Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Ảnh hưởng của tư duy kinh nghiệm đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (620.11 KB, 106 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






TRẦN THỊ THUẬN VŨ




ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ DUY KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI
CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY

Chuyên ngành: Triết Học
Mã số : 62.22.80


LUẬN VĂN TH.S TRIẾT HỌC




NGƯỜI HƯỚNG DẪN
PGS.TS.Vũ Văn Viên










HÀ NỘI - 2008

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 3
1.Tính cấp thiết của đề tài 3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 4
2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 4
2.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước 7
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn 8
3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn 8
3.2. Nhiệm vụ của luận văn 9
4.Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn 9
4.1. Cơ sở lý luận 9
4.2. Phương pháp nghiên cứu 9
5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn 10
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 10
7. Kết cấu luận văn 10
Chƣơng I 11
BẢN CHẤT, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ 11
CỦA TƢ DUY KINH NGHIỆM 11
1.1.Tư duy và tư duy kinh nghiệm 11
1.1.1. Khái niệm “Tư duy” 11
1.1.2. Bản chất của tư duy kinh nghiệm 14
1.2. Đặc điểm và vai trò của tư duy kinh nghiệm 26
1.2.1. Đặc điểm của tư duy kinh nghiệm 26

1.2.2. Vai trò của tư duy kinh nghiệm 36
THỰC TRẠNG ẢNH HƢỞNG CỦA TƢ DUY KINH
NGHIỆM ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở NƢỚC TA
HIỆN NAY VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG
CAO NĂNG LỰC TƢ DUY CỦA NGƢỜI VIỆT NAM 44
2.1. Thực trạng ảnh hưởng của tư duy kinh nghiệm đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay 44


2

2.1.1. Một số ảnh hưởng tích cực 44
2.1.2.Một số ảnh hưởng tiêu cực 54
2.2. Một số giải pháp nhằm khắc phục những ảnh hưởng của tư duy kinh nghiệm, nâng cao năng lực tư
duy của người Việt Nam 83
2.2.2. Kết hợp giữa nâng cao năng lực phương pháp luận biện chứng duy vật với nâng cao năng lực tư
duy lôgíc 85
KẾT LUẬN 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 99





















3


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta đang tiến hành trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội
nhập quốc tế sâu sắc. Loài người đang bước vào kỷ nguyên của nền văn minh trí
tuệ, nền kinh tế tri thức, ở đó, đòi hỏi con người phải có năng lực tiếp nhận, xử
lý thông tin để sản xuất ra tri thức mới. Do đó, năng lực tư duy, trí tuệ trở thành
yếu tố quyết định sức mạnh của mỗi nền kinh tế, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Sự
phát triển của cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại đã làm biến đổi một cách
sâu sắc mọi mặt của đời sống xã hội. Khoa học, công nghệ đã thực sự trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp, nối dài khả năng của con người trong quá trình nhận
thức và cải tạo thế giới hiện thực. Để nhanh chóng hội nhập và nắm bắt được
những thành tựu khoa học, vận dụng nó có lợi cho phát triển kinh tế- xã hội, đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi chúng ta phải có năng lực
tư duy lý luận. Bởi vì, chỉ có năng lực tư duy lý luận mới giúp con người đủ khả
năng nắm bắt được bản chất, qui luật vận động của thế giới tự nhiên và xã hội,
nắm được những tri thức khoa học, công nghệ và quản lý làm công cụ để vận
dụng vào hoạt động thực tiễn một cách hiệu quả.
Sau hơn 20 năm thực hiện đổi mới, mặc dù đã đạt được một số thành tựu đáng
kể trong nhận thức cũng như thực tiễn phát triển kinh tế- xã hội, song trước

những thách thức lớn của xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, so với
yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, chúng ta còn nhiều bất cập ở nhiều lĩnh vực,
trước hết là trên lĩnh vực nhận thức. Đánh giá tổng kết hai mươi năm thực hiện
đường lối đổi mới của Đảng, nhiều nghiên cứu đã nhận định: tư duy của ta còn
chậm đổi mới, chưa theo kịp với đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. Về trình độ, năng lực tư duy còn có sự bất cập giữa yêu cầu của đổi
mới và khả năng đáp ứng. Trên thực tế, tư duy kinh nghiệm đang chi phối mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội. Một mặt, nó cũng có những tác động tích cực


4

nhất định đối với đời sống, sản xuất xã hội của nhân dân ta. Song mặt khác, tư
duy kinh nghiệm ảnh hưởng tiêu cực không nhỏ đến cách nghĩ, cách làm, là
nguyên nhân chủ yếu của những yếu kém trong quản lý nhà nước về kinh tế,
giáo dục, pháp luật… của chúng ta trong thời gian qua. Đồng thời, ảnh hưởng
của tư duy kinh nghiệm cũng dẫn đến những yếu kém về tư duy kinh tế, ý thức
chấp hành kỷ cương, pháp luật và hạn chế về năng lực tư duy khoa học của
người Việt Nam. Những tác động tiêu cực của tư duy kinh nghiệm đã trở thành
lực cản đối với quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế và phát triển, chấn hưng đất
nước.
Vì vậy, việc nghiên cứu tư duy kinh nghiệm, đánh giá tác động của nó đối với
công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay làm cơ sở để tìm ra những giải pháp phát
huy vai trò tích cực, đồng thời khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của tư duy kinh
nghiệm, nâng tầm tư duy người Việt Nam lên trình độ lý luận khoa học, đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, là một vấn đề có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn.
Vì những lý do nói trên, chúng tôi chọn vấn đề: “Ảnh hưởng của tư duy kinh
nghiệm đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay” làm đề tài nghiên cứu
luận văn.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Là một trong những vấn đề cơ bản của nhận thức luận, vấn đề tư duy, các loại
hình tư duy nói chung như tư duy kinh nghiệm, tư duy lý luận và vai trò của
chúng luôn là một đề tài lôi cuốn sự quan tâm của nhiều tác giả nghiên cứu
trong và ngoài nước.
2.1. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc
Liên quan đến chủ đề nghiên cứu của luận văn có nhiều công trình của các tác
giả trong nước về một số nhóm vấn đề sau:


