Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Vận dụng tư tưởng dân chủ của hồ chí minh để phát huy dân chủ ở huyện buôn đôn, tỉnh đắk lắk giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.1 KB, 60 trang )

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô trong Khoa lý
luận chính trị, đặc biệt là các thầy cô trong chuyên ngành Tư tưởng Hồ Chí
Minh, quý thầy cô giáo đã tạo điều kiện thuận lợi và đóng góp nhiều ý kiến
quý báu cho tôi trong suốt quá trình thực hiện khóa luận.
Để có thể hoàn thành chuyên đề này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc đến cô Trần Minh Tâm - người đã nhiệt tình và tận tâm hướng dẫn cũng
như giúp đỡ tôi rất nhiều ngay từ ngày đầu tiên cho đến khi hoàn thành khóa
luận.
Tôi xin cảm ơn Đảng ủy, Uỷ ban nhân dân huyện Buôn Đôn, các ban
ngành đoàn thể của huyện đã tạo điều kiện để tôi hoàn thành khóa luận này.
Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và
tập thể Lớp Giáo dục chính trị k11 đã động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình
thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
Dù có rất nhiều cố gắng tuy nhiên khóa luân này không tránh khỏi
những thiếu sót. Rất mong sự đóng góp từ quý thầy cô và người đọc để khóa
luận được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Đắk Lắk, ngày tháng năm 2015
SINH VIÊN
HOÀNG THỊ ĐẸP
i
MỤC LỤC
ii
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam,
một nhà chính trị lỗi lạc, anh hùng giải phóng dân tộc, một danh nhân văn hóa
lớn của thế giới. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá, trường tồn
của dân tộc ta. Suốt cuộc đời mình người luôn đấu tranh cho nhân dân Việt
Nam có được một cuộc sống độc lập dân chủ và giàu mạnh. Trong đó vấn đề


dân chủ là một trong những vấn đề có giá trị rất quan trọng cả về mặt lí luận
và thực tiễn. Người cho rằng: “Dân chủ là quý báu nhất”, “thực hành dân chủ
là chìa khóa vạn năng để có thể giải quyết mọi khó khăn” .
Dân chủ là hiện tượng lịch sử, là mục tiêu gắn liền với sự tồn tại và
phát triển của xã hội loài người. Dân chủ là bản chất của chủ nghĩa xã hội, có
tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của xã hội, đặc biệt là trong giai đoạn xây
dựng nền tảng chính trị, quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Xây dựng được một xã
hội dân chủ và nêu cao khẩu hiệu dân chủ giúp giữ được ổn định chính trị
phát triển đời sông kinh tế của đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng khẳng định: Dân chủ
xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước
và nhân dân. Phát huy dân chủ và thực hiện dân chủ không chỉ là cơ sở quan
trọng để đảm bảo xây dựng chính trị vững mạnh, mà còn khơi dậy sức mạnh
tiềm tàng của quần chúng lao động, phát huy cao độ mọi tiềm năng, trí tuệ của
toàn thể nhân dân trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Chúng ta đang tiến hành xây dựng và từng bước hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, chủ động tích cực và hội nhập kinh tế quốc tế, đời
sống mọi mặt của nhân dân được nâng lên. Trong đó, việc nghiên cứu thấu
đáo tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân chủ và thực hiện dân chủ ở từng địa
phương ngày càng có vai trò to lớn và có ý nghĩa hết sức quan trọng.
1
Tại huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk, việc triển khai, thực hiện dân chủ
tại huyện đã được thực hiện tương đối tốt, quyền làm chủ của nhân dân được
tôn trọng và phát huy. Tuy nhiên, việc thực hiện dân chủ tại huyện còn nhiều
mặt hạn chế. Trên một số lĩnh vực, quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi
phạm, tình trạng quan liêu, không thực sự tôn trọng dân chủ còn tồn tại trong
một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức… Vì vậy việc chủ động phát huy
những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực trong quá trình thực hiện

dân chủ là một việc làm cần thiết của toàn Đảng, toàn dân trong cả nước nói
chung và ở huyện Buôn Đôn nói riêng.
Xuất phát từ tình hình đó, tôi chọn đề tài “Vận dụng tư tưởng dân
chủ của Hồ Chí Minh để phát huy dân chủ ở huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk
Lắk giai đoạn hiện nay” làm khóa luận tốt nghiệp.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Trình bày một cách có hệ thống những quan điểm cơ bản về tư
tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh.
- Phân tích đánh giá thực trạng tình hình thực hiện dân chủ ở
huyện trong giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả
trong việc thực hiện công tác dân chủ ở huyện Buôn Đôn hiện nay.
2
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Vấn đề dân chủ và thực hiện dân chủ là vấn đề ngày càng có vai trò và
ý nghĩa vô cùng to lớn trong đời sống xã hội. Liên quan đến đề tài này đã có
rất nhiều nhà nghiên cứu, học giả nghiên cứu, nhiều bài viết được in trên các
báo, tạp chí như:
GS. TS. Hoàng Chí Bảo (2010). Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông
thôn trong tiến trình đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Công trình này
tác giả đã nêu bật tầm quan trọng của dân chủ và dân chủ ở cơ sở, đặc biệt là
dân chủ cơ sở ở nông thôn nước ta hiện nay; Những hạn chế yếu kém trong
quá trình thực hiện dân chủ; Giải pháp khắc phục góp phần thực hiện ngày
càng có hiệu quả cao hơn việc phát huy dân chủ trong thời kỳ đổi mới đất
nước.
TS. Phạm Hồng Chương (2004). Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ,
Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. Công trình này đã trình bày cơ sở hình thành,
phát triển và những nội dung cơ bản trong tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh
cũng như những yêu cầu, điều kiện để đưa tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh
vào các lĩnh vực đời sống xã hội.

