Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Phân tích dự báo sự biến động và các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn vốn huy động của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh huyện Xuân Trường - Nam Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (957.62 KB, 80 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Đình Tuấn
MỤC LỤC
SV: Hoàng Thị Thanh Trang Lớp: Toán tài chính 50
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Đình Tuấn
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH
SV: Hoàng Thị Thanh Trang Lớp: Toán tài chính 50
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Đình Tuấn
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Với đặc thù của mình, hoạt động của các ngân hàng luôn là mối quan tâm
không chỉ của bản thân ngân hàng đó mà còn cả các nhà hoạch định chính sách, nhà
đầu tư, các doanh nghiệp. Ở Việt Nam, cổ phiếu ngành này ít về số lượng nhưng lại
chiếm tỷ trọng lớn nhất về mức vốn hóa trên thị trường chứng khoán. Những năm
gần đây chứng kiến nhiều biến động lớn trong nền kinh tế thế giới. Điều này ảnh
hưởng không nhỏ đến các hoạt động kinh doanh và hoạt động thị trường chứng
khoán Việt Nam; bộc lộ những yếu kém, tồn tại của nền kinh tế và hệ thống tài
chính; đặt ra các vấn đề tái cấu trúc, xếp hạng, minh bạch hóa thông tin Trong
giai đoạn hiện nay, việc nghiên cứu cổ phiếu ngành ngân hàng có ý nghĩa quan
trọng với các nhà đầu tư dài hạn, các tổ chức tài chính, các ngân hàng niêm yết hay
sắp sửa niêm yết.
Đề xuất đề tài “Xây dựng mô hình đa nhân tố với nhóm cổ phiếu ngân
hàng Việt Nam trên thị trường chứng khoán”. Đề tài sẽ góp phần làm rõ hơn ảnh
hưởng của các nhân tố tới lợi suất cổ phiếu nhóm ngành này.
II. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Không gian: nghiên cứu các cổ phiếu các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành
ngân hàng của Việt Nam trên 2 sàn giao dịch HNX và HOSE.
Thời gian: từ năm 2009 đến tháng nay.
Nội dung: phân tích sự phụ thuộc của lợi suất cổ phiếu ngân hàng vào các
nhân tố chung và riêng.
III. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng lý thuyết trong các môn học: kinh tế lượng, thống kê thực hành, định


giá tài sản tài chính, quản trị ngân hàng thương mại, các mô hình tài chính công ty.
Sử dụng kỹ thuật tổng hợp, xử lý số liệu, các phương pháp thống kê đa biến
đặc biệt là phương pháp phương pháp thành phần chính trong phân tích nhân tố.
SV: Hoàng Thị Thanh Trang Lớp: Toán tài chính 50
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Đình Tuấn
IV. Nội dung đề tài
Kết cấu: đề tài gồm 3 chương như sau:
Chương 1 Tổng quan về mô hình đa nhân tố
Nội dung chính: lý thuyết về mô hình đa nhân tố bao gồm lịch sử hình thành,
nội dung của mô hình đa nhân tố; chương này cũng đưa ra các phương pháp sử
dụng để ước lượng xây dựng mô hình
Mục đích: cung cấp cơ sở lý thuyết và kỹ thuật để ước lượng mô hình
Chương 2 Thực trạng hoạt động ngân hàng và cổ phiếu ngân hàng trên HNX
và HOSE.
Nội dung chính: tổng kết hoạt động kinh doanh toàn ngành ngân hàng và các
ngân hàng niêm yết ở Việt Nam, diễn biến giá cổ phiếu các ngân hàng niêm yết trên
2 sàn giao dịch
Mục đích: có cái nhìn tổng quan nhất về môi trường kinh tế nói chung và
ngành ngân hàng nói riêng trong khoảng thời gian từ năm 2009 đến nay; biết được
đặc điểm của các biến phân tích từ đó có nhận định về các nhân tố ảnh hưởng đến
lợi suất cổ phiếu để xây dựng mô hình
Chương 3 Xây dựng và ước lượng mô hình đa nhân tố
Nội dung chính: phân tích các biến là chuỗi lợi suất các cổ phiếu ngân hàng
trên 2 sàn giao dịch HNX và HOSE, xây dựng mô hình đa nhân tố cho các biến này,
tìm hiểu về những nhân tố chung tác động đến các biến
Mục đích: ước lượng và sử dụng mô hình đa nhân tố phân tích lợi suất cổ
phiếu ngân hàng
SV: Hoàng Thị Thanh Trang Lớp: Toán tài chính 50
4

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Đình Tuấn
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ MÔ HÌNH ĐA NHÂN TỐ
1.1. Mô hình đa nhân tố
1.1.1. Lịch sử hình thành
CAPM và sự không nhất quán giữa lý thuyết - thực nghiệm
Mô hình định giá tài sản vốn (CAPM) là mô hình mô tả mối quan hệ giữa rủi
ro và lợi nhuận kỳ vọng do William Sharpe phát triển từ những năm 1960. Trong
mô hình này, lợi nhuận kì vọng của một tài sản được tính bằng lợi nhuận phi rủi ro
cộng với phần bù rủi ro dựa trên cơ sở rủi ro toàn hệ thống của tài sản đó.
Trong khi sử dụng CAPM người ta phát hiện ra những tình huống mà mô hình
này không còn đúng như trong trường hợp bình thường là:
-
Cổ phiếu của các công ty có giá trị thị trường nhỏ đem lại lợi nhuận cao
hơn cổ phiếu của các công ty có giá trị thị trường lớn (các yếu tố khác là như nhau).
-
Cổ phiếu của các công ty có tỷ số P/E và MB thấp hơn đem lại lợi nhuận
cao hơn.
-
Nhà đầu tư nắm giữ cổ phiếu trong khoảng thời gian từ tháng 12 đến tháng
1 thường có lơi nhuận cao hơn các tháng khác (hiệu ứng tháng giêng).
Cách khắc phục hạn chế của CAPM và sự ra đời của mô hình đa nhân tố
Mặc dù CAPM hữu ích nhưng nó lại không đo lường một cách chính xác lợi
nhuận kỳ vọng của 1 cổ phiếu cụ thể nào đó. Năm 1976, trong bài báo: “The
Arbitrage Theory of Capital Asset Pricing” (Journal of Econmic Theory) tác giả
Stephen Ross đã nhận xét: về lý thuyết có thể mở rộng CAPM với nhiều nhân tố
còn về thực tế, bên cạnh nhân tố thị trường còn có nhiều nhân tố tác động đến lợi
suất. Từ đó, ông đề xuất mô hình khái quát về quan hệ giữa lợi suất tài sản và nhiều
nhân tố - mô hình đa nhân tố (Multi Factor Model).
Tuy nhiên, lý thuyết về phân tích nhân tố đã phát triển từ trước. Đó là vào năm