5

Nhóm vấn đề về tư duy, đổi mới tư duy, có nhiều công trình, bài viết của các
tác giả đã đăng tải trên các sách, tạp chí, các đề tài, hội thảo khoa học Trước
hết phải kể đến các báo cáo của Trung ương Đảng, các bài viết của các nhà
lãnh đạo cao cấp của Đảng và các nhà nghiên cứu như: Báo cáo tổng kết một
số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 20 năm đổi mới 1986- 2006 của Ban chỉ đạo
tổng kết lý luận Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Đổi mới tư duy và phong cách- Nguyễn Văn
Linh; Bàn về đổi mới tư duy- Đào Duy Tùng; Đổi mới phong cách tư duy-
Phạm Như Cương; Đổi mới tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta-
Nguyễn Duy Quý, Nxb Chính trị quốc gia; Quán triệt tư duy duy vật biện
chứng là nội dung quan trọng của việc đổi mới tư duy- Dương Phú Hiệp; Đổi
mới tư duy lý luận- tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới- Lại Văn Toàn; Một
số vấn đề về đổi mới tư duy kinh tế ở Việt Nam- Lê Đăng Doanh; Tiếp tục đổi
mới tư duy kinh tế xã hội- Phan Đình Diệu và nhiều bài viết khác trên các tạp
chí Triết học, Lý luận chính trị, Cộng sản, các đề tài khoa học các cấp của các
tác giả Lê Hữu Tầng, Nguyễn Trọng Chuẩn, Đặng Xuân Kỳ, Phạm Ngọc
Quang, Hoàng Chí Bảo, Trần Xuân Sơn, Vũ Văn Viên, Ngô Đình Xây Các
công trình trên đã làm rõ thực trạng của tư duy lý luận ở nước ta trước đổi mới

và hiện nay, những nguyên nhân của tình trạng lạc hậu về tư duy lý luận, do đó
làm rõ tính tất yếu khách quan của đổi mới tư duy và đưa ra những giải pháp
nhằm khắc phục tình trạng lạc hậu về tư duy lý luận ở nước ta hiện nay.
Về vấn đề bản chất của tư duy, các loại hình tư duy và phương pháp tư duy
cũng đã được các nhà nghiên cứu khai thác nhằm làm cơ sở để phát triển năng
lực tư duy của người Việt Nam góp phần nâng cao hiệu quả của công cuộc đổi
mới tư duy ở nước ta hiện nay. Một số công trình tiêu biểu về vấn đề này như:
Tư duy khoa học trong giai đoạn cách mạng công nghệ, Nxb Chính trị quốc
gia, 1998 của Lê Hữu Nghĩa và Phạm Duy Hải; Về phương pháp nhận thức
khoa học, Nxb Chính trị quốc gia – Ngô Đình Xây; Phương pháp nghiên cứu
khoa học, Nxb Khoa học và kỹ thuật, 1996- Vũ Cao Đàm; Lôgíc phi cổ điển-


6

chuẩn mực lôgíc hiện đại và tiên tiến nhất của tư duy, T/c Triết học, số 4/1990;
Về mối quan hệ giữa lôgíc học biện chứng và lôgíc học hình thức, T/c Triết
học số 4/ 1997- Tô Duy Hợp; Lôgíc hình thức và tư duy chính xác, T/c Triết
học số 4/1991; Về thực chất của tư duy khoa học hiện đại, T/c Triết học số
3/1992 và Tư duy lôgíc- bộ phận hợp thành của tư duy khoa học, T/c Triết học
số 12/1996 của Vũ Văn Viên Các nghiên cứu đã đưa ra và giải đáp các vấn
đề : bản chất của tư duy là gì, các hình thức và các quy luật của tư duy đang
nhận thức, tư duy thông thường và tư duy khoa học; các loại hình tư duy và tư
duy khoa học, đặc điểm của các loại hình tư duy, cơ sở khách quan của mỗi
phương pháp tư duy trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Nhóm vấn đề về kinh nghiệm, tư duy kinh nghiệm, nhận thức kinh nghiệm,
mối liên hệ giữa kinh nghiệm và lý luận, tư duy kinh nghiệm và tư duy lý
luận , có các công trình của các tác giả: Hoàng Chí Bảo- Từ tư duy kinh
nghiệm đến tư duy lý luận, T/c Thông tin lý luận số 6/1988 đã nêu lên một số
đặc trưng cơ bản của tư duy kinh nghiệm và hạn chế của nó trong đời sống

nhận thức nước ta; Bùi Đình Luận- Về ranh giới giữa kinh nghiệm và lý luận
trong nhận thức khoa học và thực tiễn, T/c Triết học số 2/1992 đã phân biệt
được ranh giới giữa tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận, chỉ ra vai trò của tư
duy kinh nghiệm trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn; Vũ Anh
Tuấn- Nhận thức kinh nghiệm- những biểu hiện đặc thù và ảnh hưởng của nó
trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cải tạo, xây dựng xã hội ta hiện nay,
Luận án PTS, Hà Nội, 1994 cũng đã phân tích được những đặc trưng cơ bản
của kinh nghiệm, nhận thức kinh nghiệm và những biểu hiện của nó trong đời
sống xã hội ta, đồng thời khẳng định tính tất yếu của việc phát triển tư duy lý
luận ở nước ta hiện nay; Trần Văn Phòng- Bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa ở đội
ngũ cán bộ nước ta trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Luận án PTS,
Hà Nội, 1994 đã nêu được thực chất của bệnh kinh nghiệm và những biểu hiện
của nó ở đội ngũ cán bộ nước ta đồng thời đưa ra một số giải pháp khắc phục
bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước


7

ta và nhiều công trình khác. Các công trình nói trên phần lớn đã đề cập và
giải quyết vấn đề đặc trưng của kinh nghiệm, nhận thức kinh nghiệm song hoặc
mới chỉ là những nét khái quát, hoặc chủ yếu là qua khảo sát thực tiễn cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam từ những năm bắt đầu đổi mới.
Về thực trạng và những giải pháp khắc phục hạn chế của tư duy ở Việt Nam có
các công trình của các tác giả: Lê Hữu Nghĩa- Một số căn bệnh trong phương
pháp tư duy của cán bộ ta, T/c Triết học số 2/1988; Nguyễn Ngọc Long-
Chống chủ nghĩa chủ quan duy ý chí khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo
điều trong quá trình đổi mới tư duy lý luận. Mấy vấn đề cấp bách về đổi mới tư
duy lý luận, Học viện Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội, 1988 đã nêu lên thực trạng
một số căn bệnh trong phương pháp tư duy của cán bộ ta hiện nay, đồng thời
đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những yếu kém về tư duy và nâng cao

năng lực tư duy của cán bộ trong quá trình đổi mới tư duy.
Về nhóm vấn đề truyền thống, giá trị truyền thống, tư duy truyền thống có một
số công trình sau: Giá trị truyền thống trước những thách thức của thời đại,
Nxb Chính trị quốc gia, 2002- Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn Huyên
chủ biên; Về giá trị truyền thống Việt Nam, Nxb Thông tin lý luận, 1993-
Nhiều tác giả; Tư duy truyền thống với quá trình công nghiệp hoá- hiện đại
hoá, T/c Triết học số 8/2001 – Vũ Văn Viên Các nghiên cứu này đã thể hiện
nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề truyền thống, bản sắc văn hoá, kết hợp giữa
truyền thống và hiện đại trong giữ gìn bản sắc văn hoá Việt Nam, đặc biệt là về
đặc trưng tư duy Việt Nam truyền thống, những giá trị và hạn chế của nó trong
thời đại khoa học công nghệ và hội nhập quốc tế hiện nay.
2.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nƣớc
Vấn đề tư duy, kinh nghiệm, tư duy kinh nghiệm đã được nghiên cứu trong
suốt lịch sử phát triển tư tưởng. Từ Aristốt, Bêcơn, Hium, Lôccơ, Cantơ,
Avênariut cho đến triết học Mác đều đã đề cập và tìm cách luận giải về bản
chất tư duy, tư duy kinh nghiệm, quan hệ giữa kinh nghiệm và lý luận từ những