PGS. TS. Vũ Hoàng Công (2009). Xây dựng và phát triển nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa trong điều kiện kinh tế thị trường, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội. Công trình này tác giả đã nghiên cứu lí luận và thực tiễn dân chủ trên
thế giới và Việt Nam; Giải pháp xây dựng và phát triển nền dân chủ trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa…
TS. Đỗ Trung Hiếu (2004). Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở
Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Công trình này tác giả trình
bày các quan điểm khác nhau về dân chủ, trong đó có quan điểm của chủ nghĩa
Mác, mối quan hệ giữa dân chủ và nhà nước, quan hệ giữa hội nhập quốc tế và
vai trò của nhà nước đối với việc xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam…
3
GS. TS. Phạm Ngọc Quang (2001). “Một nền hành chính nhà nước dân
chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại - điều cần thiết của chúng ta”,
Tạp chí lịch sử Đảng, (7[128]). Tr 3- 9.
Ngoài ra còn có nhiều công trình nghiên cứu trên các tạp chí khoa học
khác.
Những công trình kể trên đều tập trung nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân chủ nói chung, trong phạm vi rộng, các đề tài nghiên cứu ở tầm
vĩ mô, không đi vào nghiên cứu ở một địa bàn cụ thể. Tuy nhiên, những kết
quả nghiên cứu đó là cơ sở lí luận, nguồn tư liệu giúp tôi tham khảo, kế thừa
trong quá trình nghiên cứu, hoàn thành khóa luận của mình.
4
3. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh và sự vận dụng tư
tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh để phát huy dân chủ ở huyện Buôn Đôn, tỉnh
Đắk Lắk.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Vấn đề dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Việc triển khai thực hiện dân chủ ở huyện Buôn Đôn giai đoạn 2010 - 2014.

3.3. Nội dung nghiên cứu
- Trình bày và phân tích những quan điểm cơ bản về tư tưởng dân chủ
của Hồ Chí Minh. Phân tích những tài liệu, bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh
về dân chủ.
- Tìm hiểu, phân tích tình hình thực hiện dân chủ tại huyện Buôn Đôn
hiện nay.
- Đề ra một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả trong việc
thực hiện dân chủ tại huyện Buôn Đôn giai đoạn 2015 - 2020.
3.4. Phương pháp nghiên cứu
Để đề tài đạt được kết quả như trên, khóa luận của tôi chủ yếu dựa trên
phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử. Đây là cơ sở phương pháp luận khoa học để nghiên cứu học tập và
vận dụng phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ.
Ngoài ra, tôi còn sử dụng thêm một số phương pháp cụ thể sau:
- Phương pháp lịch sử - lôgíc:
Để có cái nhìn tổng quan về tình hình dân chủ của huyện Buôn Đôn tôi
đã sử dụng phương pháp lịch sử - lôgíc, từ đó khái quát lên việc thực hiện dân
chủ của huyện Buôn Đôn hiện nay.
- Phương pháp khảo sát thực tế:
5
Để có được đánh giá sát về việc thực hiện dân chủ tại địa phương, tôi
đã tiến hành về trực tiếp tại huyện Buôn Đôn để quan sát thực tế địa phương
và tiến hành khảo sát một số nội dung liên quan đến đề tài.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp:
Khi đã có kết quả nghiên cứu thực tế việc sử dụng phương pháp phân
tích và tổng hợp để đưa ra đánh giá về việc thực hiện dân chủ ở huyện Buôn
Đôn hiện nay.
- Phương pháp so sánh - đối chiếu:
Để có kết quả nghiên cứu tôi đã sử dụng phương pháp so sánh - đối
chiếu kết quả nghiên cứu với những công trình nghiên cứu nói chung và đưa

ra kết luận cho quá trình nghiên cứu.
6
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1
NỘI DUNG CƠ BẢN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
DÂN CHỦ
1.1. Nguồn gốc tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh
1.1.1. Những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc
Đó là chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhân văn Việt Nam với những giá
trị về dân chủ của cha ông ta nhằm cố kết cộng đồng, đoàn kết dân tộc trong
tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước, trong lao động sản xuất, sáng tạo,
bảo tồn và phát triển dân tộc.
Về mặt kinh tế: do đặc điểm kinh tế của sự tồn tại quan hệ cộng đồng
công xã, ở Việt Nam đã hình thành và lưu truyền một loạt các phong tục tập
quán gọi chung là lệ làng ít nhiều phản ánh tính chất dân chủ công xã. Đó là
sự bình đẳng giữa các thành viên trong việc chia ruộng đất công, trong sinh
hoạt cộng đồng, bình đẳng trong việc thảo luận, bàn bạc xây dựng hương ước
và bầu chọn những người đại diện cho họ để quản lý việc làng cũng như việc
phán xét các vi phạm lệ làng. Tính chất dân chủ còn biểu hiện trong sự tôn
trọng người già không phân biệt đẳng cấp và vai trò của người mẹ trong cuộc
sống gia đình.
Về mặt xã hội: những cuộc đấu tranh của nông dân vào thời kỳ Lý,
Trần với những tư tưởng đòi bình đẳng xã hội, điển hình là cuộc khởi nghĩa
của Lê Văn (cuối thế kỷ XII); khởi nghĩa của Ngô Bệ (thế kỷ XIV) với khẩu
hiệu chẩn cứu nghèo. Đến giai đoạn cuối của chế độ phong kiến, trong các
cuộc chiến tranh nông dân thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, tư tưởng
7
dân chủ nông dân đã phát triển lên một trình độ mới với khẩu hiệu lấy nhà
giàu chia cho người nghèo phản ánh yêu cầu bình đẳng về tài sản và tâm lý
bình quân chủ nghĩa của những người sản xuất tiểu nông Việt Nam trong điều

