Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

tư tưởng dân chủ của Rousseau trong các tác phẩm Bàn về khế ước xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (654.6 KB, 82 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




VŨ THỊ KHUYÊN


TƢ TƢỞNG DÂN CHỦ CỦA ROUSSEAU
TRONG TÁC PHẨM “BÀN VỀ KHẾ ƢỚC XÃ HỘI”



LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC









HÀ NỘI - 2012

2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



VŨ THỊ KHUYÊN




TƢ TƢỞNG DÂN CHỦ CỦA ROUSSEAU
TRONG TÁC PHẨM “BÀN VỀ KHẾ ƢỚC XÃ HỘI”



LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 80


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
TS. Nguyễn Thị Thanh Huyền



HÀ NỘI - 2012


5
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU…………….………………………………………

03
PHẦN NỘI DUNG……………………………………………………
10
Chƣơng 1: BỐI CẢNH VÀ TIỀN ĐỀ RA ĐỜI TƢ TƢỞNG DÂN
CHỦ CỦA JEAN JACQUES ROUSSEAU TRONG TÁC PHẨM
“BÀN VỀ KHẾ ƯỚC XÃ HỘI”…………………… ……………


10
1.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội ra đời tƣ tƣởng dân chủ của J.
J. Rousseau trong tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội”……….

10
1.1.1. Tình hình kinh tế nước Pháp trước cách mạng……
10
1.1.2. Bối cảnh chính trị - xã hội…………………………
14
1.2. Tiền đề lý luận cho sự ra đời tƣ tƣởng dân chủ của J. J.
Rousseau………………………………………………………

16
1.2.1. Tư tưởng dân chủ trước J. J. Rousseau……………
16
1.2.2. Tư tưởng dân chủ của phong trào Khai sáng……….
23
1.3. Khái quát về cuộc đời và tác phẩm “Bàn về khế ước xã
hội” của J. J. Rousseau

29
1.3.1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của J. J. Rousseau

29
1.3.2. Tổng quan về tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội”…
31
Chƣơng 2: NỘI DUNG CƠ BẢN TƢ TƢỞNG DÂN CHỦ CỦA
JEAN JACQUES ROUSSEAU TRONG TÁC PHẨM “BÀN VỀ
KHẾ ƯỚC XÃ HỘI”………………………………………………


35
2.1. Tƣ tƣởng của J. J. Rousseau về quyền con ngƣời và mục
đích, nhiệm vụ của nhà nƣớc…………………………………

35
2.1.1 Tư tưởng của J. J. Rousseau về quyền tự do và bình
đẳng………………………………………………………….

35
2.1.2 Nhà nước ra đời nhằm mục đích bảo đảm và thực
hiện quyền con người……………………………………….

40

6
2.2. Bản chất của quyền lực nhà nƣớc…… …………………
47
2.2.1. Quyền lực tối cao là thực hiện ý chí chung của nhân
dân

47
2.2.2. Ý chí chung của nhân dân được công bố lên chính là

luật pháp……………………………………………………

54
2.2.3. Lập pháp là đỉnh cao nhất của sức mạnh toàn dân…
57
2.3. Biện pháp ngăn chặn nguy cơ chính phủ lạm quyền và
cƣớp quyền

61
2.4. Đánh giá tƣ tƣởng dân chủ của J. J. Rousseau trong tác
phẩm “Bàn về khế ước xã hội”

67
KẾT LUẬN.…… …
73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………….
76



7
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong dòng chảy của lịch sử triết học, triết học Khai sáng thế kỷ XVIII
là sự kế thừa và phát triển các khuynh hƣớng tƣ tƣởng triết học thế kỷ XVII.
Ý tƣởng chung của các nhà Khai sáng là lý tuởng về sự tiến bộ xã hội. Những
tác phẩm của họ là vũ khí lý luận của giai cấp tƣ sản trong thời kỳ chuẩn bị
cách mạng. Họ đòi hỏi phải thay chế độ cũ bằng một chế độ xã hội mới tốt đẹp
hơn. Chính vì vậy, trào lƣu tƣ tƣởng tiến bộ và cách mạng đó đã không chỉ ảnh
hƣởng ở Pháp mà còn ảnh hƣởng khá rộng đến châu Âu lúc bấy giờ. Điều đó

góp phần tạo nên vị thế và sức ảnh hƣởng không nhỏ của triết học Khai sáng
Pháp thế kỷ XVIII đến tiến trình phát triển của lịch sử triết học phƣơng Tây.
Jean Jacques Rousseau là một trong những đại diện tiêu biểu của triết
học Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII, đồng thời cũng là một trong những ngƣời
đã đặt nền móng tƣ tƣởng cho cuộc đại cách mạng tƣ sản Pháp (1789 – 1794)
và cho cuộc đấu tranh vì tự do, dân chủ ở khắp nơi trên thế giới. Với tinh thần
đấu tranh cho sự phát triển của xã hội, ông đã dành toàn bộ thời gian, sức lực
viết những tác phẩm để bênh vực quyền tự do, bình đẳng. Tƣ tƣởng về ý chí
chung, khế ƣớc xã hội, về quyền lực tối cao hay quyền lập pháp đã trở thành
một chất men kích thích cho tƣ tƣởng cách mạng của giai cấp tƣ sản Pháp.
Đặc biệt, tƣ tƣởng về tự do và bình đẳng của Rousseau đã trở thành một nội
dung cơ bản của “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” của Pháp năm 1791.
Nhiều nội dung tƣ tƣởng của ông vẫn còn giá trị trong thời đại ngày nay.
Tƣ tƣởng dân chủ của Rousseau là đóng góp vô cùng quan trọng trong
học thuyết triết học chính trị - xã hội của ông. Rousseau đƣa ra tƣ tƣởng xây
dựng một xã hội mà trong đó con ngƣời đƣợc đảm bảo quyền tự do và bình
đẳng là những quyền tất yếu, tự nhiên của con ngƣời. Tƣ tƣởng dân chủ của
ông có một tầm ảnh hƣởng không nhỏ đến lịch sử tƣ tƣởng phƣơng Tây từ thế

8
kỷ XVIII đến nay. Phạm vi ảnh hƣởng của nó không chỉ dừng lại ở nƣớc
Pháp, ở châu Âu mà còn ở nhiều nƣớc trên thế giới.
Trong những tác phẩm của mình, Rousseau đã sử dụng cây bút của
mình nhƣ một thứ vũ khí đấu tranh chống lại nền chuyên chế phong kiến, phê
phán những thói hƣ tật xấu của xã hội quý tộc đƣơng thời đang ngày càng thối
nát. Là ngƣời đại diện cho tƣ tƣởng thị dân, đại diện cho quyền lợi của ngƣời
bình dân, ông không chỉ đơn thuần phê phán các thiết chế phong kiến mà còn
bác bỏ hoàn toàn hệ thống chính trị pháp quyền áp bức ngƣời dân.
Các tác phẩm của ông cùng với tác phẩm của các nhà tƣ tƣởng Khai
sáng cùng thời, đặc biệt là tác phẩm “Tinh thần pháp luật” của Montesquieu…

