Tải bản đầy đủ (.pdf) (162 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về con người, về xây dựng con người và sự vận dụng tư tưởng đó trong công cuộc đổi mới ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 162 trang )


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử luôn có những vĩ nhân, những anh hùng, những lãnh tụ mà
cuộc đời và sự nghiệp, tư tưởng và hành động gắn liền với một giai đoạn lịch sử,
tiêu biểu cho lý tưởng, ý chí và nguyện vọng của dân tộc và xu thế phát triển của
thời đại. Hồ Chí Minh là một trong số những người như vậy. Tên tuổi của Người
trở thành biểu tượng trường tồn mãi trong lòng dân tộc, là niềm tự hào của nhân
loại tiến bộ.
Đánh giá về những di sản vô giá của Người, Đại hội lần thứ IX của Đảng
Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan
điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là
kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta, kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hoá nhân loại”. Và do vậy, cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh trở thành nền tảng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và nhân dân
Việt Nam.
Có thể nói, trong hệ thống lý luận cách mạng của Hồ Chí Minh, tư tưởng
về con người, về xây dựng con người chiếm vị trí trung tâm, chứa đựng những giá
trị khoa học vô cùng to lớn. Quả thực, suốt cuộc đời cách mạng của mình, từ thuở
thiếu thời cho đến phút cuối cùng, Hồ Chí Minh luôn đấu tranh không mệt mỏi vì
con người, cho con người. Trước khi từ biệt thế giới này, Người còn căn dặn
Đảng và Nhà nước ta phải luôn ghi nhớ điều “Đầu tiên là công việc đối với con
người”. Những tư tưởng đúng đắn, sáng suốt của Hồ Chí Minh về con người đã
góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng giai cấp, dân tộc và con
người, tạo nên thành công của cách mạng Việt Nam trong công cuộc “kháng
chiến, kiến quốc”. Nói cách khác, luôn tôn trọng con người, chăm lo hết mực cho
con người và biết dựa vào con người,… là những nội dung chủ đạo, căn bản trong
tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và xây dựng con người. Với những tư tưởng
khoa học và có giá trị nhân văn ấy, Hồ Chí Minh không chỉ là nhà lãnh tụ thiên tài


của cách mạng Việt Nam, mà còn là một danh nhân văn hoá thế giới, một nhân

2
cách lớn mang tầm thời đại.
Ngày nay, do sự tác động, chi phối bởi thời đại và do yêu cầu của sự phát
triển đất nước, vị trí và vai trò của con người trong sự nghiệp đổi mới cũng được
nhìn lại. Trong đó, con người được coi là nhân tố nội tại, cơ bản, quyết định sự
nghiệp đổi mới.
Nhìn lại gần 30 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, vấn đề con người, xây dựng con người đã có những bước phát triển nhất
định, đời sống vật chất và đời sống tinh thần của con người ngày càng được nâng
cao… Tuy nhiên, để đáp ứng được xu thế phát triển của thời đại, thực hiện thành
công sự nghiệp đổi mới thì việc xây dựng con người toàn diện vẫn là vấn đề đặt ra
và cần được giải quyết.
Thực tiễn đất nước ta đã chứng minh rằng, mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam đều gắn liền với sự nghiệp và tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy, xây dựng
con người toàn diện trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta cần phải dựa trên những
giá trị tư tưởng của Hồ Chí Minh về con người và xây dựng con người. Đúng như
đồng chí Võ Nguyên Giáp đã nói: chúng ta cần phải phát triển sáng tạo tư tưởng
Hồ Chí Minh, xây dựng cho được một chiến lược con người, coi đó là vấn đề
trung tâm của chiến lược kinh tế - xã hội. Với những nghĩa trên, việc nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, về xây dựng con người và sự vận dụng tư
tưởng đó trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay là rất cần thiết, có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng cả về phương diện lý luận lẫn phương diện thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là phân tích một cách có hệ thống một số
nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và xây dựng con
người. Từ đó làm sáng tỏ một số vấn đề về xây dựng con người trong công cuộc
đổi mới ở nước ta hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh qua sự vận dụng của Đảng
Cộng sản Việt Nam.

Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của luận án là:
Thứ nhất, trình bày và phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và
xây dựng con người.

3
Thứ hai, phân tích sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và xây
dựng con người trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
Thứ ba, nêu ra một số định hướng và giải pháp tiếp tục xây dựng con người
trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
3.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận án là quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin,
đặc biệt là di sản lý luận của Hồ Chí Minh về con người và xây dựng con người;
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con người và xây dựng con người;
đồng thời luận án cũng kế thừa, có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các
nhà khoa học đi trước có liên quan trực tiếp đến đề tài luận án.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận duy vật
biện chứng, các phương pháp cơ bản: logic - lịch sử, diễn dịch – quy nạp, phân
tích – tổng hợp và các phương pháp cụ thể: thống kê, so sánh,
4. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, về xây
dựng con người và sự vận dụng tư tưởng đó trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam
hiện nay nên đã xác định đối tượng và phạm vi nghiên cứu là:
Thứ nhất: về đối tượng nghiên cứu, luận án tập trung nghiên cứu tư tưởng
Hồ Chí Minh về con người và xây dựng con người; tập trung nghiên cứu thực tiễn
xây dựng con người Việt Nam trong công cuộc đổi mới.
Thứ hai: về phạm vi nghiên cứu, luận án tập trung nghiên cứu tư tưởng Hồ
Chí Minh về con người, về xây dựng con người, nghiên cứu về con người và xây
dựng con người trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay trong phạm vi lãnh

thổ Việt Nam.
5. Những đóng góp mới của luận án
Một là, hệ thống hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và xây dựng
con người.
Hai là, góp phần làm rõ sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
và xây dựng con người của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới ở

4
Việt Nam hiện nay.
Ba là, luận giải một số định hướng và giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục xây
dựng con người theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam
hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án.
Với những kết quả đã đạt được, luận án có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo trong việc học tập, giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và
xây dựng con người; trong việc học tập, giảng dạy triết học về vấn đề xây dựng
và phát triển con người Việt Nam trong các trường cao đẳng và đại học ở nước ta.
Đồng thời, luận án cũng có giá trị tham khảo, phục vụ cho công tác hoạch định
chính sách, xây dựng, bồi dưỡng và phát triển con người ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án gồm 4 chương, 10 tiết.





















5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một di sản lý luận quý báu của Đảng và nhân
dân Việt Nam. Với tính cách là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành
động của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng về con người và xây
dựng con người nói riêng đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu và phân tích.
Không chỉ có vậy, nhiều cuộc hội thảo khoa học về thân thế, sự nghiệp và tư
tưởng của Người đã được tổ chức ở các cấp độ quốc gia và quốc tế.
Nhìn chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, về xây dựng con người
được nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau với những cách tiếp cận khác nhau
nhằm khai thác những khía cạnh, nội dung khác nhau tùy thuộc mục đích nghiên
cứu đặt ra. Riêng đề tài nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, về xây
dựng con người và sự vận dụng tư tưởng đó trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam
hiện nay, tác giả đã khai thác một khối lượng lớn tư liệu và các công trình nghiên
cứu liên quan đến nội dung của luận án nhằm kế thừa và tiếp tục nghiên cứu
những vấn đề mang tính gợi mở. Do vậy, có thể tạm chia các tư liệu này theo cấu
trúc vấn đề của luận án dựa trên những nhiệm vụ cần triển khai nhằm thực hiện

mục tiêu của luận án đề ra. Theo cấu trúc vấn đề của luận án đặt ra thì các tư liệu
có thể được tổng quan theo một số nhóm vấn đề theo thứ tự:
1.1. NHÓM TƯ LIỆU NGHIÊN CỨU TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN
ĐỀ CON NGƯỜI, XÂY DỰNG CON NGƯỜI.
1.1.1. Các tư liệu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề con người
1.1.1.1. Một số tư liệu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và
bản chất của con người
Trong số các công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề con
người, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu: trong cuốn Tư tưởng Hồ
Chí Minh về con người và chính sách xã hội của Lê Sĩ Thắng (chủ biên), Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tác giả đã đi sâu vào phân tích quan niệm Hồ
Chí Minh về con người, chỉ rõ rằng, con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không
phải là con người chung chung, trừu tượng mà là con người cụ thể, tồn tại và phát
triển trong những điều kiện lịch sử cụ thể nhất định; rằng, con người được đặt trong
các mối quan hệ với vũ trụ, tự nhiên, với các tộc loại, với cộng đồng, với nhóm xã

