Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Văn hóa giao tiếp của cán bộ y tế các bệnh viện trung ương trên địa bàn thành phố Hà Nội (từ thực tiễn Bệnh viện Phụ sản Trung ương)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (481.03 KB, 97 trang )

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn toàn thể các Thầy, Cô của Học viện Hành
chính đã giành thời gian quý báu của mình để truyền đạt những tri thức, kinh
nghiệm giúp tôi nâng ca khả năng nhận thức và ứng dụng vào thực tiễn ngày
càng tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp, gia đình, bạn bè, các anh,
chị học viên đã tạo điều kiện thuận lợi về cả vật chất lẫn inh thần giúp tôi
hoàn thành khóa luận của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới thầy giáo PGS.TS Lưu Kiếm
Thanh, người đã giành thời gian quý báu để tận tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi
hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Với sự cố gắng hết sức cảu bản than song vẫn còn hạn chế về kiến thúc,
kinh nghiệm và thời gian nghiên cứu; do đó, luận văn khó có thể tránh khỏi
những thiếu sót, tôi rất mng nhận được những ý kiến đóng góp của các Thầy,
Cô giáo, các anh chị học viên cho sự hoàn thiện hơn nữa của luận văn.
Xin chân thanh cảm ơn./.
Tác giả luận văn
Nguyễn Ngọc Châu
MỤC LỤC
Chương 1 10
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VĂN HOÁ, GIAO TIẾP 10
VÀ VĂN HOÁ CÔNG SỞ 10
1.1. Các khái niệm cơ bản 10
1.1.1. Khái niệm văn hoá 10
1.1.2. Những đặc trưng cơ bản của văn hóa 14
1.1.3. Khái niệm văn hóa giao tiếp 15
1.1.4. Vai trò của giao tiếp 16
1.1.5. Các nguyên tắc cơ bản của giao tiếp 17
1.1.7. Khái niệm văn hoá tổ chức 22
1.1.8. Khái niệm văn hoá công sở 23
1.2. Nội dung, hình thức, vai trò của văn hóa giao


tiếp trong các cơ quan, tổ chức 29
1.2.1. Nội dung 29
1.2.2. Hình thức 32
1.2.3. Vai trò 35
1.3. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về
xây dựng và thực hiện quy chế văn hóa công sở và
qui tắc giao tiếp 36
1.3.1. Ấn Độ 36
1.3.2. Trung Quốc 37
1.3.3. Malayxia 39
Chương 2 41
THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI THỰC HIỆN 41
QUY CHẾ VĂN HOÁ CÔNG SỞ VÀ QUI TẮC ỨNG XỬ 41
CỦA CÁN BỘ Y TẾ 41
2.1. Một vài nét về cơ cấu tổ chức của bệnh viện Phụ
sản trung ương 41
2.1.1. Tên giao dịch 41
2.1.2.Nhiệm vụ 42
2.1.3.Quyền hạn và nghĩa vụ 44
2.1.4. Đối tượng phục vụ của Bệnh viện 45
2.1.5. Các Hội đồng 45
2.1.6. Cơ cấu tổ chức của Bệnh viện 46
2.1.7. Nghĩa vụ và quyền lợi của viên chức bệnh viện 48
2.2. Thực trạng triển khai thực hiện Quy chế văn hóa
công sở, văn hóa giao tiếp và ‘Qui tắc ứng xử nâng
cao y đức của cán bộ y tế” 50
2.2.1. Quá trình triển khai và tổ chức thực hiện 51
2.2.2. Tiêu chí về thái độ của cán bộ, công chức, viên chức. 58
2.2.3. Tiêu chí về năng lực chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ
của cán bộ, công chức, viên chức 59

Chương 3 60
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO 60
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN QUI TẮC ỨNG XỬ VÀ XÂY DỰNG
60
VĂN HÓA GIAO TIẾP TRONG BỆNH VIỆN 60
3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả thực hiện quy
tắc ứng xử và tiếp cận văn hóa giao tiếp 60
3.1.1. Nâng cao nhận thức về văn hoá công sở 61
3.1.2 Cách tiếp cận xây dựng hệ tiêu chí đánh giá sự hài lòng
của công dân 62
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quy
chế văn hóa công sở và văn hóa giao tiếp 69
3.2.1. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về văn hoá công sở
70
3.2.2. Thường xuyên tổng kết, đánh giá thực tiễn việc thực
hiện quy chế văn hoá công sở, văn hóa giao tiếp tại cơ quan,
tổ chức 71
3.2.3. Nâng cao hiệu quả của thanh tra công vụ 72
3.2.4. Tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật và tài chính cho
việc thực hiện văn hoá công sở 74
3.2.5. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục ý thức thực hiện văn
hoá giao tiếp cho cán bộ, công chức, viên chức 75
3.2.6. Công tác tổ chức cán bộ, đào tạo bồi dưỡng 77
KẾT LUẬN 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO 82
PH> L>C 84
KHUNG CƠ BẢN VỀ VĂN HOÁ GIAO TIẾP 84
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Văn hóa như một tổng thể những giá trị tinh thần, văn hóa đặc trưng
cho một xã hội hay một nhóm xã hội, nó hàm chứa trong bản thân không chỉ
văn học, nghệ thuật mà còn bao gồm cả phương thức sống, các quyền cơ bản
của con người, hệ thống các giá trị truyền thống và tín ngưỡng.
Trong giai đoạn hiện nay, văn hóa còn đang trở thành động lực chủ
đạo của các cơ quan, tổ chức, bởi khi nói đến bất kỳ một cơ quan, tổ chức
nào cũng đều nói đến nét văn hóa riêng và nó cho phép người ta có thể phân
biệt được giữa các cơ quan, tổ chức thông qua những phương thức điều hành
khác nhau. Văn hóa tổ chức nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động
của các cơ quan, tổ chức cũng như phương thức tồn tại và phát triển của cơ
quan, tổ chức.
Văn hóa được tạo ra như là một cơ chế khẳng định mục tiêu của cơ
quan, tổ chức, nó hướng dẫn và uốn nắn những hành vi ứng xử của con người
trong cơ quan, tổ chức đó và sự tác động của văn hóa tới hoạt động của cơ
quan, tổ chức có cả yếu tố tích cực và yếu tố tiêu cực. Do đó, người đứng đầu
cơ quan, tổ chức phải có phương thức lãnh đạo, chỉ đạo hữu hiệu sao cho
phát huy được tối đa những mặt tích cực và hạn chế tối thiểu những mặt tiêu
cực của nó.
Qua hơn hai mươi năm đổi mới, với nhiều thành tựu đã đạt được, kinh
tế - xã hội phát triển, đời sống của người dân ngày càng được nâng cao, đất
nước ta ngày càng khẳng định được vị trí trên trường quốc tế. Tuy nhiên, bên
cạnh đó còn bộc lộ những hạn chế, yếu kém và nhất là sự xuống cấp về đạo
đức của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức, tình trạng xuống cấp của
hệ thống các giá trị văn hóa, trong đó văn hóa giao tiếp là bộ phận cấu thành
trong các cơ quan, tổ chức hiện nay, tinh thần trách nhiệm của cán bộ, công
chức, viên chức nói chung, của đội ngũ Y, bác sỹ nói riêng trong thực thi
4
công vụ chưa cao, còn có hiện tượng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, còn có
thái độ quan liêu, hách dịch trong quan hệ ứng xử, giao tiếp với công dân, với
người bệnh và chưa thực sự xem mình là " công bộc " của dân, chưa xứng