đã tạo ra khởi nguồn và sức mạnh tinh thần cho các cuộc cách mạng tƣ sản
diễn ra mạnh mẽ kể từ thế kỷ XVIII.
“Bàn về khế ước xã hội” là tác phẩm chính trị nổi bật nhất trong số các
tác phẩm của Rousseau, thể hiện nội dung chính trong toàn bộ tƣ tƣởng dân
chủ của ông. Cho đến ngày nay, nhiều nội dung tƣ tƣởng triết học trong tác
phẩm này vẫn đƣợc kế thừa và đƣợc nhắc đến trong các văn kiện chính trị
quan trọng nhƣ là biểu hiện của một tinh thần cách mạng mang tính nhân loại.
Ở Việt Nam, tƣ tƣởng triết học chính trị nói chung và tƣ tƣởng dân chủ
nói riêng của Rousseau trong tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội” đƣợc nhắc đến
không ít lần trong các Tân văn, Tân thƣ cũng nhƣ trong các tƣ liệu sách báo du
nhập vào Việt Nam dƣới thời Pháp thuộc, đặc biệt vào nửa đầu thế kỷ XX.
Những nội dung trong tƣ tƣởng dân chủ của ông vẫn là những gợi mở quý giá
cho việc xây dựng nhà nƣớc của dân, do dân và vì dân ở Việt Nam hiện nay.
Với mong muốn tìm hiểu về tƣ tƣởng dân chủ của Rousseau để thêm
một lần nữa khẳng định giá trị tƣ tƣởng của ông trong thời đại hiện nay,
chúng tôi chọn: Tƣ tƣởng dân chủ của Rousseau trong tác phẩm “Bàn về
khế ước xã hội” làm đề tài nghiên cứu của mình.

9
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Thuộc trào lƣu Khai sáng, nên tƣ tƣởng triết học của Rousseau trong
một thời gian đã đƣợc xếp là lý luận tƣ sản. Vì vậy, trƣớc đây, việc nghiên
cứu về triết học của Rousseau nói chung và tƣ tƣởng dân chủ của ông trong
tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội” nói riêng ở Việt Nam còn ở tình trạng
khá khiêm tốn.
Trong thời gian gần đây, ở Việt Nam, những công trình nghiên cứu về
các tƣ tƣởng triết học của Rousseau bắt đầu xuất hiện khá nhiều, đặc biệt là
nghiên cứu về quan niệm chính trị - xã hội. Tuy nhiên, việc nghiên cứu
chuyên sâu tƣ tƣởng dân chủ của ông vẫn còn chƣa nhiều. Thông thƣờng,
ngƣời đọc thƣờng rút ra những khía cạnh về tƣ tƣởng dân chủ từ những nội

dung tƣ tƣởng triết học của Rousseau. Do đó, về đề tài tƣ tƣởng dân chủ của
Rousseau trong tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội”, cho đến nay, ở nƣớc ta chủ
yếu vẫn là các công trình nghiên cứu gián tiếp.
Về các công trình nghiên cứu trực tiếp bằng tiếng Việt về tƣ tƣởng dân
chủ của Rousseau trong tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội”, có thể kể đến các
công trình sau: Trƣớc hết là phần giới thiệu của học giả Hoàng Thanh Đạm
trong cuốn “Bàn về khế ước xã hội” do chính ông dịch và tái bản năm 2004 và
cuốn tiểu thuyết “Giăng Giắc Rútxô” của Phùng Văn Tửu (1978).
Tiếp đến, trong một số luận văn tiến sỹ, thạc sĩ, một số bài báo, sách
tham khảo có đề cập trực tiếp ít nhiều đến tƣ tƣởng dân chủ của Rousseau
trong tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội”, cụ thể nhƣ: “Tư tưởng triết học
chính trị của Rútxô trong tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội” (2008), luận văn
thạc sĩ triết học của Nguyễn Thị Châu Loan; “Tư tưởng của Rútxô về quyền
tự do, về bình đẳng và về nhà nước”, luận văn thạc sĩ triết học của Nguyễn
Thị Thanh Minh, cuốn “Triết học chính trị về nhân quyền con người” (2005)
của tác giả Nguyễn Văn Vĩnh

10
Nhƣ vậy, có thể nói, ở Việt Nam dù đã có thêm nhiều công trình nghiên
cứu về tƣ tƣởng chính trị - xã hội của Rousseau trong tác phẩm “Bàn về khế ước
xã hội” nhƣng vẫn còn thiếu vắng các công trình nghiên cứu chuyên sâu và cơ
bản về tƣ tƣởng dân chủ của Rousseau trong tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội”.
Loại nghiên cứu gián tiếp về đề tài có một số lƣợng không nhỏ, trong
đó bao gồm 2 dạng: (1) các công trình liên quan đến triết học Khai sáng Pháp
nói chung và từng triết gia Khai sáng Pháp nói riêng; (2) các công trình và bài
viết đề cập các bình diện riêng lẻ có nội dung liên quan đến tƣ tƣởng dân chủ
của Rousseau trong tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội”.
Trong số các công trình thuộc dạng (1) liên quan đến triết học Khai
sáng Pháp nói chung và từng triết gia Khai sáng Pháp nói riêng, có thể kể đến
các cuốn giáo trình, bài giảng, sách tham khảo và bài viết nhƣ cuốn “Lịch sử

các tư tưởng chính trị” (2001) của Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
cuốn “Triết học thời kỳ tiền tư bản chủ nghĩa, Triết học khai sáng từ thế kỷ
XVII đến đầu thế kỷ XIX” (1962) của Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô, cuốn
“Lịch sử triết học” (1998) do GS. Nguyễn Hữu Vui làm chủ biên, cuốn “Triết
học chính trị Môngtexkiơ với việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam”
(2006) của Lê Tuấn Huy, cuốn “Đại cương lịch sử triết học phương Tây”
(2006) của Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Thanh, cuốn “Lịch sử
các học thuyết chính trị trên thế giới” (1993) do Lƣu Kiểm Thanh, Phạm
Hồng Thái dịch, “Quan niệm về con người trong Triết học Khai sáng Pháp”
(2007), luận văn thạc sĩ triết học của Phạm Thị Thu Hƣơng,
Các tƣ liệu này chỉ dừng lại ở những thông tin khái quát chung về
phong trào Khai sáng Pháp và về các tƣ tƣởng triết học cơ bản của các đại
biểu của nó, chƣa phân tích một cách chuyên sâu và có tính hệ thống về tƣ
tƣởng triết học chính trị độc đáo của Rousseau, trong đó có các khía cạnh
trong tƣ tƣởng dân chủ của ông.