6
hội và với chính bản thân mình.
Trong bài Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người của Vũ Thị Kim Dung,
, tác giả đã tiếp cận tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
từ hai phương diện: con người tồn tại với tư cách cá nhân và con người tồn tại với tư
cách thành viên của gia đình và của cộng đồng xã hội, có cuộc sống tập thể và cuộc
sống cá nhân hài hòa phong phú. Hai mặt đó tồn tại trong mối quan hệ biện chứng
giữa cá nhân với cộng đồng, dân tộc giai cấp, nhân loại. Theo tác giả, tư tưởng đó thể
hiện rất triệt để và cụ thể trong lý luận chỉ đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Công trình nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con
người Việt Nam phát triển toàn diện của Thành Duy, Nhà xuất bản Khoa học xã hội,
2001, đề cập đến bản chất con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo tác giả, bản
chất con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải được xét ở hai mặt, tự nhiên và

xã hội. Hai mặt đó luôn tác động biện chứng qua lại với nhau, gắn liền với quá trình
phát triển của xã hội.
Bài Con người – vấn đề cốt lõi trong triết lý phát triển Hồ Chí Minh trong
cuốn Phát triển văn hóa – con người Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh của
Hoàng Anh, Nguyễn Duy Bắc, Phạm Văn Thủy, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2010, đã tập trung phân tích triết lý phát triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
đó là nâng cao giá trị con người ở các khía cạnh: con người là vốn quý, con người là
mục tiêu, động lực, là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng, giáo dục con
người mới với những giá trị văn hóa và nhân văn.
Bên cạnh đó còn có các bài báo khoa học đăng trên các tạp chí chuyên
ngành, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về con người. Đó là, Quan điểm Hồ Chí
Minh về con người và bản chất con người của Đặng Xuân Kỳ, Tạp chí Triết học,
số 10, 2002. Ở đây, tác giả đã phân tích và nhấn mạnh rằng con người trong tư
tưởng Hồ Chí Minh được đặt trong mối quan hệ ba chiều: quan hệ với cộng đồng
nhất định, trong đó mỗi con người là một thành viên; quan hệ với một xã hội nhất
định, trong đó con người làm chủ hay bị áp bức, bóc lột; quan hệ với tự nhiên,
trong đó con người không tách rời tự nhiên.
Bài Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và phát huy nhân tố con người
của Nguyễn Văn Tài, Tạp chí Triết học số 2, 2004, đã phân tích tư tưởng Hồ Chí
Minh về con người với tư cách một thực thể xã hội, bao hàm sự thống nhất giữa

7
con người cá nhân và con người xã hội, sự thống nhất giữa con người với dân tộc,
giai cấp và nhân loại.
Có thể thấy rằng, qua các công trình nghiên cứu của mình, các tác giả đã
tập trung đề cập đến quan điểm của Hồ Chí Minh về con người ở các phương diện
con người sinh học, con người xã hội; phân tích con người trong các mối quan hệ
gia đình, dân tộc, giai cấp, nhân loại. Trên cơ sở đó tạo tiền đề cho việc nghiên
cứu các nội dung khác liên quan đến vấn đề con người, như đấu tranh giải phóng
con người, xây dựng và phát triển con người.

1.1.1.2. Một số tư liệu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề vai
trò của con người
Có nhiều công trình nghiên cứu bàn đến vai trò của con người trong tư
tưởng Hồ Chí Minh. Trong số đó có thể kể đến: Một số vấn đề nhân văn Hồ Chí
Minh của Mạch Quang Thắng, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 1, 2004; Tư tưởng Hồ
Chí Minh về lấy dân làm gốc của Phạm Bá Lượng, Tạp chí Triết học, số 5, 2005;
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp cách mạng
Việt Nam của Nguyễn Thị Thu Hiền trong Kỷ yếu hội thảo khoa học về vai trò
của Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam của Trung tâm bồi dưỡng giảng
viên lý luận chính trị, Hà Nội, 2005. Đặc biệt, trong Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự
nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Vũ Đình Hòe, Bùi
Đình Phong (đồng chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010, các
tác giả đã phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về động lực của chủ nghĩa xã hội,
trong đó nhấn mạnh đến động lực con người là động lực quan trọng nhất. Các tác
giả đã chỉ rõ, theo Hồ Chí Minh, động lực quan trọng nhất, quyết định nhất là
động lực con người, là quần chúng nhân dân lao động, nòng cốt là công, nông, trí
thức. Hồ Chí Minh đã nhận thấy ở động lực này có sự kết hợp giữa cá nhân với xã
hội. Khẳng định vai trò động lực con người của chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí
Minh là tiền đề cho tư tưởng của Người về giải phóng con người, xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Như vậy, có thể thấy rằng, trong các công trình nghiên cứu đó, các tác giả
đã phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân
trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước, coi quần chúng
nhân dân là lực lượng chính của cuộc cách mạng, là chủ thể sáng tạo lịch sử và là
sản phẩm của lịch sử.

8
Kết quả của các công trình nghiên cứu trên đã cung cấp cho tác giả luận án
những dữ liệu quan trọng để trên cơ sở đó tác giả tiếp cận quan điểm Hồ Chí
Minh về con người là động lực của sự phát triển xã hội.

1.1.1.3. Một số tư liệu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải
phóng con người
Giải phóng con người là một trong những vấn đề cơ bản trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về con người. Vấn đề này đã được một số tác giả nghiên cứu, trong đó
tập trung phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về giải phóng con người phải
thông qua cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã
hội; giải phóng con người phải mang đến cho con người cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, đưa con người thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu. Tính ưu việt của chủ
nghĩa xã hội là giải phóng con người, xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc và bình đẳng cho tất cả quần chúng nhân dân lao động. Ở đây, có thể kể đến
Tìm hiểu quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội của Phạm Vũ
Quyết Thắng trong cuốn Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, chương trình KX –
02, tập 1, Viện Hồ Chí Minh xuất bản, Hà Nội, 1993; Sự thống nhất giữa giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người
trong tư tưởng Hồ Chí Minh của Nguyễn Bá Linh trong cuốn Nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh, chương trình KX – 02, tập 3, Viện Hồ Chí Minh xuất bản,
Hà Nội, 1993.
Bên cạnh đó, còn có các cuộc hội thảo khoa học trên thế giới về cuộc đời
và sự nghiệp của Hồ Chí Minh, qua đó làm nổi bật tư tưởng của Người về vấn đề
giải phóng con người. Đó là: Hội thảo chuyên đề về cuộc đời, sự nghiệp và tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Árgentina, 2010; Hội thảo giới thiệu về thời
kỳ hoạt động của Bác Hồ tại Thái Lan, 2011; Hội thảo về Di sản Hồ Chí Minh,
Hợp tác Pháp Việt tại Pari nhân kỷ niệm 100 năm Hồ Chí Minh đến Pháp và 65
năm Hồ Chí Minh thăm Pháp với tư cách là khách mời của Chính phủ Pháp.
Các công trình nghiên cứu này đã tập trung làm sáng tỏ tư tưởng Hồ Chí
Minh về con người từ các khía cạnh khác nhau: bản chất con người, vị trí và vai
trò của con người, vấn đề giải phóng con người. Có thể nói, đây là nguồn cung
cấp cho tác giả luận án những dữ liệu quan trọng như là cơ sở luận cứ mang tính
lý luận khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về con người.