1904, nhà thống kê Charles spearman đã xuất bản một bài báo với tựa đề “General
intelligence, opjectively determined and measured”. Bài báo này chính là nguồn gốc
của phân tích nhân tố cổ điển.
SV: Hoàng Thị Thanh Trang Lớp: Toán tài chính 50
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Đình Tuấn
1.1.2. Mô hình đa nhân tố của Stephen Ross
1.1.2.1. Các giả thuyết
Giả thuyết về lợi suất tài sản
Lợi suất các tài sản phụ thuộc vào K nhân tố chung cho tất cả các tài sản và
một nhân tố riêng của chính tài sản đó.
Các nhân tố chung: F
1
, F
2
, … , F
k
Nhân tố riêng: ε (i= 1, 2, … , N)
N: số lượng tài sản
Giả thuyết về nhân tố chung và nhân tố riêng
(i) E(F
k
) = 0 ( )
(ii) E( ε
i
) = 0 ( )
(iii) Cov(F
r
,F
s

)=0 r ≠ s
(iv) Cov( ε
i
, ε
j
) =0 (
(v) Cov(F
k
, ε
i
) =0 ( ,
1.1.2.2. Phân loại nhân tố
Các nhân tố vĩ mô
-
Nhân tố liên quan tới tăng trưởng kinh tế, hoạt động của các thị trường
-
Nhân tố liên quan đến lạm phát, lãi suất
-
Nhân tố liên quan đến chính sách kinh tế: chính sách tiền tệ, chính sách tài
khóa, chính sách tỷ giá hối đoái…
-
Các nhân tố về chính trị - xã hội
Các nhân tố vi mô
-
Ngành nghề, lĩnh vực
-
Loại hình tài sản
-
Các đặc trưng của doanh nghiệp, tổ chức phát hành tài sản (quy mô, hình
thức sở hữu…)

-
1.1.2.3. Nội dung mô hình đa nhân tố
Mô hình đa nhân tố với lợi suất tài sản
SV: Hoàng Thị Thanh Trang Lớp: Toán tài chính 50
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Đình Tuấn
Với các giả thuyết (i)-(v) mô hình MFM với lợi suất các tài sản có dạng:
Trong đó β
ik
: hệ số nhân tố (Factor Loadings) thứ k của lợi suất tài sản i, phản
ánh mối quan hệ giữa tài sản i và nhân tố k. Dấu của β
ik
xác định xu hướng và ǀβ
ik
ǀ
đo lường mức độ của mối quan hệ. Hệ số nhân tố đo lường tác động của nhân tố tới
lợi suất các tài sản.
Mô hình có thể được mô tả dưới dạng ma trận như sau:
-
Ma trận hệ số nhân tố:
-
Vectơ lợi suất các tài sản: r = (r
1
, r
2
,…,r
N
)
-
Lợi suất kì vọng của tài sản i:

E(r
i
)= E( )= ) + + )= α
i
-
Vectơ lợi suất kỳ vọng của các tài sản: α= (α
1
, α
2
,…,α
N
)
-
Vectơ các nhân tố riêng của các tài sản: ε = ( ε
1
, ε
2
,…, ε
N
)
-
Vectơ các nhân tố chung: F= (F
1
, F
2
,…,F
N
)
Khi đó, mô hình K nhân tố dưới dạng ma trận có dạng:
r = α + βF + ε

SV: Hoàng Thị Thanh Trang Lớp: Toán tài chính 50
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Đình Tuấn
Mô hình đa nhân tố với lợi suất danh mục
Xét danh mục P: (w
1
, w
2
, … , w
N
), có lợi suất r
p
.
Suy ra:

Trong đó:



Phương trình nhân tố của danh mục dưới dạng ma trận:
Trong đó:
w’: véc tơ(dòng) tỷ trọng các tài sản trong P
α, β, F, ε : véc tơ(cột) của lợi suất kì vọng, hệ số nhân tố, nhân tố
chung, nhân tố riêng của các tài sản trong P.
1.2. Phương pháp ước lượng và phân tích
1.2.1.Phân tích nhân tố
Mục đích của phân tích nhân tố là rút gọn dữ liệu và xác định cấu trúc
quan hệ giữa các biến. Phân tích nhân tố được sử dụng khi các biến có tương
quan với nhau và cùng chịu sự tác động của các nhân tố chung. Những biến ít
tương quan với các biến còn lại không phải là đối tượng của phân tích nhân tố

nên được loại ra.
Cơ sở của phân tích nhân tố là việc các biến có tương quan với nhau có
thể được thay bằng một quan hệ hồi quy. Phương pháp phân tích này chỉ ra
SV: Hoàng Thị Thanh Trang Lớp: Toán tài chính 50
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Đình Tuấn
quan hệ hồi quy giữa biến quan sát (biến phụ thuộc) và các nhân tố chung là
các biến độc lập.
Tương quan giữa các biến phân tích được giải thích bởi các yếu tố tiềm
ẩn. Các yếu tố này sẽ không được định danh nếu ta sử dụng phương pháp phân
tích thành phần chính. Điều này rất khác biệt với các mô hình hồi quy trong
thống kê. Ở đây, những gì ta biết được nằm ở vế trái của phương trình còn
những gì không biết lại nằm ở vế phải. Người ta lấy biến chưa biết ở vế phải
của phương trình để giải thích cho biến đã biết ở vế trái.
1.2.2.Phương pháp hồi quy bội trong phân tích nhân tố
Dựa vào các lý thuyết và kết quả kiểm định để xây dựng mô hình hồi quy
bội từ chuỗi số liệu theo thời gian của lợi suất tài sản i:
Các nhân tố chung F
s
được chọn trước là các biến kinh tế vĩ mô, biến
kinh tế vi mô, hoặc biến kết hợp giữa các biến kinh tế này. Biến được chọn
phải có tác động đến lợi suất tài sản i và thể hiện đặc trưng của tài sản, công ty
như:
-
Quy mô vốn hoá của doanh nghiệp hay tổ chức phát hành (Firm Size)
-
Một số chỉ tiêu tài chính: lợi suất trong 3, 6 hoặc 12 tháng qua (“xung
lượng” (Momentum) của công ty), các hệ số: P/E; ROE; Market – to – Book Ratio
(M/B); Pay – out Ratio…
-