kiện kinh tế hàng hóa đã xuất hiện.
Về mặt chính trị tư tưởng: dân chủ cao nhất của nông dân là bạo động
chống lại chế độ chuyên chế, lật đổ bạo chúa tham quan, cường hào với ước
mơ một xã hội công bằng có vua sáng tôi hiền. Và nó chỉ dừng lại ở yêu cầu
bình đẳng xã hội, bình đẳng về tài sản mà mức độ phát triển cao nhất là chủ
nghĩa bình quân về kinh tế - xã hội và tư tưởng bạo động về chính trị.
Trần Quốc Tuấn đã từng tổng kết thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
quân Nguyên là do vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước chung sức.
Nguyễn trãi đã ví dân như nước, nước có thể chở thuyền và lật thuyền. Chính
vì thế các vương triều tiến bộ phải lo giữ lòng dân và phải áp dụng một số
hình thức dân chủ với nhân dân, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc.
Dân chủ trong truyền thống văn hóa Việt Nam với các giá trị của nó, dù
còn giản đơn, chưa trở thành một học thuyết, nhưng cũng chính là một cơ sở
văn hóa vững chắc, thuận lợi để Hồ Chí Minh có thể so sánh, chọn lọc, tiếp
thu những giá trị dân chủ của nhân loại và chủ nghĩa Mác - Lênin.
1.1.2. Tinh hoa văn hóa của nhân loại
Thứ nhất, nó được thể hiện ở sự tác động của các giá trị có ý nghĩ dân
chủ của phương đông
Trước hết là về nho giáo, Hồ Chí Minh phê phán những yếu tố lạc hậu,
khai thác lựa chọn những triết lý về sức mạnh của nhân dân, gần dân, thân
dân, những ước vọng về một xã hội bình trị, an ninh, hòa mục, một thế giới
đại đồng, bình đẳng về tài sản.
Trong bài báo phong trào cộng sản quốc tế viết năm 1924. Hồ Chí
Minh đã phân tích các vấn đề kinh tế như chế độ ruộng đất, chế độ lao động
của Trung Hoa cổ và tóm tắt tư tưởng tiến bộ của các nhà tư tưởng phương
Đông: “Khổng Tử khởi xướng thuyết đại đồng và truyền bá sự bình đẳng về
tài sản. Ông từng nói: thiên hạ sẽ thái bình khi thế giới đại đồng. Người ta
8
không sợ thiếu, chỉ sợ không có đều. Bình đẳng sẽ xóa bỏ nghèo nàn… Việc
thủ tiêu bất bình đẳng về hưởng thụ, hạnh phúc không phải cho một số đông

mà cho tất cả mọi người, đấy là đường lối kinh tế của các vị hiền triết” [13,
tr.35]. Điều này cho thấy, Hồ Chí Minh không chỉ học Nho học mà còn hiểu
biết rất sâu sắc về lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa của phương Đông, nhất
là của Trung Quốc cổ đại.
Hai là, những triết lý của Phật giáo đã được Việt Nam hóa với chủ
trương tham gia tích cực vào đời sống của dân tộc, trở nên rất gắn bó với dân,
với đất nước đã ảnh hưởng mạnh đến tư tưởng Hồ Chí Minh. Phật giáo có tư
tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn, thương người như thể thương
thân; là nếp sống có đạo đức, trong sáng, giản dị, chăm lo làm điều thiện; là
đề cao tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất phác chống lại mọi phân
biệt đẳng cấp. Là Phật giáo thiền tông coi trọng lao động, chống lười biếng.
Ba là, ảnh hưởng của Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn với chủ
trương dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc. Hồ Chí Minh đã
không ngần ngại khẳng định chủ nghĩa Tôn trung Sơn có những chính sách
thích hợp với điều kiện nước ta. Tiêu chí Độc lập - Tự do - Hạnh phúc của
nước Việt Nam mới do người nêu lên là sự gặp gỡ với tinh thần dân chủ đó
dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, theo lập trường của giai cấp công
nhân.
Thứ hai, tiếp nhận tinh hoa văn hóa phương Tây
Tiếp nhận trực tiếp ba hình thức dân chủ tư sản hiện đại của nhân loại
từ chính quê hương của nó: Bản tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ với những
giá trị về quyền con người; nền quân chủ lập hiến ở Anh; nền dân chủ dưới
chế độ cộng hòa Pháp với Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền.
Hơn thế nữa, người đã không chỉ sống và chịu ảnh hưởng của tư tưởng
dân chủ tư sản và các hình thức tồn tại của nó mà còn thực hành dân chủ ở
chính quê hương của các hình thức này với những hoạt động chính trị sử dụng
ngay thành quả của nền dân chủ tư sản phương Tây.
9
Hiểu biết trình độ dân chủ của các nước, của nhân loại để so sánh, để
lựa chọn, để tiếp thu những giá trị dân chủ ngày càng cao hơn phù hợp với sự

tiến hóa của nhân loại là con đường hình thành tư tưởng dân chủ Hồ Chí
Minh.
1.1.3. Chủ nghĩa Mác - Lênin
Đây là cở sở lý luận chủ yếu tạo nên và hoàn thiện tư tưởng dân chủ
của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh chú ý đến giá trị dân chủ cao nhất của chủ
nghĩa Mác - Lênin là sự giải phóng của tổ quốc và cùng với sự giải phóng này
là giải phóng triệt để về con người. Với Người, không có giải phóng dân tộc
thì không thể nói tới bất kỳ một giá trị dân chủ nào cho con người, nhưng giải
phóng phải đi tới giải phóng con người một cách triệt để.
1.1.4. Phẩm chất Hồ chí Minh
Một là, về phẩm chất trí tuệ của Hồ chí Minh.
Cũng như nhiều nhà ái quốc khác, Hồ Chí Minh đi phương Tây tìm
đường cứu nước, đi tìm một mô hình phát triển mới cho dân tộc. Nhưng sự vĩ
đại và vượt trội về trí tuệ của Hồ Chí Minh so với các nhà đương thời là ở
chỗ: Cùng với sự tiếp nhận những giá trị mới của nhân loại là dân chủ, cái
mới mà Việt Nam chưa có, đồng thời Người cũng phát hiện thấy tư tưởng dân
chủ tư sản và các mô hình xã hội của nó là những cái đã trở nên già cỗi,
không còn mới đối với sự phát triển của nhân loại nữa, dù mới so với Việt
Nam lúc đó, nhưng bản chất của dân chủ tư sản không tương thích với văn
hóa truyền thống dân tộc Việt Nam. Điều đó giải thích tại sao các nhà ái quốc
trước Hồ Chí Minh đã không thấy được vấn đề đó mà tiếp thu tư tưởng dân
chủ tư sản và du nhập nó vào nước ta.
Hai là, về hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh:
Không chỉ tiếp thu một học thuyết khoa học về giải phóng dân tộc và
con người, Hồ Chí Minh còn đến nước Nga, nơi học thuyết đó đang được đưa
vào cuộc sống, để chứng kiến cuộc đấu tranh của nhân dân lao động nhằm
xây dựng chế độ dân chủ vô sản - chế độ Xô viết - một chế độ dân chủ hơn
chế độ dân chủ tư sản phương Tây. Tại đây, Hồ Chí Minh lại được chiêm
10
nghiệm từ hiện thực của một hình thức dân chủ mới nhất của nhân loại - dân