8

lập trường khác nhau. Triết học tư sản hiện đại với đại biểu của các trào lưu
triết học như: triết học hiện tượng (Huséc), triết học thực dụng (J.Dewey), triết
học hiện sinh (J.P. Sartre), triết học thực chứng (Popper) nghiên cứu về kinh
nghiệm như là hoạt động có tính bản năng tự nhiên hoặc là trải nghiệm của cá
nhân chứ chưa khái quát những biểu hiện về mặt xã hội của nó cũng như quá
trình hình thành kinh nghiệm trong sự tác động của con người với hiện thực.
Các nhà triết học mác xít ( đại diện là các nhà triết học Liên xô) đã nghiên cứu
kinh nghiệm một cách hệ thống hơn với tư cách là một hình thức, một cấp độ,
một phương pháp trong quá trình tư duy và nhận thức khoa học trong mối liên
hệ với lý luận như là cái riêng và cái chung, cái hiện tượng và cái bản chất

Về những vấn đề có liên quan, một số công trình như Lôgíc học, Nxb Giáo
dục, 1974- Đ.P.Gorki; Lôgíc học biện chứng, Nxb Văn hoá thông tin, 2002-
E.V. Ilenkop; Bách khoa toàn thư triết học, mục “tư duy”, Nxb Tư tưởng M,
1964- A.Lêonchiep có những nghiên cứu về bản chất tư duy, tư duy khoa
học, các loại hình tư duy, truyền thống, giá trị truyền thống, năng lực tư duy,
các phương pháp tư duy, tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận.
Những nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước hết sức phong phú về
những vấn đề có liên quan đến chủ đề nghiên cứu của luận văn. Kế thừa những
tư tưởng đó, đồng thời cập nhật những yêu cầu mới về nhận thức và thực tiễn ở
Việt Nam thời gian qua, trong phạm vi một luận văn thạc sĩ, tác giả tiếp tục
nghiên cứu và trình bày một cách có hệ thống về tư duy kinh nghiệm từ bình
diện triết học, những đặc điểm của nó, trên cơ sở đó phân tích ảnh hưởng của
tư duy kinh nghiệm đến công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn là nghiên cứu, làm rõ bản chất của tư duy kinh nghiệm,
phân tích những ảnh hưởng của nó đến công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay,
đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những tác động tiêu cực của


9

tư duy kinh nghiệm trong đời sống nhận thức và thực tiễn xã hội hiện nay ở
nước ta.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, luận văn tập trung giải quyết
những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Từ lập trường duy vật biện chứng làm rõ bản chất và những đặc điểm của tư
duy kinh nghiệm.
- Phân tích những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của tư duy kinh nghiệm đến

quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế của tư duy kinh
nghiệm, phát triển năng lực tư duy nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi
mới ở nước ta hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là
những nguyên lý của nhận thức luận mác xit.
Luận văn dựa trên cơ sở các quan điểm lý luận của Đảng thể hiện trong các
Văn kiện đại hội Đảng, cương lĩnh xây dựng đất nước, các Nghị quyết Trung
ương, đồng thời luận văn còn tham khảo các quan điểm trong các công trình
nghiên cứu của các nhà khoa học về các vấn đề có liên quan.
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp: phương pháp phân tích và tổng
hợp, phương pháp lịch sử và lôgíc, phương pháp đi từ trìu tượng đến cụ thể.


10

5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Làm rõ những đặc điểm của tư duy kinh nghiệm, ảnh hưởng tích cực và tiêu
cực của nó đối với công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những mặt hạn chế của tư duy kinh
nghiệm để nâng cao năng lực tư duy của người Việt Nam đáp ứng các yêu cầu
của công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ nét hơn về bản chất của tư
duy kinh nghiệm trong lý luận nhận thức mác xít. Qua đó, luận văn góp phần
nhận diện những đặc điểm của tư duy kinh nghiệm, vị trí, vai trò cũng như

những hạn chế của nó trong việc nhận thức và cải tạo hiện thực của con người
nói chung, đối với công cuộc đổi mới của đất nước ta nói riêng.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập và nghiên cứu lý
luận nhận thức và những vấn đề đặt ra về đổi mới tư duy đáp ứng cho công
cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương, 4 tiết.


11

Chƣơng I
BẢN CHẤT, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ
CỦA TƢ DUY KINH NGHIỆM

1.1.Tƣ duy và tƣ duy kinh nghiệm
1.1.1. Khái niệm “Tư duy”
Tư duy là vấn đề xuyên suốt lịch sử triết học. Việc trả lời câu hỏi “tư duy là
gì”, “bản chất của tư duy là gì”, vấn đề về mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại là
giải quyết vấn đề cơ bản của triết học. Xung quanh việc làm sáng tỏ các vấn đề
về quan hệ giữa tư duy và tồn tại, tư duy và thực tiễn, tư duy và cảm tính, khả
năng đạt được chân lý khách quan của tư duy, vấn đề bản chất của tư duy đã
được giải quyết theo các lập trường khác nhau trong suốt lịch sử triết học, do
đó việc đưa ra một định nghĩa ở tầm triết học về tư duy là một vấn đề hết sức
phức tạp. Xuất phát từ lập trường triết học duy vật biện chứng mác xít, các nhà
triết học, lôgíc học đã đưa ra một số định nghĩa khác nhau về khái niệm “tư
duy”:
A.Leonchiep cho rằng: “Tư duy là trình độ cao của nhận thức mà con người có
được, là quá trình phản ánh thực tế khách quan. Tư duy tạo ra tri thức về những

thuộc tính, mối liên hệ và quan hệ cơ bản của thực tế khách quan, trong quá
trình nhận thức nó thực hiện sự chuyển đổi nhận thức từ “hiện tượng đến bản
chất”,… Tư duy là sự phản ánh hiện thực một cách gián tiếp hoá, qua nhiều
khâu trung gian, … Tư duy là hoạt động tích cực nhào nặn các tài liệu kinh
nghiệm cảm tính [73, tr.514].
A.G.Spirkin quan niệm: “Tư duy là hình thái cao của sự phản ánh thực tế
khách quan một cách tích cực, đó là sự nhận thức gián tiếp hoá, khái quát hoá
và có mục đích do chủ thể đặt ra nhằm nắm được những mối liên hệ, quan hệ
cơ bản của các sự vật và hiện tượng, tạo ra các ý niệm mới và đi sâu vào bản