đáng với sứ mệnh của người thầy thuốc “lương y như từ mẫu” điều đó, đã
gây nên bức xúc trong đời sống xã hội, làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu
lực, hiệu quả của các cơ quan, tổ chức trong quản lý nói chung, trong các cơ
sở y tế, bệnh viện, trường học nói riêng.
Việc xây dựng những chuẩn mực văn hóa giao tiếp công vụ mang tính
pháp lý cho thái độ và hành vi công chức, viên chức trong hoạt động công vụ
là việc làm hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Bên cạnh đó, cơ chế hoạt động, tổ chức bộ máy và môi trường văn hóa
của cơ quan, tổ chức cũng ảnh hưởng và chi phối văn hóa giao tiếp của mỗi
công chức, viên chức trong cơ quan tổ chức. Thực tế hoạt động công vụ hiện
nay cho thấy, sự suy giảm đạo đức trong một bộ phận cán bộ, công chức,
viên chức được xem như một nguy cơ đáng báo động. Tình trạng tham
nhũng, quan liêu, lộng hành, hách dịch, sách nhiễu, yếu kém về năng lực
chuyên môn, năng lực quản lý, lãnh đạo, thiếu gương mẫu trong công việc,
sinh hoạt… của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức các cấp thật sự đã
dẫn đến làm suy giảm hiệu lực, hiệu quả của bộ máy Nhà nước, bộ máy quản
lý các cơ quan, tổ chức, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà
nước; càng cho thấy tầm quan trọng của văn hóa giao tiếp của cán bộ, công
chức, viên chức trong hoạt động công vụ và trong đời sống xã hội, trong quan
hệ con người.
Do vậy, văn hóa giao tiếp công vụ được coi như đạo đức xã hội. Có thể
thấy đạo đức xã hội nói chung và đạo đức, công chức, viên chức nói riêng
như một sức mạnh tự bảo vệ con người trước sự thoái hoá, biến chất, đánh
mất mình; phải coi đạo đức như một giá trị văn hoá - văn hoá giao tiếp thúc
đẩy xã hội phát triển và tiến bộ. Ngày nay, nền kinh tế nước ta phát triển theo
cơ chế thị trường, từng bước tham gia hội nhập quốc tế thì càng cần đến
5
những đảm bảo về văn hóa giao tiếp công vụ trên mọi lĩnh vực của đời sống
kinh tế - xã hội để thực hiện thành công nhiệm vụ chính trị, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Xuất phát từ tình hình trên và cũng khẳng định tầm quan trọng của văn
hóa trong các công sở, ngày 02/8/2007 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
quyết định số 129/2007/QĐ-TTg ban hành kèm theo Quy chế văn hóa công
sở tại các cơ quan nhà nước, trong đó chứa đựng các quy định về bài trí công
sở, trang phục, giao tiếp và ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức khi thi
hành nhiệm vụ. Thực chất, việc quy định văn hóa công sở là để các cơ quan,
đơn vị trên cơ sở đó công khai, minh bạch trong giải quyết công việc cho các
tổ chức, công dân cũng như quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của cán bộ, công
chức, viên chức trong hoạt động công vụ; xây dựng lề lối và mối quan hệ,
giao tiếp ứng xử trong công việc thật sự khoa học, hiệu quả thiết thực nhằm
đảm bảo kỷ cương, kỷ luật trong các cơ quan công quyền, các đơn vị sự
nghiệp- trường học, bệnh viện nhà nước, đồng thời nhằm phát huy tính chủ
động, tích cực, sự tương trợ, đồng thuận và đề cao trách nhiệm của mọi cán
bộ, công chức, viên chức.
Các bệnh viện trung ương là cơ sở y tế tuyến cuối, là nơi tập trung
nguồn lực chất xám cao trong hệ thống y tế, khám chữa bệnh của cả nước.
Tình trạng quá tải tại các bệnh viện, đặc biệt là các bệnh viện trung ương
cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng căng thẳng của y
bác sỹ, cán bộ quản lý, nhân viên phục vụ (sau đây xin gọi chung là cán bộ y
tế) và thái độ lo lắng, bức xúc của bệnh nhân, người nhà bệnh nhân.
Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mình, trong thời gian qua Bộ Y
tế, các bệnh viện đã xây dựng và ban hành Quy chế văn hóa giao tiếp, ứng
xử nhằm triển khai phù hợp với cơ quan mình. Song việc thực hiện quy chế
còn nhiều bất cập và có nơi chưa được triển khai thực hiện một cách thống
nhất. Chính vì thế, cần phải có sự đánh giá, nhìn nhận một cách khách quan
để có cơ sở khoa học trong việc xây dựng, ban hành và triển khai thực hiện
6
nghiêm túc, có hiệu quả những qui tắc ấn định trong giao tiếp của cán bộ y
tế nói chung và tại các bệnh viện trung ương trên địa bàn thành phố Hà Nội
nói riêng.

Do vậy, tôi chọn đề tài “Văn hóa giao tiếp của cán bộ y tế các bệnh
viện trung ương trên địa bàn thành phố Hà Nội (từ thực tiễn Bệnh viện
Phụ sản Trung ương)” làm đề tài nghiên cứu và viết luận văn của mình.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về văn hóa công sở nói chung và thực
trạng thực hiện quy tắc giao tiếp, ứng xử trong các cơ sở y tế hiện nay, nhìn
nhận những thành công và hạn chế trong nhận thức và thực hiện văn hóa
giao tiếp; yêu cầu của công cuộc đổi mới trong toàn xã hội và hệ thống y tế,
đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, nhận thức, thái độ của
cán bộ y tế thông qua việc triển khai có hiệu quả văn hóa giao tiếp, ứng xử tại
các bệnh viện trung ương trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Nhiệm vụ nghiên cứu : Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu đặt ra, luận
văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Nêu bật những vấn đề lý luận chung về văn hóa, văn hóa giao tiếp và
thống nhất những khái niệm có liên quan đến vấn đề đặt ra.
- Nghiên cứu sự ảnh hưởng của văn hóa với hiệu quả hoạt động của các
cơ quan, tổ chức.
- Khảo sát thực tế triển khai thực hiện Quy tắc ứng xử của cán bộ y tế,
trong đó tập trung chủ yếu hoạt động khảo sát tại Bệnh viện Phụ sản
Trung ương, đánh giá thực trạng, tìm nguyên nhân hạn chế của công
tác này.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp để nâng cao hiệu quả thực hiện
quy tắc ứng xử, nâng tầm nhận thức thành “văn hóa” trong giao tiếp
của cán bộ y tế trong các bệnh viện nói chung.
7
3. Tình hình nghiên cứu
Văn hóa với tầm quan trọng vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự
phát triển, nó luôn gắn liền với sự tồn tại, phát triển của cơ quan, đơn vị hay
bất kỳ một tổ chức nào. Do vậy từ trước đến nay có rất nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm đến đề tài này, ngoài ra cũng có nhiều giáo trình, tài liệu, luận văn