Kì hạn của tài sản
-
Loại hình doanh nghiệp ….
Sau khi có các nhân tố người ta ước lượng mô hình hồi quy với các biến đã
chọn sao cho có thể định dạng đúng mô hình; từ đó khẳng định được các nhân tố tác
động và phương trình nhân tố.
Cơ chế tác động của các nhân tố
Biến quan sát (lợi suất cổ phiếu) được tính từ giá thị trường của cổ phiếu. Giá
này do quan hệ cung - cầu cổ phiếu trên thị trường quyết định. Giao dịch của các
SV: Hoàng Thị Thanh Trang Lớp: Toán tài chính 50
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Đình Tuấn
nhà đầu tư lại phụ thuộc vào lợi nhuận mà họ kì vọng về tài sản. Lợi nhuận kì vọng
này là kết quả do tác động qua lại của các yếu tố trong môi trường theo cơ chế như
sau:
Bảng 1 Tác động qua lại giữa các yếu tố ảnh hưởng tới lợi suất kỳ vọng
các cổ phiếu
Với đặc thù ngành ngân hàng, giá cổ phiếu chịu ảnh hưởng nhiều từ chính
sách vĩ mô liên quan đến tỷ giá, lãi suất, lạm phát, cung tiền…
1.2.3.Phương pháp phân tích thành phần chính - Principal Component
Analysis - trong phân tích nhân tố
1.2.3.1.Nội dung
Tư tưởng cơ bản của phân tích thành phần chính
Phân tích thành phần chính (PCA) dùng để rút gọn một tập gồm nhiều biến
quan sát phụ thuộc lẫn nhau thành một tập biến (các nhân tố) ít hơn nhưng vẫn giữ
được hầu hết nội dung thông tin của tập biến ban đầu. Trong phương pháp này, các
SV: Hoàng Thị Thanh Trang Lớp: Toán tài chính 50
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Đình Tuấn
nhân tố không đòi hỏi phải được xác định trước.

Phân tích nhân tố bằng phương pháp thành phần chính thực chất là việc thay
thế p biến ban đầu có quan hệ tương quan với nhau, bằng một số các biến mới là tổ
hợp tuyến tính của chúng. Các biến này không tương quan với nhau sao cho giữ
được sự khác biệt tối đa giữa các cá thể nghĩa là đảm bảo được sự liên hệ tối đa của
chính các biến ban đầu.
Giả sử dữ liệu được biểu diễn dưới dạng ma trận
Trong đó là các điểm trong không gian ban đầu.
Hình 1 Ví dụ đơn giản minh họa cho PCA
Trong ví dụ trên tập dữ liệu ban đầu được quan sát trong không gian 3 chiều
(n= 3), PCA tìm ra hệ trục tọa độ có số chiều ít hơn (2 chiều) mà biểu diễn tốt mức
độ biến thiên của số liệu (đảm bảo được thông tin mất đi là ít nhất).
Quy trình trích nhân tố bắt đầu bằng việc tìm kiếm sự kết hợp tuyến tính giữa
các biến có phương sai đạt cực đại để loại bỏ chúng ra khỏi mô hình và tìm kiếm sự
SV: Hoàng Thị Thanh Trang Lớp: Toán tài chính 50
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Đình Tuấn
kết hợp tuyến tính thứ hai để có thể giải thích tối đa phần còn lại của phương sai.
Quá trình này tiếp tục cho đến khi các phương sai được loại trừ hết. Càng về sau
tương quan giữa các biến trong nhân tố yếu dần nên đường hồi quy càng khó thực
hiện.
Thành phần chính (nhân tố chính) là tổ hợp tuyến tính của các biến quan sát và
độc lập với các thành phần khác hay nói khác các nhân tố chính tìm được qua quá
trình này là trực giao.
Thành phần đầu tiên giải thích nhiều nhất sự biến động của số liệu, thành
phần thứ hai giải thích nhiều nhất cho phần biến động còn lại…
1.2.3.2. Phân tích thành phần chính bằng phần mềm SPSS
Phần mềm thống kê SPSS cung cấp các phương pháp trích nhân tố khác nhau
trong đó được sử dụng nhiều nhất là: phân tích thành phần chính và phân tích nhân
tố khám phá. Các ứng dụng của SPSS khi thực hiện PCA:
-

Mô tả thống kê các biến: cung cấp 1 số thống kê cơ bản như độ lệch chuẩn,
trung bình các biến quan sát.
-
Các giá trị riêng
-
Tỷ lệ bảo tồn phương sai của đám mây số liệu ban đầu trên siêu phẳng
chiếu: cho biết các thành phần chính giữ được bao nhiêu sự sai khác trên đám mây
số liệu, cần bao nhiêu thành phần chính là đảm bảo.
-
Tọa độ các biến trên các trên các trục chính (các véc tơ riêng)
-
Tỷ lệ giải thích được của các biến nhờ các nhân tố chính
-
Các véc tơ nhân tố chính (hệ số các thành phần chính ứng với từng biến)

SV: Hoàng Thị Thanh Trang Lớp: Toán tài chính 50
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Đình Tuấn
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Chương 1 đã trình bày cơ sở lý luận cũng như các kỹ thuật để phân tích và xây
dựng mô hình đa nhân tố, cung cấp một cách tổng quan các lý thuyết và phương
pháp phân tích được sử dụng trong chương 3. Tuy nhiên, việc sử dụng mô hình
trong phân tích không chỉ phụ thuộc vào bài toán ban đầu đặt ra mà còn phụ thuộc
rất nhiều vào biến được chọn. Chương 2 tiếp sau đây sẽ làm rõ hơn các biến phân
tích khi đặt trong môi trường kinh tế - xã hội của nó. Việc này sẽ làm tăng tính
chính xác của phân tích và hỗ trợ giải thích cho kết quả nhận được.
SV: Hoàng Thị Thanh Trang Lớp: Toán tài chính 50
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Đình Tuấn
Chương 2