11
Thuộc về dạng (2) gồm các công trình và bài viết đề cập các bình diện
riêng lẻ có liên quan đến nội dung của luận văn có thể kể đến cuốn “Về đại
cách mạng Pháp 1789” (1989) của các tác giả Văn Tạo, Dƣơng Kinh Quốc,
Vũ Huy Phúc, cuốn “Tam quyền phân lập” (1992) của Đinh Ngọc Vƣợng, bài
viết của Hoàng Chí Bảo nhan đề “Quyền con người trong chủ nghĩa xã hội”,
Tạp chí Triết học, số 2 năm 1991, bài “Một số tư tưởng triết học chính trị của
Giôn Lốccơ: thực chất và ý nghĩa lịch sử” (2007) của Đinh Ngọc Thạch
trong: Tạp chí triết học, số 1, hay cuốn “Văn minh phương Tây - Lịch sử và
văn hoá” (2008) của tác giả Edward McNall Burns, trong tác phẩm này, khi
đề cập đến nguồn gốc tƣ tƣởng của cuộc đại cách mạng Pháp 1789, tác giả đã
coi Rousseau là ngƣời sáng lập chế độ dân chủ. Đồng thời, tác giả cũng đề cập
đến quan niệm của Rousseau về quyền tối thƣợng nhƣ điểm nhấn trong quan
niệm chính trị xã hội của ông và ảnh hƣởng thuyết chính trị của ông đến cách

mạng Pháp 1789 cũng nhƣ nƣớc Mỹ. Những trình bày của Edward McNall
Burns trong tác phẩm hết sức khái quát nhƣng cũng là những gợi mở hết sức
quý báu trong việc nghiên cứu tƣ tƣởng dân chủ của Rousseau.
Các công trình nghiên cứu trên đây đã đề cập đến một số khía cạnh,
bình diện riêng lẻ có liên quan đến nội dung của đề tài, tuy nhiên mới chỉ ở
góc độ gián tiếp của các khoa học xã hội khác nhau chứ chƣa có sự trình bày
hệ thống về đề tài này.
Nhƣ vậy, có thể thấy số lƣợng các công trình nghiên cứu về tƣ tƣởng
dân chủ của Rousseau trong tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội”, chủ yếu mới
chỉ dừng lại ở những thông tin khái quát chung về phong trào Khai sáng Pháp
và về các tƣ tƣởng triết học cơ bản của các đại biểu của nó, hoặc tƣ tƣởng triết
học chính trị - xã hội của Rousseau nói chung. Việc đi sâu nghiên cứu tƣ
tƣởng dân chủ của Rousseau trong tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội” để
khẳng định giá trị lịch sử và hiện thời của nó là một yêu cầu cấp thiết trong
việc khai thác, kế thừa kho tàng tri thức nhân loại.

12
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích nghiên cứu: Luận văn làm rõ tƣ tƣởng dân chủ của
Rousseau trong tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội”, từ đó đƣa ra nhận định về
những giá trị và hạn chế của tƣ tƣởng này.
- Để thực hiện mục đích này, luận văn tập trung vào những nhiệm vụ
sau đây:
+ Nghiên cứu bối cảnh và tiền đề lý luận ra đời tƣ tƣởng dân chủ của
Rousseau trong tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội”.
+ Phân tích nội dung cơ bản tƣ tƣởng dân chủ của Rousseau trong tác
phẩm “Bàn về khế ước xã hội”: Tƣ tƣởng về quyền con ngƣời và mục đích
nhiệm vụ của nhà nƣớc; bản chất của quyền lực nhà nƣớc; về biện pháp ngăn
chặn nguy cơ chính phủ cƣớp quyền và lạm quyền.
+ Bƣớc đầu phân tích những giá trị và hạn chế của tƣ tƣởng dân chủ

của Rousseau trong tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội”.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Tƣ tƣởng dân chủ của Rousseau trong tác
phẩm “Bàn về khế ước xã hội”.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung làm sáng tỏ một số nội dung cơ
bản nhất tƣ tƣởng dân chủ của Rousseau trong tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội”.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận và phương pháp luận:
Luận văn dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin
về con ngƣời, xã hội và nhà nƣớc; đồng thời tham khảo có chọn lọc công trình
của các nhà nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phƣơng pháp chủ yếu sau: phƣơng pháp thống
nhất lôgíc và lịch sử, phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, so sánh…

13
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài nghiên cứu chuyên sâu một số nội dung cơ bản tƣ tƣởng dân chủ
của Rousseau trong tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội”.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận
Với mục tiêu nghiên cứu chuyên sâu về tƣ tƣởng dân chủ của Rousseau
thể hiện trong một tác phẩm cụ thể nổi tiếng của ông là “Bàn về khế ước xã
hội”, luận văn góp phần khẳng định giá trị tƣ tƣởng dân chủ của Rousseau
trong thời đại ngày nay.
- Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên cao học
chuyên ngành Triết học trong việc học tập và nghiên cứu về triết học Khai
sáng Pháp nói chung và triết học Rousseau nói riêng.
8. Kết cấu

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm hai chƣơng, bảy tiết.

14
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1: BỐI CẢNH VÀ TIỀN ĐỀ RA ĐỜI TƢ TƢỞNG DÂN CHỦ
CỦA JEAN JACQUES ROUSSEAU TRONG TÁC PHẨM
“BÀN VỀ KHẾ ƯỚC XÃ HỘI”
1.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội ra đời tƣ tƣởng dân chủ của J. J.
Rousseau trong tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội”
1.1.1. Tình hình kinh tế nước Pháp trước cách mạng
Vào thế kỷ XVIII, nƣớc Pháp vốn là một quốc gia giàu có và phong
phú tài nguyên lâm vào tình trạng khủng hoảng tài chính trầm trọng. Pháp đã
tham gia vào nhiều cuộc chiến tranh và luôn phải cố gắng giữ vững vị trí, sức
mạnh của mình ở châu Âu. Không chỉ thế, Pháp cần nhiều tiền để duy trì bộ
máy quan chức và đại sứ ở nƣớc ngoài trong khi đó ngân khố quốc gia trống
rỗng vì những chi phí xa hoa của cung đình. Đặc biệt từ khi vua Louis XIV
cho xây dựng cung điện Versailles tráng lệ với tổng chi phí lên tới 65 triệu
quan tiền, trong vòng hơn 40 năm để hoàn thành và biến cung điện này thành
lâu đài lớn nhất châu Âu. Việc tiêu xài phung phí của triều đình và bảo trì các
cung điện đã chiếm 5% ngân quỹ quốc gia. Từ đây xuất hiện một số ý đồ cải
cách trong chính trị của nƣớc này, xong tất cả đều thất bại vì thái độ không
dứt khoát của nhà vua hay sự phản đối từ một số nhóm đặc quyền. Chỉ có một
cách giải quyết duy nhất là áp dụng tăng thuế và lập ra những loại thuế mới.
Phần lớn nguồn lợi của chính phủ Pháp lúc bấy giờ từ việc thu thuế.
Trong các thứ thuế, quan trọng nhất là thuế đất, sau đó là thuế muối. Thông
thƣờng chỉ có tầng lớp nông dân phải nộp thuế đất và theo nguyên tắc, thuế
đất đƣợc miễn trừ cho giới quý tộc, các viên chức chính quyền và giới tƣ sản,
trong khi đó nhà thờ có khoảng 5% đến 10% đất đai cũng đƣợc miễn thuế.
Kinh tế nƣớc Pháp càng trở nên khó khăn hơn vì chính sách thuế chỉ