12

chất của các sự kiện và quá trình. Tư duy xuất hiện và thực hiện trong quá trình
người ta đặt ra và giải quyết các vấn đề thực tiễn và lý luận” [76, tr.391].
Trong mục từ “tư duy”, Từ điển Triết học, Nxb Tiến bộ, Mat-xcơ- va, năm
1975, tr.634 viết: “ Tư duy- sản phẩm cao nhất của cái vật chất được tổ chức
một cách đặc biệt là bộ não, là quá trình phản ánh tích cực thế giới khách quan
trong các khái niệm, phán đoán, lý luận, v.v…” [60, tr.634].
Tương tự như vậy, Từ điển Triết học, Nxb Tiến bộ, Mat-xcơ-va, năm 1984,
tr.422 viết: “ Tư duy là quá trình tích cực qua đó thế giới khách quan được
phản ánh trong các khái niệm, phán đoán, lý thuyết,.v.v…, và nó gắn với việc
giải quyết các vấn đề; là sản phẩm cao nhất của dạng vật chất được tổ chức
một cách đặc biệt, đó là bộ não” [75, tr.422].
Từ điển Bách khoa Xô viết, Nxb Tiến bộ, Mat-xcơ-va năm 1986, tr.851 viết: “
Tư duy là trình độ cao của nhận thức mà con người có được, của quá trình
phản ánh hiện thực khách quan. Nó tạo ra tri thức về các khách thể, các thuộc
tính và quan hệ của thế giới thực tại mà trình độ nhận thức cảm tính trực tiếp
không thể nắm bắt được” [74, tr.851].
N.I.Kandakop khẳng định: “ Tư duy là trình độ cao trong sự phát triển của hoạt

động tinh thần, lý luận của con người, đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác-Lênin xác định như là “quá trình sản xuất ý niệm, biểu tượng, ý
thức”…Khác với nhận thức cảm tính là trình độ nhận thức chỉ phản ánh các
hiện tượng, cái vẻ bên ngoài và những thuộc tính riêng lẻ của các sự vật, hiện
tượng; tư duy phát triển dưới các hình thức trìu tượng như các khái niệm, phán
đoán, suy lý, giả thuyết, lý thuyết… Tư duy là trình độ nhận thức gián tiếp hoá
chứ không phải là trình độ nhận thức trực tiếp các sự vật, hiện tượng của thực
tế khách quan,… Tư duy không chỉ là trình độ nhận thức gián tiếp hoá mà còn
là trình độ nhận thức khái quát hoá các sự vật, hiện tượng của thế giới bên
ngoài,…” [71, tr.366-368].


13

Còn V.A.Lektorski cho rằng: “ Tư duy là quá trình giải quyết các vấn đề, đó là
quá trình chuyển dịch từ các điều kiện tạo lập vấn đề đến việc thu nhận các kết
quả giải quyết vấn đề đặt ra. Tư duy định hướng hoạt động kiến tạo tích cực
nhằm kiến tạo lại những dữ liệu ban đầu bằng các thao tác phân tích, tổng hợp,
bổ sung” [72, tr.626].
Như vậy, A. Leonchiep nhấn mạnh năng lực tư duy tạo ra bước nhảy vọt của
nhận thức từ “hiện tượng đến bản chất” của sự vật, hiện tượng bằng cách nhào
nặn các tài liệu kinh nghiệm, thực tiễn. A.G.Spirkin quan tâm đến tính sáng tạo
có mục đích của tư duy trong quá trình con người đặt ra và giải quyết các vấn
đề thực tiễn và lý luận nhằm đi sâu vào bản chất của đối tượng mà tư duy phản
ánh. Còn N.I.Kandakop vạch rõ ranh giới giữa nhận thức cảm tính (trực quan
sinh động) và nhận thức lý tính (tư duy trìu tượng), nhấn mạnh năng lực trìu
tượng hoá, khái quát hoá của tư duy, những năng lực mà nhận thức cảm tính
không thể có được. Mặc dù nhấn mạnh những đặc trưng cơ bản khác nhau của
tư duy, song các tác giả đều nhất trí với nhau ở lập trường duy vật biện chứng
khi khẳng định đặc trưng cơ bản của tư duy là năng lực phản ánh mang tính

nhận thức của con người. Đặc điểm của năng lực phản ánh ở trình độ tư duy là
phản ánh gián tiếp, trìu tượng hoá, khái quát hoá và mang tính tích cực của chủ
thể nhận thức.
Nội hàm của hai khái niệm “tư duy” và “nhận thức” có sự thống nhất và khác
biệt. Nhận thức là một quá trình bắt đầu từ thực tại khách quan đến giai đoạn tư
duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Quá trình nhận thức bao
gồm hai giai đoạn: nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Tư duy chính là
giai đoạn cao của nhận thức- nhận thức lý tính, nhận thức bằng khái niệm.
Trong giai đoạn này, diễn ra các thao tác trừu tượng hoá, khái quát hoá, đồng
thời thông qua các thao tác đó, tri thức của con người được liên kết lại nhằm
mục đích nắm bắt những dấu hiệu, thuộc tính bản chất của đối tượng.


14

Trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tiếp thu có lựa chọn những
điểm hợp lý ở những định nghĩa đã nêu và dựa trên nguyên tắc lôgíc của việc
định nghĩa một khái niệm, chúng tôi đưa ra khái niệm sau về tư duy để làm
công cụ cho giải quyết những vấn đề tiếp theo của luận văn:
Tư duy là quá trình phản ánh hiện thực một cách gián tiếp, mang tính trừu
tượng hoá, khái quát hoá và sáng tạo của chủ thể nhận thức, nhằm mục đích
nhận thức những mối liên hệ bản chất của hiện thực khách quan.
Xét theo trình độ phát triển, có thể phân tư duy thành: tư duy kinh nghiệm và
tư duy lý luận.
1.1.2. Bản chất của tư duy kinh nghiệm
Tư duy kinh nghiệm là một khái niệm có quan hệ chặt chẽ với khái niệm kinh
nghiệm. Vì vậy, để hiểu rõ bản chất của tư duy kinh nghiệm, chúng ta cần nắm
rõ bản chất của kinh nghiệm, tri thức kinh nghiệm. Đây là vấn đề quan trọng
của nhận thức luận và đã dành được sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều nhà
triết học trong lịch sử.