THỰC TRẠNG CỔ PHIẾU NGÂN HÀNG
2.1. Tổng quan về hệ thống ngân hàng Việt Nam
Việt Nam được đánh giá là có nhiều ngân hàng với quy mô nhỏ và tín dụng
tăng trưởng nóng. Tính đến cuối 06/2011 thị trường Việt Nam có 101 ngân hàng
NHTM trong nước và ngân hàng nước ngoài, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Cụ
thể, Việt Nam có 5 NHTM quốc doanh (các ngân hàng này chiếm cổ phần chi
phối), 1 ngân hàng chính sách, 37 NHTM cổ phần, 53 ngân hàng 100% vốn nước
ngoài/chi nhánh NH nước ngoài và 5 ngân hàng liên doanh. Theo đánh giá của
World Bank ngân hàng Việt Nam có hệ thống quản lý rủi ro và kỹ năng quản lý
hoạt động ngân hàng còn tương đối kém. Điều này gây tác động không tốt đến sự
lành mạnh của hệ thống ngân hàng.
Không chỉ về số lượng mà quy mô mạng lưới của các NHTM cũng tăng lên
nhanh chóng. Trong đó, do đặc thù của mình Agribank có quy mô lớn nhất sau đó là
VCB, SEAB, CTG, BIDV, TCB…
Quy mô tài sản của ngành Ngân hàng Việt Nam đã mở rộng đáng kể trong
những năm gần đây. Tổng tài sản tăng gấp 2 lần từ giai đoạn 2007- 2010 từ 1097 tỷ
đồng (52.4 tỷ USD) lên 2690 tỷ đồng (1128.7 tỷ USD). Về quy mô vốn, khối
NHTM Nhà nước (VBARD, BIDV) và NHTM đã cổ phần hóa do Nhà nước nắm
quyền chi phối (Vietinbank , Vietcombank) chiếm ưu thế. Ngành ngân hàng hiện
nay đang tiếp tục thay đổi theo hướng phát triển mở rộng các ngân hàng cổ phần.
Các NHTM quốc doanh vẫn đóng vai trò chi phối trong ngành ngân hàng mặc dù
đang bị mất thị phần (cả về tín dụng lẫn tiền gửi). Về tăng trưởng tín dụng, danh
mục cho vay của các NHTM quốc doanh có mức tăng thấp hơn so với mức tăng
toàn ngành. Tỷ trọng tín dụng của các NHTM quốc doanh dành cho khu vực doanh
nghiệp nhà nước cũng giảm dần trong thời gian gần đây.
2.1.1. Môi trường kinh tế Việt Nam những năm gần đây
Viêt Nam được đánh giá là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh tại
SV: Hoàng Thị Thanh Trang Lớp: Toán tài chính 50
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Đình Tuấn

Châu Á với tốc độ tăng GDP bình quân đầu người giai đoạn 2002- 2010 đạt 7.3%/
năm. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu khó khăn, Việt Nam vẫn thu hút đầu tư nước
ngoài với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI giải ngân liên tục giữ tốc độ ổn định
góp phần quan trọng trong ổn định cán cân thanh toán tổng thể.
Tuy nhiên dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009 và sau đó
là suy thoái kinh tế toàn cầu kim ngạch xuất khẩu, tốc độ tăng trưởng GDP giảm.
Lạm phát trong nước sau khi đạt đỉnh 23% trong năm 2008 đã giảm xuống 6.88%
(2009) và 9.19% (2010), đến 2011 lại tăng cao, có lúc lên tới hơn 20%.
Sau khi thực hiện gói kích cầu kinh tế 2008-2009, để đối phó với nhiều bất ổn
vĩ mô, Chính phủ đã quyết định chuyển đổi mục tiêu điều hành từ ưu tiên cho tăng
trưởng sang tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã
hội, đồng thời tiến hành xem xét thay đổi mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc đầu tư
công và hệ thống doanh nghiệp nhà nước
Năm 2010, kinh tế Việt Nam vẫn còn chịu ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng
hoảng tài chính thế giới. Diễn biến bất ổn của kinh tế thế giới (khủng hoảng nợ ở
một số nền kinh tế châu Âu, mâu thuẫn về chính sách tỷ giá của một số nền kinh tế
lớn) cũng đã gián tiếp ảnh hưởng bất lợi đến Việt Nam. Mặc dù nền kinh tế đã tăng
trưởng trở lại tuy nhiên suy thoái kinh tế vẫn có tác động không nhỏ. Những biểu
hiện bất ổn liên quan đến lạm phát và tỷ giá bộc lộ những yếu điểm trong cấu trúc
nền kinh tế ngày càng gay gắt hơn.
Vào năm 2011, kinh tế Việt Nam đối mặt với nhiều thách thức lớn: lạm phát
tăng cao, tăng trưởng thấp, đầu tư trong nước giảm do thắt chặt tiền tệ và giảm đầu
tư công; đầu tư nước ngoài cũng chững lại do tình hình kinh tế thế giới biến động.
Kinh tế thế giới 2011 có nhiều bất ổn, tiềm ẩn nguy cơ lan rộng khủng hoảng nợ
công ở Châu Âu và suy thoái kép của kinh tế toàn cầu.
GDP tăng trưởng ở mức thấp, lạm phát cao, đạt đỉnh vào 8/2011. Với mục tiêu kiềm
chế lạm phát Nhà nước thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, chính sách tiền tệ
cũng quyết liệt hơn thông qua các lãi suất chính sách.
SV: Hoàng Thị Thanh Trang Lớp: Toán tài chính 50
15

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Đình Tuấn
2.1.2. Tình hình hoạt động ngành ngân hàng từ 2009 đến nay.
2.1.2.1. Những điểm chính:
Năm 2009
Đặc điểm ngành
Thị trường ngân hàng 2009 có nhiều diễn biến phức tạp và ảnh hưởng trực tiếp
đến lãi biên, lợi nhuận cũng như tăng trưởng quy mô của các ngân hàng. Trong đó,
nổi lên là các vấn đề căng thẳng ngoại tệ, sự thay đổi chính sách từ khuyến khích
tăng tín dụng đầu năm (thông qua gói cho vay hỗ trợ lãi suất 4%) chuyển sang kiểm
soát chặt tăng trưởng tín dụng từ cuối quý II và chấm dứt hỗ trợ lãi suất ngắn hạn từ
cuối 2009 cũng như quy định chấm dứt các hoạt động kinh doanh vàng tài khoản,
hoạt động của các trung tâm giao dịch vàng.
Chính sách điều hành
Chính sách điều hành lãi suất, tỷ giá năm 2009 tương đối ổn định. Tuy nhiên,
tình hình thực tế thị trường có nhiều biến động và căng thẳng. Năm 2008, việc thắt
chặt tiền tệ đầu năm và nới lỏng dần cuối năm đã tạo nên tần suất điều chỉnh chính
sách nhiều chưa từng có. Thể hiện bằng việc NHNN có 8 lần điều chỉnh lãi suất cơ
bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu; 5 lần điều chỉnh dự trữ bắt buộc và
lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc; 3 lần nới biên độ tỷ giá, 2 lần tăng mạnh tỷ giá bình
quân liên ngân hàng. Xét về tần suất điều chỉnh đó, năm 2009 chính sách tiền tệ có
sự ổn định hơn. Cụ thể, trong năm Ngân hàng Nhà nước chỉ một lần giảm lãi suất
cơ bản từ 8,5% xuống 7%/năm và duy trì đến hết tháng 11 để rồi tăng trở lại 8% từ
1/12. Riêng đối với lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu có 3 lần điều chỉnh
trong đó 2 lần giảm trong tháng 1 và 4 và 1 lần tăng vào đầu tháng 12. Việt Nam đã
thành công trong việc điều chỉnh lãi suất ở mức thấp trong vòng khoảng 10 tháng
năm 2009 mà không làm gia tăng lạm phát. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì có 1 lần điều
chỉnh giảm từ tháng 3. Biên độ tỷ giá có 2 lần điều chỉnh, một lần lần nới rộng từ
+/-3% lên +/-5% từ ngày 24/3 và một lần thu hẹp lại từ +/-5% xuống +/-3% từ ngày
26/11. Tỷ giá bình quân liên ngân hàng ghi nhận một lần điều chỉnh trực tiếp, tăng
mạnh 5% trong ngày 26/11. So với năm 2008, chính sách tiền tệ và hoạt động của