9
1.1.2. Các tư liệu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề xây
dựng con người
Với nhiều cách tiếp cận khác nhau, nội dung của nhóm tư liệu này thể hiện
ở các hướng nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh liên quan đến các vấn đề giáo dục
đạo đức, phát triển trí lực, phát triển thể lực, phát triển năng lực thẩm mỹ.
1.1.2.1. Một số tư liệu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
đạo đức
Trong cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người Việt
Nam phát triển toàn diện của Thành Duy, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2001, tác giả phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của giáo dục -
đào tạo trong việc giáo dục đạo đức con người nhằm góp phần xây dựng con
người Việt Nam phát triển toàn diện.
Trong luận án tiến sĩ Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn
diện của Nguyễn Hữu Công, bảo vệ 2001, tác giả tập trung nghiên cứu tư tưởng Hồ
Chí Minh về vai trò của đạo đức, đặc biệt là đạo đức cách mạng. Trên cơ sở đó, tác
giả phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng, giáo dục đạo đức cho con người
nhằm góp phần tạo ra những con người, những thế hệ người đáp ứng được yêu cầu
của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong cuốn Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo của Viện Hồ Chí Minh và
các lãnh tụ của Đảng, Nhà xuất bản Lao động - xã hội, Hà Nội, 2007, có một số
bài đề cập đến vấn đề này. Ở đây có thể kể đến: bài Hồ Chí Minh với vấn đề giáo
dục đạo đức cách mạng cho thanh niên của Phạm Tuấn Xuân Tước đã phân tích
vị trí, vai trò của thanh niên và tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức
cách mạng cho thanh niên trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, tác giả
phân tích nội dung giáo dục, phương châm, phương pháp giáo dục đạo đức cách
mạng cho thanh niên trong tư tưởng Hồ Chí Minh; bài Tìm hiểu những lời dạy
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng cho thanh
niên sinh viên của Nguyễn Thị Mỹ Trang đã tiếp cận hai vấn đề, đó là giáo dục lý

tưởng và giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên sinh viên. Trong đó, tác giả
nhấn mạnh, đối với Hồ Chí Minh giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên
sinh viên phải tuân thủ nguyên tắc: đạo đức cách mạng của chúng ta hoàn toàn
phục tùng lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, rằng trong tu dưỡng đạo đức của mình
hay giáo dục đạo đức cho người khác phải nhớ rằng chúng ta đứng trên lập trường

10
nào, yêu ai, ghét ai và phải làm gì cho Tổ quốc, cho nhân loại.
Trong Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh do Phạm Ngọc Anh (chủ biên),
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội, 2009, đề cập đến nhiều vấn đề trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người như mối quan hệ giữa văn hóa với đời
sống con người, chức năng của văn hóa trong việc xây dựng và phát triển con
người, trong đó tác giả chú tâm phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về những chuẩn
mực đạo đức cách mạng. Trên cơ sở đó, phân tích tư tưởng của Người về giáo dục
đạo đức cho con người.
Giáo trình Triết học (dành cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không
chuyên ngành triết học) do Đoàn Quang Thọ (chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị -
Hành chính Quốc gia, Hà Nội, 2008, đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh về phát
triển con người, cho rằng con người phát triển toàn diện phải có đủ đức, đủ tài,
phải xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn cách mạng.
Bài Giáo dục và rèn luyện đạo đức đảng viên trong cuốn Thấm nhuần tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh của Phạm Văn Khánh, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2010, đã tiếp cận vấn đề giáo dục đạo đức cho đảng viên. Tác giả
nhấn mạnh, theo Hồ Chí Minh, người đảng viên phải có đạo đức cách mạng mới
hoàn thành nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Do đó, cần giáo dục đạo đức cách mạng
cho đảng viên ở các phương diện: nhận rõ mục đích, động cơ vào Đảng; tự
nguyện phục vụ nhân dân và làm đúng chính sánh của Đảng. Theo đó, tác giả
phân tích vấn đề mấu chốt quyết định trong giáo dục, rèn luyện đạo đức của người
đảng viên là sự tự giáo dục, tự rèn luyện, phải kiên trì, phải có kỷ luật
Trong Một số vấn đề cơ bản về triết lý phát triển trong tư tưởng Hồ Chí

Minh của Thành Duy, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2010, tác giả luận
giải quan điểm của Hồ Chí Minh về phát triển con người từ việc tiếp cận vai trò,
mục tiêu, động lực của con người trong cuộc cách mạng xã hội. Từ đó khẳng định
quan điểm Hồ Chí Minh về phát triển con người, đó là lấy việc tu dưỡng đạo đức
làm trung tâm, lấy văn hóa làm phương tiện xây dựng con người mới.
Có thể thấy rằng, trong các tư liệu trên, các tác giả đã tập trung nghiên cứu
vai trò, phương châm, chuẩn mực của giáo dục đạo đức cách mạng cho con người
trong tư tưởng Hồ Chí Minh, mối quan hệ giữa đạo đức và các lĩnh vực khác của
đời sống xã hội dưới góc độ văn hóa, chính trị, giáo dục Kết quả nghiên cứu của
những công trình trên cung cấp luận cứ quan trọng để tác giả luận án kế thừa và

11
nghiên cứu một số nội dung về bồi dưỡng, giáo dục đạo đức, đặc biệt là đạo đức
cách mạng cho con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh dưới góc độ triết học.
1.1.2.2. Một số tư liệu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng
và nâng cao trí lực của con người
Về vấn đề này có thể kể đến một số công trình nghiên cứu:
Trong công trình nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con
người toàn diện, luận án tiến sĩ của Nguyễn Hữu Công, bảo vệ năm 2001, đã đề
cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao trí lực của con người. Tác giả nhấn
mạnh chủ trương của Người về vấn đề này là trước hết phải chú trọng giáo dục lý
tưởng cách mạng bởi đó là định hướng chính trị xuyên suốt, soi sáng cho nhận
thức và hành động của mọi người Việt Nam yêu nước. Tiếp đó, theo Hồ Chí Minh
phải xóa nạn mù chữ, bởi đây là công việc đầu tiên của phổ cập giáo dục, nâng
cao trí tuệ trong chiến lược xây dựng con người.
Bài Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển giáo dục đào tạo nhân tài của Chu
Thái Thành, Tạp chí Cộng sản, số 18, tháng 9 – 2005, phân tích mục tiêu của nền
giáo dục mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh là phải nâng cao dân trí. Một trong
những biện pháp để nâng cao dân trí là đa dạng hóa các loại hình đào tạo để tạo
điều kiện cho người lao động, cán bộ, chiến sĩ được đi học.