chủ vô sản - dân chủ của những người lao động.
Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp thu học thuyết khoa học cách
mạng đó, Hồ Chí Minh đã vận dụng đúng đắn và sáng tạo tư tưởng dân chủ
theo quan điểm của giai cấp công nhân mà trước hết là tiến hành lãnh đạo
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, tạo ra điều kiện căn bản nhất cho việc thiết
lập chế độ dân chủ mới ở nước ta.
Từ dân tộc và vì dân tộc ra đi, với hành trang của văn hóa truyền thống,
Hồ Chí Minh đã tiếp thu được những giá trị tinh hoa về dân chủ của nhân
loại.
Nhờ có trí tuệ và hoạt động thực tiễn mà Hồ Chí Minh so sánh lựa chọn
hình thức tổ chức xã hội mới nhất và thuận lợi với sự phát triển của thời đại
cho Việt Nam. Đây chính là những yếu tố cội nguồn căn bản nhất đảm bảo
cho sự thắng lợi của tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh.
1.2. Quan niệm Hồ Chí Minh về dân chủ
1.2.1. Dân chủ là gì?
Thứ nhất: Chủ tịch Hồ Chí Minh định nghĩa dân chủ một cách dễ hiểu:
Dân chủ nghĩa là dân là chủ.
Trong bài bài báo Dân vận (1949), Hồ Chí Minh khẳng định:
“Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân
Chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương do dân cử ra
Đoàn thể từ trung ương đến xã do dân tổ chức nên
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” [18, tr.698].
Quan niệm này của Hồ Chí Minh cho thấy nội dung của nó trước hết
thể hiện nội dung căn bản nhất của loài người về khái niệm dân chủ.
11
Theo quan niệm trên, trong quan niệm dân chủ nổi bật lên nội dung

chính trị, khi Người nhấn mạnh vấn đề nhà nước. Xem dân chủ là một hình
thái nhà nước, một thiết chế xã hội - nước ta là một nước dân chủ, Hồ Chí
Minh chỉ rõ rằng: “Ở nước ta chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm
chủ. Nhân dân bầu ra các Hội đồng nhân dân, Ủy ban kháng chiến hành chính
địa phương, và Quốc hội cùng Chính phủ Trung ương” [17, tr.218].
Trong các cuộc bầu cử, công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, không
phân biệt gái trai, tôn giáo, mức tài sản, trình độ văn hóa, không phân biệt nòi
giống đều được tham gia. Đó là một cách rất hợp lý để nhân dân lao động
thực hành quyền thống trị của mình.
Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay
mặt cho mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ” [20, tr.218 - 219].
Thứ hai: Dân chủ theo phương thức tổ chức xã hội hiện đại - (nội dung
chính trị) trong việc cử ra, tổ chức nên bộ máy nhà nước, và xem chế độ nhà
nước chỉ là một yếu tố tồn tại của nhân dân nhưng không bao trùm lên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội, chỉ là một hình thức tồn tại đặc biệt của
nhân dân.
Điều này chỉ rõ, trong khi hoàn thiện chế độ nhà nước thì đồng thời
cũng mở rộng và hoàn thiện quan hệ dân chủ trong các yếu tố của sự tồn tại
của nhân dân, mở rộng phạm vi tự quản của nhân dân, thúc đẩy sự phát triển
của nền dân chủ. Quan niệm đó nêu rõ đặc tính dân chủ phải được thấm sâu
vào tất cả các lĩnh vực quan hệ, giữa các cá nhân, cộng đồng, giữa các nhóm
và tổ chức xã hội trong hệ thống chính trị… để hướng tới một xã hội đảm bảo
được sự phát triển tự do của mỗi thành viên và là điều kiện cho sự phát triển
tự do của tất cả mọi người trong xã hội.
Trong khái niệm về dân chủ, vấn đề nhất quán và sáng tỏ nhất là sự
khẳng định ngay chế độ dân chủ của nước ta phải thể hiện “bao nhiêu lợi ích
đều vì dân”, “quyền hành”, “trách nhiệm, lực lượng” là “của dân”, “đều ở nơi
dân”. Quan niệm đó cũng chỉ ra phương thức tổ chức, vận hành của xã hội
12
dân chủ là chế độ đại diện, ủy quyền trong đó - chính quyền và đoàn thể đều

“do dân cử ra” và “do dân tổ chức nên”.
Thứ ba: Dân chủ theo nội dung là sản phẩm của nền văn minh, là sản
phẩm của quá trình đấu tranh tực giải phóng của loài người, là sản phẩm tiến
hóa của lịch sử nhân loại. Cũng như mọi hiện tượng xã hội khác, cùng với sự
phát triển của những điều kiện kinh tế, cơ cấu, giai cấp xã hội… dân chủ cũng
không ngừng biến đổi trong sự phát triển.
Trong quan niệm Hồ Chí Minh, dân chủ có trình độ và cấp độ phát
triển từ thấp đến cao, gắn chặt với sự phát triển của lịch sử loài người trên các
phương diện chính trị, kinh tế, khoa học kỹ thuật và các tiến bộ xã hội khác.
Kể cả sự thay đổi của cơ cấu giai cấp và tính chất của nền kinh tế.
Tóm lại, quan niệm tổng quát nhất mà Hồ Chí Minh đã chỉ ra: Dân chủ
là dân là chủ và nhân dân làm chủ trong đó mọi quyền hành và lực lượng đều
ở nơi dân (thuộc về nhân dân).
1.2.2. Vai trò dân chủ
1.2.2.1. Dân chủ là mục tiêu và là động lực của phát triển xã hội
Trong quan niệm về dân chủ, Hồ Chí Minh xem xét đó là một thiết chế
chính trị, là phương thức tồn tại của nhân dân, và là sản phẩm của tiến bộ xã
hội. Với tất cả những ý nghĩa đó, dân chủ có vai trò to lớn: Dân chủ vừa là
mục tiêu, vừa là động của sự phát triển xã hội.
Phát triển từ chế độ dân chủ chủ nô tới chế độ dân chủ tư sản là bước
tiến vĩ đại của các thiết chế xã hội, của những phương thức tồn tại của nhân
dân và biểu thị sự tiến bộ của xã hội loài người. Dân chủ là mục tiêu đấu tranh
của nhân loại, mà suy cho cùng đó là cuộc đấu tranh giải phóng chính bản
thân con người, cuộc đấu tranh để vươn tới một nền dân chủ mới - dân chủ xã
hội chủ nghĩa không có áp bức giai cấp, áp bức dân tộc và chiến tranh.
Hồ Chí Minh khẳng định: Nước ta là một nước dân chủ và là dân chủ
mới để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Công việc đổi mới, xây dựng, kháng chiến,
kiến quốc, tổ chức xã hội là trách nhiệm, công việc của dân, do dân và quyền
hành, lực lượng đều ở nơi dân… Thực hiện dân chủ tức là sử dụng tất cả
13