SV: Hoàng Thị Thanh Trang Lớp: Toán tài chính 50
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Đình Tuấn
các NHTM trong năm 2009 đã có sự ổn định tương đối.
Tỷ giá
Năm2009 là năm thị trường ngoại hối bộc lộ những khó khăn rõ nét và những
vấn đề nội tại chưa thể giải quyết. Căng thẳng ngoại tệ được xem là một trong
những điểm nổi bật nhất của kinh tế Việt Nam năm 2009.
Căng thẳng trên thị trường ngoại hối bắt đầu xuất hiện từ quý 2/2009 khi mà
nhiều doanh nghiệp găm giữ ngoại tệ, không chịu bán lại cho ngân hàng dẫn đến
mất cân đối cung – cầu. Tình trạng này đã kéo dài cho đến cuối năm gây ảnh hưởng
không nhỏ. Bên cạnh đó, tín dụng ngoại tệ giảm rất mạnh trong 6 tháng đầu năm.
Có điều này chủ yếu do doanh nghiệp ngại vay vì lo rủi ro tỷ giá lại tạo ra hiện
tượng ứ đọng vốn ngoại tệ tại các ngân hàng. Từ đây, năm 2009 có tình huống ít
xảy ra là trong hai tháng tháng 5 và 6 các ngân hàng lớn đồng loạt giảm lãi suất huy
động USD, áp tối đa 1,5%/năm và áp lãi suất vay cao nhất chỉ 3%/năm để kích cầu.
Tình trạng doanh nghiệp găm giữ ngoại tệ kéo dài dẫn tới việc mua ngoại tệ
trở nên khó khăn. Trong phần lớn thời gian của năm, các NHTM duy trì trạng thái
niêm yết giá mua ngoại tệ ngang với giá bán. Giá USD của ngân hàng cũng chính
thức vượt mốc 18.000 VND; trên thị trường tự do có thời điểm lên gần mốc 20.000
VND.
Lãi suất huy động
Sau năm 2008 biến động và leo thang chưa từng có trong lịch sử, năm 2009,
lãi suất huy động và cho vay VND cùng ổn định, theo sự ổn định của lãi suất cơ
bản. Tuy nhiên, căng thẳng của lãi suất huy động bắt đầu bộc lộ từ giữa năm. Từ
tháng 7 đến tháng 11, các NHTM liên tục tăng lãi suất huy động VND, tập trung từ
các kỳ hạn dài và dồn ép các kỳ hạn ngắn. Mức lãi suất cao nhất đỉnh điểm lên đến
10,5%/năm. Khái niệm “đường cong lãi suất” bị xóa nhòa khi nhiều thành viên áp
thống nhất một mức cao cho hầu hết các kỳ hạn.
Ngay sau quyết định tăng lãi suất cơ bản từ 7% lên 8% có hiệu lực từ 1/12, các

NHTM đồng loạt đẩy lãi suất huy động lên mức cao, một số thành viên có tới
10,5%/năm.
SV: Hoàng Thị Thanh Trang Lớp: Toán tài chính 50
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Đình Tuấn
Diễn biến lãi suất căng thẳng trong nửa cuối năm 2009 phản ánh khó khăn
thanh khoản của hệ thống. Điều này dẫn đến tỷ lệ lãi biên của các ngân hàng giảm
rất mạnh; nếu trong năm 2008 chênh lệch lãi suất động và cho vay đạt khoảng
3,7%, thì năm 2009 chỉ xoay quanh 1% (đối với cho vay sản xuất kinh doanh).
Tăng trưởng tín dụng
Từ cuối năm 2008, chính sách tiền tệ bắt đầu có sự chuyển hướng, từ thắt chặt
sang dần nới lỏng nhằm tạo điều kiện để tín dụng tăng trưởng mạnh trở lại trong
năm 2009. Cả năm TTTD lên tới trên 36%, tăng mạnh so với năm 2008 (21%) và ở
mức cao trong khoảng thời gian 10 năm trở lại.
Lợi nhuận
Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận ngân hàng năm 2009 chia thành hai nửa khá rõ
rệt. 6 tháng đầu năm, lợi nhuận các ngân hàng tăng mạnh, xuất phát từ tăng trưởng
tín dụng cao, nhiều thành viên có nguồn thu thuận lợi từ xuất khẩu vàng và đặc biệt
là khoản hoàn nhập dự phòng trong đầu tư tài chính theo đà phục hồi mạnh của thị
trường chứng khoán. Tuy nhiên, nửa cuối năm, lợi nhuận nhiều thành viên bắt đầu
giảm tốc do lãi suất huy động tăng cao, tỷ lệ lãi biên bị thu hẹp, tăng trưởng tín
dụng chậm lại, khó khăn thanh khoản và thị trường chứng khoán sụt giảm mạnh
trong quý 4.
Tình hình niêm yết
Sau ACB và Sacombank, năm 2009 thị trường chứng khoán đón nhận loạt cổ
phiếu ngân hàng tham gia niêm yết; gồm: VCB của Vietcombank, CTG của
Vietinbank, EIB của Eximbank và SHB của SHB.
Năm 2010
Đặc điểm ngành
Ngành ngân hàng trải qua năm 2010 đầy biến động với nhiều yếu tố bất lợi từ