Chủ nghĩa duy vật trước Mác, từ Đêmôcrít, đến F.Bêcơn, Lốccơ, Điđrô, cho
đến Phoibắc, đều thống nhất khi cho rằng kinh nghiệm đồng nhất với cảm giác.
Kinh nghiệm có nguồn gốc khách quan, được hình thành nhờ sự tác động của
thế giới khách quan vào giác quan của con người. Kinh nghiệm chỉ phản ánh
được những thuộc tính bề ngoài, hình thức của thế giới vật chất. Song mọi tri
thức đều được bắt nguồn từ kinh nghiệm.
Chủ nghĩa duy tâm lại coi kinh nghiệm là một dạng thức chủ quan, thần bí.
Platon cho rằng kinh nghiệm là một dạng thức tinh thần thuần túy, phản ánh
những tri thức không chân thực. Beccơly coi kinh nghiệm là những phức hợp
cảm giác. Hêghen khẳng định kinh nghiệm thuộc về lĩnh vực tâm lý, là sự tha
hoá của ý niệm tuyệt đối, phản ánh ý niệm tuyệt đối thông qua giới tự nhiên.


15

Aristốt có một cái nhìn khác về kinh nghiệm khi cho rằng kinh nghiệm là cái
được sản sinh từ bên ngoài, chỉ nhận thức được các hình thức của vật chất,
giống như chất sáp in dấu của nhẫn vàng.
Đềcáctơ- đại diện cho chủ nghĩa duy lý khẳng định kinh nghiệm chỉ là những
quan điểm mơ hồ, dễ nhận thức sai lầm về thế giới đối tượng.
Các nhà bất khả tri luận lại cho rằng kinh nghiệm là sự tổng hợp tri giác chủ
quan cảm tính (Hium).
I.Kant thì cho rằng kinh nghiệm được hình thành từ hai giai đoạn cảm tính,
giác tính, thể hiện trình độ lôgíc thông thường, không đầy đủ, chỉ ra những đặc
tính riêng lẻ của sự vật. [ Các khái quát trên theo 67,28].
Các nhà triết học tư sản cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, đã đặt ra và nghiên cứu
một cách sâu sắc hơn vấn đề kinh nghiệm. Khái niệm kinh nghiệm được giải
thích một cách khác nhau thông qua bốn trào lưu triết học tiêu biểu: [theo 17]
Trong hiện tượng học, Huséc coi kinh nghiệm là cái trực quan cảm tính biểu
hiện trong quan hệ “cái sống thực tâm lý” và “cái sống thực luận lý” đối với

thế giới bên ngoài.
J.P.Sactre - đại biểu của triết học hiện sinh đã coi kinh nghiệm là thế giới nội
tâm của những cảm xúc, là một dạng hoạt động mang tính bản ngã tự nhiên của
mỗi “cá sinh”, là sự thể nghiệm trực tiếp của chủ thể.
Triết học thực dụng với đại biểu là J.Dewey đồng nhất kinh nghiệm với kinh
nghiệm sống của cá nhân, là dạng thích ứng theo bản năng một cách có lợi nhất
cho hoạt động sống của mỗi cá nhân.
Triết học thực chứng mới coi kinh nghiệm là những cảm giác, cảm xúc cá nhân
của con người không mang nội dung khách quan.
Các quan điểm về kinh nghiệm của triết học tư sản hiện đại hoặc mới chỉ ra
một số đặc tính của kinh nghiệm, hoặc coi kinh nghiệm là nguồn gốc của tri
thức nhưng giải thích bản chất kinh nghiệm một cách duy tâm là hoạt động bản


16

năng tự nhiên, là tri thức chủ quan của chủ thể nhận thức mà chưa lột tả được
bản chất của kinh nghiệm trong hoạt động nhận thức của con người.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã vạch ra nguồn gốc, bản chất, vai trò và ý
nghĩa của kinh nghiệm trong quá trình nhận thức thế giới khách quan của con
người. Khẳng định nguồn gốc khách quan cũng như vai trò, hạn chế của kinh
nghiệm trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã viết: “Nếu như người ta thu được mọi tri thức và cảm giác,
v.v., của mình từ thế giới cảm tính và từ kinh nghiệm trong thế giới cảm tính
thì do đó cần phải tổ chức thế giới xung quanh sao cho người ta nhận thức và
lĩnh hội được ở đó cái gì thực sự hợp với tính người,…” [5, tr.199].
Làm rõ hơn tư tưởng này về bản chất của kinh nghiệm, Ph.Ăngghen khẳng
định: “sự quan sát dựa vào kinh nghiệm, tự nó không bao giờ có thể chứng
minh đầy đủ tính tất yếu” [6, tr.718]. Chỉ ra hạn chế của kinh nghiệm, nhưng
Ph.Ăngghen cũng khẳng định vai trò của nó trong quá trình phát triển nhận

thức và hoạt động thực tiễn của con người: “Hiện nay, không nhất thiết là mỗi
cá thể riêng biệt cứ phải trải qua tất cả để có kinh nghiệm mà trên một mức độ
nào đó, kinh nghiệm cá biệt của nó có thể được thay thế bằng kết quả của
những kinh nghiệm của hàng loạt tổ tiên nó” [6, tr.767]. Đồng thời, ông đã chỉ
ra mối liên hệ biện chứng giữa kinh nghiệm và lý luận với tư cách là những
trình độ của nhận thức và nếu tuyệt đối hoá kinh nghiệm, “chỉ dựa vào thực
nghiệm” mà “coi khinh tư duy” thì người ta đã “ngăn chặn con đường của
mình tiến từ sự hiểu biết cái cá biệt đến sự hiểu biết cái toàn thể, đến sự thấu
suốt mối liên hệ phổ biến của sự vật”[6, tr.491]. Theo Ph.Ăngghen, đó là con
đường tất yếu dẫn đến chủ nghĩa thần bí.
Phát triển những quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về bản chất của kinh
nghiệm, trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán, V.I.Lênin đã khẳng định sự tham gia của tư duy trừu tượng vào kinh
nghiệm khi phê phán quan điểm “quy luật không hề thuộc phạm vi của kinh


17

nghiệm” của Bôgđanop. Ông viết: “Như vậy là cái quy luật thu qua thì đông
tới, đông đi thì xuân đến, không phải là do kinh nghiệm đem đến cho ta mà là
do tư duy tạo ra làm một phương tiện để tổ chức, để làm cho hài hoà, sắp
xếp… cái gì với cái gì…” [29, tr.201]. Song, V.I.Lênin cũng khẳng định điều
kiện để kinh nghiệm tham gia nhận thức quy luật là: “kinh nghiệm của những
cá nhân được tổ chức về mặt xã hội” [30, tr.609].
Trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng, chúng tôi đưa ra một số khái quát
chung về kinh nghiệm như sau:
Kinh nghiệm là những tri thức được rút ra một cách trực tiếp trong quá trình
hoạt động thực tiễn của con người nhằm cải tạo thế giới. Kinh nghiệm được
hình thành nhờ tác động của thế giới khách thể vào chủ thể nhận thức trong
quá trình hoạt động của con người cải tạo và nhận thức thế giới khách quan.