đánh vào đối tƣợng ngƣời dân lao động, còn những tầng lớp xã hội đƣợc thụ

15
hƣởng sự thịnh vƣợng lại không phải trả thuế theo lợi tức của họ. Do áp lực
chiến tranh, vua Louis XIV bắt ngƣời dân Pháp phải đóng thuế thân và thuế
10% tính trên lợi tức, nhƣng nhiều ngƣời đã tìm cách trốn tránh các loại thuế
này. Đến thời vua Louis XV, lên ngai vàng năm 1715 và trị vì tới năm 1774,
tiếp tục sống xa hoa trong cung điện Versailles và không quan tâm tới các vấn
đề hệ trọng của đất nƣớc. Nền quân chủ của nƣớc Pháp gặp nhiều khó khăn,
việc thu thuế cũng gặp thất bại vì việc trả thuế trực thu chứng tỏ ngƣời đóng
thuế thuộc đẳng cấp thấp kém trong xã hội. Các nhà quý tộc, giới tu sĩ, giới tƣ
sản cũng phản đối việc đóng thuế vì họ không có trách nhiệm và không có
quyền kiểm soát chính trị hay hành chính đối với xã hội mà họ đang sinh sống.
Tới thập niên 40 của thế kỷ XVIII, chính quyền Pháp còn phải chi cho
các phí tổn chiến tranh và duy trì quân đội, hải quân quốc gia. Nƣớc Pháp
mắc nợ 93 triệu quan tiền, tiền nợ quốc gia hàng năm tăng lên tới 300 triệu
quan tiền. Món nợ trở nên to lớn hơn do nƣớc Pháp giúp công giúp của vào
cuộc chiến tranh giành độc lập của Hoa Kỳ, đồng thời do việc miễn thuế, trốn
thuế của những ngƣời đƣợc ƣu đãi và sự phức tạp, thiếu hoàn hảo của hệ
thống thu thuế khiến cho các món tiền thu đƣợc đã không đƣợc nộp đầy đủ
vào ngân quỹ của đất nƣớc. Cho nên mặc dù nƣớc Pháp là một miền đất trù
phú nhƣng ngân quỹ của nƣớc Pháp lại trống rỗng. Chính phủ nƣớc này đã
nhìn thấy rõ việc cần phải đánh thuế vào các giai cấp đƣợc ƣu đãi. Ngay sau
đó, một loại thuế mới lại đƣợc ban hành, theo đó, mọi lợi tức từ mọi tài sản
phải chịu thuế 5%: đất đai, đầu tƣ thƣơng mại và các quyền lợi khác. Không
ai đƣợc miễn thuế cả, dù thuộc tầng lớp xã hội nào, dù trƣớc kia đã đƣợc miễn
thuế rồi, nhƣng trên thực tế, loại thuế 5% này chỉ đƣợc đánh vào đất đai.
Việc cho ra đời nhiều sắc thuế mới đánh vào công thƣơng và nông
nghiệp đƣa đến kết quả là sang thế kỷ thứ XVIII, thuế đã trở thành một vấn đề
đặc biệt nhạy cảm tại Pháp, một quốc gia tồn tại nhiều chế độ đặc quyền. Hậu


16
quả trực tiếp của biện pháp này là kìm hãm sự phát triển của sản xuất, đẩy đại
bộ phận nhân dân lâm vào tình trạng ngày càng khó khăn.
K. Marx đã nhận xét rằng kinh tế tài chính thƣơng nghiệp, công nghiệp
hay bộ mặt của lâu đài xã hội nƣớc Pháp lúc bấy giờ là một sự chế giễu đối
với tình trạng đình đốn của ngành sản xuất chủ yếu (nông nghiệp) và đối với
tình trạng nghèo đói của những ngƣời sản xuất.
Nền công nghiệp của Pháp phát triển tản mạn, chủ yếu tập trung vào
những mặt hàng cao cấp cho một số ít khách hàng. Ngƣợc lại, sản xuất hàng
hóa tiêu dùng thông thƣờng không phát triển vì số đông ngƣời dân sống trong
cảnh bần hàn, sức mua không có. Thêm vào đó là những quy định ngặt nghèo
của tổ chức phƣờng hội và những khác biệt về thuế khóa cũng nhƣ hệ thống
đo lƣờng từ vùng này sang vùng khác đã gây nhiều cản trở cho các hoạt động
trao đổi. Điều đó có nghĩa là trong suốt thế kỷ XVIII nội thƣơng không mấy
có điều kiện thuận lợi để phát triển còn ngoại thƣơng thì gắn bó rất chặt chẽ
với giao thông hàng hải, có quan hệ thƣơng mại với nhiều quốc gia châu Âu,
châu Mỹ và phƣơng Đông, thƣơng mại thuộc địa có điều kiện phát triển hơn.
Đó là do chịu ảnh hƣởng của cuộc cách mạng công nghiệp đang diễn ra rất sôi
nổi ở eo biển Manche.
Đặc biệt, nền công nghiệp Pháp bị kìm hãm bởi phƣơng thức sản xuất
phong kiến, về quy mô sản xuất và sản phẩm, về chế độ thuế khóa, Tình
trạng tự cung tự cấp do không có sức mua của ngƣời dân, sự không thống
nhất của thị trƣờng trong nƣớc góp phần hạn chế sự tăng trƣởng của công
nghiệp và thƣơng nghiệp. Vì thế, sự phát triển của ngoại thƣơng cũng chỉ có
tính tƣơng đối.
Về nông nghiệp, đây là lĩnh vực kinh tế chính của Pháp thế kỷ XVIII,
nhƣng nhìn chung vẫn mang tính lạc hậu, 22 triệu ngƣời (chiếm 90% dân số)
sống bằng nghề nông, công cụ và phƣơng thức canh tác rất lạc hậu, 1/3 đất đai


17
bị bỏ hoang, năng suất hàng năm thấp. Tình trạng sút kém đó là kết quả tất
nhiên của sự duy trì chế độ phong kiến, một chế độ ăn sâu vào nông thôn
nƣớc Pháp và ngày càng trở nên lỗi thời, phản động. Chế độ này đã đẻ ra hàng
loạt nghĩa vụ phong kiến vừa phi lý vừa bất công, hà khắc đè nặng lên ngƣời
nông dân. Đất đai trong toàn quốc thuộc về sở hữu của vua, nhà vua lấy ruộng
đất đó cấp cho quần thần và từ đó ruộng đất đƣợc chuyển lần lƣợt sang các
tay quý tộc, mỗi quý tộc đƣợc quyền sở hữu đất đai rộng lớn, có khi cả một
vùng. Còn ngƣời nông dân, về mặt pháp lý, họ đƣợc quyền tự do về thân
phận. Nhƣng thực tế, họ lại bị phụ thuộc vào các tầng lớp trên do đại bộ phận
nhân dân lại nhận từ quý tộc, chúa đất hay nhà thờ những mảnh ruộng nhỏ
theo hình thức phát canh, thu tô hoặc vĩnh điền nông nô. Dù là hình thức nào
thì sau khi thu hoạch và đóng đủ mọi thuế khóa, nông dân còn lại rất ít để duy
trì cuộc sống. Mà trong khi đó, ngƣời nông dân không có điều kiện cải tạo
phƣơng thức canh tác, một số nông dân sung túc, có diện tích đáng kể để có
thể hƣởng lợi từ nguồn thặng dƣ nông nghiệp thì lại rất ít. Sự bóc lột những
ngƣời sản xuất nhỏ nhƣ: nông dân lĩnh canh và nông dân vĩnh điền, là nguồn
sinh sống chủ yếu của quý tộc, tăng lữ và cung đình.
Khi chính sách tăng thuế đã trở nên tràn lan, chính quyền Pháp có thể
đặt ra thuế ở bất kỳ phƣơng diện nào để bù lại với những khoản nợ khổng lồ,
đã xuất hiện sự phản đối dữ dội từ các tầng lớp trong xã hội, ngay cả giới quý
tộc: Nghị viện Paris, nghị viện 11 tỉnh, từ miền Brittany và từ giáo hội. Tất cả
các tổ chức này đã mạnh hơn thời trƣớc và đều chuẩn bị tinh thần cho việc
chống lại các chính sách khắc nghiệt của triều đình lúc bấy giờ. Triều đình
Pháp rơi vào cảnh khó khăn và khốn đốn: các phí tổn vì chiến tranh, các món
nợ chồng chất, các dự án đánh thuế, sự chống đối từ các nghị viện và từ các
thành phần của dân chúng… Chính phủ Pháp đã đẩy áp lực lớn này lên những
ngƣời dân lao động, sự đàn áp, bóc lột càng tăng mạnh, cuộc sống của ngƣời