Trong cuốn Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo của Viện Hồ Chí Minh và
các lãnh tụ Đảng, Nhà xuất bản Lao động – xã hội, năm 2007, có một số bài đề
cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển trí lực của con người. Đó là trong bài
Hồ Chí Minh với vấn đề phát triển giáo dục nâng cao dân trí của Phạm Tất Dong
đã phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của giáo dục đối với sự phát
triển con người về mặt trí lực. Bài Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục – đào tạo
của Nguyễn Khánh Bật đã nhấn mạnh sự lên án, phê phán gay gắt của Hồ Chí
Minh đối với thực dân Pháp trong việc cai trị dân tộc ta, rằng một trong những thủ
đoạn hủ hóa dân tộc ta mà thực dân Pháp thực hiện triệt để là lập ra nhà tù nhiều
hơn trường học, giam hãm nhân dân ta trong vòng dốt nát. Theo đó, tác giả nhấn
mạnh quan điểm của Hồ Chí Minh đối với việc phát triển con người về mặt trí lực
là cần phải hủy bỏ nền giáo dục nô lệ, rằng chúng ta có nhiệm vụ cấp bách phải
giáo dục lại nhân dân chúng ta trên cơ sở một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam.
Bài Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người, phát triển giáo dục,
nâng cao dân trí của Đỗ Huy trong cuốn Giá trị di sản tư tưởng Hồ Chí Minh góp

12
phần xây dựng con người mới Việt Nam do Nguyễn Văn Dương (chủ biên), Nhà
xuất bản Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 2010, đã phân tích quan điểm của Hồ Chí
Minh về phát triển con người toàn diện, trong đó nhấn mạnh việc giáo dục đào tạo
nhằm nâng cao dân trí. Tác giả chỉ rõ, theo Hồ Chí Minh, để nâng cao dân trí cần
có một chiến lược giáo dục sâu, rộng, dài, bao gồm các bước đi, những giai đoạn,
những chiến dịch có nội dung, mục tiêu cụ thể. Tác giả nhấn mạnh, trong tư tưởng
của Người, để thực hiện nâng cao dân trí có hiệu quả cần xóa nạn mù chữ, cần trí
thức hóa công nông, công nông hóa trí thức, trong truyền đạt tri thức phải lấy con
người làm trung tâm, phải gắn nhà trường với gia đình và xã hội.
Qua trên, chúng ta thấy rằng, các tác giả tập trung phân tích quan điểm của
Hồ Chí Minh về phát triển trí lực con người ở các khía cạnh: xóa nạn mù chữ, xóa
bỏ nền giáo dục nô lệ, giáo dục lý tưởng cách mạng , nhằm nâng cao dân trí. Kết
quả nghiên cứu của các nhà khoa học đã cung cấp cho tác giả luận án một số dữ

liệu để tác giả luận án phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng và nâng cao
trí lực con người.
1.1.2.3. Một số tư liệu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao
thể lực của con người
Ở khía cạnh nghiên cứu này, có một số công trình nghiên cứu tiêu biểu:
Trong luận án tiến sĩ Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn
diện của Nguyễn Hữu Công, bảo vệ năm 2001, đã luận giải quan điểm của Hồ
Chí Minh về vai trò của thể lực, sức khỏe con người trong đời sống mỗi cá nhân
và cả cộng đồng. Trên cơ sở đó, tác giả phân tích một số biện pháp nhằm nâng
cao thể lực con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là, cần phải cải thiện và
nâng cao không ngừng đời sống vật chất cho các tầng lớp nhân dân, tăng cường
vệ sinh phòng bệnh, chăm sóc y tế, luyện tập thể dục, thể thao.
Trong cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về thể dục thể thao của Trương Quốc
Uyên, Nhà xuất bản Thể dục thể thao, Hà Nội, 2005, tác giả đã đi sâu phân tích
quan điểm của Hồ Chí Minh về sức khỏe của nhân dân, coi đó như một nhân tố
tiền đề, ảnh hưởng to lớn đối với sự nghiệp xây dựng nước nhà giàu mạnh, hưng
thịnh. Do đó, việc Đảng, Nhà nước và các cấp, các ngành chăm sóc sức khỏe cho
nhân dân là sự thể hiện tinh thần cách mạng vì hạnh phúc con người và giống nòi,
vì tương lai của đất nước.
Bài Tư tưởng Hồ Chí Minh với công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân của

13
Đăng Bình, , 2013, đã phân tích quan
niệm của Hồ Chí Minh về sức khỏe bao gồm cả sự lành mạnh về thể xác lẫn sự
lành mạnh về tinh thần. Tác giả chỉ rõ, trong tư tưởng Hồ Chí Minh chăm sóc sức
khỏe phải bằng cả biện pháp vật chất lẫn biện pháp tinh thần. Người thầy thuốc
chẳng những phải có nhiệm vụ cứu chữa bệnh tật, mà còn phải nâng đỡ tinh thần
cho những người ốm yếu. Cần phải xây dựng một nền y học Việt Nam hiện đại
xuất phát từ điều kiện Việt Nam, lấy nhân tố con người làm cơ sở. Tác giả cũng
phân tích phương châm chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân trong tư tưởng Hồ

Chí Minh là phòng bệnh hơn chữa bệnh, các biện pháp phòng bệnh gồm vệ sinh
môi trường, vệ sinh cá nhân, ăn ở sạch sẽ, thể dục thể thao.
Tóm lại, trong các công trình nghiên cứu trên, các tác giả đã luận giải tư
tưởng Hồ Chí Minh về sức khỏe con người, các biện pháp để chăm sóc sức khỏe
con người, vai trò của người thầy thuốc trong việc chữa, trị và chăm sóc sức khỏe
con người. Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học cung cấp cho tác giả luận án
một số dữ liệu để tác giả luận án phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng và
chăm sóc sức khỏe con người về mặt thể lực. Đồng thời gợi mở cho tác giả luận
án nghiên cứu thực trạng tâm lực của con người Việt Nam hiện nay.
1.1.2.4. Một số tư liệu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển
năng lực thẩm mỹ của con người
Trong cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn học và mỹ học của Cù Huy Chử,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, đã tập trung phân tích di sản tư
tưởng mỹ học Hồ Chí Minh ở các khía cạnh: quan niệm và hành động của Hồ Chí
Minh về nghệ sĩ cũng là chiến sĩ; cái đẹp, đối với Hồ Chí Minh, là cuộc sống con
người trong cõi đời có thật, toàn vẹn, phong phú, vận động biến đổi và đầy say
mê; thống nhất, hài hòa cái cổ truyền và hiện đại, thời đại, góp phần tạo nên
truyền thống mới; phát hiện nâng cao, sáng tạo giá trị con người trong tư tưởng
thẩm mỹ của Hồ Chí Minh.
Trong Giáo trình mỹ học Mác - Lênin do Vũ Trọng Dung (chủ biên), Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008, đã phân tích tư tưởng mỹ học của Hồ
Chí Minh ở các phương diện: mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống con
người, xây dựng nền văn hóa nghệ thuật mới mang tính dân tộc, tính nhân dân,
tính hiện thực, tính thời đại, phải có sự giao lưu văn hóa.
Bài Giáo dục, hướng dẫn thị hiếu văn hóa, nghệ thuật cho quần chúng

14
trong cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng con
người mới, văn hóa mới của Nguyễn Trung Thu, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
– Sự thật, Hà Nội, 2013, tác giả đã phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về một số