Trong quá trình đó, con người trực tiếp thu nhận, tích luỹ và từ đó hình thành
những thông tin nhất định về khách thể. Những thông tin này mới chỉ phản ánh
được một số thuộc tính đơn giản của đối tượng. Trong quá trình hoạt động thực
tiễn của con người, cùng với những kỹ năng hoạt động, những thông tin này
được lặp đi, lặp lại và củng cố, tập hợp thành những tri thức mang tính trực
tiếp, đó là kinh nghiệm. Như vậy, xét về mặt hình thức thì kinh nghiệm là một
dạng của ý thức, tư duy, nó thuộc về cái chủ quan, là tính thứ hai, về mặt nội
dung, kinh nghiệm mang nội dung khách quan, là sự phản ánh thế giới khách
quan. Vì thế kinh nghiệm không phải là cái thụ động mà với tư cách là một
hình thức của ý thức, tư duy, kinh nghiệm là sự phản ánh tích cực của con
người về thế giới khách quan trong hoạt động thực tiễn của mình.
Kinh nghiệm là một trình độ phản ánh hiện thực khách quan của con người.
Những tri thức kinh nghiệm là những tri thức chân thực về thế giới khách
quan, nó bao gồm cả những thuộc tính mang tính bản chất cũng như những
mối liên hệ bản chất của sự vật, hiện tượng trong những phạm vi nhất định của
hoạt động thực tiễn.


18

Kinh nghiệm không phải là những tài liệu cảm tính như cảm giác, tri giác…
mà là kết quả của tư duy trìu tượng - của giai đoạn nhận thức lý tính, Vì vậy,
tri thức kinh nghiệm có nội dung sâu xa hơn rất nhiều so với những tri thức
cảm tính. Chẳng hạn, hiện tượng chân trời có màu vàng rực báo hiệu cho
những người đi biển biết chuẩn bị có bão. Để hình thành kinh nghiệm về hiện
tượng chuẩn bị có bão, đã có sự tham gia của lý tính, của tư duy trừu tượng có
sự giúp đỡ của phép qui nạp, từ đó suy ra cứ có hiện tượng chân trời màu vàng
rực là sắp có bão. Như vậy, dựa vào một hiện tượng tự nhiên này, do tính lặp đi
lặp lại của nó, người ta hình thành một tri thức mang tính tất yếu về một hiện
tượng tự nhiên khác. Ở một mức độ nào đó, hiện tượng này đã mang tính qui

luật, song cơ chế tác động của qui luật đó diễn ra như thế nào thì bản thân kinh
nghiệm chưa giải quyết được, mà phải nhờ đến lý luận khoa học.
Về trình độ phản ánh, những tri thức kinh nghiệm thường hạn hẹp, nông cạn
hơn những tri thức lý luận. Những tri thức kinh nghiệm thường chưa phản ánh
đầy đủ các tính chất của sự vật, hiện tượng so với tri thức lý luận. Đôi khi, tri
thức kinh nghiệm còn thiếu chính xác. Bởi vì, sự hình thành tri thức kinh
nghiệm thường là kết quả của quá trình quy nạp giản đơn, nên nó không thể
thoát khỏi những hạn chế của phép quy nạp- đó là tính đúng đắn của kết luận
có thể không chính xác mặc dù tư duy người ta qui nạp dựa trên những tiền đề
chính xác. Tri thức kinh nghiệm được hình thành, thông qua quan hệ trực tiếp
giữa chủ thể nhận thức và khách thể hiện thực trong hoạt động thực tiễn bằng
quan sát, thực nghiệm và những trao đổi thông tin có tính trực tiếp khác. Tri
thức kinh nghiệm mới chỉ dừng lại ở sự phản ánh những sự kiện cục bộ, riêng
lẻ, sự phản ánh một mặt, một khía cạnh hay một mối liên hệ nào đó của sự vật,
hiện tượng. Ngay cả khi cùng phản ánh nhiều sự kiện, nhiều mặt, nhiều mối
liên hệ, thì tri thức mà nó đem lại vẫn mang đặc trưng ở mức độ kinh nghiệm.
Bản thân tri thức kinh nghiệm chưa thể bao quát đối tượng, chưa phải là tri
thức chỉnh thể về sự vật, chỉ là sự phản ánh tổng số giản đơn những liên hệ chứ


19

chưa phản ánh mối liên hệ tất yếu, mới phản ánh những lớp thuộc tính nhất
định chứ chưa phản ánh tính bản chất phổ biến của sự vật, hiện tượng.
Trong quá trình nhận thức kinh nghiệm, tư duy kinh nghiệm, mức độ trừu
tượng hoá và khái quát hoá của tư duy còn hạn chế, nên tri thức kinh nghiệm
thường phản ánh bản chất của sự vật kém hơn tri thức lý luận - là những tri
thức được hình thành từ trình độ khái quát hoá và trừu tượng hoá cao của tư
duy. Do đó, tri thức kinh nghiệm thường thiếu đầy đủ so với tri thức lý luận
khoa học về trình độ phản ánh cái bản chất, cái quy luật của sự vật, hiện tượng.

Những tri thức kinh nghiệm mang đậm dấu ấn trực tiếp, trực giác và mảnh
đoạn; mà chưa mang tính hệ thống và phổ quát về quy luật của sự vật, hiện
tượng như tri thức lý luận khoa học. Đằng sau những sự kiện, thuộc tính mà
kinh nghiệm phản ánh, còn ẩn dấu những quan hệ phức tạp hơn, sâu xa hơn mà
con người không thể tiếp cận một cách trực tiếp được - đó là mảnh đất của lý
luận khoa học.
Tuy nhiên, kinh nghiệm là điểm xuất phát, tiền đề quan trọng không thể thiếu
trong quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn. Kinh nghiệm trước hết là
nguồn tư liệu cần thiết để cho quá trình nhận thức tiếp tục đạt tới trình độ cao
hơn - trình độ lý luận. Kinh nghiệm càng phong phú, thì càng tạo ra nhiều dữ
kiện cho việc khái quát lý luận. Trong quá trình nhận thức, kinh nghiệm đóng
vai trò làm chiếc cầu chuyển tải những thông tin, tri thức từ thế giới đối tượng
vào tư duy, được tư duy hệ thống hoá tạo nên những tri thức lý luận và ngược
lại nó cũng đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm tra tính đúng đắn của các
giả thuyết khoa học lý luận trong thực tiễn. Có thể nói rằng, tri thức kinh
nghiệm cung cấp chất liệu, là cơ sở để hình thành lý luận khoa học. Trong lịch
sử, lý luận khoa học là kết quả của sự tổng kết, khái quát một cách sáng tạo
những kinh nghiệm hiện có. Mặc dù lý luận không phải bao giờ cũng hình
thành trực tiếp từ kinh nghiệm và bản thân lý luận cũng có tính vượt trước hiện
thực, song suy đến cùng thì không có lý luận thuần tuý cũng như không có