quyền hành và lực lượng to lớn của nhân dân để hoàn thành các nhiệm vụ vì
lợi ích của nhân dân.
Để phát huy đầy đủ tiềm năng của các động lực bộ phận, tạo nên sự
phát triển tổng hợp mạnh mẽ của đất nước phải giải quyết đúng đắn mối quan
hệ về lợi ích của tất cả các thành phần trong xã hội, làm cho động lực của các
bộ phận dân cư trong xã hội sắp xếp theo một hướng nhất định. Dân chủ là
giải pháp hữu hiệu để tạo nên sự nhất trí căn bản về lợi ích của các thành phần
kinh tế, các giai tầng và các cộng đồng dân tộc trong xã hội nước ta. Sự nhất
trí đó tạo thành sức mạnh tổng hợp của dân tộc, tạo nên nội lực mạnh mẽ đưa
đất nước vượt qua tất cả khó khăn, thử thách. Hồ Chí Minh viết: “Có phát huy
dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa
cách mạng tiến lên” [21, tr.593] và “Chế độ tuyển cử của chúng ta thực hiện
dân chủ đồng thời thực hiện sự đoàn kết toàn dân” [21, tr.591].
Vai trò động lực của dân chủ đã được thể hiện rất rõ rệt trong toàn bộ
tiến trình cách mạng nước ta. Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đem
lại độc lập cho Tổ quốc, đáp ứng mơ ước ngàn đời của đa số cư dân Việt
Nam, mang lại tự do và vị trí của người làm chủ cho họ đã tạo nên nguồn nội
lực cực kỳ vĩ đại cho hai cuộc kháng chiến oanh liệt.
Thành công của cuộc đổi mới ngày nay, xét tới cội nguồn, cũng được
khởi đầu bằng quá trình dân chủ hóa trong các lĩnh vực tạo nên động lực
mạnh mẽ đưa đất nước ta vượt qua thời kỳ khủng hoảng kinh tế - xã hội trong
thập kỷ 80.
Đó là một số hiện thực sinh động minh chứng về tầm quan trọng và sự
vững bền của động lực dân chủ đối với sự phát triển xã hội, đối với sự tiến
hóa cảu dân tộc ta.
Như vậy, dân chủ là mục tiêu, đồng thời là động lực của sự phát triển
xã hội.
1.2.2.2. Thực hành dân chủ là chìa khóa của sự phát triển
Xuất phát từ quan niệm về quyền hành, lực lượng cũng như lợi ích đều
thuộc về nhân dân, Hồ Chí Minh coi thực hành dân chủ là sự huy động và sử

14
dụng được tối đa quyền hạn, lực lượng của toàn dân để thực hiện những
nhiệm vụ của cách mạng vì lợi ích của nhân dân ở tất cả các thời kỳ phát
triển.
Vai trò quan trọng đó được Hồ Chí Minh thực hiện rất thành công trong
thực tiễn cách mạng nước ta. Thực hành dân chủ trong lĩnh vực chính trị bằng
cách tổ chức cho nhân dân tham gia xây dựng nhà nước dân chủ đầu tiên ở
Đông Nam Á, trong đó mỗi người dân sử dụng lá phiếu của mình như một
bảo đảm cao nhất để giữ nền độc lập dân tộc mới giành được; phát động toàn
dân tham gia thực hiện thành công các nhiệm vụ chống giặc đói, chống giặc
dốt và chống giặc ngoại xâm, đưa đất nước và chế độ mới vượt qua bước
hiểm nghèo của lịch sử.
Chính phong trào do dân thực hiện trên các lĩnh vực đã khẳng định vị
trí là chủ và làm chủ của mỗi người dân trong một quốc gia độc lập và điều đó
tạo ra sức mạnh tổng hợp vô cùng lớn lao, đưa cách mạng Viêt Nam vượt qua
thác ghềnh hiểm nguy để tiến lên.
Thực hành dân chủ đưa lại tác dụng thúc đẩy tiềm năng sáng tạo của
nhân dân và trở thành động lực của sự tiến bộ và phát triển không chỉ đối với
toàn xã hội mà đến với từng tập thể và mỗi người. Khắc phục những hạn chế
của sự vi phạm dân chủ, phát huy sáng tạo cá nhân và tập trung trí tuệ của
toàn dân.
Nhờ thực hành dân chủ mà việc thực hiện các nhiệm vụ cách mạng
được tổ chức thành các phong trào nhân dân rộng rãi, Hồ Chí Minh đã phát
huy tối đa nội lực của dân tộc để thành công trong cả quá trình vận động và
thực hiện các nhiệm vụ của cách mạng. Theo Người, “Phải thực hành dân
chủ, phải làm cho quần chúng hiểu rõ, làm cho quần chúng hăng hái tham gia
thì mới chắc chắn thành công. Quần chúng tham gia càng đông, thành công
càng đầy đủ, mau chóng” [19, tr.495].
Những vấn đề này cho thấy, quan niệm của Hồ Chí Minh về trình độ
của một nền dân chủ là thể hiện ở mức độ tham gia của nhân dân vào các hoạt