thay đổi chính sách vĩ mô và cơ chế điều hành thị trường mang tính hành chính, giật
cục, khó dự đoán và bất đồng nhất. Điều này góp phần đẩy thêm căng thẳng trên thị
trường ngoại hối vốn đã chứ nhiều bất ổn, tao ra cuộc chạy đua lãi suất huy động
gay gắt, khiến cho hệ thống NH hoạt động một cách thiếu hiệu quả. Đồng thời, nó
SV: Hoàng Thị Thanh Trang Lớp: Toán tài chính 50
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Đình Tuấn
cũng làm suy giảm niềm tin của người dân vào đồng nội tệ và gây ra tình trạng đầu
tư tích trữ vàng cũng như USD. Năm 2010 cũng là năm ra đời của nhiều tiêu chuẩn
an toàn cao hơn trong hệ thống ngân hàng giúp cho hoạt động quản trị rủi ro tốt
hơn. Tuy nhiên các NHTM cũng gặp khó khăn. Để đáp ứng các tiêu chuẩn mới này,
các NH phải điều chỉnh cơ cấu tài sản, nâng cao năng lực tài chính, cơ chế quản trị
rủi ro, chính sách kinh doanh… vốn còn nhiều bất cập.
Cũng trong năm 2010, các tổ chức tín dụng đã tập trung tăng nhanh quy mô
mạng lưới, phát triển các kênh bán hàng để chiếm lĩnh thị trường. Bên cạnh đó, sự
tham gia ngày càng sâu rộng của các ngân hàng nước ngoài kể cả trong các lĩnh vực
vốn là truyền thống của ngân hàng trong nước như lĩnh vực bán lẻ đã tạo ra sự cạnh
tranh ngày càng gay gắt giữa các tổ chức tín dụng.
Diễn biến
Chính sách điều hành thị trường tiền tệ
Động thái nới lỏng chính sách tiền tệ và hỗ trợ lãi suất với mục tiêu kích thích
tăng trưởng kinh tế đã gây ra áp lực lạm phát cao trong giai đoạn cuối 2009 và đầu
2010. Do vậy, năm 2010 các nhà điều hành chính sách tỏ ra thận trọng hơn khi áp
dụng chính sách tiền tệ linh hoạt và từng bước nâng cao tiêu chuẩn an toàn của hệ
thống ngân hàng. Trước tiên, thông tư 13 có hiệu lực từ 01/01/2010 quy định việc
tăng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu CAR từ 8% lên 9% và tổng số vốn cho vay không
được vươt quá 80% tổng số vốn huy động được. Đồng thời thông tư cũng nâng hệ
số rủi ro của những khoản cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán và bất động sản
lên tới 250%. Về cơ bản, những quy định của thông tư 13 được xây dựng theo
hướng nâng cao hơn các tiêu chuẩn an toàn, siết chặt hơn việc sử dụng các nguồn

vốn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. Bên cạnh đó, 23 ngân hàng buộc phải
tăng vốn điều lệ tối thiểu lên 3000 tỷ đồng trong năm 2010. Tuy nhiên vẫn có trên
10 ngân hàng chưa đáp ứng quy định.
Cũng trong năm 2010, các nhà quản lý can thiệp mạnh vào hoạt động kinh
doanh vàng của các tổ chức tín dụng. Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo đóng cửa các
sàn giao dịch vàng, tất toán trạng thái kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài.
SV: Hoàng Thị Thanh Trang Lớp: Toán tài chính 50
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Đình Tuấn
Tăng trưởng tín dụng
Tăng trưởng tín dụng của toàn hệ thống cả năm 2010 theo tính toán của
NHNN 29.81%. Con số này vượt chỉ tiêu từ đầu năm cả NHNN là 25%. Năm 2010
ghi nhận sự khác biệt khi tốc độ tăng trưởng huy động luôn cao hơn tốc độ tăng
trưởng tín dụng trong phần lớn thời gian của năm. Tuy nhiên, trong hai tháng cuối
năm, huy động vốn tăng chậm và tín dụng tăng cao hơn. Tính chung, huy động vốn
cả năm tăng 27,2%; nếu trừ hư số do tỷ giá và giá vàng tăng thì huy động vốn tăng
24,5%.
Tại Việt Nam, tăng trưởng kinh tế vẫn phụ thuộc rất nhiều vào đầu tư với tỷ lệ
đầu tư trong nền kinh tế 10 năm trở lại đây chiếm trung bình khoảng 41% GDP. Do
vậy nền kinh tế luôn đòi hỏi một tốc độ tăng trưởng tín dụng và cung tiền cao. Tăng
trưởng tín dụng và cung tiền của Việt Nam 10 năm gần đây luôn duy trì quanh mức
30%. Một hệ quả dễ nhận thấy của việc tăng trưởng tiền lưu thông trong nền kinh tế
vượt trội với tăng trưởng hàng hóa sản xuất ra đó là lạm phát. Mô hình tăng trưởng
dựa vào đầu tư nhưng kém hiệu quả là nguyên nhân cơ bản của tình trạng lạm phát.
Năm 2010, tăng trưởng tín dụng VND tăng 25.3%; tín dụng ngoại tệ tăng 49.3%.
Nếu trừ hư số do tỷ giá và giá vàng tăng thì tổng dư nợ tăng 27.6%; trong đó tín
dụng VND tăng 25.3%, tín dụng ngoại tệ tăng 37.7%. Hạ dự trữ bắt buộc, mở rộng
đối tượng được vay và đặc biệt là chênh lệch lớn về lãi suất là những yếu tố chính
tạo nên hiện tượng bùng nổ của tín dụng bằng ngoại tệ. Điều này gây áp lực lớn với
trường ngoại hối.

Tỷ giá
NHNN liên tục phải điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng nhưng vẫn chênh lệch
khá lớn với thị trường tự do. Tỷ giá USD/VND theo niêm yết chính thức chỉ tăng
5.53%, nhưng tỷ giá trên thị trường tự do chênh tới mức kỷ lục với khoảng 10%.
Ngay đầu năm là quyết định hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, tiếp đó là mở
rộng đối tượng được vay vốn bằng ngoại tệ, áp trần lãi suất tiền gửi USD tối đa
1%/năm đối với các tổ chức, hai lần trực tiếp tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng,
triển khai loạt giải pháp nắn dòng tín dụng ngoại tệ… Phía sau loạt chính sách này
SV: Hoàng Thị Thanh Trang Lớp: Toán tài chính 50
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Đình Tuấn
là trạng thái khá ổn định của tỷ giá và cung - cầu ngoại tệ trong khoảng 7 tháng đầu
năm. Nhưng căng thẳng trên thị trường bắt đầu bùng phát từ trung tuần tháng 10 và
trong tháng 11; chênh lệch khoảng 10% nói trên có trong thời điểm này. Bên cạnh
những giải pháp kỹ thuật, một lần nữa quyết định bán ra ngoại tệ được công bố.
Nguyên nhân chủ yếu là sự mất giá tiền đồng là tài khoản vãng lai của Việt
Nam luôn bị thâm hụt lớn, lòng tin vào đồng nội tệ suy giảm (do sự thiếu ổn định
của chính sách tỷ giá và lạm phát cao triền miên) và tình trạng đô la hóa nền kinh tế
gia tăng (tâm lý đầu cơ ngoại tệ, sử dụng trong thanh toán và tín dụng ngoại tệ tăng
mạnh do chênh lệch lãi suất giữa USD và VND)
Lãi suất
Lãi suất tăng mạnh đặc biệt trong 4 tháng cuối năm với mức lãi suất huy động
phổ biến từ 14-16%, lãi suất cho vay 19-20%. Cuộc chạy đua lãi suất bắt đầu khi
NHNN bất ngờ cho phép các NHTM được áp dụng lãi suất thỏa thuận, mặc dù một
thời gian dài trước đó phải sử dụng nhiều biện pháp hạ mặt bằng lãi suất. Phải đến
trung tuần tháng 12, tình hình mới tương đối ổn định.
Những yếu tố chính đẩy lãi suất năm 2010 tăng cao là: tình trạng lạm phát cao
vượt dự kiến khiến cho người dân có tâm lý không muốn giữ tiền mặt mà chuyển
sang các tài khoản có tính an toàn cao hơn như USD, vàng, bất động sản, điều này
khiến cho ngân hàng gặp khó khăn trong việc huy động vốn, buộc họ phải đẩy lãi