biện pháp nhằm giáo dục, hướng dẫn thị hiếu văn hóa nghệ thuật cho quần chúng,
đó là giáo dục, chăm sóc, đào tạo chu đáo đội ngũ những người sáng tác, bằng
mọi cách sáng tạo nên những tác phẩm văn hóa nghệ thuật có giá trị cao để nâng
cao trình độ hiểu biết, trình độ thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ cho quần chúng; phải
đặt lên hàng đầu việc giáo dục tình cảm, đạo đức, lối sống đẹp; phải tăng cường
giáo dục thị hiếu văn hóa nghệ thuật trong nhà trường, qua một số chương trình
trên đài truyền hình, đài phát thanh, báo chí, trong các nhà văn hóa, các câu lạc
bộ, thư viện.
Ngoài ra, còn có rất nhiều bài báo khoa học được đăng tải trên các tạp chí
chuyên ngành bàn đến các khía cạnh liên quan đến vấn đề phát triển con người
trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Ở đây, có thể kể đến một số bài tiêu biểu: Trồng cây
và trồng người của Vũ Khiêu, Tạp chí Triết học số 4, 1990; Tư tưởng Hồ Chí
Minh về con người và chiến lược trồng người của Thành Duy, Tạp chí Công tác
khoa giáo, số 12, 1997. Các bài Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo con
người mới xã hội chủ nghĩa của Nguyễn Thị Giang; Hồ Chí Minh với giáo dục
lòng yêu nước cho thế hệ trẻ của Thái Văn Long trong cuốn Hồ Chí Minh về giáo
dục và đào tạo của Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ Đảng, Nhà xuất bản Lao
động – xã hội, Hà Nội, 2007.
Qua các công trình nghiên cứu trên, chúng ta thấy, các tác giả tập trung
phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thẩm mỹ cho con người ở các khía
cạnh: xây dựng mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, xây dựng nền văn hóa
nghệ thuật mang tính nhân dân, dân tộc, thời đại, qua đó bồi dưỡng năng lực
thẩm mỹ cho con người. Bên cạnh đó, các tác giả còn đề cập đến biện pháp giáo
dục thị hiếu thẩm mỹ, văn hóa nghệ thuật cho con người trong tư tưởng Hồ Chí
Minh. Sự phân tích đó đã cung cấp một số luận cứ để tác giả luận án luận giải tư
tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng và giáo dục thẩm mỹ cho con người ở khía
cạnh: xây dựng lý tưởng thẩm mỹ, bồi dưỡng tri thức thẩm mỹ cho con người.
Qua trên, chúng ta thấy rằng các công trình nêu trên đã khái quát được
những nét lớn chủ yếu trong tư tưởng về giáo dục, phát triển con người của Hồ
Chí Minh. Một số công trình nghiên cứu đã đi sâu nghiên cứu những khía cạnh cụ


15
thể của tư tưởng đó và nêu ra những ý kiến đặc sắc. Kết quả của các công trình
nghiên cứu đó, một mặt, là những dữ liệu để tác giả luận án kế thừa, mặt khác, gợi
mở hướng nghiên cứu các vấn đề mới của luận án về vấn đề con người, xây dựng
con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh; thực trạng xây dựng con người Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới qua sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.1.3. Các tư liệu nghiên cứu giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
con người đối với việc xây dựng con người ở Việt Nam hiện nay
Ở các tư liệu nghiên cứu này, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu
tiêu biểu:
Trong luận án tiến sĩ Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục – đào
tạo thanh niên ở nước ta hiện nay của Đoàn Nam Đàn, bảo vệ năm 2000, đã phân
tích tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục – đào tạo thanh niên. Trên cơ sở của sự
phân tích đó, tác giả phân tích thực trạng của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục – đào tạo thanh niên ở nước ta hiện nay trong các nội dung:
thực hiện quan điểm toàn diện; thực hiện phương châm học đi đôi với hành, lý
luận gắn liền với thực tiễn; sự kết hợp gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội
trong việc giáo dục – đào tạo thanh niên; công tác đoàn kết, tập hợp thanh niên
vào các tổ chức đoàn thể để giáo dục. Theo tác giả, kết quả của sự vận dụng này
đã phát triển được những năng lực sẵn có của thanh niên, tạo nên những thanh
niên là những công dân hữu ích cho đất nước. Tuy nhiên, việc chăm lo giáo dục –
đào tạo thanh niên vẫn còn bất cập và hạn chế, đòi hỏi cần phải có một giải pháp
hữu hiệu để khắc phục tình trạng đó.
Luận án tiến sĩ Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người với việc phát huy nhân
tố con người trong công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay của Lê
Quang Hoan, bảo vệ năm 2000, đã phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của
con người đối với sự phát triển xã hội và việc xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa là một chiến lược cơ bản lâu dài ở Việt Nam. Từ việc phân tích đó, tác giả

tập trung vào việc làm rõ một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy nhân tố con
người trong công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước hiện nay.
Luận án tiến sĩ Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện
của Nguyễn Hữu Công, bảo vệ năm 2001, đã đề cập đến những nội dung cơ bản
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện. Từ đó, tác giả

16
khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh không những có tác dụng to lớn trong việc chỉ
đạo giáo dục - đào tạo, phát triển con người toàn diện trước đây mà còn là ánh
sáng định hướng cho chiến lược con người, xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Bài Đạo lý làm người của Bác Hồ - chuẩn mực để xây dựng con người Việt
Nam của Trần Viết Hoàn trong cuốn Giá trị di sản tư tưởng Hồ Chí Minh góp
phần xây dựng con người mới Việt Nam của Nguyễn Văn Dương (chủ biên), Nhà
xuất bản Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2010, đã tiếp cận đạo lý làm người của Hồ
Chí Minh từ phương diện đạo đức với các đức tính: sống có tình, trung thành với
Tổ quốc, cần, kiệm, liêm, chính, khiêm tốn, giản dị Từ cách tiếp cận đó, tác giả
chỉ rõ để xây dựng đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa lành mạnh trong xã hội
trước hết trong các tổ chức Đảng và Nhà nước, trong các đoàn thể quần chúng và
trong từng gia đình chỉ có thể học đạo lý làm người của Hồ Chí Minh.
Bài Xây dựng đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên quân đội theo tư
tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay của Nguyễn Đình Hùng trong cuốn
Giá trị di sản tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần xây dựng con người mới Việt Nam
của Nguyễn Văn Dương (chủ biên), Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, Hà Nội,
2010, đã phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng. Trên cơ sở của
sự phân tích đó, tác giả chỉ rõ, trong bối cảnh hiện nay, vấn đề xây dựng đạo đức
cách mạng của cán bộ, đảng viên quân đội theo tư tưởng Hồ Chí Minh là rất cần
thiết và quan trọng. Việc xây dựng đó phải tuân theo những nội dung, tiêu chuẩn
chung về đạo đức cách mạng của đảng viên trong toàn Đảng, đó là phải yêu nước,
yêu dân, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, gương mẫu và tự rèn luyện.

Trong cuốn Bồi dưỡng đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho
đội ngũ cán bộ doanh nghiệp quân đội của Đặng Sỹ Lộc, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, đã đi sâu phân tích và luận giải khoa học cơ sở
lý luận, thực tiễn, đồng thời đề xuất hệ thống giải pháp cơ bản, đồng bộ nhằm
nâng cao chất lượng bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ doanh
nghiệp quân đội hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Bài Những định hướng chính trị cơ bản đối với sự phát triển xã hội theo
quan điểm của Hồ Chí Minh của Nguyễn Đình Hòa, Tạp chí Triết học số 9, 2012,
tác giả luận giải nhằm làm rõ những định hướng chính trị cơ bản đối với sự phát
triển của dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong những định hướng chính trị

17
cơ bản đó, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là định hướng chính trị
cốt lõi, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của sự nghiệp cách mạng cũng như chiến lược
xây dựng và phát triển xã hội. Dân sinh hạnh phúc là định hướng chính trị thể
hiện giá trị của độc lập dân tộc, bản chất nhân đạo, tính ưu việt của chủ nghĩa xã
hội. Dân chủ là định hướng chính trị khẳng định vị thế, vai trò người của nhân
dân trong xã hội. Tất cả những định hướng chính trị đó, xét đến cùng, đều hướng
đến mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người.
Bài Quán triệt quan điểm của Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận chính trị
cho cán bộ, đảng viên của Lê Văn Yên, Tạp chí Lý luận chính trị, số 8, 2012, từ
việc luận giải quan điểm có tính chất nền tảng của Hồ Chí Minh về công tác giáo
dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên, theo tác giả, trong giai đoạn hiện nay,
do sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống với những biểu hiện khác
nhau như sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân nên việc giáo dục lý
luận chính trị cho cán bộ, đảng viên là hết sức cần thiết, là yêu cầu khách quan.
Để làm tốt công tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên cần phải nắm
vững quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò, mục đích, nội dung, yêu cầu,
phương pháp giáo dục.
Qua sự phân tích trên, chúng ta thấy, các tác giả của các công trình nghiên

cứu đã tập trung luận giải giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và xây dựng
con người trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay ở các phương diện đạo
đức, giáo dục, phát triển con người và xây dựng xã hội Các kết quả nghiên cứu
đó giúp tác giả luận án tiếp cận sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về con người,
xây dựng con người của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới.
1.2. NHÓM TƯ LIỆU NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ CON NGƯỜI, XÂY DỰNG
CON NGƯỜI TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.2.1. Các tư liệu nghiên cứu quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về con người, xây dựng con người
Ở đây có thể kể đến một các tư liệu, công trình nghiên cứu: Quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người trong sự nghiệp đổi mới, của Lê
Văn Tuấn, luận văn thạc sĩ, bảo vệ năm 1999; Một số quan điểm cơ bản về phát
triển con người Việt Nam và thực trạng phát triển con người Việt Nam của Hoàng
Thanh Sơn, luận văn thạc sĩ, bảo vệ 2005; Vấn đề phát triển con người Việt Nam
hiện nay của Bùi Phương Thùy, luận văn thạc sĩ, bảo vệ năm 2008. Điểm chung ở