thạc sĩ, luận án tiến sĩ của các trường đại học, các nhà khoa học, các cơ quan
viết về lĩnh vực này. Tuy nhiên chưa có giáo trình hay tài liệu, luận văn, luận
án nghiên cứu chi tiết về văn hóa giao tiếp đối với đối tượng là cán bộ y tế
trong các bệnh viện trung ương trên địa bàn thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu khía cạnh giao tiếp, ứng xử của cán bộ
y tế như một bộ phận cấu thành văn hóa công sở, việc xây dựng, ban hành và
thực hiện quy tắc ứng xử của cán bộ, viên chức trong đơn vị sự nghiệp y tế
(Ban hành kèm theo Quyết định số 29/2008/QĐ-BYT ngày 18 tháng 8 năm
2008 của Bộ trưởng Bộ Y tế.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, luận văn dựa trên
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, sử dụng tổng hợp một số
phương pháp như thống kê, phân tích và tổng hợp, điều tra bằng phiếu,
phỏng vấn sâu, tổng kết thực tiễn…Ngoài ra luận văn cũng kế thừa kết quả
nghiên cứu liên quan, đồng thời dựa vào các chủ trương, đường lối của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, quy định của ngành y tế về lĩnh vực này.
6. Đóng góp của luận văn
Từ kết quả nghiên cứu, luận văn đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu
quả thực hiện quy tắc ứng xử và từ đó tạo đà chuyển biến nhận thức, thái độ,
tạo dựng văn hóa giao tiếp xứng tầm Y đức mà mỗi thầy thuốc đã long trọng
tuyên thệ.
Kết quả nghiên cứu có thể là căn cứ để xem xét, đánh giá và nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và nâng cấp môi trường làm
8
việc tại các cơ quan nhà nước. Đồng thời, qua đó đóng góp vào công cuộc cải
cách, đổi mới đất nước.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, nội dung, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung chính của luận văn được chia làm 3 chương:

Chương 1. Cơ sở lý luận về văn hóa, giao tiếp và văn hóa công sở
Chương 2. Thực trạng triển khai thực hiện quy chế văn hóa công sở
và qui tắc ứng xử của cán bộ y tế
Chương 3. Phương hướng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả
thực hiện quy tắc ứng xử và xây dựng văn hóa giao tiếp trong bệnh viện.
9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VĂN HOÁ, GIAO TIẾP
VÀ VĂN HOÁ CÔNG SỞ
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm văn hoá
Văn hóa là một khái niệm có từ lâu đời và nó có một nội hàm rất rộng
lớn, liên quan đến mọi mặt của cuộc sống con người. Trong từng giai đoạn
phát triển của xã hội loài người, với nhiều sự đổi thay và tương ứng với từng
giai đoạn phát triển đó là những đặc điểm nhất định đánh dấu bước ngoặt
quan trọng của xã hội, đó vừa là thành quả của một thời kỳ, đồng thời cũng
ghi nhận những bước tiến mới của nhân loại. Theo đó, cùng với sự xuất hiện
và phát triển của xã hội loài người, cũng xuất hiện đời sống văn hoá, song để
hiểu một cách chính xác khái niệm về văn hoá thì không hẳn đã thống nhất.
Trước đây, con người hiểu văn hoá còn ở một góc độ phiến diện, văn hoá vẫn
được quy về một lĩnh vực chuyên biệt đặc thù nào đó của con người. Đến
nay, cùng với sự phát triển của xã hội loài người văn hoá được nhìn nhận và
đánh giá khá toàn diện dựa trên những góc cạnh khác nhau của cuộc sống
chẳng hạn như: văn hoá là sự phát triển vật chất và tinh thần của loài người;
văn hoá là khái niệm có nội dung bao gồm khoa học, kỹ thuật, giáo dục, văn
hoá, nghệ thuật; văn hoá chỉ lối sống, nếp sống, đạo đức xã hội. Bên cạnh đó
còn rất nhiều nhà Nhân học, Dân tộc học đã đưa ra nhiều định nghĩa cho tới
nay vẫn chưa thống kê hết được. Các quan điểm về văn hoá bao hàm nội
dung sâu rộng và phong phú, vì vậy, có thể nói trong khoa học xã hội và nhân
văn chưa có khái niệm nào phức tạp như khái niệm văn hoá. Do đó, mỗi một

học giả ở mỗi đất nước, ở mỗi thời kỳ khác nhau đều có cách lý giải không
hoàn toàn giống nhau.
Theo ngôn ngữ phương Tây, từ tương ứng với văn hóa trong tiếng Việt
là culture trong tiếng Anh và tiếng Pháp, kultur tiếng Đức, có nguồn gốc từ
10
các dạng của động từ Latin colere là colo, colui, cultus với hai nghĩa là giữ
gìn, chăm sóc, tạo dựng trong trồng trọt và nghĩa cầu cúng.
Theo Jean Ladriere, văn hóa gồm bốn bộ phận hợp thành. Một là, các
hệ thống ý niệm gồm các tập hợp khái niệm và biểu tượng. Hai là, các hệ
thống chuẩn mực gồm những gì liên quan đến giá trị, cho phép đánh giá các
tình huống và các hành động, phân biệt đúng sai trong các hành vi cụ thể. Ba
là, các hệ thống biểu hiện bao gồm các thể thức và hình thức, qua đó các ý
niệm, các chuẩn mực được biểu hiện cụ thể ở mức cảm nhận. Bốn là, các hệ
thống hoạt động gồm các trung gian kỹ thuật cho phép làm chủ ở mức độ nào
đó môi trường tự nhiên và các trung gian xã hội, dựa vào đó cộng đồng tự tổ
chức và quản lý số phận của mình.
Theo Caroline Hodges Persell, những biểu hiện của văn hóa lại bao
gồm các hệ thống sau: hệ thống biểu tượng, ngôn ngữ; hệ thống chuẩn mực
(gồm tập quán, phong tục, những điều cấm kỵ, luật pháp); hệ thống giá trị.
Với quan điểm của Trung Quốc thì danh từ văn hoá lần đầu tiên xuất
hiện ở Thư tịch Trung Quốc, sách Thuyết Uyển, Thiên Chi Vũ, Lưu Hướng
(Khoảng 77 đến 56 trước Công nguyên) đời Tây Hán đã đề xuất đến văn hoá:
Phàm Vũ Chi Hưng; Vị bất phục dã; Văn hoá bất cải; Nhiên hậu gia chu (Đại
ý là Phàm dùng vũ lực để đối phó với kẻ không phục tùng; dùng văn hoá mà
không thay đổi được thì sau mới giết (trừng phạt)). Văn hoá ở đây nói đến
đều là chỉ văn trị và giáo hoá của nhà nước. Từ thời Hán, Đổng Trọng Thư
bãi truất bách gia, độc tôn nho thuật trải qua các vương triều phong kiến đều
đề xướng văn trì giáo hoá để hưng nước yên dân. Có lẽ đây là nguyên nhân
quan trọng để xã hội phong kiến Trung Quốc tồn tại lâu dài. Văn hoá Trung
Quốc phồn vinh hưng thịnh đã đồng hoá rất nhiều dân tộc thiểu số và được