18

dân điêu đứng, khổ cực. Sự áp bức bất công đè nén trong một thời gian dài,
ngƣời lao động sống với số phận của ngƣời nô lệ, mâu thuẫn về lợi ích, về
kinh tế tạo ra mâu thuẫn về quyền lợi chính trị - xã hội của các tầng lớp, giai
cấp, đòi hỏi phải có bƣớc đột phá, chuyển biến, một cuộc cách mạng để thay
đổi chế độ lúc bấy giờ.
Tóm lại, đời sống kinh tế của nƣớc Pháp thế kỷ XVIII phản ánh sâu sắc
mâu thuẫn lợi ích giữa các giai cấp trong xã hội. Tình trạng trì trệ và thái độ
bất cần của giới lãnh đạo đất nƣớc không chỉ cản trở tầng lớp đang nổi mà
còn làm cho đại bộ phận nhân dân lao động lâm vào cảnh bần hàn và bất bình
sâu sắc. Từ đây, xuất hiện các nhà tƣ tƣởng lên tiếng phản đối chế độ chính trị
Pháp bất công, hà khắc và bênh vực, đòi lại quyền sống, quyền làm ngƣời,
quyền dân chủ cho ngƣời lao động.
1.1.2. Bối cảnh chính trị - xã hội
Vào thế kỷ XVIII, nƣớc Pháp trở thành vũ đài của cuộc đấu tranh gay
gắt giữa chủ nghĩa tƣ bản đang hình thành, phát triển và chế độ phong kiến
đang trở nên lỗi thời. Lúc này, xã hội Pháp có sự phân chia rõ ràng ba đẳng
cấp: tăng lữ, quý tộc và đẳng cấp thứ ba (tƣ sản, nông dân, bình dân thành
thị). Dù chiếm một số lƣợng nhỏ không đến 1% dân số nhƣng tầng lớp phong
kiến thống trị và giới quý tộc, tăng lữ lại nắm toàn bộ quyền lực quốc gia và
hơn một phần ba đất đai cùng với hàng triệu nông nô. Tầng lớp phong kiến đã
khiến các vùng thôn quê Pháp trở nên kiệt quệ, tiêu điều xơ xác bởi vô vàn
thứ thuế má nặng nề và chế độ lao dịch hà khắc. Toàn bộ đẳng cấp thứ ba đều
không có đặc quyền, đặc lợi gì nhƣng lại chịu áp bức bất công của chế độ
phong kiến, quan lại lúc bấy giờ.
Sự quan liêu, tham nhũng của tầng lớp quan lại là gánh nặng đối với
đời sống của nhân dân. Tầng lớp quý tộc phong kiến đã trở thành ung nhọt
sống ký sinh trên cơ thể dân tộc Pháp. Đa số những ngƣời thuộc tầng lớp

19
phong kiến đã rời bỏ các thái ấp về sống trong các thành phố, trao mọi chức

năng kinh tế cho những kẻ điều hành đƣợc thuê mƣớn. Giới quý tộc thôn quê
thì chẳng hề quan tâm đến việc tổ chức một cách hợp lý nền nông nghiệp hay
việc trang bị các công cụ lao động tốt hơn. Các bộ luật khi đó cấm đoán giới
quý tộc đƣợc tham gia các hoạt động thƣơng nghiệp và công nghiệp.
Sự tồn tại của tầng lớp quý tộc phong kiến thống trị ăn bám đƣợc đảm
bảo không chỉ bằng quyền hành và những đặc quyền đặc lợi phong kiến, mà
còn bởi những khoản tiền lớn đƣợc nhà nƣớc bao cấp. Họ còn đƣợc miễn mọi
khoản thuế. Triều đình phong kiến Pháp loại bỏ quyền bình đẳng của con
ngƣời trƣớc luật. Mọi thứ quyền và tự do về chính trị chỉ dành riêng cho tầng
lớp thống trị. Càng thua thiệt trong đời sống kinh tế, tầng lớp quý tộc phong
kiến càng cố tìm cách duy trì các quyền lực chính trị và kiên quyết chống lại
mọi tƣ tƣởng “nổi loạn” đòi bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trƣớc pháp luật.
Phong trào phản phong ngày càng lớn mạnh nhằm mục tiêu thủ tiêu
quan hệ sản xuất phong kiến và thiết lập chế độ xã hội mới tƣ bản chủ nghĩa.
Để duy trì tòa nhà cũ nát của chế độ phong kiến, chế độ quân chủ đã thẳng tay
đàn áp nhiều cuộc nổi dậy của nông dân, ra lệnh đốt các sách báo “phản
loạn”, tống giam các tác giả của chúng. Các chính sách đối nội và đối ngoại
đƣợc đƣa ra dƣới thời của vua Louis XIV, XV trên thực tế đã thúc đẩy nhanh
chóng sự suy vong của nền chuyên chế phong kiến.
Nhƣ vậy, vào thế kỷ XVIII, chế độ chuyên chế phong kiến đã trở thành
lực lƣợng phản động, kìm hãm sự phát triển và tiến bộ xã hội. Sự phát triển
của của nghĩa tƣ bản ở Pháp cũng nhƣ ở châu Âu đòi hỏi xóa bỏ lực lƣợng
này. Bối cảnh lịch sử xã hội Pháp thế kỷ XVIII là những điều kiện khách quan
cho phép giai cấp tƣ sản trở thành ngƣời lãnh đạo có khả năng tập hợp xung
quanh mình đông đảo quần chúng nông dân, công nhân, thợ thủ công trong