18
các tư liệu này là đã nêu ra một số quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
con người và phát triển con người ở hai thời kỳ: thời kỳ trước đổi mới và thời kỳ
đổi mới. Từ cách tiếp cận quan điểm của Đảng về vai trò mục tiêu và động lực
phát triển xã hội của con người, các tác giả đã tiếp cận quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về phát triển con người, đó là phát triển con người Việt Nam toàn
diện về thể lực, trí tuệ, đạo đức; cần phải giải phóng con người khỏi áp bức, bóc
lột, bất công.
Trong cuốn Con người và văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội
nhập của Nguyễn Văn Dân, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà nội, 2011, tác giả
đã tiếp cận quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con người và văn hóa
trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế. Tác giả chỉ rõ, trong thời kỳ đổi mới và
hội nhập quốc tế, Đảng ta chủ trương xây dựng con người mới và văn hóa mới
theo tinh thần nhân văn của Hồ Chí Minh. Đó là, Đảng đưa ra các quan điểm chỉ

đạo cơ bản để phát triển văn hóa: xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân, xây dựng và
phát triển văn hóa là một sự nghiệp phát triển lâu dài. Tác giả cũng nhấn mạnh
quan điểm của Đảng về nhiệm vụ phát triển văn hóa nhằm phát triển con người:
xây dựng môi trường văn hóa, phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo và khoa học
công nghệ, mở rộng và hợp tác quốc tế về văn hóa, xây dựng con người Việt Nam
với các đức tính yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc…
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đặc biệt là trong thời
kỳ đổi mới, quan điểm của Đảng ta luôn hướng đến vấn đề: văn hóa dù ở khía
cạnh rộng hay hẹp khác nhau đều hướng đến tính nhân sinh của nó như một nhân
tố quan trọng, một mặt trận không thể thiếu trong sự nghiệp cách mạng của mình.
Nghiên cứu quan điểm đó của Đảng có Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển văn
hóa trong thời kỳ đổi mới của Nguyễn Danh Tiên, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2012. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả tiếp cận nhiệm vụ
trọng tâm của cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa mà Đảng ta đã xác định, đó là
xây dựng một nền văn hóa mới và con người mới xã hội chủ nghĩa. Từ cách tiếp
cận đó, tác giả nghiên cứu: quá trình trình bổ sung và phát triển đường lối văn hóa
từ 1986 – 1991; quá trình Đảng chỉ đạo xây dựng và phát triển văn hóa từ 1991 –
1996; Đảng chỉ đạo xây dựng và phát triển văn hóa trong những năm đầu đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Đảng chỉ đạo xây dựng và phát

19
triển văn hóa trong những năm thập kỷ đầu thế kỷ XXI nhằm hướng đến mục tiêu
phát triển con người của Đảng. Trong đó, tác giả tập trung nhấn mạnh đến việc
chỉ đạo xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống lành mạnh, tăng cường xây dựng đời
sống văn hóa cơ sở, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây
dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới trên cơ sở kế thừa
những truyền thống tốt đẹp của ông cha ta như tinh thần yêu nước, tinh thần tự
cường dân tộc, có ý chí đưa đất nước thoát khỏi đói nghèo và lạc hậu…
Qua trên, chúng ta thấy, các công trình nghiên cứu đã tiếp cận quan điểm

của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng con người ở một số phương diện: đạo
đức, tư tưởng, trí tuệ, giáo dục, phát triển khoa học – công nghệ… Trên cơ sở kế
thừa kết quả các công trình nghiên cứu nêu trên, tác giả luận án luận giải quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam Việt Nam về con người và xây dựng con
người toàn diện trong công cuộc đổi mới dưới sự ảnh hưởng của tư tưởng Hồ Chí
Minh, thực trạng xây dựng con người Việt Nam trên cơ sở các quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về con người và xây dựng con người.
1.2.2. Các tư liệu nghiên cứu vấn đề con người, xây dựng con người
trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay
Ở các tư liệu này, các nhà nghiên cứu tập trung vào các khía cạnh: vấn đề
con người và xây dựng con người, nghiên cứu vấn đề con người và xây dựng con
người ở các phương diện cụ thể:
1.2.2.1. Một số tư liệu nghiên cứu vấn đề con người, xây dựng con người
Về vấn đề này, có các công trình nghiên cứu tiêu biểu: Trong bài Con
người Việt Nam truyền thống và hiện đại của Phạm Minh Hạc trong cuốn Nghiên
cứu con người đối tượng và những hướng chủ yếu do Phạm Minh Hạc và Hồ Sĩ
Qúy (chủ biên), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001, tác giả đã tiếp cận
con người Việt Nam truyền thống, trên cơ sở đó, tác giả tiếp cận con người Việt
Nam hiện đại. Theo tác giả, hạt nhân cơ bản của thang giá trị, thước đo giá trị và
nhân phẩm của con người Việt Nam hiện nay là các giá trị nhân văn truyền thống
dân tộc, gắn liền với các giá trị đó, nền giáo dục chúng ta nhấn mạnh cấu trúc
nhân cách bao gồm: trí tuệ cao, thể chất cường tráng, tinh thần phong phú, đạo
đức trong sáng Tác giả chỉ rõ, trong công cuộc đổi mới, chúng ta phải thật sự
lấy con người làm mục tiêu của sự phát triển xã hội. Mục tiêu đó cũng chính là
hướng đến phát triển con người.

20
Bài Vài suy nghĩ về con người Việt Nam của Đặng Nghiêm Vạn trong
cuốn Nghiên cứu con người đối tượng và những hướng chủ yếu do Phạm Minh
Hạc và Hồ Sĩ Qúy (chủ biên), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001, trên