biệt ảnh hưởng đến văn hóa của một số nước phương Đông.
Văn hoá là tri thức khoa học, sự hiểu biết, trình độ học vấn, trình độ
tiếp thu và vận dụng những kiến thức khoa học. Hệ thống kiến thức được con
11
người sáng tạo, tiếp thu, tích luỹ, bổ sung và luôn luôn đổi mới qua lao động,
sản xuất, đấu tranh giữa con người với thiên nhiên và xã hội. Qua đó con
người tiếp xúc, giao tiếp với nhau, hình thành nên những tập tục, những cách
đối nhân xử thế nhất định. Sự hiểu biết được sử dụng làm nền tảng và định
hướng cho lối sống, nếp suy nghĩ, đạo lý, tâm hồn và hoạt động của mỗi dân
tộc để đạt tới chân, thiện, mỹ trong mỗi quan hệ giữa con người với con
người, giữa con người với môi trường xã hội và tự nhiên.
Với nghĩa rộng, văn hoá là tổng hợp sáng tạo văn minh vật chất, văn
minh tinh thần trong quá trình phát triển xã hội loài người. Nói về nghĩa hẹp,
văn hoá chỉ hình thái ý thức và thượng tầng kiến trúc của xã hội, tức là cái
hình thức tổ chức và chế độ xã hội thích ứng với hình thái ý thức xã hội.
Đồng thời với nghĩa rộng cũng bao gồm văn hoá khảo cổ học, lấy tiêu chuẩn
đồ vật làm đặc trưng. Ví dụ như văn hoá trống đồng. Văn hoá trở thành môn
khoa học chuyên nghiên cứu hiện tượng văn hoá một cách có hệ thống. Nó
bắt đầu phát triển ở nước Pháp vào khoảng giữa thế kỷ XIX, trước tiên họ đề
xuất khái niệm khoa học văn hoá, chủ trương xây dựng độc lập, tiến hành
nghiên cứu khoa học để nói rõ sự tiến triển của văn hoá.
Đến đầu thế kỷ XX, các nhà văn hoá Mỹ chính thức xác lập nguyên tắc
khung văn hoá.Như vậy, văn hoá là một hiện tượng lịch sử, mỗi xã hội đều
có nền văn hoá thích ứng với nó và phát triển lên theo đà xã hội. Văn hoá
phản ánh chính trị, kinh tế xã hội nhất định, đồng thời lại tác động đến kinh
tế và chính trị của xã hội. Văn hoá có tính dân tộc rất rõ rệt, theo sự phát triển
của các dân tộc từ đó mà hình thành nên truyền thống dân tộc riêng. Văn hoá
lại có tính liên tục của lịch sử, nó không phải vì triều đại lịch sử nhất thời
thay đổi mà xuất hiện tình hình đứt đoạn. Văn hoá đã phản ánh sự tổng hoà
của một dân tộc, một quốc gia, cho đến hành vi của loài người ở một khu

vực. Văn hoá cũng đang chế ước hành vi xã hội và thế giới tinh thần của mọi
người. Một dân tộc vĩ đại tất nhiên sẽ sáng tạo ra nền văn hoá vĩ đại và huy
hoàng. Văn hoá vĩ đại, huy hoàng cũng sẽ tôi luyện cho dân tộc vĩ đại này đi
đến tương lai càng mới, càng cao, càng tốt đẹp.
12
Văn hoá là những phương thức sản xuất, cách thức sinh hoạt khác nhau
của cộng đồng người hội tụ tri thức, sáng tạo ra văn minh tinh thần và văn
minh vật chất. Nó có đặc điểm của tính lịch sử, tính truyền thống, tính dân
tộc .v v.v. Chính vì vậy, trong lịch sử các thời kỳ khác nhau, ở các nước và
khu vực khác nhau, dân tộc khác nhau đều sáng tạo ra những nền văn hoá
huy hoàng, xán lạn.
Ở nước ta, theo từ điển Việt thì văn hoá có năm nghĩa: Một là, tổng thể
nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong
quá trình lịch sử (Ví dụ: Kho tàng văn hoá Việt Nam); Hai là, những hoạt
động của con người nhằm thoả mãn nhu cầu đời sống tinh thần – nói một
cách tổng quát (Ví dụ: Phát triển văn hoá); Ba là, tri thức, kiến thức khoa học
(Ví dụ: Trình độ văn hoá); Bốn là, trình độ cao trong sinh hoạt văn hoá xã
hội, biểu hiện của văn minh (Ví dụ: Sống có văn hoá); Năm là, nền văn hoá
cảu một thời kỳ lịch sử cổ xưa được xác định trên cơ sở tổng thể những di vật
tìm thấy được có những đặc điểm giống nhau (Ví dụ: Văn hoá Đông Sơn).
Xuất phát từ cách tiếp cận và các cơ sở lý luận nêu trên có thể hiểu
khái niệm văn hoá như sau:
Văn hoá là hệ thống giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo, tích luỹ, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong hoạt động sản
xuất, nếp suy nghĩ, cách sống và sự tương tác giữa con người với môi trường
tự nhiên và xã hội. Văn hoá có ý nghĩa khác nhau đối với các dân tộc khác
nhau, bởi vì khái niệm văn hoá bao gồm những chuẩn mực, giá trị, tập
quán v.v.v…
Trên tinh thần hiểu văn hoá theo nghĩa rộng, Tổ chức văn hoá, khoa
học, giáo dục của Liên hợp quốc (UNESCO) đã đưa ra định nghĩa như sau:

Văn hoá phản ánh và thể hiện một cách tổng quát sống động mọi mặt
của đời sống (của các cá nhân và các cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ,
cũng như đang diễn ra trong hiện tại qua bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên một
hệ thống các giá trị truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng
dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình [52,tr.23].
13
Đặc biệt, khi nghiên cứu về văn hoá, Hồ Chí Minh đã viết:
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng
tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở
và các phương thức sử dụng toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là
văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với
biểu hiện của nó, của loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu
cầu và đòi hỏi của sự sinh tồn [26, tr.431].
Như vậy, Hồ Chí Minh đã thấy văn hoá là cơ chế tổng hợp để hình
thành và phát triển con người xã hội. Vì chính Người với tầm nhìn xa đã thực
sự coi trọng và khẳng định vai trò to lớn của văn hoá đối với sự nghiệp cách
mạng, sự nghiệp phát triển con người và xã hội.
1.1.2. Những đặc trưng cơ bản của văn hóa
1.1.2.1. Tính hệ thống
Hệ thống văn hóa là một tổ chức hữu cơ; các hiện tượng, các sự kiện
có quan hệ khăng khít, chi phối và chế ước lẫn nhau thuộc một nền văn hóa.
Do văn hóa có tính hệ thống cho nên nó bao trùm mọi hoạt động của xã hội,
thực hiện được chức năng tổ chức xã hội.
1.1.2.2. Tính giá trị
Giá trị văn hóa được mọi người tin tưởng, chúng xác định những cái
mà người ta ao ước. Nó là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con
người. Từ đó, cho phép phân biệt văn hóa và phi văn hóa, phản văn hóa. Mỗi
dân tộc có mỗi tính giá trị văn hóa riêng. Nó thường xuyên điều chỉnh xã hội,
giúp cho xã hội duy trì sự ổn định và không ngừng hoàn thiện.