20
cuộc đấu tranh chống chế độ phong kiến. Giai cấp tƣ sản đã trở thành lực lƣợng
có thể đại diện cho lợi ích của những ngƣời bị áp bức bởi chế độ phong kiến.
Cuộc đấu tranh giữa những ngƣời bảo vệ và những ngƣời phản kháng

chế độ phong kiến ngày càng sâu sắc. Những chuyển biến lớn lao về chính trị
xã hội diễn ra ở Pháp đƣợc thể hiện rõ nét đặc biệt trong lĩnh vực tƣ tƣởng.
Vào những năm 40 của thế kỷ XVIII, chủ nghĩa duy vật của La Mettrie,
Diderot, Helvestius đƣợc hình thành mở đầu cho sự xuất hiện phong trào Khai
sáng Pháp. Các nhà tƣ tƣởng vĩ đại này đã dƣơng cao ngọn cờ tƣ tƣởng dân
chủ, tƣ do, bình đẳng, bác ái. “Trào lƣu này đánh dấu một bƣớc ngoặt quan
trọng trong sự phát triển tƣ tƣởng của nhân loại và thể hiện sự thắng lợi của
khoa học, của lý tính và của chủ nghĩa duy vật trƣớc thế giới quan duy tâm,
phi khoa học và tôn giáo thần bí chống lại chế độ quân chủ chuyên chế đang
suy đồi” [43, tr.3-4].
Đứng trƣớc hoàn cảnh đó, yêu cầu cấp thiết là phải xây dựng một chế
độ xã hội bảo vệ quyền lợi cho con ngƣời, đấu tranh chống lại chế độ chuyên
chế phong kiến. Có thể nói chính thực tiễn xã hội nƣớc Pháp trƣớc cách mạng
đã trở thành nền tảng, là bà đỡ cho tƣ tƣởng triết học của Rousseau. Trong đó,
tƣ tƣởng nổi bật trong toàn bộ học thuyết chính trị - xã hội của triết gia này là
tƣ tƣởng dân chủ. Tƣ tƣởng này đã trở thành một trong những nguồn gốc tƣ
tƣởng của cuộc cách mạng tƣ sản chuẩn bị diễn ra sau đó không lâu.
1.2. Tiền đề lý luận cho sự ra đời tƣ tƣởng dân chủ của J. J. Rousseau
1.2.1. Tư tưởng dân chủ trước J. J. Rousseau
Tƣ tƣởng dân chủ đƣợc hình thành rất sớm từ thời Hy Lap - La Mã cổ
đại. Ngƣời khởi xƣớng đầu tiên cho nguyên lý dân chủ là Solon. Ông chủ
trƣơng giải phóng nô lệ, quy định mức ruộng đất tối đa mà quý tộc có quyền
có, ấn định nghĩa vụ và quyền lợi công dân theo mức tài sản. Cải cách kinh tế
của Solon tập trung vào việc ban hành sắc lệnh thừa nhận quyền tƣ hữu tài

21
sản, quyền chuyển nhƣợng tài sản, thực hiện cải cách về tiền tệ, và chủ trƣơng
phát triển xuất nhập khẩu. Mục đích là góp phần giải phóng một số lƣợng
đông nông dân, trở thành lực lƣợng hậu thuẫn cho cuộc cải cách, góp phần
nâng cao địa vị kinh tế của quý tộc chủ nô mới, kích thích công thƣơng

nghiệp phát triển.
Tiếp đến là Cleisthen, ông quan niệm: quyền của nhân dân biểu hiện
qua việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân có nhiệm kỳ tuỳ theo tỷ lệ số
dân. Ông cũng đặt ra Luật bỏ phiếu bằng vỏ sò: Trong phiên họp đầu tiên của
Hội nghị công dân, yêu cầu tất cả công dân Athena có đủ điều kiện tham gia.
Trong vỏ sò ghi tên kẻ chống phá nền dân chủ, nếu có 6000 vỏ sò thì kẻ đó bị
kết tội là chống đối lại nền dân chủ và bị trục xuất khỏi Athena trong thời gian
là 10 năm. Tƣ tƣởng mang tinh thần dân chủ, tiến bộ của ông đã góp phần đƣa
đến sự ra đời của chính thể cộng hoà dân chủ chủ nô. Trong chính thể này,
quý tộc chủ nô mới nắm giữ hầu hết các vị trí quan trọng, công dân tự do
đƣợc tham gia chính trị môt cách rộng rãi, cuộc cải cách này tạo điều kiện cho
sự lớn mạnh của nhà nƣớc Athena.
Tƣ tƣởng dân chủ của ông còn đƣợc thể hiện qua một số chủ trƣơng
nhƣ: quyền ngƣời dân làm chủ đất nƣớc; thể chế hoá tƣ tƣởng dân chủ, vấn đề
vai trò, trách nhiệm nhà nƣớc đối với nhân dân Ông cũng là ngƣời khởi
xƣớng ra cuộc cải cách của Cleisthen.
Pericles tiếp tục phát triển đƣờng lối dân chủ của Cleisthen, đề cao bình
đẳng, dân quyền, dân sinh, hoàn thiện chế độ bầu cử để bảo vệ quyền lợi dân
nghèo. Ông đã hiện thực hoá tƣ tƣởng của mình bằng cuộc Cải cách của
Pericles. Các cuộc cải cách này đã hình thành nên Nhà nƣớc Athena, đƣợc
đánh giá là hình thức dân chủ sơ khai nhất trong lịch sử từ khi có nhà nƣớc và
pháp luật. Tính chất dân chủ của nó đặt cơ sở cho nền văn minh Hy Lạp – La
Mã cổ đại và cho toàn bộ nền văn minh Châu Âu thời kỳ cận hiện đại sau này.

22
Đến thời kỳ cận đại, vào thế kỷ XVI, ở Đức xảy ra cuộc chiến tranh
nông dân, Thomas Munzer (1489 - 1525) là một trong những nhà chủ nghĩa
xã hội không tƣởng đầu tiên và là lãnh tụ của phong trào này. Ông đã đấu
tranh chống lại hệ tƣ tƣởng phong kiến cũng nhƣ cuộc Cải cách tôn giáo của
thị dân. Munzer đòi hỏi phải thiết lập tình hữu ái chung và sự bình đẳng

không chỉ trong lĩnh vực tôn giáo mà còn cả trong đời sống chính trị, xã hội.
Các quan điểm tôn giáo của ông gần với thuyết vô thần, còn cƣơng lĩnh
chính trị lại gần với chủ nghĩa cộng sản. Ông cho rằng khái niệm “thiên
quốc” chẳng qua chỉ là một chế độ chính trị xã hội, trong đó không có tài sản
tƣ hữu, không còn những sự khác biệt giai cấp và chính quyền nhà nƣớc tách
biệt, xa lạ với nhân dân.
F. Engel nhận xét rằng: “chỉ ở Munzer, những tƣ tƣởng cộng sản mới
lần đầu trở thành biểu hiện của những khát vọng của một bộ phận hiện thực
trong xã hội, chỉ ở ông, lần đầu tiên chúng mới đƣợc diễn đạt rõ rệt tới một
mức độ nhất định và bắt đầu từ ông ta chúng ta lại thấy chúng trong mỗi cuộc
nổi dậy lớn của nhân dân, cho đến lúc chúng dần dần hòa làm một với phong
trào vô sản hiện đại, cũng giống nhƣ trong thời trung cổ, cuộc đấu tranh của
nông dân tự do chống sự thống trị phong kiến đang ngày càng ràng buộc họ,
hòa làm một với những cuộc đấu tranh của nông nô và nông dân phụ thuộc để
thủ tiêu hoàn toàn ách thống trị phong kiến” [32, tr.211]. Nhƣ vậy, Engel đã
thấy đƣợc sự riêng biệt, tiến bộ trong tƣ tƣởng dân chủ của Munzer. Dù không
trực tiếp nói đến nhƣng về bản chất, Munzer đang hƣớng cho chế độ nhà nƣớc
mình theo tƣ tƣởng dân chủ hóa. Với một nghĩa nào đó, ông là một trong
những ngƣời mở đƣờng cho tƣ tƣởng dân chủ thời kỳ cận đại.
Tiếp sau Munzer là Jean Calvin (1509 – 1564), một nhà cải cách ở
Thụy Sỹ. Là ngƣời theo đạo Tin lành, Calvin thừa nhận mọi hình thức nhà
nƣớc vì theo ông, dù là hình thức nào chăng nữa thì cũng đều do Chúa sắp