cơ sở nghiên cứu con người Việt Nam trong lịch sử, tác giả nghiên cứu con
người Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới là: giàu lòng nhân ái, thông minh, linh
hoạt, chăm chỉ, cần cù, siêng năng, có tư duy tốt về các khoa học trừu
tượng Bên cạnh đó, tác giả cũng chỉ rõ một số hạn chế của con người Việt
Nam: dễ thỏa mãn, thích tận hưởng, có phần ngạo mạn, dễ thỏa lòng với cái đã
có, ít nghĩ đến cái phải có, cần có. Theo tác giả, trong xã hội hiện đại, cần phải
dần khắc phục một số hạn chế về lối sống trong xã hội nông nghiệp của con
người Việt Nam để tiến tới tương lai.
Trong cuốn Con người và phát triển con người của Hồ Sĩ Qúy, Nhà xuất
bản Giáo dục, Hà Nội, 2007, trên cơ sở một số vấn đề lý luận về con người và
phát triển con người, một số vấn đề phương pháp luận và phương pháp nghiên
cứu con người, tác giả nghiên cứu vấn đề xây dựng con người Việt Nam đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa, Trong đó, tác giả tập trung vào các nội
dung: đổi mới nhận thức lý luận về con người, về vai trò nhân tố con người, vị trí
của con người trong sự phát triển; con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
sự phát triển xã hội; xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Giáo trình Triết học Mác – Lênin của Bộ Giáo dục Đào tạo do Đoàn
Quang Thọ (chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2008, đã
bàn về vấn đề xây dựng con người Việt Nam hiện nay với các phẩm chất và tiêu
chí nhất định. Theo tác giả, để đạt được mục tiêu xây dựng con người cần phải
trên cơ sở từ lý luận về con người đến con người Việt Nam hiện thực, cần tập
trung vào các lĩnh vực chủ yếu nhất của xã hội, như kinh tế, chính trị, giáo dục -
đào tạo, khoa học - công nghệ, văn hóa.
Trong cuốn Lý luận và thực tiễn về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của
Vũ Văn Phúc, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009, với nhiều hướng
tiếp cận phong phú, cách phân tích lý giải những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin và thực tiễn của Việt Nam, tác giả nhấn mạnh đến việc phát triển con
người. Tác giả cho rằng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội phải hướng
vào giải phóng con người lao động khỏi sự nô dịch, làm cho đời sống của con


21
người ngày càng tốt hơn về các mặt kinh tế, chính trị - xã hội, văn hóa; phát triển
xã hội theo nguyên tắc liên minh, tự nguyện của những người tự do và hòa hợp
với thiên nhiên.
Trong các bài Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa
- hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của Vũ Văn Phúc; Quan điểm của Đảng về
phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa
của Đoàn Thế Hanh; Phát triển nguồn nhân lực từ nhận thức đến thực tiễn của Lê
Văn Cương; Bàn về chất lượng nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng
cao của Trần Đăng Thịnh trong cuốn Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập quốc tế do Nguyễn Văn Phúc và
Nguyễn Duy Hùng (đồng chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2012, đã nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về nguồn nhân lực. Các tác giả
cho rằng nguồn nhân lực là yếu tố cấu thành quan trọng nhất của lực lượng sản
xuất xã hội, quyết định sức mạnh của các quốc gia nói chung và của Việt Nam nói
riêng. Do vậy, khi xem xét nguồn lực con người phải nhìn nhận con người với tất
cả hiện trạng, tiềm năng, đặc điểm và sức mạnh của nó đối với sự phát triển xã
hội ở cả phương diện là chủ thể lẫn phương diện là khách thể.
Trong cuốn Khai thác và phát triển tài nguyên nhân lực Việt Nam của
Nguyễn Văn Phúc, Mai Thị Thu Hồng (đồng chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2012, đã đề cập đến quá trình hình thành và phát triển
nguồn nhân lực Việt Nam trong thời gian qua dưới tác động của các yếu tố lịch
sử, văn hóa, kinh tế, chính trị cũng như quá trình hội nhập quốc tế trong xu thế
toàn cầu hóa. Từ việc phân tích thực trạng phát triển nguồn nhân lực, các tác giả
đã nêu ra các giải pháp, chính sách cụ thể nhằm khắc phục những hạn chế phát
triển tài nguyên nhân lực trong giai đoạn tới. Trong đó, các tác giả nhấn mạnh
việc nhận thức về vấn đề này phải được chuẩn hóa bằng các chiến lược, kế hoạch,
được cân nhắc kỹ lưỡng và toàn diện có tính toán tới nhu cầu, các giải pháp và
điều kiện thực hiện cụ thể cũng như khả năng bảo đảm của nền kinh tế xã hội.

Qua trên, chúng ta thấy rằng tác giả đã khái quát một bức tranh chung về
các phẩm chất của con người Việt Nam; vai trò của con người đối với sự phát
triển của xã hội; một số mặt tích cực và hạn chế về phát triển con người qua việc
phát triển xã hội, giải phóng con người, phát triển các mặt đức, trí, thể, mỹ. Kết
quả của sự khái quát đó giúp tác giả luận án có cách nhìn khoa học về vai trò của

22
con người trong sự nghiệp đổi mới theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
qua sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.2.2.2. Một số tư liệu nghiên cứu vấn đề xây dựng con người ở các khía
cạnh cụ thể
Thứ nhất, một số tư liệu nghiên cứu bàn đến vấn đề chăm lo đời sống vật
chất của nhân dân
Trong cuốn Đảng lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội trong thời kỳ đổi
mới của Nguyễn Thị Thanh, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, đã
phân tích quá trình thực hiện các chính sách xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong đó tác giả đặc biệt chú ý đến vấn đề xóa đói giảm nghèo nâng cao đời sống
vật chất của nhân dân.
Trong cuốn Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội
trong 25 đổi mới (1986 - 2011) của Đinh Xuân Lý, Nhà xuất bản Đại học quốc
gia Hà Nội, 2011, tác giả đã phân tích kết quả thực hiện chính sách xã hội 1986 -
2011, trong đó có đề cập đến công tác xóa đói, giảm nghèo. Tác giả chỉ rõ, trong
xóa đói giảm nghèo, chúng ta đã từng bước xây dựng được kết cấu cơ sở hạ tầng
thiết yếu cho các xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn, tăng thu nhập bình quân cho
người nghèo; người nghèo được tiếp cận nhiều hơn với các nguồn lực kinh tế và
dịch vụ xã hội. Những thành tựu đó đã góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống
của con người Việt Nam.
Cuốn Chính sách xóa đói giảm nghèo thực trạng và giải pháp do Lê Quốc
Lý (chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2012, đã luận
giải về đói nghèo, thực trạng đói nghèo ở Việt Nam, những chủ trương đường

lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về xóa đói, giảm nghèo, Trong đó, tác giả
đặc biệt chú trọng đến những thành tựu và hạn chế trong quá trình thực thi chính
sách đó. Tác giả chỉ rõ những thành tựu của xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam:
nâng cao đời sống vật chất của nhân dân, phát triển kết cấu hạ tầng, giúp người
nghèo thích ứng với nền kinh tế thị trường, góp phần nâng cao chỉ số phát triển
con người Bên cạnh đó, tác giả cũng chỉ rõ một số hạn chế nhất định trong xóa
đói giảm nghèo: việc xóa đói giảm nghèo còn thiên về lượng chưa thực sự chú ý
đến mặt chất, thiếu chính sách phát triển sản xuất, thành tựu xóa đói giảm nghèo
chưa bền vững.
Các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học về vấn đề này đã khái

23
quát được kết quả của công tác xóa đói giảm nghèo tác động đến đời sống con
người, đến sự phát triển con người. Kết quả đó là những luận cứ để tác giả luận án
kế thừa trong việc luận giải thực trạng xây dựng con người về phương diện vật
chất trong đời sống xã hội.
Thứ hai, một số tư liệu nghiên cứu bàn đến vấn đề việc xây dựng con người
về mặt trí lực
Ở đây có thể kể đến công trình nghiên cứu Phát huy nguồn lực trí tuệ trong
công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, luận án tiến sĩ của Bùi Thị Ngọc Lan, bảo
vệ năm 2000. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả xem nguồn lực con người
là nguồn vốn quý giá nhất, đóng vai trò quyết định thúc đẩy tiến trình phát triển
của mọi quốc gia, dân tộc; trong đó nguồn lực trí tuệ là bộ phận trung tâm làm
nên chất lượng và sức mạnh ngày càng tăng của nguồn lực con người, tạo ra tiềm
lực phát triển của một dân tộc, của nhân loại. Trên cơ sở đó, tác giả khẳng định,
đối với Việt Nam hiện nay, trong xu thế phát triển của cuộc cách mạng khoa học -
công nghệ đang diễn ra như vũ bão, tạo ra những biến đổi sâu sắc trong mọi mặt
của đời sống xã hội thì việc tích cực chuẩn bị cho mình một nguồn lực trí tuệ
vững mạnh là một trong những đòn bẩy then chốt nhất, là bước chuẩn bị chủ động
nhất để tạo thế và lực cho Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới. Để đạt được trình