15
động của xã hội, của đất nước. Với dân chủ, nhân dân có thể thực hiện được
bất cứ nhiệm vụ nào vì sự nghiệp giải phóng của chính bản thân nhân dân.
Hồ Chí Minh tổng kết: “Thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng có
thể giải quyết mọi khó khăn” [24, tr.249].
1.2.3. Bản chất và đặc điểm
1.2.3.1. Bản chất dân chủ
Dân chủ mang tính lịch sử và tính giai cấp sâu sắc
Thứ nhất: Theo quan điểm Mácxít, khi xem xét bản chất của dân chủ
phải quán triệt việc coi dân chủ là một phạm trù chính trị và nhìn nhận nó
theo ba nguyên tắc phương pháp luận mà Lênin đã chỉ ra:
Một là: Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế: nguyên tắc này
cho thấy tính chất và trình độ của bất kỳ nền dân chủ nào cũng bị quy định
bởi tính chất và trạng thái của nền kinh tế.
Hai là: Chính trị là quan hệ giữa các giai cấp: nguyên tắc này cho thấy
chỉ có xuất hiện chế độ tư hữu thì vấn đề dân chủ mới được đạt ra và nó bị
chế định bởi tính chất của quan hệ sản xuất và trình độ phát triển khác nhau
của nền kinh tế xã hội.
Ba là: Chính trị là sự tham gia vào các công việc của nhà nước: nguyên
tắc này cho thấy thước đo trình độ dân chủ ở một chế độ xã hội là mức độ và
khả năng thu hút quần chúng vào các công việc của nhà nước và xã hội.
Theo Hồ Chí Minh: Dân chủ mới là “điều kiện để tiến đến chủ nghĩa xã
hội” [19, tr.174] và “thực hiện dân chủ mới là bước đầu tiến lên chủ nghĩa
cộng sản” [20, tr.251]. Bản chất giai cấp không chỉ thể hiện qua nội dung mục
tiêu chính trị mà còn biểu hiện ở sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công
nhân, ở cơ sở gai cấp của chế độ dân chủ là liên minh công nông và ở quyền
làm chủ của nhân dân lao động, ở việc dân chủ với nhân dân, chuyên chính
với bọn phản bội lợi ích của nhân dân và dân tộc.
16
Thứ hai: Bản chất của chế độ dân chủ thể hiện qua phương thức tổ

chức hệ thống chính trị với vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản. Hồ Chí Minh
viết: “Đảng lao động kiên quyết lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao
động. Người chỉ ra một cách rất cụ thể: “Khắp nơi có đoàn thể nhân dân, như
Hội đồng nhân dân, Mặt trận, Công đoàn, Hội nông dân cứu quốc, phụ nữ cứu
quốc… Những đoàn thể ấy là tổ chức của dân, phấn đấu cho dân, bênh vực
quyền của dân, liên lạc mật thiết nhân dân với chính phủ” [19, tr.66]. Chế độ
ta là chế độ dân chủ nhân dân, chúng ta cần mở rộng dân chủ với nhân dân,
đồng thời cần tăng cường chuyên chính với kẻ địch của nhân dân. Với ý nghĩa
đó dân chủ đi liền với kỷ cương và pháp luật.
Các quan niệm về dân chủ mới thể hiện bản chất dân chủ theo tư tưởng
Hồ Chí Minh. Nền dân chủ này được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản,
do nhân dân lao động làm chủ thông qua hệ thống chính trị với các tổ chức
rộng rãi của nhân dân. Đó thực sự là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà chúng
ta đang xây dựng.
1.1.3.2. Đặc điểm dân chủ
Trước hết, đó là dân chủ dưới sự lãnh đạo của một Đảng
Hồ Chí Minh luôn khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với
nền dân chủ ở nước ta. Người thường nói: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền”,
Đảng ra đời từ nhân dân, do nhân dân tổ chức nên, lấy sức mạnh từ nhân dân,
và phải luôn gắn bó với nhân dân. Đảng không có lợi ích nào khác là phục vụ
dân tộc, phục vụ nhân dân.
Người chỉ rõ, Đảng “phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm
cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng” [18, tr.249]. Tất cả những
mục tiêu đó được Đảng chứng minh bằng sự lãnh đạo thành công cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ, đem lại độc lập thống nhất cho Tổ quốc và lại tiếp tục
dẫn dắt dân tộc xây dựng nền dân chủ mới để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh tới việc rèn luyện nâng cao năng lực, phẩm
chất, đạo đức cách mạng của Đảng cầm quyền với yêu cầu “Phải giữ gìn
17
Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ

thật trung thành của nhân dân” [24, tr.498].
Mặt khác, Hồ Chí Minh luôn chỉ rõ phương thức lãnh đạo của Đảng là
bằng chủ trương, đường lối và thông qua tổ chức của mình trong hệ thống
chính trị để lãnh đạo, nhưng Đảng không bao biện, làm thay.
Hai là, cùng với pháp luật, đạo đức là giới hạn của dân chủ, là công cụ
kiểm tra và định hướng dân chủ
Là nhà hoạt động chính trị nhưng Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến đạo
đức, đến sự rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, cho nhân dân. Theo Hồ
Chí Minh, Độc lập của dân tộc phải gắn liền với Tự do và Hạnh phúc của
nhân dân. Độc lập gắn liền với Dân chủ. Độc lập mà dân còn đói, còn dốt thì
độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì. Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là
dân, vì dân là chủ, nhà nước dân chủ không chỉ lấy quyền lực của mình ở
nhân dân, không chỉ chịu sự kiểm tra, phê bình thường xuyên của nhân dân,
không chỉ có một hoạt động là thân dân, gần gũi dân, phục vụ dân, xuất phát
từ nguyện vọng của nhân dân mà còn phải đáp ứng được tiêu chuẩn đạo đức
trước nhân dân để có thể khai thác, phát huy được trí tuệ của nhân dân, học
được từ dân, phát hiện những sáng kiến của dân - hoàn chỉnh nó làm thành
luật để xây dựng và bảo vệ nền dân chủ.
Hồ Chí Minh nói: “Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính” và
cho rằng: “Thiếu một đức thì không thành người”. Với đức “cần, kiệm, liêm,
chính” và có “kính yêu dân” người cán bộ mới biết lắng nghe và học hỏi được
dân, biết bồi dưỡng phát huy năng lực sáng tạo và trên cở sở đó nêu cao sự
đóng góp mọi mặt của nhân dân và nâng cao dân chủ.
Với Hồ chí Minh, đạo đức và pháp luật là thống nhất, cái này là động
cơ thì cái kia là động lực. Đạo đức có trước pháp luật, đạo đức là gốc, gốc có
bền thì cây mới vững và tươi tốt. Người có đạo đức là người “hết lòng hết sức
phục vụ nhân dân”.
Quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nước lấy dân làm
gốc, dân là chủ, cán bộ là đầy tớ, cán bộ phải yêu dân, kính dân, trong dân là
18