1.1.2.3. Tính lịch sử
Văn hóa được truyền từ đời này sang đời khác. Một nền văn hóa
được hình thành qua nhiều thế hệ vốn có tính bền vững và lâu dài. Một nền
văn hóa không bao giờ tĩnh tại và bất biến. Văn hóa luôn thay đổi và rất
14
năng động. Nó luôn tự điều chỉnh cho phù hợp với trình độ và tình hình
mới trong quá trình hội nhập và giao thoa giữa các nền văn hóa, nó tiếp thu
những giá trị tiến bộ, hoặc tích cực của các nền văn hóa khác, bổ sung cho
giá trị văn hóa truyền thống. Ngược lại, nó cũng tác động và ảnh hưởng
nền văn hóa khác.
1.1.2.4. Tính nhân sinh
Văn hóa là thành tựu của con người, do con người sáng tạo ra, phục vụ
lợi ích của con người. Ngày nay, văn hóa có vai trò quan trọng chưa từng
thấy trong lịch sử. Sự tiến bộ hay lạc hậu của một cá nhân, sự hưng vong của
mỗi quốc gia, sự thành công hay thất bại của một chiến lược phát triển đều
tùy thuộc rất nhiều vào sự nhận thức và phát triển văn hóa.
1.1.3. Khái niệm văn hóa giao tiếp
Giao tiếp là hoạt động xác lập mối quan hệ và sự tiếp xúc giữa con
ngườ với nhau nhằm thỏa mãn những nhu cầu nhất định. Ở đây, trên cơ sở
thu nhận thông tin, hai bên giao tiếp sẽ xây dựng, điều chỉnh mục tiêu, điều
chỉnh hành vi qua sự tác dộng lẫn nhau để cùng hiểu biết về tình huống, có
cùng tiếng nói và đem lại lợi ích nhiều nhất. Ngoài ra, giao tiếp còn là sự giao
lưu tình cảm, tư tưởng để phát triển nhân cách con người cho hoàn chỉnh.
Có thể thấy, giao tiếp là tấm gương phản chiếu đời sống tâm hòn nhân
loại, là quá trình nhân bản hóa xã hội loài người nhằm thỏa mãn những nhu
cầu và mang lại niềm vui hạnh phúc ch con người. Giao tiếp giống như việc
đưa thoi dệt vải đan quyện mọi người vào với nhau.
Giao tiếp trong môi trường tổ chức là một lĩnh vực của hoạt động giao
tiếp xã hội trong cuộc sống con người. Nó đươc xây dựng trên cơ sở những
nguyên tắc và quy luật giao tiếp chung, và là sự tổng hòa những tri thức về

xã hội học, tâm lý học, quản trị học, lô- gic học, luật học và nhiều khoa
học khác, đồng thời môi trường giao tiếp công sở cũng có những đặc trưng
của mình. Giao tiếp có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hiệu quả công việc trong
cơ quan.
15
Trong hệ thống khái niệm cơ bản của giao tiếp phải kể đến phong cách
và công cụ giao tiếp, trong đó cho thấy những nghi thức và quy tắc thực hiện
hành vi trong giao tiếp.
Văn hóa giao tiếp trong hoạt động công vụ là sự kết tinh là sự kết
tinh các chuẩn mực xã hội, các qui định pháp luật, các qui tắc nội bộ,
triết lý hoạt động và nhận thức thể hiện qua hành vi và thái độ của từng
thành viên trong tổ chức nhằm hướng tới hệ giá trị mà tổ chức đó mong
muốn và theo đuổi.
Văn hóa giao tiếp của cán bộ, công chức nơi công sở thể hiện qua các
mối quan hệ giữa người và người trong nội bộ và ngoài công sở. Thông qua
những mối quan hệ đó, cán bộ, công chức nơi công sở bộc lộ bản chất của
mình vì bản chất của con người được biểu hiện thông qua quá trình giao tiếp.
Vấn đề đặt ra đối với mỗi cán bộ công chức nơi công sở là thực hiện giao tiếp
có văn hóa. Giao tiếp có văn hóa là toàn bộ những giao tiếp ở tất cả các lĩnh
vực khác nhau trong xã hội đạt đến trình độ nhất định của cái đẹp, cái tốt, cái
thật, phù hợp với tiêu chuẩn định hướng về văn hóa.
1.1.4. Vai trò của giao tiếp
Trong hoạt động của cơ quan, tổ chức giao tiếp của công chức, viên
chức nói chung, của cán bộ ý tế nói riêng khi tiếp xúc với công dân, người
bệnh thì giao tiếp có một vai trò vô cùng quan trọng. Giao tiếp là công cụ,
phương tiện để đạt mục đích của hoạt động. Bởi vì, chất lượng và hiệu quả
hoạt động tùy thuộc vào mức độ chất lượng cảu quá trình giao tiếp được tiến
hành. Nếu giao tiếp mà dành được lợi ích cho cả hai bên cùng tham gia thì cả
hai bên đều cảm thấy tốt hơn, đều muốn cùng nhau làm viêc, xây dựng được
giải pháp tốt nhất để giải quyết vấn đề cùng quan tâm. Khi nói đến vai trò của

giao tiếp, chúng ta thường xét nó ở một số điểm cơ bản như sau:
- Vai trò của giao tiếp trong trao đổi thông tin
Người cán bộ- công chức trực tiếp gặp gỡ dân, hang ngày phải tiếp
nhận, xử lý hàng trăm bản tin dưới hình thức hướng dẫn cho người dân. Nhờ
16
có giao tiếp mà thông tin dưới các hình thức lời nói, giữa các nhóm người và
giữa các tổ chức với nhau.
Hoạt động trực tiếp tiếp dân là một hoạt đọng tiếp xúc hàng ngày của
cán bộ- công chức với dân. Hiệu quả của hoạt động này phụ thuộc vào khả
năng truyền đạt, giảng giải, thuyết phục của cán bộ- công chức đối với dân.
Nếu có sự cố hiểu lầm hoặc chưa hiểu từ phía người dân thì sẽ có cơ hội kịp
thời sửa chữa. Trong trường hợp cụ thể, nhờ có giao tiếp, những sự thiếu hụt
thông tin hoặc thông tin chưa rõ rang được bù đắp để mọi hoạt động diễn ra
thuận lợi.
- Vai trò của giao tiếp trong trao đổi tình cảm
Giao tiếp có vai trò cơ bản là tạo ra tình cảm gắn bó, thân mật và sự hiểu biết
lẫn nhau trong công việc và sinh hoạt hàng ngày. Cuộc tiếp xúc, trao đổi
không chỉ đơn thuần phát đi hay nhận lại thông tin mà người giao tiếp còn
bày tỏ, chia sẻ cảm xúc, thái độ và tình cảm với nhau. Thông qua giao tiếp,
cán bộ công chức hiểu người dân hơn, và ngược lại, người dân hiểu cán bộ,
công chức hơn và giữa hai phía có thể cảm thông, chia sẻ khó khăn của nhau,
nhu cầu của nhau, tạo nên sự gần gũi, đồng cảm với nhau. Có không ít trường
hợp, qua giao tiếp đã giúp cho cả hai bên thay đổi tình cảm từ thái độ không
thiện cảm sang thiện cảm.
- Vai trò của giao tiếp trong quá trình ra quyết định
Thông qua giao tiếp trực tiếp giữa cán bộ, công chứ với người dân thì cơ
quan, tổ chức mới biết được nhu cầu, nguyện vọng cấp thiết của người dân,
trên cơ sở đó đưa ra những quyết định đúng đắn để giải quyết các vấn đề lien
quan đến quyền lợi, cuộc sống của người dân.
1.1.5. Các nguyên tắc cơ bản của giao tiếp