20

kinh nghiệm thuần tuý. Không có kinh nghiệm nói chung, lý luận sẽ chỉ là một
sự tưởng tưởng hoang đường hoặc là một sản phẩm thuần tuý của ý thích chủ
quan mà thôi. Thiếu kinh nghiệm, lý luận khoa học thiếu đi những chất liệu,
những tiền đề để sáng tạo. Lịch sử phát triển của các khoa học đã chứng minh
rằng, lý luận khoa học đã và luôn gắn liền với kinh nghiệm, lý luận khoa học
được hình thành nhờ phát triển từ kinh nghiệm và khắc phục những hạn chế

của kinh nghiệm; ngược lại, kinh nghiệm lại góp phần làm sáng tỏ thêm nội
hàm, làm phong phú hơn các khái niệm lý luận khoa học. Về vấn đề này, trong
“Bút ký triết học”, V.I.Lênin đã ghi lại ý kiến của A.Rây: “Mục đích của công
tác khoa học là “trừ bỏ tính chủ quan”, trừ bỏ tính cá thể của kinh nghiệm bằng
cách kéo dài và tiếp tục kinh nghiệm một cách có phương pháp” [30, tr.619],
để khẳng định vai trò của kinh nghiệm trong việc hình thành tri thức khoa học
của con người.
Như vậy có thể khẳng định rằng, kinh nghiệm là một nấc thang không thể thiếu
trong quá trình nhận thức của con người. Trong quá trình phản ánh, kinh
nghiệm thể hiện không chỉ là một trình độ mà còn là một phương pháp phản
ánh đối tượng. Khẳng định rõ điều này nghĩa là đã đánh giá đúng tính chất, cấp
độ, vai trò và giới hạn của kinh nghiệm, do đó nó là cơ sở chỉ rõ sự phát triển
tất yếu của kinh nghiệm trong quá trình nhận thức của con người. Đây là điểm
khác biệt mà chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục được những quan
điểm duy tâm cực đoan hay duy vật tầm thường về kinh nghiệm.
Tư duy con người không dừng lại ở kinh nghiệm, mà để giải quyết những vấn
đề phức tạp hơn nữa của thực tiễn, nó cần phải vươn lên tầm lý luận. Kinh
nghiệm và lý luận là hai cấp độ của quá trình nhận thức, thống nhất hữu cơ
thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Quan hệ của tri thức kinh nghiệm
với tri thức lý luận là quan hệ giữa cái riêng, cụ thể với cái chung, toàn thể.
Quá trình tổng kết, khái quát kinh nghiệm để xây dựng lý luận chính là quá
trình phát triển khách quan mang tính qui luật của nhận thức con người.


21

Từ lịch sử phát triển của nhận thức, có thể khẳng định, một mặt, tư duy kinh
nghiệm là một loại hình tư duy, do đó về mặt bản chất, tư duy kinh nghiệm
cũng là một quá trình nhận thức lý tính của con người mang tính trừu tượng
hoá, khái quát hoá để có được những tri thức về thế giới khách quan nhằm mục

đích nhận thức và cải tạo thế giới. Mặt khác, tư duy kinh nghiệm là tư duy ở
trình độ thấp nên nội hàm của nó xuất phát từ nội hàm của khái niệm kinh
nghiệm. Những tri thức mà tư duy kinh nghiệm sử dụng mới chỉ là những trải
nghiệm mang tính trực tiếp của chủ thể. Kết quả của tư duy kinh nghiệm là
những khái niệm kinh nghiệm, những tri thức mang tính xác suất, vì chúng
được hình thành thông qua con đường qui nạp. Do đó, về mặt trình độ, tư duy
kinh nghiệm là giai đoạn đầu của nhận thức lý tính của con người. Sự phân biệt
giữa tư duy kinh nghiệm và nhận thức kinh nghiệm là ở chỗ nhận thức kinh
nghiệm “là quá trình nhận thức dựa vào những tập hợp tri thức nhất định đã
được con người thu nhận, tích luỹ bằng quan sát trực quan, bằng thực nghiệm
và bằng các hoạt động có tính trực tiếp khác trong quá trình tác động giữa con
người với thế giới hiện thực” [57, tr.28]. Như vậy, nhận thức kinh nghiệm bao
gồm cả giai đoạn kinh nghiệm cảm tính và kinh nghiệm lý tính, còn tư duy
kinh nghiệm chỉ bắt đầu từ giai đoạn kinh nghiệm lý tính. Từ sự tương đồng
giữa kinh nghiệm, tư duy kinh nghiệm, nhận thức kinh nghiệm và sự khác nhau
giữa chúng, trên cơ sở kế thừa những hạt nhân hợp lý trong định nghĩa về tư
duy, về kinh nghiệm, về nhận thức kinh nghiệm, chúng tôi đưa ra quan niệm
riêng của mình về tư duy kinh nghiệm như sau:
Tư duy kinh nghiệm là một giai đoạn thấp của nhận thức lý tính, trong đó
người ta rút ra những tri thức về sự vật, hiện tượng khách quan, chủ yếu thông
qua con đường khái quát hoá kinh nghiệm- qui nạp.
Quan niệm trên đây, một mặt, chỉ ra bản chất của tư duy kinh nghiệm là một
quá trình nhận thức lý tính của con người nhằm nắm bắt và phản ánh những
quy luật, những mối quan hệ bản chất của thế giới khách quan. Mặt khác, nó


22

khu biệt đặc trưng về trình độ phản ánh của tư duy kinh nghiệm và chỉ ra
phương thức hình thành nó trong giai đoạn nhận thức lý tính của con người.

Tư duy kinh nghiệm là giai đoạn bắt đầu của tư duy theo hướng của một quá
trình ngày càng thâm nhập sâu vào hiện thực. Nó được thực hiện thông qua
việc khái quát hoá kinh nghiệm - qui nạp những tài liệu kinh nghiệm phản ánh
đối tượng được tiếp nhận trực tiếp hoặc được quan sát bằng những phương
pháp khác nhau. Vì vậy, tư duy kinh nghiệm mới chỉ thu nhận, tích luỹ được
lượng thông tin nhất định về những mối liên hệ bản chất của sự vật hiện tượng.
Những tri thức kinh nghiệm đầu tiên thường mang dấu ấn trực quan, và chưa
đầy đủ, nặng về mô tả thuộc tính bề ngoài; nhưng trong qúa trình hoạt động
thực tiễn, nó cho phép người ta khái quát hoá để rút ra những mối quan hệ bản
chất.
Nếu so với tư duy lý luận, tư duy kinh nghiệm mặc dù là trình độ nhận thức lý
tính của con người, nhưng đó là lý tính chưa sâu sắc, chưa hệ thống. Tri thức
mà tư duy kinh nghiệm đem lại chưa có khả năng bao quát toàn bộ thế giới đối
tượng như tri thức lý luận khoa học. Về bản chất của tư duy kinh nghiệm, tác
giả Hoàng Chí Bảo đã khái quát: “Tư duy kinh nghiệm tuy đã ở vào giai đoạn
nhận thức lý tính, nhưng đó là lý tính chưa đầy đủ, chưa khoa học. Tư duy kinh
nghiệm là thứ tư duy tiền khoa học” [2, tr.55]. Ngược lại, tư duy lý luận là giai
đoạn phản ánh cao của quá trình nhận thức, thông qua một loạt các thao tác tư
duy lôgíc xác định của chủ thể nhằm tạo ra các tri thức dưới dạng các khái
niệm, phạm trù, quy luật, lý thuyết với mục đích phản ánh ngày càng sâu sắc
hơn, chính xác hơn, đầy đủ hơn về bản chất đối tượng và vận dụng tri thức đó
vào thực tiễn.
Vì vậy, tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận là hai trình độ phản ánh khác
nhau của quá trình nhận thức lý tính. Ở trình độ tư duy kinh nghiệm, con người
mới chỉ phản ánh những mối liên hệ còn mang tính trực tiếp, hoặc là sự phản
ánh chưa đầy đủ về đối tượng được nhận thức. Do đó, những tri thức mà tư duy


