tiết kiệm các nguồn lực, nâng cao năng suất và hiệu quả kinh doanh.
Thật vậy, để cung cấp hàng hoá dịch vụ cho nhu cầu thị trường, nhu cầu của
người tiêu dùng, các doanh nghiệp phải bỏ ra những chi phí nhất định. Họ phải
thuê đất đai, lao động và tiền vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh hàng hoá
và dịch vụ. Họ muốn hàng hoá và dịch vụ của mình được bán với giá cao để bù
đắp lại những chi phí đã bỏ ra. Nếu xét về mặt định lượng hiệu quả kinh doanh
chính là khoản chênh lệch giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra, và nâng cao
hiệu quả kinh doanh nghĩa là tăng khoản chênh lệch này lên tối đa trong điều
kiện cho phép. Vậy có thể thấy được hiệu quả kinh doanh chính là chỉ tiêu biểu
hiện mục tiêu thực hiện và nâng cao hiệu quả kinh doanh là công cụ để thực hiện
mục tiêu.
Nếu xét về mặt định tính thì hiệu quả kinh doanh biểu hiện chất lượng đạt
được của mục tiêu, nó phản ánh trình độ của lực lượng sản xuất bao gồm tất cả
các khâu, các bộ phận và từng các nhân riêng lẻ của doanh nghiệp. Nâng cao
hiệu quả kinh doanh về mặt định tính tức nâng cao trình độ khai thác, quản lý và
sử dụng các nguồn lực trong sản xuất, đảm bảo sự tăng trưởng về mặt lượng
gắn liền với sự phát triển về chất. Đây chính là lý do buộc doanh nghiệp phải
nâng cao hiệu quả kinh doanh nhằm thực hiện phát triển bền vững trong xu
hướng chung.
Nâng cao hiệu quả kinh doanh còn là nhân tố thúc đẩy khả năng cạnh
tranh trong kinh doanh của doanh nghiệp. Chấp nhận cơ chế thị trường là chấp
nhận cạnh trạnh. Thị trường càng phát triển thì cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp lại càng khốc liệt hơn, đó là sự cạnh trạnh về chất lượng, gía cả, các dịch
vụ hậu mãi....Với mục tiêu là phát triển, thì cạnh tranh là một nhân tố làm doanh
nghiệp mạnh lên và cũng là nhân tố làm doanh nghiệp thất bại. Do vậy, để tồn
tại và phát triển thì doanh nghiệp đều phải chiến thắng trong cạnh tranh. Để
thực hiện điều này thì tất yếu doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng hàng hoá
dịch vụ với giá cả hợp lý. Mặt khác, hiệu quả kinh doanh đồng nghĩa với việc
giảm giá thành, tăng khối lượng, chất lượng hàng bán....và là hạt nhân cơ bản
của sự thắng lợi trong cạnh tranh. Và các doanh nghiệp cạnh tranh nhau tức là
không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình.
III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ KINH DOANH
Hiệu quả kinh doanh trong doanh nghiệp là một chỉ tiêu chất lượng tổng
hợp, nó liên quan tới tất cả các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh, do đó nó
chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau.
Muốn đưa ra các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh thì trước hết
doanh nghiệp phải xác định được nhân tố nào tác động đến kinh doanh và tác
động đến hiệu quả kinh doanh, nếu không làm được điều này thì doanh nghiệp
không thể biết được hiệu quả hình thành từ đâu và cái gì sẽ quyết định nó. Xác
định nhân tố ảnh hưởng, ảnh hưởng như thế nào và mức độ, xu hướng tác động
là nhiệm vụ của bất cứ nhà kinh doanh nào.
Nói đến nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh có rất nhiều, nhưng
chúng ta có thể chia làm hai nhóm chính: nhân tố thuộc về doanh nghiệp và
nhân tố ngoài doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp phải có biện
pháp tác động lên các yếu tố một cách hợp lý, có hiệu quả, làm cho doanh nghiệp
ngày càng phát triển tốt hơn, phát huy tốt hơn các nhân tố tích cực và nâng cao
hiệu quả kinh doanh.
1. Nhân tố thuộc về doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp muốn hoạt động được thì nó phải có một hệ thống cơ
sở vật chất, con người, đây chính là nhân tố thuộc về bản thân doanh nghiệp.
Trong guồng máy hoạt động chung của doanh nghiệp, mỗi nhân tố đóng một vai
trò nhất định, mà thiếu nó thì toàn bộ hệ thống sẽ hoạt động kém hiệu quả hay
ngừng hoạt động. Dưới đây xin đưa ra một số nhân tố ảnh hưởng chính đến hiệu
quả kinh doanh.
1.1 Vốn kinh doanh
Ngày nay, nói đến kinh doanh thì nhân tố đầu tiên được quan tâm chính là
vốn, đây là yếu tố nền tảng cho một hoạt động kinh doanh bắt đầu. Ngay trong
luật pháp của Việt Nam cũng có quy định điều luật một doanh nghiệp được xã
hội thừa nhận thì phải có số vốn tối thiếu là bao nhiêu. Vì vậy có thể khẳng định
tầm quan trọng của vốn trong kinh doanh.
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện bằng tiền của toàn bộ
tài sản của doanh nghiệp dùng trong kinh doanh, bao gồm:
- Tài sản cố định hữu hình: Nhà của, kho tàng, của hàng, quày hàng, các
thiết bị máy móc....
- Tài sản cố định vô hình: Bằng phát minh sáng chế, bản quyền sở hữu
công nghiệp, uy tín của công ty trên thị trường, vị trí địa lý, nhãn hiệu các hàng
hoá mà doanh nghiệp kinh doanh....
- Tiền Việt Nam, ngoại tệ, vàng bạc đá quý....