1.1.5.1. Đảm bảo sự hài hòa về mặt lợi ích giữa các bên tham gia giao tiếp
Nguyên tắc này dựa trên một thực tế có tính quy luật về mặt tâm lý của
con người. Bất kỳ ai, khi thực hiện các quan hệ giao tiếp đều mong muốn, tin
tưởng hoặc hy vọng rằng thông qua việc giao tiếp có thể đạt được một lợi ích
17
nào đó cho mình hoặc cho chủ thể mà mình đại diện. Lợi ích mà con người
hướng tới có thể là vật chất cũng có thể là lợi ích tinh thần (chẳng hạn trình
bày oan ức bởi một quyết định không đúng, chưa thỏa đáng, mong được chia
sẻ và thông cảm, hoặc một đề nghị ghi nhận một sự đóng góp của bản than
cho tập thẻ, cho xã hội). Có thể nói, hầu như không một ai thực hiện giao tiếp
lại không muốn hoặc không hy vọng rằng sẽ đạt được mục đích đã đặt ra,
ngay cả khi chính bản thân người dân biết rằng để đạt được mục đích đó là
vô cùng khó khăn.
1.1.5.2. Đảm bảo nguyên tắc bình đẳng trong giao tiếp
Trong hoạt động giao tiếp, người cán bộ- công chức se gặp phải nhiều
đối tượng khác nhau (già-trẻ, nam-nữ, người dân tộc ít người, hoặc đại diện
cac tổ chức). Vấn đề đặt ra ở đây là phải bảo đảm sự bình đẳng trong giao
tiếp. Thực tế, người cán bộ- công chức trong hoạt động giao tiếp có khi gặp
phải những tình huống hết sức khó xử, một bên là công việc, một bên là
những quan hệ có ảnh hưởng rất lớn đến cơ quan hoặc bản than mình. Để giải
quyết vấn đề này, cách tốt nhất là thực hiện nguyên tắc “mọi người đều quan
trọng” nghĩa là mọi đối tượng giao tiếp đều cần được tôn trọng và đối xử tốt.
Dĩ nhiên, nguyên tắc này giúp co cán bô- công chức tránh được những sai
lầm trong giao tiếp khi họ có quan niệm “người này không quan trọng”,
không có ảnh hưởng gì đến bản thân mình, cơ quan mình thì thờ ơ, thậm chí
coi thường.
1.1.5.3. Nguyên tắc hướng tới các giải pháp tối ưu
Người cán bộ- công chức khi giao tiếp với công dân, với tổ chức cần đưa ra
nhiều giải pháp để đối tượng có thể lựa chọn và quyết định.
Nguyên tắc này dựa trên cơ sở nguyên tắc 1. Trong thực tế, để có thể

tạo ra một sự hài hòa về mặt lợi ích giữa các bên giao tiếp không phải là dễ
dàng và đơn giản. Điều này, ta dễ hiểu bởi mong muốn của các bên giao tiếp
thì nhiều nhưng đáp ứng và thỏa mãn những yêu cầu đó lại có hạn. Vì vậy,
việc một trong các bên hoặc nhiều bên khi tiến hành giao tiếp có thể không
18
đạt lợi ích của mình như mong muốn là chuyện thường tình. Vấn đề ở chỗ là
cán bộ- công chức phải xử lý công việc như thế nào để không chỉ thỏa mãn
một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mọi đối tượng giao tiếp mà còn phải làm
cho đối tượng giao tiếp hiểu và chấp nhận thực tế ngay cả khi mục đích của
họ không đạt.
Để làm được điều đó, trong quá trình giao tiếp, cán bộ- công chức
có thể đưa ra một số giải pháp để đối tượng giao tiếp có thể chọn lựa và
quyết định.
Đảm bảo nguyên tắc này, khi giao tiếp các bên sẽ dễ dàng tìm thấy
những mục tiêu chung, những lợi ích chung và trên cơ sở đó có thể cùng
nhau tìm ra những giải pháp có thể làm hài lòng tất cả các bên.
1.1.5.4. Tôn trọng các giá trị văn hóa
Giá trị văn hóa là một phạm trù rộng lớn với những biểu hiện đa dạng
của nó. Có giá trị văn hóa trong nước, có giá trị văn hóa của nước ngoài.
Trong một nước đa dân tộc và trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện
nay cần đảm bảo tôn trọng truyền thống, văn hóa giao tiếp ứng xử của các
dân tộc thuộc các nền văn hóa khác nhau.
1.1.6 Khái niệm công sở
Đối với mọi tổ chức khi ra đời đều nhằm những mục tiêu nhất định,
không có mục tiêu xác định thì tổ chức không có lý do để ra đời. Mục tiêu
được xem là điều kiện tiên quyết để một tổ chức ra đời, tồn tại và phát triển.
Công sở cũng là một loại hình của tổ chức, hoạt động với tư cách một tổ chức
trong bộ máy nhà nước. Thuật ngữ công sở được sử dụng rộng rãi ở châu Âu
từ cuối thế kỷ XVIII và theo nghĩa cổ điển : Công sở là một tổ chức đặt dưới
sự quản lý trực tiếp của nhà nước để tiến hành một chuyên ngành của nhà