23
đặt. Nhƣng ông chống lại nền bạo chính, chấp nhận khởi nghĩa của thần dân
chống lại những tên bạo chúa. Có thể thấy ở ông khuynh hƣớng chấp nhận
chế độ cộng hòa hơn.
Tƣ tƣởng của ông cho rằng giáo hội đƣợc thiết lập phải hoàn toàn có
tính chất dân chủ và cộng hòa; sau đó đã đƣợc áp dụng vào thiết chế nhà nƣớc
và là cơ sở của sự phát triển các cƣơng lĩnh cộng hòa, thậm chí cả cƣơng lĩnh

dân chủ sau này. Từ đây, chủ nghĩa Calvin đƣợc truyền bá rộng rãi khắp nƣớc
Anh và ảnh hƣởng sang những quốc gia khác.
Tại Pháp, khoảng giữa thế kỷ thứ XVI đã nổi lên tên tuổi của một sứ
giả của “tự do” và “bình đẳng” với những bản luận văn đƣợc viết trƣớc
ngƣỡng cửa của cuộc chiến tranh tôn giáo ở Pháp: “Etienne de la Boetie”,
“Luận về chế độ nô lệ tự nguyện”. Đó là những tác phẩm của Etienne de la
Boetie (1530 – 1563). Những tác phẩm này của Boetie không chỉ là sự phản
kháng cuồng nhiệt chống lại nền bạo chính mà còn là sự ca ngợi tự do tự
nhiên của con ngƣời. Trong phần đầu của bản luận văn, ngƣời viết không có ý
định bàn luận xem hình thức nhà nƣớc nào tốt nhất. Chỉ có một điều rõ ràng
là: hình thức nhà nƣớc quân chủ, hình thức nhà nƣớc kế vị đầu phiếu hay
chiếm đoạt hoàn toàn không thích hợp. Boetie không chỉ đơn thuần chống lại
chế độ chuyên chế mà còn chống lại nguyên tắc quân chủ nói chung. Theo
ông, đây là chế độ phản xã hội.
Boetie cho rằng: về mặt tự nhiên, con ngƣời đƣợc tự do. Tƣ tƣởng tự
do trƣớc hết là tự do chính trị, là tƣ tƣởng trung tâm trong tác phẩm. Sự ca
ngợi tự do chiếm nhiều chỗ trong đó. Tự do, bình đẳng, đó là trạng thái tự
nhiên của con ngƣời. Đây là hai nguyên tắc chính trị đƣợc Boetie đem đối
lập với chế độ quân chủ chuyên chế.
Con ngƣời đã bị mất tự do và bình đẳng nhƣ thế nào? Boetie cho rằng
nguyên nhân có thể do bị ép buộc hoặc bị lừa bịp. Dần dần con ngƣời quen

24
dần với hoàn cảnh của mình và thôi không đấu tranh để tự giải phóng mình
nữa. Ngoài ra, những tên bạo chúa tìm mọi cách làm tha hóa quần chúng để
họ lãng quên cuộc đấu tranh giành tự do cho mình.
Theo Boetie, con ngƣời vốn sinh ra không chỉ có tính tự do mà còn có
khuynh hƣớng bảo vệ nó. Ông hi vọng đặc biệt vào sự tăng cƣờng giáo dục,
vào sức mạnh của lý trí, đó là điều làm khơi dậy khát vọng tự do trong tim
mỗi con ngƣời. Thật đúng đắn khi mệnh danh cho Boetie là một trong những

sứ giả của “tự do” và “bình đẳng”. Các quyền ấy cũng là ngọn cờ của cuộc
cách mạng tƣ sản Pháp sau này. Thông qua tƣ tƣởng về “tự do” và “bình
đẳng”, Boetie đƣa ra tƣ tƣởng về một chế độ nhà nƣớc dân chủ, bảo vệ các
quyền của con ngƣời.
Cuối thế kỷ XVI – XVII, cùng với những tƣ tƣởng chính trị tán dƣơng
và biện luận cho chế độ tƣ sản đang nảy sinh, đã xuất hiện những học thuyết
chính trị bác bỏ chế độ này. Đó là học thuyết chủ nghĩa xã hội không tƣởng
do các nhà tƣ tƣởng tiến bộ thời đó là Thomas More (1478 - 1535) và
Tommado Campanella (1568 - 1639) đƣa ra, những ngƣời có tƣ tƣởng gần
giống nhƣ Munzer khi thể hiện quyền lợi của quần chúng nhân dân bị áp bức.
Mục đích của các học giả xã hội không tƣởng là xây dựng nhà nƣớc không
còn tƣ hữu áp bức, ngƣời bóc lột ngƣời. Hệ tƣ tƣởng chính trị của học thuyết
này thể hiện quyền lợi của các phần tử vô sản đang nảy sinh. Ngay từ khi mới
xuất hiện, nó đã đối lập với học thuyết chính trị của các nhà tƣ tƣởng của giai
cấp bóc lột, trong đó có cả giai cấp tƣ sản.
More và Campanella hiểu rằng bản chất áp bức, bóc lột của nhà nƣớc
thƣờng gắn liền với sự tồn tại của sở hữu tƣ nhân. Chính điều đó buộc họ
phải tìm kiếm một lý tƣởng chính trị đƣợc thực hiện trong xã hội, nơi sở hữu
tƣ nhân bị thủ tiêu. Hai ông đã tìm thấy mô hình nhà nƣớc cho mình, đó là:
xã hội chủ nghĩa và gắn nó với việc tổ chức nền dân chủ. Ở đó, có sự tham