quan điểm dân chủ đồng thời cũng là quan điểm đạo đức. Mối quan hệ giữa
dân chủ với đạo đức còn được thể hiện rất cụ thể khi Hồ Chí Minh cho rằng:
“Chống tham ô, lãng phí, quan liêu là dân chủ” [19, tr.494]. Người kiên trì
nhắc nhở việc giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên, nhất là những người
có đức có quyền. Những nguyên tắc cơ bản Người chỉ rõ cho cán bộ, những
người được dân ủy quyền, là: lời nói đi đôi với việc làm, đảng viên đi trước,
làng nước theo sau. Đó vừa là nguyên tắc đạo đức đồng thời cũng là nguyên
tắc chính trị Hồ Chí Minh.
Ba là, mỗi quan hệ biện chứng giữa dân chủ và dân tộc
Mỗi quan hệ biện chứng giữa dân chủ và dân tộc là một đặc điểm nổi
bật của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh coi
việc lấy dân chủ và thực hành dân chủ làm động lực thúc đẩy tiến trình thực
hiện giành độc lập dân tộc, biến dân chủ từ mục đích trở thành động lực giải
quyết vấn đề dân tộc.
Biểu hiện nổi bật của mối quan hệ dân tộc - dân chủ là mối quan hệ
giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người để thực
hiện mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc và lợi ích con người ở những thời điểm
lịch sử khác nhau. Một dân tộc đoàn kết đấu tranh và nhờ đó cuộc Cách mạng
Tháng Tám thắng lợi là do Hồ Chí Minh và Đảng ta đã giải quyết đúng đắn
mối quan hệ dân tộc - con người.
Mặt khác, khi nhà nước giành độc lập, thực hành dân chủ làm cho nhân
dân đươc hưởng tự do - hạnh phúc để củng cố độc lập dân tộc. Nước Việt
Nam do Hồ Chí Minh sáng lập trên nền tảng dân chủ nhằm vào tiêu chí Độc
lập - Tự do - Hạnh phúc thể hiện rõ mối quan hệ biện chứng dân chủ - dân
tộc.
Mối quan hệ này bao quát trên tất cả các lĩnh vực: Từ hoạch định đường
lối, chính sách tới thực hành dân chủ và phát triển dân chủ trong thực tiễn.
1.3. Quan niệm dân chủ của Hồ Chí Minh trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội
1.3.1. Dân chủ trên lĩnh vực chính trị

19
Quan điểm Hồ Chí Minh về dân chủ trong lĩnh vực chính trị cho thấy
rằng, quyền lực của nhân dân được khẳng định bằng Hiến pháp và Pháp luật,
được bảo đảm trong việc tổ chức ra nhà nước dân chủ mới của dân, do dân, vì
dân, bảo vệ lợi ích của nhân dân, quan điểm đó được thể hiện ở những vấn đề
cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Khẳng định quyền lực của nhân dân
Hồ Chí Minh viết: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì
dân là chủ” [19, tr.515]. Quyền là chủ và làm chủ của nhân dân được khẳng
định qua Tuyên ngôn độc lập do Hồ Chí Minh soạn thảo, trong đó các giá trị
về dân chủ gắn liền với độc lập, tự do của Tổ quốc gắn liền với bình đẳng và
công bằng xã hội.
Hiến pháp 1946 đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc thực hiện quyền lực
của nhân dân trong điều kiện lịch sử hết sức khó khăn lúc đó. Trong lời nói
đầu của hiến pháp năm 1946 đã khẳng định ngay “Nhiệm vụ của dân tộc ta
trong giai đoạn này là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết
quốc gia trên nền tảng dân chủ” [9, tr.7]. Trên cơ sở đó, Quốc hội Việt Nam
có nhiệm vụ phải xây dựng Hiến pháp nhà nước trên ba nguyên tắc sau:
- Đoàn kết dân không phân biệt nòi giống, gái trai, giai cấp, tôn giáo.
- Đảm bảo các quyền tự do dân chủ.
- Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của dân.
Hiến pháp năm 1946 cũng quy định những quyền cụ thể cho Quốc hội,
Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án và chính quyền cấp tỉnh. Toàn bộ quyền
lực ở và chỉ ở nơi dân mà thôi. Điều đó thể hiện rõ khái niệm dân chủ theo tư
tưởng Hồ Chí Minh “ Tất cả quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, “địa vị
cao nhất là dân, vì dân là chủ” [19, tr.515].
Điều 6 của Hiến pháp năm 1959 ghi rõ: “Tất cả các cơ quan Nhà nước
là phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và
chịu sự kiểm soát của nhân dân” [9, tr.29].
20