suất huy động lên cao để thu hút người gửi tiết kiệm. Trong bối cảnh đó, NHNN lại
thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt bằng quyết định điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản
và lãi suất tái cấp vốn từ 8% lên 9%, triển khai áp dụng thông tư 13 với 3 điểm quan
trọng là nâng hệ số an toàn vốn tối thiểu CAR từ 8% lên 9%, quy định tổng cho vay
không vượt quá 80% tổng huy động vốn của NHTM, đồng thời nâng hệ số rủi ro
đối với các khoản đầu tư bất động sản và chứng khoán từ 100% lên 250%. Chính vì
vậy, các ngân hàng buộc phải hạn chế cho vay và tăng cường huy động bằng việc
tăng lãi suất nhằm đáp ứng với các quy định trên.
Tỷ lệ nợ xấu (NPL), định mức tín nhiệm
Hệ thống ngân hàng phải đối mặt với bài toán tăng vốn điều lệ và bị hạ xếp
SV: Hoàng Thị Thanh Trang Lớp: Toán tài chính 50
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Đình Tuấn
hạng tín nhiệm tín dụng. Tỷ lệ nợ xấu tăng từ 1.95 cuối năm 2009 lên 2.5% cuối
năm 2010. Từ nhiều yếu tố như lạm phát cao, thâm hụt cán cân thương mại, thâm
hụt ngân sách nhà nước và đặc biệt là vụ Vinashin mà các tổ chức xếp hạng tín
nhiệm quốc tế Fitch, Moody’s và Standard&Poor’s lần lượt hạ định mức tín nhiệm
nợ quốc gia của Việt Nam, trái phiếu Chính phủ Việt Nam bằng ngoại tệ sang triển
vọng tiêu cực. Đồng thời Moody’s cũng hạ bậc tín nhiệm 6 ngân hàng thương mại
bao gồm ACB, BIDV, MB, SHB, VIB và TCB.
Quy mô các ngân hàng
Trong 2010 có thêm 2 ngân hàng niêm yết trên HNX là HBB và NVB. Mặc dù
có nhiều khó khăn trong hoạt động nhưng năm 2010 tiếp tục ghi nhận sự phát triển
mạnh về quy mô của các tổ chức tín dụng. Tổng tài sản có của hệ thống tăng tới
28%. Hầu hết các thành viên đều tăng cường mở rộng mạng lưới, đầu tư phát triển
sản phẩm và dịch vụ. Khoảng cách quy mô giữa nhóm NHTM cổ phần hàng đầu
với khối quốc doanh đã được rút ngắn, đi cùng với đó là sự dịch chuyển thị phần
đáng chú ý.
Bên cạnh đó, năm 2010 đánh dấu sự hiện diện và hoạt động một cách toàn
diện của các ngân hàng 100% vốn nước ngoài với sự mở rộng mạng lưới, sản phẩm

dịch vụ một cách nhanh chóng. Vào thời điểm cuối năm, thị trường đón nhận loạt
thông tin các ngân hàng ngoại tăng mạnh vốn được cấp. Sức cạnh tranh từ khối này
chính thức bước vào giai đoạn mới. Bên cạnh các sản phẩm truyền thống, năm 2010
ghi nhận sự mở rộng của các dịch vụ tiện ích như ngân hàng điện tử, đặc biệt là dịch
vụ thẻ với việc triển khai kết nối mạng lưới ATM, POS thành một hệ thống thống
nhất trên toàn quốc.
Năm 2011
Đặc điểm ngành
Từ đầu 2011 ngành ngân hàng có nhiều biến động, đặc biệt là lãi suất và tín
dụng theo hướng không có lợi cho hoạt động của các ngân hàng, NHNN liên tục
điều chỉnh các lãi suất điều hành theo hướng thắt chặt và đưa ra trần lãi suất huy
động VND và USD nhằm mục tiêu kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Tác
SV: Hoàng Thị Thanh Trang Lớp: Toán tài chính 50
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Đình Tuấn
động chính sách giúp kiềm chế lạm phát nhưng khiến lãi suất cho vay tăng cao.
Trần lãi suất huy động được áp dụng làm nhiều ngân hàng mất thanh khoản. Chạy
đua lãi suất huy động và chênh lệch lớn giữa tăng trưởng tín dụng VND va USD là
2 điểm nổi bật của giai đoạn này.
Tăng trưởng tín dụng năm 2011 sụt giảm sau một thời gian dài tăng trưởng
mạnh gần 40%/năm. Nợ xấu, thanh khoản kém đặt hệ thống tài chính ngân hàng
vào tình trạng đáng báo động.
Năm 2011 diễn ra sự kiện hợp nhất 3 ngân hàng TMCP là SCB, FCB và
VNTBank
Diễn biến
Chính sách điều hành
Năm 2011 là năm Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các tổ chức
tín dụng bắt đầu có hiệu lực. Luật Ngân hàng Nhà nước 2010 xác định rõ hơn vị trí
của Ngân hàng Nhà nước; điều chỉnh nhiều nội dung về lãi suất, kế toán, dự trữ
ngoại hối, kiểm toán nội bộ…. Luật Các tổ chức tín dụng 2010 cũng có nhiều điểm