nước như là : cơ quan hành chính nhà nước, bệnh viện, viện nghiên cứu…đây
là loại công sở nói chung có tư cách pháp nhân, được điều chỉnh bằng công
pháp và phụ trách quản lý một loại công việc hay một loại hoạt động dịch vụ
công mang tính chất chuyên ngành.
19
Từ điển Hán Việt từ nguyên của Bửu Kế do Nhà xuất bản Thuận Hoá
xuất bản năm 1999 đã định nghĩa: công: chung chỉ thuộc về nhà nước; sở:
nơi, chỗ. Công sở là chỗ làm việc cuả cơ quan nhà nước.
Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, năm 1994 do Hoàng
Phê chủ biên đã định nghĩa đã định nghĩa công sở là trụ sở cơ quan xí
nghiệp nhà nước.
Từ điển và từ ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân, định nghĩa công là
chung; sở là nơi chốn; công sở là chỗ làm việc của một cơ quan nhà nước.
Có quan điểm cho rằng, Công sở là nơi hoạt động của hệ thống tổ chức
bộ máy nhà nước hoặc tổ chức được tuyển dụng, bổ nhiệm theo quy chế công
chức hoặc thể thức hợp đồng để thực hiện công vụ nhà nước. Công sở có vị
trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức do pháp luật quy định,
được sử dụng công quyền để tổ chức công việc nhà nước hoặc dịch vụ công
vì lợi ích chung của xã hội, cộng đồng.
Tuy nhiên, cần lưu ý về thuật ngữ công sở có thể được hiểu theo nhiều
nghĩa khác nhau trong những trường hợp khác nhau. Cụ thể trong một số
trường hợp, thuật ngữ này được sử dụng để chỉ khía cạnh vật chất, địa điểm
hoạt động, hay còn gọi là trụ sở, nơi công vụ được tiến hành hoặc dịch vụ
công được cung cấp. Ví dụ, trong Quyết định 213/2006/QĐ-TTg ngày 25
tháng 9 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế quản lý công
sở các CQHCNN thì thuật ngữ công sở được hiểu theo nghĩa này. Trong một
số trường hợp khác, thuật ngữ công sở được sử dụng để thay thế cho một
thuật ngữ khác quen dùng là cơ quan hành chính nhà nước. Ví dụ, khi xác
định nhiệm vụ của các công sở trong việc xây dựng văn hoá công sở (tích
cực)- một cách sử dụng quyền lực đúng đắn và để phục vụ nhân dân tốt nhất

thì thuật ngữ công sở được sử dụng theo nghĩa thứ hai này.
Theo đó, công sở thuộc các cấp, hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau
có những đặc điểm đặc thù. Song xét trên bình diện thống nhất thì công sở có
một đặc điểm chung, giúp phân biệt chúng với các loại tổ chức khác trong xã
hội, như sau:
20
-Thứ nhất, công sở là đơn vị cơ bản cấu thành hệ thống hành pháp hoạt
động thường xuyên, liên tục. Công sở có địa vị pháp lý, có chức năng, nhiệm
vụ và quyền hạn theo luật định.
- Thứ hai, công sở hoạt động để thực thi quyền lực nhà nước. Các công
sở quản lý hành chính nhà nước sử dụng quyền lực nhà nước để hoạch định
và quản lý quá trình thực thi chính sách công trong khi các công sở sự nghiệp
chịu trách nhiệm về việc cung cấp các dịch vụ công như: y tế, giáo dục….
- Thứ ba, công sở có địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
về thực thi công vụ (các chính sách và dịch vụ công) và cơ cấu tổ chức được
quy định cụ thể tại các văn bản pháp luật và được hệ thống pháp luật bảo đảm
thi hành.
- Thứ tư, công sở có mối quan hệ mang tính thứ bậc (khái niệm cấp
trong cơ cấu thứ bậc) để đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ trong điều
hành và có mối quan hệ mang tính phối hợp (khái niệm hệ) để đảm bảo
nguyên tắc phối hợp (đồng bộ) trong hành động với các công sở khác trong
hệ thống.
- Thứ năm, công sở được thực hiện bởi một đội ngũ cán bộ, công chức.
- Thứ sáu, công sở có trụ sở xác định, có kinh phí hoạt động và các
công sản khác để thực thi công vụ.
- Thứ bẩy, công vụ hoạt động để phục vụ lợi ích công, lợi ích của nhân dân.
Trong những đặc điểm trên, đặc điểm thứ hai, năm và bẩy là đặc điểm
nổi bât nhất, giúp dễ rang nhận dạng và phân biệt công sở với các loại tổ
chức khác trong xã hội. Nhưng dù phân loại theo nguyên tắc nào thì công sở
nói chung cũng đều có đặc điểm chủ yếu như: Là một pháp nhân, là cơ sở để

bảo đảm công vụ, có quy chế cần thiết để thực hiện các chuyên môn do Nhà
nước quy định.
Từ các đặc điểm trên có thể hiểu về công sở như sau: Công sở là nơi
để tổ chức các cơ chế kiểm soát công việc hành chính, quản lý các công việc
của đời sống xã hội, là nơi soạn thảo và xử lý các văn bản để phục vụ công
21
việc chung, bảo đảm các thông tin cho hoạt động của bộ máy quản lý nhà
nước, nơi phối hợp các bộ phận cán bộ, công chức theo một cơ chế nhất định
để thực hiện mọi nhiệm vụ được nhà nước giao. Do đó, công sở là bộ phận
hợp thành tất yếu của thiết chế bộ máy quản lý nhà nước.
1.1.7. Khái niệm văn hoá tổ chức
Nghiên cứu văn hoá là một cách thức quan trọng để hiểu về con người.
Theo đó nghiên cứu văn hoá của một tổ chức là một điều kiện quan trọng để
hiểu đến các yếu tố tác động đến tư duy, quan điểm và hành vi của các thành
viên trong tổ chức đó. Văn hoá liên quan đến niềm tin và cách hành động
trong nội bộ tổ chức và liên quan đến hình ảnh, diện mạo, uy tín và ảnh
hưởng của tổ chức đối với bên ngoài. Khi nói đến văn hoá người ta thường
hàm ý về khía cạnh tinh thần. Trên thực tế, văn hoá có biểu hiện mang tính
vật thể và phi vật thể. Nói như vậy, cũng có nghĩa rằng văn hoá có những
điều có thể cảm nhận được bằng các giác quan nhưng cũng có những điều mà
ta chỉ đánh giá qua nhận thức mà thôi.
Cũng tương tự như khái niệm văn hóa, văn hóa tổ chức trong những
năm gần đây được một số nhà nghiên cứu về tổ chức, quản lý và quản lý
hành chính đưa ra nhiều cách hiểu khác nhau nhằm phục vụ cho những mục
đích nghiên cứu khác nhau.
GS.TSKH Nguyễn Văn Thâm, trong cuốn “ Tổ chức và điều hành
công sở ” đưa ra cách hiểu : Văn hóa tổ chức là hệ thống các giá trị, niềm
tin, sự mong đợi của các thành viên trong tổ chức, tác động qua lại với các
cơ cấu chính thức và tạo nên những chuẩn mực hành động có tính truyền
thống, tạo nên đặc điểm về cách thức làm việc của tổ chức mà mọi người