Hồ Chí Minh chỉ rõ nước ta là một quốc gia đa dân tộc, quyền làm chủ
của nhân dân phải thuộc về tất cả đồng bào các dân tộc ít người và cho rằng,
phải “làm cho các dân tộc anh em dần dần tự quản lý, lấy mọi công việc của
mình, để mau chóng phát triển kinh tế và văn hóa của mình, để thực hiện các
dân tộc bình đẳng về mọi mặt” [20, tr.543].
Khẳng định vị trí là chủ và làm chủ của nhân dân trong Hiến pháp và
Pháp luật là sự đảm bảo đầu tiên cho việc thực hành dân chủ trong lĩnh vực
chính trị ở một nước chưa trải qua nền dân chủ tư sản, quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta.
Khẳng định quyền làm chủ của nhân dân thông qua Hiến pháp thể hiện
quan điểm lý luận, lý tưởng chính trị, chuẩn mực chính trị pháp quyền, là xây
dựng mặt tinh thần của hệ thống chính trị của nước ta. Những quan điểm của
Hồ Chí Minh về xây dựng một Hiến pháp dân chủ, trong đó xác định rõ
quyền làm chủ của nhân dân trong thực tiễn là những quan điểm căn bản cho
xây dựng mặt vật chất của hệ thống chính trị dân chủ ở nước ta, thể hiện trước
hết qua việc xây dựng Nhà nước.
Thứ 2: Xây dựng nhà nước dân chủ
Một là, Nhà nước do dân, quyền bính thuộc về nhân dân
Ngay sau Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh đã tiến hành ngay
quyền là chủ của nhân dân trong lĩnh vực chính trị thông qua tổ chức xây
dựng nhà nước dân chủ mới ở nước ta. Người đã sử dụng kết hợp hai hình
thức: Dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, và được thể hiện rõ trong cuộc
tổng tuyển cử (ứng cử và bầu cử).
Nhà nước mới ra đời sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là nhà nước
dân chủ mới mang bản chất của giai cấp công nhân. Bản chất này được biểu
hiện trước hết ở chỗ, nó được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và tính
chất dân chủ được thể hiện dựa trên nền tảng là khối đoàn kết toàn dân mà
nòng cốt là liên minh công nhân, nông dân, trí thức.
Do đó, dân chủ trong lĩnh vực chính trị là bảo đảm quyền tự do bình
đẳng trong bầu cử và ứng cử của nhân dân vào các cơ quan đại diện là nhà

21
nước. Và để có dân chủ chính trị phải hình thành một thiết chế nhà nước pháp
quyền dân chủ nhằm thực hiện và bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân.
Hai là, Nhà nước vì dân
Hồ Chí Minh đã nêu một loạt những luận điểm về xây dựng một nhà
nước dân chủ. Đó là các quan điểm về bản chất, về mục tiêu, về nội dung
chức trách và nhiệm vụ của nhà nước vì dân.
Người viết: “Chính quyền dân chủ có nghĩa là chính quyền do người
dân làm chủ” [19, tr.365] vì “Chính quyền từ xã đên Chính phủ Trung ương
do dân cử ra” [18, tr.698] và “Nhiệm vụ của chính quyền dân chủ là phục vụ
nhân dân; tổ chức giáo dục, động viên nhân dân xây dựng cuộc sống mới”
[22, tr.606].
Nhân dân dùng quyền là chủ để tổ chức ra nhà nước và bên cạnh nhiệm
vụ đảm bảo mọi điều kiện cho việc phục vụ lợi ích của nhân dân như đảm bảo
an ninh của đất nước, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội…Nhà nước dân chủ
còn có nhiệm vụ phải phát triển quyền dân chủ và các sinh hoạt chính trị của
nhân dân.
Hồ Chí Minh nói: “Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên
được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên” [21, tr.594].
Theo Hồ Chí Minh, dân chủ và phát huy dân chủ, phát triển quyền dân
chủ là một quy luật phát triển của nhà nước xã hội chủ nghĩa; nó phản ánh
nhu cầu tự hoàn thiện của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Vấn đề phát huy dân chủ, phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính
trị của nhân dân còn có ý nghĩa quyết định trong việc tập hợp và phát huy mọi
tiềm lực trong nhân dân để tiến hành thành công sự nghiệp xây dựng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta.
Như vậy, dân chủ trong lĩnh vực chính trị là xây dựng nhà nước của
dân, do dân, vì dân có nhiệm vụ thực hiện và phát triển nền dân chủ, tạo ra
những điều kiện đảm bảo quyền lực của nhân dân đối với cơ quan và viên
chức nhà nước, mặt khác nó thực hiện chuyên chính với kể thù của dân chủ.

Ba là, Nhà nước pháp quyền
22
Việc quan trọng của một nhà nước pháp quyền là phải xây dựng Hiến
pháp, pháp luật thích hợp với sự phát triển của đất nước và tăng cường giáo
dục thực hiện luật pháp trong toàn xã hội. Cùng với Hiến pháp phải có luật
pháp thật sự dân chủ vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân
lao động.
Xây dựng nhà nước pháp quyền là một biểu hiện dân chủ trong lĩnh
vực chính trị. Trong đó, nhà nước có trách nhiệm đảm bảo và tìm cách đảm
bảo quyền bình đẳng và nghĩa vụ của nhân dân trước pháp luật, chống áp bức
bóc lột và bất công trong xã hội.
Bốn là, Nhà nước có đủ phẩm chất, năng lực
Nhà nước phải là một nhà nước liêm khiết, trong sạch, một nhà nước
với đội ngũ cán bộ Cần, Kiêm, Liêm, Chính, Chí công vô tư. Cần nâng cao
năng lực của các cơ quan đại diện quyền lực của nhân dân và các cán bộ được
ủy quyền. Mặt khác, để thực hiện dân chủ và phát huy quyền là chủ của nhân
dân cần phải loại trừ những kẻ quan liêu, thoái hóa, những kẻ miệng nói dân
chủ nhưng làm việc theo lối chủ quan. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Pháp luật phải
thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề
nghiệp gì” [18, tr.641].
Hồ Chí Minh đã kết hợp thành công các phạm trù không phải luôn
đồng nhất: Dân tộc - giai cấp, dân chủ - chuyên chính, chế độ dân chủ nhân
dân và chủ nghĩa xã hội trong xây dựng nhà nước dân chủ - nhân dân. Sự sáng
tạo đó góp phần vào việc khai phá con đường mới cho các dân tộc sau khi
thoát khỏi chế độ thực dân, giành được độc lập, đưa dân tộc tiến lên theo con
đường dân chủ, tiến bộ, văn minh.
Thứ 3: Xây dựng đảng và các tổ chức chính trị xã hội vững mạnh,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân
Đảng phải là hạt nhân trong xây dựng và là tấm gương thực hành dân
chủ. Đảng viên của Đảng phải đủ tư cách để lãnh đạo thực hành dân chủ.

Đảng phải thật vững mạnh, có đủ phẩm chất và năng lực của người lãnh đạo.
Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng phải chú ý thực hành dân chủ rộng rãi, Đảng
23

×