mới, quy định những thay đổi quan trọng như công tác tổ chức, quản trị, điều hành,
giới hạn cấp tín dụng, hoạt động đầu tư của các NHTM.
NHNN thực hiện chính sách tiền tệ siết chặt nhằm kiềm chế lạm phát và ổn
định kinh tế vĩ mô: liên tục tăng cao lãi suất chính sách, hạn chế cho vay bằng ngoại
tệ với việc nhập khẩu những mặt hàng không thiết yếu, giới hạn việc nhập khẩu
vàng và cấm kinh doanh vàng miếng trên thị trường.
Lãi suất
Tính từ đầu năm đến 19/08/2011, NHNN đã điều chỉnh 3 lần lãi suất tái chiết
khấu, 4 lần lãi suất tái cấp vốn và 6 lần lãi suất OMO với mục đích kiềm chế lạm
phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Cũng trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 5, diễn ra
cuộc chạy đua lãi suất huy động giữa các NHTM do căng thẳng thanh khoản về tiền
đồng. Mặc dù NHNN đưa ra mức lãi suất huy động trần 14% nhưng mức lãi suất
huy động thực tế của các NHTM đều vượt 14%. Lãi suất cho vay cũng theo đó tăng
cao, có lúc lên tới hơn 20%. Cuối tháng 5, đầu tháng 6 căng thẳng thanh khoản
SV: Hoàng Thị Thanh Trang Lớp: Toán tài chính 50
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Đình Tuấn
được cải thiện do NHNN tiến hành mua vào USD và bơm thêm vốn qua hoạt động
tái cấp vốn. NHNN đã xóa bỏ hạn chế 80% đối với tỷ lệ cho vay từ huy động từ
01/09/2011 nhằm tạo sự liên thông giữa thị trường 1 và thị trường 2, và từ đó tạo cơ
sở cho việc giảm mặt bằng lãi suất.
Tỷ giá
Tháng 02/2011 NHNN tăng mạnh tỷ giá thêm 9.3% do sức ép lên đồng Việt
Nam từ cuối 2010. Đồng thời sau đó NHNN tiếp tục đưa ra các biện pháp nhằm ổn
định thị trường ngoại hối như cấm kinh doanh ngoại tệ trên thị trường tự do, chấm
dứt huy động và cho vay vốn bằng vàng, tăng dự trữ bắt buộc ngoại tệ, quy định
trần lãi suất huy động USD (2%) và yêu cầu các tập đoàn, tổng công ty nhà nước
phải bán ngoại tệ cho các tổ chức tín dụng. Bước đầu các biện pháp này đã có tác
dụng nhất định trong việc tạm thời ổn định thị trường ngoại hối. Tuy nhiên, áp lực
lên tiền đồng vẫn hiện diện vào cuối năm do tín dụng ngoại tệ tăng trưởng cao tại

thời điểm đầu năm, dòng vốn FDI chưa được cải thiện, lạm phát và nhập siêu vẫn ở
mức cao. Dự trữ ngoại hối tuy có cải thiện so với đầu năm nhưng vẫn chưa đạt yêu
cầu dự trữ tối thiểu.
Tăng trưởng tín dụng
Theo báo cáo tổng kết ngành 2011, tổng phương tiện thanh toán năm 2011
tăng 10%, tín dụng tăng 12-13%. Việc hạn chế tín dụng phi sản xuất và quy định tỷ
lệ rủi ro của bất động sản và chứng khoán lên tới 250% đã làm giảm dư nợ tuyệt đối
của các NH, đồng thời khiến các doanh nghiệp trong 2 ngành này gặp rất nhiều khó
khăn trong việc tiếp cận vốn. Tính đến 20/07/2011, tín dụng ước tăng 7.57% so với
cuối năm 2010, trong đó riêng tháng 7 tín dụng giảm 0.19% so với tháng trước, cho
thấy sự phân bổ vốn của các ngân hàng đang có sự bế tắc. Theo thống đốc ngân
hàng nhà nước, các ngân hàng đang thừa vốn thì đã sử dụng hết 20%, các ngân
hàng còn dư địa cho vay thì lại thiếu vốn, các ngân hàng còn hạn mức và còn vốn
không muốn cho vay thêm vì quá rủi ro, trong khi các ngân hàng còn hạn mức
nhưng thiếu vốn thì không dễ huy động.
SV: Hoàng Thị Thanh Trang Lớp: Toán tài chính 50
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Hoàng Đình Tuấn
Ngành ngân hàng tăng trưởng nhanh cả về số lượng và quy mô tài sản trong
giai đoạn 2005-2010. Tuy nhiên chỉ có 26.5% ngân hàng nội địa có vốn điều lệ trên
5000 tỷ đồng. Thị phần tín dụng và huy động của khối ngân hàng thương mại quốc
doanh vẫn dẫn đầu tuy nhiên sụt giảm mạnh do sự chiếm lĩnh của khối NHTM cổ
phần 5 năm trở lạ đây. Trong khi đó khối ngân hàng nước ngoài được gỡ bỏ hạn chế
về huy động và bắt đầu tham gia cuộc cạnh tranh thực sự bình đẳng với các NHTM
trong nước kể từ đầu 2011.
Nợ xấu
Tỷ trọng nợ xấu tăng cao, quy mô vốn nhỏ, tăng trưởng tín dụng luôn cao hơn
tăng huy động và GDP và cơ cấu thu nhập chủ yếu vẫn phụ thuộc vào hoạt động tín
dụng là đặc điểm hiện nay của ngành. Tín dụng tăng trung bình 32% trong giai đoạn
2000- 2010, cao hơn mức tăng 29% của huy động và 7.15% của GDP, có thể ảnh

hưởng không tốt đến sức khỏe của nền kinh tế. Hầu hết các ngân hàng đều có cơ
cấu thu nhâp phụ thuộc nhiều vào hoạt động tín dụng. Việc tín dụng tăng trưởng
nhanh hơn huy động trong hầu hết các năm cũng làm tăng rủi ro thanh khoản của hệ
thống ngân hàng. Đây cũng chính là lý do một loạt các tổ chức xếp hạng tín nhiệm
quốc tế như Fitch Rating, S&P và Moody’s hạ bậc xếp hạng tín nhiệm của Việt
Nam trong 2010 với lo ngại về tăng trưởng tín dụng nóng.

Do ảnh hưởng của việc tăng trưởng tín dụng cao, nợ xấu trở thành vấn đề nổi
cộm của ngành ngân hàng.
Hầu hết ngân hàng hiện nay đều phân loại nợ dựa vào định lượng mà thiếu đi
phần định tính (tình hình tài chính, kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghệp) dẫn
đến việc phân loại nợ không phản ánh thực chất khoản nợ. Các ngân hàng chỉ xếp phần
nợ đến hạn không trả được vào nợ xấu trong khi phần còn lại của khoản nợ vẫn là nợ
đủ tiêu chuẩn. Ngoài ra một số ngân hàng còn biến nghiệp vụ gia hạn nợ thành một
hình thức để giảm tỷ lệ nợ xấu của mình (do nợ gia hạn không được tính vào nợ xấu).
Đồng thời, không ít các ngân hàng đã hạn chế phân loại nợ xuống nhóm 3-5 để tránh
trích lập dự phòng rủi ro tín dụng, tránh ảnh hưởng đến lợi nhuận.
SV: Hoàng Thị Thanh Trang Lớp: Toán tài chính 50
25

×