trong đó đều tuân theo một cách tự nguyện.
TS. Nguyễn Văn Hậu ( Học viện Hành chính ) đưa ra cách hiểu : “
Văn hóa tổ chức là toàn bộ những giá trị, niềm tin, truyền thống và thói quen
có khả năng quy định hành vi của mỗi thành viên trong tổ chức, có sự biến
động thay đổi theo thời gian, tạo cho tổ chức có một bản sắc riêng.”
22
Văn hóa tổ chức, theo hướng tiếp cận khác được xem xét với tư cách là
một nguồn lực ( có thể là động lực nhưng cũng có thể là trở lực ) đối với sự
vận hành của tổ chức. Nguồn lực đó có nguồn gốc từ lịch sử của tổ chức, tạo
nên cách nghĩ, cách làm mang tính truyền thống của các thành viên thuộc tổ
chức, có thể nhận biết thông qua các hành vi ứng xử của họ hoặc qua hình
ảnh của tổ chức được biểu hiện ra bên ngoài. Tiếp cận “văn hóa tổ chức” theo
hướng này cho phép phát hiện và lý giải cách nghĩ, cách làm của cách thành
viên thuộc tổ chức; tạo khả năng sử dụng nguồn lực văn hóa phục vụ cho
hoạt động của các thành viên thuộc tổ chức.
Tóm lại, “Văn hóa tổ chức ” có thể được hiểu là : Kiểu văn hóa được
hình thành, tồn tại và phát triển trong tổ chức; tạo nên nét đặc trưng của tổ
chức, tác động đến tư duy và chi phối hành động của các thành viên thuộc tổ
chức. Văn hóa tổ chức là kết quả hợp nhất trong một khuôn mẫu chung
những nguyên tắc định hướng hành động được các thành viên thuộc tổ chức
chấp thuận, những giá trị thuộc về tổ chức được các thành viên chú trọng,
những tiêu chuẩn hành động được các thành viên đề cao, những quy tắc để
tồn tại hòa hợp trong tổ chức được các thành viên áp dụng một cách tự giác.
1.1.8. Khái niệm văn hoá công sở
Quan niệm về văn hoá công sở ở mỗi thời đại lịch sử, mỗi chế độ
chính trị, mỗi quốc gia khác nhau thì khác nhau. Trên thế giới, người ta nhắc
nhiều đến văn hoá tổ chức. Văn hoá tổ chức được thể hiện dưới các hệ thống
giá trị, niềm tin, sự mong đợi của các thành viên trong tổ chức, trong đó mọi
hoạt động tuân theo những chuẩn mực mang tính truyền thống và những thói
quen có khả năng mang bản sắc riêng mà mọi thành viên trong tổ chức tuân

theo một cách tự nguyện. Văn hoá tổ chức giúp chúng ta nhìn thấy được sự
khác nhau giữa các tổ chức khác nhau.
Văn hóa công sở là một bộ phận của văn hóa quốc gia, dân tộc, khi có
những yếu tố tác động làm thay đổi các mặt của đời sống văn hóa dân tộc,
cũng sẽ là những yếu tố làm thay đổi văn hóa công sở.
23
Theo tác giả Trần Hoàng: văn hóa công sở có thể được hiểu là những
qui tắc, các chuẩn mực ứng xử của các cán bộ, công chức nhà nước với nhau
và với đối tượng giao tiếp là các công dân tới cơ quan hành chính nhà nước
vì công việc trong quá trình thực thi công vụ, nhằm phát huy tối đa năng lực
của những người tham gia giao tiếp để đạt hiệu quả cao nhất trong công việc
tại công sở.
Theo Thạc sĩ Hoàng Xuân Tuyền, Văn hóa công sở là hệ thống các giá
trị, chuẩn mực, nguyên tắc xử sự chung của công sở. Nó được hình thành, tồn
tại và phát triển trong lòng tổ chức và nó có tác động chi phối đến hoạt động
của toàn bộ các thành viên trong công sở. [47, 29]
Các tác giả của tập bài giảng Văn hóa hành chính cho rằng: “Văn hóa
công sở là tập hợp các giá trị, niềm tin, trông đợi và các chuẩn mực trong
cách tư duy về nền hành chính và thực tiễn thực thi công vụ, thể hiện bản
chất, mục tiêu hoạt động của nền công vụ”. [34, 48]
Vậy, văn hóa công sở là hệ thống giá trị, niềm tin, chuẩn mực được
hình thành, duy trì và phát triển trong công sở, tạo nên một dấu ấn riêng
biệt. Nó tác động đến hoạt động của toàn bộ thành viên trong công sở và là
nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của công sở.
Trong văn hóa công sở, cần lưu ý tới khía cạnh chính trị.
Văn hóa chính trị không phải là phép cộng đơn giản giữa ‘‘văn hóa’’
và ‘‘chính trị’’ mà đó là sự thẩm thấu, xâm nhập vào nhau, chuyển hóa lẫn
nhau giữa văn hóa với chính trị, chính trị với văn hóa. Hồ Chí Minh đã từng
khẳng định “Văn hóa có liên lạc với chính trị rất mật thiết”.
Văn hóa chính trị là chất lượng tổng hợp của tri thức và kinh nghiệm

hoạt động chính trị, là tình cảm và niềm tin chính trị của mỗi cá nhân tạo
thành ý thức chính trị của mỗi công dân, thúc đẩy họ tới những hành động
tích cực, phù hợp với lý tưởng chính trị xã hội.
24
Văn hóa chính trị với tư cách là hệ thống các giá trị. Nó bao gồm các
giá trị sau : một là, tri thức về chính trị, sự hiểu biết chính trị không chỉ biểu
hiện ở trình độ học vấn chính trị mà còn ở trình độ kinh nghiệm, sự khôn
ngoan, sự từng trải, sự nhạy bén, mẫn cảm về chính trị,… được tích lũy qua
thực tiễn chính trị của chủ thể, ở trình độ học vấn được thẩm thấu vào hành vi
nhận thức, suy nghĩ, tình cảm của con người, trở thành những giá trị ứng xử
của con người hướng đến chân, thiện, mỹ; hai là, Niềm tin và tình cảm chính
trị, niềm tin chính trị không chỉ là kết quả hoạt động chính trị thực tiễn, hoạt
động giáo dục mà còn là tự giáo dục của mỗi cá nhân; ba là, các truyền
thống chính trị tạo nên bản sắc dân tộc cho văn hóa chính trị; bốn là, những
lý tưởng cao đẹp mà con người phấn đấu đạt tới trong chính trị. Nó đóng vai
trò là động lực kích thích hoạt động chính trị vừa đóng vai trò là xung lực nội
tại để hoàn thiện tư chất của chủ thể chính trị vươn tới những giá trị chân -
thiện - mỹ trong hoạt động chính trị; năm là, Hệ tư tưởng chính trị. Nó đóng
vai trò hạt nhân của văn hóa chính trị, nó quy định tính chất, nội dung,
khuynh hướng phát triển và tích cực của văn hóa chính trị. Ngoài ra cũng còn
có nhiều yếu tố khác tham gia vào sự hình thành văn hóa chính trị như bầu
không khí tâm lý, đạo đức, tôn giáo…
Văn hóa chính trị có vai trò to lớn trong việc điều chỉnh các quan hệ
con người với con người, con người với xã hội trong đời sống chính trị, đồng
thời, nó tăng cường khả năng tự điều chỉnh của các chủ thể để phù hợp, hài
hòa với lợi ích của các chủ thể khác và với lợi ích của xã hội.
Môi trường văn hóa chính trị vừa ảnh hưởng đến mỗi người trong xã
hội, vừa đặt ra những yêu cầu phát triển nhân cách về chính trị. Sự toàn diện,
linh hoạt có ý nghĩa rất quan trọng trong các tình huống chính trị giúp cho
con người ngày càng hướng đến một sự cân đối, hài hòa và tốt đẹp hơn.

Mỗi công sở là một xã hội thu nhỏ, một tiểu hệ thống nằm trong một hệ
thống lớn, có lịch sử thành lập và phát triển, có các mối quan hệ nội bộ bên
25

×