độ cao của nguồn lực trí tuệ ở nước ta trong kỷ nguyên mới, theo tác giả, cần phải
xây dựng một hệ thống các giải pháp có tác dụng tạo ra động lực to lớn để giải
phóng, khơi dậy các tiềm năng trí tuệ. Trong hệ thống các giải pháp đó thì giáo
dục đào tạo là giải pháp cơ bản nhất, có ý nghĩa quyết định quá trình hình thành
thành và phát triển nguồn lực trí tuệ của con người Việt Nam.
Công trình nghiên cứu Nhân tố con người trong lực lượng sản xuất với
vấn đề đào tạo người lao động trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa
ở Việt Nam hiện nay, luận án tiến sĩ của Bùi Thanh Đức, bảo vệ năm 2002, tác
giả tập trung vào việc phân tích trình độ trí tuệ của người lao động Việt Nam
hiện nay (từ thực tiễn Đồng bằng sông Cửu Long). Từ sự phân tích đó, tác giả
nhận định thách thức lớn nhất mà chúng ta phải đối mặt hiện nay là chất lượng
của nguồn lực trí tuệ.
Nguồn lực trí tuệ Việt Nam – lịch sử, hiện trạng và triển vọng của Nguyễn
Văn Khánh (chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2012, đã cung
cấp một bức tranh tổng thể về tình hình, thực trạng và triển vọng của nguồn lực

24
Việt Nam. Từ những luận chứng khoa học và xúc tích, các tác giả đã tập trung
vào việc đánh giá nguồn lực trí tuệ Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử, đặc biệt
tập trung vào việc phân tích quá trình xây dựng và phát triển nguồn lực trí tuệ
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, những yếu tố thúc đẩy, cản trở việc xây dựng và
phát triển nguồn lực trí tuệ này.
Bài Phát triển giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa của Nguyễn Duy Bắc, vn.does.doedat.com, đã
phân tích thực trạng của giáo dục Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, chỉ ra những
mặt đã đạt được, chưa đạt được của nền giáo dục, nhất là giáo dục về trí lực. Trên
cơ sở đó, tác giả nêu ra một số giải pháp phát triển giáo dục - đào tạo hiện nay
nhằm nâng cao trình độ dân trí.
Qua phân tích ở trên cho chúng ta thấy đã có một số tư liệu bàn đến vấn đề
phát triển con người về mặt trí tuệ, trong đó tập trung vào việc phân tích trình độ

của người lao động, chỉ ra những mặt đạt được và chưa đạt được. Kết quả nghiên
cứu của các tư liệu đó đã cung cấp cho tác giả luận án một số số liệu để tác giả
luận án luận giải về thực trạng của vấn đề phát triển trí tuệ con người Việt Nam
trong sự nghiệp đổi mới.
Thứ ba, một số tư liệu nghiên cứu bàn đến vấn đề xây dựng con người về
sức khỏe.
Công trình nghiên cứu Cơ sở tâm lý học ứng dụng của Đặng Phương Kiệt,
Nhà xuất bản Đại học quốc gia, Hà Nội, 2001, đã tập trung nghiên cứu vấn đề tâm
lý học sức khỏe. Trong đó, tác giả giải thích khái niệm sức khỏe bao gồm sức
khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần. Bên cạnh đó, tác giả còn nghiên cứu tâm
bệnh lý, trong đó tác giả đề cập đến những rối nhiễu tâm lý như rối nhiễu phân ly,
rối nhiễu lo hãi, rối nhiễu tình cảm, rối nhiễu tâm thần phân liệt.
Ở một số bài: Stress lo âu ở tuổi vị thành niên và biện pháp dự phòng,
, 25 - 4 - 2011, Đừng xem nhẹ cơn stress ở trẻ,
, 11 – 12 – 2012, Dấu hiệu của stress và cách điều trị,
, Bệnh tress do công việc – tác hại khó lường,
đã giải thích stress là gì, các biểu hiện của stress,
nguyên nhân của nó và biện pháp phòng ngừa.
Bài Ảnh hưởng của yếu tố xã hội vào quan hệ tâm thân tác động đến sức
khỏe của Đỗ Nguyên Phương, trong cuốn Nghiên cứu con người, đối tượng và

25
những hướng chủ yếu do Phạm Minh Hạc và Hồ Sĩ Qúy (chủ biên), Nhà xuất bản
Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001, đã chỉ rõ quan hệ tâm thân. Theo tác giả, quan hệ
tâm thân là khâu quan trọng quyết định tình trạng sức khỏe. Nhiều yếu tố kinh tế,
văn hóa, xã hội tác động vào mối quan hệ này. Tác giả cũng chỉ rõ biểu hiện của
quan hệ tâm thân, đó là sự tác động của căng thẳng tâm lý đến thể lực: hệ tim
mạch, hệ miễn dịch, hệ tiêu hóa, hệ cơ xương, hệ hô hấp, hệ tiết niệu sinh dục, hệ
da liễu. Tác giả kết luận yếu tố kinh tế - văn hóa, xã hội tác động vào phần xã hội
nội tại của sức khỏe, mối quan hệ của ba phần thể chất, tâm thần, xã hội của sức

khỏe là thể hiện của yếu tố xã hội đối với sức khỏe. Theo đó, tác giả chỉ ra các
nguy cơ về sức khỏe tâm thần trong nền kinh tế thị trường: các rối loạn hành vi
của thanh niên, tự sát, lạm dụng chất, trầm cảm Tác giả cho rằng, sự nghiệp
chăm sóc sức khỏe chỉ có thể thực hiện được khi công tác y tế phải được xã hội
hóa cao, phải được các nhà quản lý, các nhà hoạt động kinh tế, mọi công dân coi
sức khỏe – chất lượng cuộc sống là mục tiêu của chính mình, con người phải có
hiểu biết đầy đủ về ảnh hưởng của môi trường sống (môi trường sinh học – xã
hội) tới sức khỏe con người.
Trong cuốn Các bệnh thần kinh và bệnh xã hội của Minh Nguyệt, Nhà xuất
bản Thanh niên, Hà Nội, 2005, tác giả đã nghiên cứu về các bệnh thần kinh như
bệnh lo âu, bệnh ám ảnh, bệnh hưng phấn, bệnh trầm cảm, đó là những loại bệnh
làm cho thể chất cũng như tinh thần của bệnh nhân sa sút một cách đáng lo ngại.
Theo đó, tác giả cũng đưa ra một số giải pháp để kịp thời chữa trị bệnh.
Kết quả nghiên cứu về sức khỏe tâm thần của các nhà khoa học giúp tác giả
luận án có những hiểu biết về tâm bệnh, nguyên nhân và một số biểu hiện của
nó. Trên cơ sở của sự hiểu biết đó, tác giả luận án có thể lý giải một số vấn đề về
sức khỏe tâm thần của con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay dưới góc
độ triết học.
Bên cạnh đó, cũng liên quan đến vấn đề sức khỏe con người còn có một số
tư liệu:
Những con số choáng về an toàn vệ sinh thực phẩm, ,
21 – 12 – 2010; Thực trạng an toàn vệ sinh thực phẩm và giải pháp của Trà
Giang, , 21 – 04 – 2010; Bức tranh toàn cảnh về vệ sinh và
an toàn thực phẩm ở Việt Nam, Châu Bội, . 16 – 05 – 2011; Gỡ
“nút” giảm tải bệnh viện, , 22 – 01 – 2013; Hội nghị công

×