25
gia đông đảo của quần chúng lao động vào việc quản lý các công việc của
nhà nƣớc. Những vấn đề về quyền dân chủ thực sự, quyền tự do cá nhân,
giải phóng khỏi sự bóc lột, đó là tất cả những nét đặc trƣng cho các cƣơng
lĩnh chính trị của các nhà lý luận lớn đầu tiên thuộc trƣờng phái chủ nghĩa xã
hội không tƣởng.
Thể chế chính trị đƣợc More cho là lý tƣởng dựa trên sự tự do và bình
đẳng cho con ngƣời (giống với tƣ tƣởng của Boetie). Lý tƣởng chính trị của
ông thấm nhuần chủ nghĩa dân chủ. Tất cả những nhân vật quan trọng về chức

vụ đều do nhân dân bầu ra, phải báo cáo trƣớc dân và hoạt động vì lợi ích của
nhân dân. Đứng đầu nhà nƣớc là một ngƣời đƣợc bầu ra gọi là quốc vƣơng
mà thực chất là tổng thống.
Lý tƣởng xã hội chủ nghĩa của ông đã phản ánh một cách khách quan
quyền lợi, mơ ƣớc muôn đời của nhân dân lao động về một chế độ chính trị xã
hội mà ở đó không có áp bức bóc lột ngƣời. Tuy thế, toàn bộ học thuyết của
More là không tƣởng bởi điều kiện vật chất của xã hội lúc bấy giờ chƣa có.
Các ông cũng chƣa đề cập tới những tiền đề vật chất thiết yếu để xây dựng
một chế độ xã hội mới, đảm bảo đƣợc quyền tự do, dân chủ cho con ngƣời.
Bƣớc sang thế kỷ XVII – XVIII, xuất hiện các nhà tƣ tƣởng lên tiếng
mạnh mẽ về vấn đề quyền con ngƣời, yêu cầu sự tự do và bình đẳng trong xã
hội, từ đó, yêu cầu phải thiết lập một nhà nƣớc chân chính đảm bảo các quyền
cơ bản đó, nhƣ: John Locke (1632 - 1704), Voltaire (1694 - 1778), John
Lilburne (1614 - 1657), Montesquieu (1689 - 1755), Denis Diderot (1713 -
1784). Các nhà tƣ tƣởng này đã giành một sự quan tâm đặc biệt cho học
thuyết chính trị - xã hội, phản ánh nhu cầu của một xã hội đang đi vào kỷ
nguyên phát triển mới.
John Locke là một trong những nhà triết học chính trị lớn đã đặt nền
móng cho quan niệm về nhà nƣớc pháp quyền dựa trên nền tảng của xã hội

26
dân sự. Tƣ tƣởng đƣợc coi là xuất phát điểm trong hệ thống triết học chính trị
của Locke đó là: con ngƣời có đƣợc một cách tự nhiên các quyền lợi về đời
sống, tự do và tài sản. Khi ngƣời dân thiết lập ra một chính quyền, họ đã cho
những kẻ cai trị chính quyền đó các quyền lực để bảo vệ quyền lợi của họ.
Chính quyền phải giống nhƣ một thứ “khế ƣớc xã hội”. Khi nó không bảo vệ
đƣợc các quyền lợi của ngƣời dân thì theo ông, ngƣời dân có thể lập nên một
loại chính quyền mới. Tƣ tƣởng này đƣợc thể hiện sâu sắc trong tác phẩm
“Khảo luận thứ hai về chính quyền - chính quyền dân sự” (1689). Một mặt ông
phê phán quan niệm về nguồn gốc thánh thần của nhà nƣớc, mặt khác ông đã

đƣa ra quan niệm về trạng thái tự nhiên, về quyền tự nhiên của con ngƣời, về
khế ƣớc xã hội, quyền lực tối cao, phân chia quyền lực, chính phủ hợp hiến có
thể đảm bảo quyền tự do và quyền bình đẳng cho tất cả mọi công dân.
Theo Locke, mục đích và nhiệm vụ của một chính quyền dân sự chân
chính là đảm bảo “quyền sống, quyền tự do, sức khỏe và sở hữu của thần dân,
là truy tố và trừng phạt những ngƣời xâm phạm vào quyền của ngƣời khác”
[31, tr.17]. Một chính phủ không thể thực hiện nhiệm vụ trên, hơn nữa lại
xâm phạm một cách có hệ thống các quyền tự nhiên của thần dân, theo Locke,
đó là một chính phủ bất chính. Trong trƣờng hợp này, Locke cho rằng, “nhân
dân có quyền hành động với tƣ cách quyền lực tối cao và tự mình tiếp tục
công việc lập pháp hoặc dựng lên một hình thức chính quyền mới, hoặc vẫn
theo hình thức cũ đó nhƣng đƣợc đặt vào tay những con ngƣời mới, theo
những gì họ cho là tốt đẹp” [31, tr.314].
Các quan niệm về quyền tự nhiên của con ngƣời, khế ƣớc xã hội, về
mục đích, nhiệm vụ của nhà nƣớc đã đƣợc Rousseau kế thừa và phát triển
trong quan niệm triết học chính trị và tƣ tƣởng dân chủ của ông. Những quan
niệm đó đƣợc Rousseau thể hiện rõ trong tác phẩm nổi tiếng của mình: “Bàn
về khế ước xã hội”.

27
Nhƣ vậy, thuật ngữ “dân chủ” ra đời cách đây khá sớm, vào khoảng thế
kỷ thứ VII - VI trƣớc công nguyên. Ngƣời đầu tiên đặt nền móng cho nguyên
lý dân chủ là Solon. Ông mong muốn xây dựng một nhà nƣớc trên cơ sở nền
dân chủ thông qua tổng tuyển cử và hòa nhập sức mạnh với pháp luật.
“Dân chủ” trong tiếng Hy Lạp cổ là một từ ghép đƣợc tạo nên bởi hai
từ gốc: demos (nhân dân) và kratos (quyền lực). Dân chủ là một hình thức tổ
chức thiết chế chính trị của xã hội, trong đó thừa nhận nhân dân là nguồn
gốc của quyền lực, thông qua một hệ thống bầu cử tự do. Nhƣ vậy, hiểu đầy
đủ: dân chủ (hay demoskratos) chính là quyền lực của nhân dân, hoặc nhân
dân cai trị. Sau này, nó đƣợc hiểu trong ý nghĩa sau: “tất cả quyền lực thuộc

về nhân dân”.
Theo cuốn “Từ điển triết học”: “Dân chủ là một trong những hình thức
chính quyền mà điều đặc trƣng là việc tuyên bố chính thức nguyên tắc thiểu số
phục tùng đa số và thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của công dân” [63, tr.118].
Về bản chất, dân chủ là sự xác lập những quyền cơ bản của công dân.
Đó là phƣơng thức để các công dân có những quyền cấu trúc nên đời sống cá
nhân và đời sống chính trị của mình. Từ đó cộng đồng các cá nhân cấu tạo
nên quyền lực chính trị của mình. Hay có thể thấy các yếu tố ảnh hƣởng trực
tiếp đến sự ra đời của thuật ngữ dân chủ, từ góc độ lịch sử tƣ tƣởng chính trị
cũng nhƣ lịch sử của xã hội loài ngƣời, đó là: nhân dân, quyền lực công cộng
và mối quan hệ giữa chúng. Thực chất của việc tìm hiểu vấn đề dân chủ chính
là việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa cộng đồng dân cƣ và nhà nƣớc.
1.2.2. Tư tưởng dân chủ của phong trào Khai sáng
Tƣ tƣởng dân chủ của Rousseau không chỉ kế thừa quan niệm của các
nhà tƣ tƣởng trong lịch sử mà nó ra đời và tiếp tục phát triển tƣ tƣởng của
chính trào lƣu Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII.

×