23


kinh nghiệm rút ra được là những tri thức chưa đầy đủ, hay nói khác đi là thiên
về phản ánh mặt hiện tượng, nặng về mô tả các sự kiện. Ở trình độ cao, tư duy
lý luận là sự phản ánh trừu tượng hoá và khái quát hoá rất cao với việc sử dụng
cả những khách thể lý tưởng, nó sẽ phản ánh chính xác hơn, sâu sắc hơn, đầy
đủ hơn bản chất của sự vật, hiện tượng. Về điểm này V.I.Lênin đã nói: “Tư
duy, khi tiến lên từ cái cụ thể đến cái trừu tượng, không xa- nếu nó đúng- rời
chân lý mà đến gần chân lý… Tất cả những sự trừu tượng khoa học (đúng đắn,
nghiêm túc, không tuỳ tiện) phản ánh giới tự nhiên sâu sắc hơn, chính xác hơn,
đầy đủ hơn” [30, tr.179]. Về hình thức phản ánh, tư duy lý luận khoa học, phản
ánh chính xác những mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng thông qua hệ thống
những khái niệm, phạm trù, quy luật lý thuyết. Trong khi đó, tư duy kinh
nghiệm thường phản ánh những mối liên hệ đó nhờ những khái niệm kinh
nghiệm được diễn đạt thông qua ngôn ngữ tự nhiên. Mặt khác, giữa những khái
niệm, phạm trù trong tư duy lý luận có mối quan hệ lôgíc rất chặt chẽ với nhau
mà những khái niệm kinh nghiệm không thể có được. Như vậy, dù xuất phát từ
những tri thức chân thực thì tư duy kinh nghiệm cũng không vượt ra khỏi hiện
tượng, ít chính xác hơn, phạm vi phản ánh hẹp hơn, còn những khái quát của tư
duy lý luận thường chính xác hơn, mang tính qui luật và phổ quát, chỉ ra bản
chất của sự vật hiện tượng. Hai hình thức tư duy này khác nhau cả về trình độ
và cách thức phản ánh.
Tư duy kinh nghiệm thường phản ánh những thuộc tính, tính chất của các đối
tượng có tác động trực tiếp tới chủ thể và nhằm mục đích cải biến khách thể
hiện thực. Vì vậy đối tượng của tư duy kinh nghiệm thường là những thuộc
tính, tính chất được biểu hiện một cách trực tiếp của khách thể hiện thực.
Trong khi đó, tư duy lý luận mang tính khái quát và trừu tượng cao, vì vậy đối
tượng của nó là những khách thể trừu tượng phản ánh những thuộc tính, những
quan hệ ẩn giấu của đối tượng hiện thực. Sự khác nhau về mặt đối tượng được
xem là dấu hiệu căn bản để phân biệt hai giai đoạn kinh nghiệm và lý luận
trong nhận thức khoa học. Đồng thời, việc hình thành những khách thể trừu



24

tượng đánh dấu bước chuyển hoá về chất từ trình độ kinh nghiệm lên trình độ
lý luận trong sự phát triển của nhận thức khoa học.
Về vai trò và phạm vi tác động của tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận cũng
khác nhau. Tư duy lý luận sử dụng một hệ thống những khái niệm, phạm trù, lý
thuyết vào quá trình nhận thức nên hiệu quả hoạt động nhận thức cũng cao
hơn. Những khái niệm và phạm trù trong tư duy lý luận có nội hàm chính xác
hơn, sâu sắc hơn so với những khái niệm được tư duy kinh nghiệm sử dụng.
Do đó những khái niệm này giúp tư duy lý luận nhận thức hiện thực sâu hơn,
đầy đủ hơn, chính xác hơn và đi sâu hơn vào bản chất của đối tượng so với
những khái quát và quy luật dựa vào các khái niệm kinh nghiệm. Từ đó, có thể
nói rằng sự hệ thống hoá cũng là một dấu hiệu cơ bản phân biệt tư duy kinh
nghiệm và tư duy lý luận. Trong các hệ thống lý luận, do tính chất của sự hệ
thống hoá của tư duy trong một mức độ đáng kể phụ thuộc vào hình thức và
nội dung của những tri thức tiền đề. Cho nên, thông tin trong các tiền đề càng
khái quát về hình thức và sâu sắc về nội dung thì sự hệ thống hoá đạt được
càng mạnh hơn về mặt lôgíc, bởi vì sự hệ thống hoá sẽ giúp con người thu
nhận được những hệ quả một cách đầy đủ hơn. Như vậy, tư duy lý luận dựa
trên sự hệ thống hoá lấy những nguyên lý lý thuyết làm tiền đề đương nhiên sẽ
mạnh hơn sự hệ thống hoá dựa trên những khái niệm kinh nghiệm. Chẳng hạn
khái niệm “hàng hoá” thông thường là khái niệm kinh nghiệm chỉ các loại sản
phẩm cụ thể được đem bán hoặc trao đổi. Còn khái niệm “hàng hoá” trong
kinh tế chính trị học là một khái niệm mang tính trừu tượng hơn, khái quát hơn
chỉ ra bản chất của những sự vật được coi là hàng hoá (định nghĩa “hàng hoá”).
Nhờ khái niệm “hàng hoá” mà C.Mác đã chỉ ra nền sản xuất tư bản chủ nghĩa
là nền kinh tế hàng hoá và qui luật vận hành của nền kinh tế đó là qui luật giá
trị thặng dư. Quan hệ giữa các khái niệm lý luận và các khái niệm kinh nghiệm
có thể coi là quan hệ giữa bản chất và hiện tượng. Chính bản chất được thể

hiện trong khái niệm trừu tượng cho phép tư duy hiểu biết một cách đúng đắn
hơn, sâu sắc hơn về các hiện tượng. Chính vì vậy, tri thức lý luận sẽ có sức

×