Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Công tác chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn ở Bảo hiểm xã hội Thành phố Vinh giai đoạn 2007 - 2011. Trực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (629.5 KB, 91 trang )

Chuyờn tt nghip GVHD: TS Nguyn Th Chớnh
trờng đại học kinh tế quốc dân
KHOA BO HIM

ơ
chuyên đề tốt nghiệp
Đề tài:
CễNG TC CHI TR CC CH BO HIM X HI
DI HN BO HIM X HI THNH PH
VINH
GIAI ON 2007 - 2011. TRC TRNG V GII PHP
Giáo viên hớng dẫn: TS. NGUYN TH CHNH
Sinh viên thực hiện : THI TH MAI
Mã sinh viên : cq503396
Lớp : BO HIM X H I 50
Khoá : 50
Hệ : chính quy
Thỏi Th Mai Bo him xó hi 50
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS Nguyễn Thị Chính
MỤC LỤC
Thái Thị Mai Bảo hiểm xã hội 50
Hµ Néi - 2012
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS Nguyễn Thị Chính
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BHXH Bảo hiểm xã hội
BHYT Bảo hiểm y tế
ASXH An sinh xã hội
BLĐ - TBXH Bộ lao động - Tương binh xã hội
ĐSCB Định suất cơ bản
ĐSND Định suất nuôi dưỡng
TNLĐ - BNN Tai nạn lao động - Bệnh nghề nghiẹp


CHLB Cộng hòa liên bang
HĐND Hội đồng nhân dân
UBNN Uỷ ban nhân dân
TP Thành phố
CNTT Công nghệ thông tin
NLĐ Người lao động
NSNN Ngân sách nhà nước
CNVC Công nhân viên chức
NSDLĐ Người sử dụng lao động
Thái Thị Mai Bảo hiểm xã hội 50
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS Nguyễn Thị Chính
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Thái Thị Mai Bảo hiểm xã hội 50
Chuyên đề tốt nghiệp 1 GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
LỜI MỞ ĐẦU
Bảo hiểm xã hội là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời khá sớm, phát
triển theo quá trình phát triển của xã hội. BHXH đến nay đã được thực hiện ở tất cả
các nước trên thế giới và được Liên Hợp Quốc thừa nhận và coi đó là một trong
những quyền lợi cơ bản của con người. Chính vì vậy ở Việt Nam, BHXH là một
chính sách lớn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm tổ chức thực hiện ngay từ
những ngày đầu thành lập nước. Hơn nửa thập kỷ qua, chính sách quan trọng này đã
đóng góp hiệu quả vào sự nghiệp đổi mới của đất nước, góp phần chăm lo đời sống
cho người lao động, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.
Có thể nói, chi trả BHXH là khâu cuối cùng trong việc thực hiện các chế độ
BHXH và liên quan trực tiếp đến cuộc sống của NLĐ. Chỉ có “chi đúng, đủ, kịp
thời và an toàn” đến tay NLĐ mới đảm bảo được quyền lợi cho họ, cũng như phát
huy hết vai trò của chính sách BHXH. Công tác chi trả BHXH phản ánh chất lượng
của dịch vụ BHXH và trong một chừng mực nhất định nó còn thể hiện tính ưu việt
của một chế độ xã hội. Trong đó, chi trả các chế độ BHXH dài hạn luôn được coi là

trọng tâm của công tác chi trả BHXH, chiếm phần lớn nguồn kinh phí dùng để chi
trả cho các chế độ BHXH. Thời gian qua, cùng với việc hoàn thiện các chế độ
BHXH dài hạn, công tác chi trả các chế độ BHXH dài hạn cũng được coi trọng,
củng cố và phát triển không ngừng góp phần bảo vệ cuộc sống cho hàng triệu NLĐ
và gia đình họ.
Thành phố Vinh là địa bàn có số người hiện đang hưởng trợ cấp các chế độ
BHXH dài hạn rất lớn với số tiền chi trả hàng năm lên tới hàng trăm tỷ đồng. Công
tác chi trả các chế độ BHXH dài hạn đang tác động trực tiếp tới cuộc sống của hàng
nghìn NLĐ trên địa bàn thành phố. Giai đoạn vừa qua, với sự cố gắng, nỗ lực không
ngừng của tập thể cán bộ công nhân viên chức BHXH Thành phố Vinh, công tác chi
trả các chế độ BHXH dài hạn ngày càng đi vào nề nếp, được dư luận đồng tình ủng
hộ, đã tạo được niềm tin của người tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH dài
hạn. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế - xã hội hiện
nay, hội nhập với kinh tế thế giới và thực hiện chương trình cải cách hành chính của
Nhà nước và của ngành, đòi hỏi BHXH Thành phố Vinh cần phải nghiên cứu đổi
mới, hoàn thiện hơn nữa công tác chi trả các chế độ BHXH dài hạn nhằm phục vụ
đối tượng hưởng ngày càng tốt hơn.
Thái Thị Mai Bảo hiểm xã hội 50
Chuyên đề tốt nghiệp 2 GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên và với mong muốn được tìm
hiểu, đóng góp một số ý kiến nhằm góp phần nhỏ bé để giải quyết những tồn tại đó,
trong thời gian thực tập tại cơ quan BHXH Thành phố Vinh em đã chọn đề tài:
“Công tác chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn ở Bảo hiểm xã hội Thành
phố Vinh giai đoạn 2007 - 2011. Trực trạng và giải pháp” cho chuyên đề thực tập
của mình.
Mục đích của đề tài là nghiên cứu, xem xét, đánh giá công tác chi trả các chế
độ BHXH dài hạn hiện nay ở cơ quan BHXH Thành phố Vinh, từ đó, đề xuất một
số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác này trong thời gian tới.
Để phục vụ mục đích đó, chuyên đề thực tập tốt nghiệp được kết cấu thành 3
chương (không kể Lời mở đầu và Kết luận) như sau:

Chương I – Lý luận chung về bảo hiểm xã hội và công tác chi trả các chế
độ bảo hiểm xã hội dài hạn
Chương II - Thực trạng công tác chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội dài
hạn ở Bảo hiểm xã hội Thành phố Vinh giai đoạn 2007 – 2011
Chương III - Giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác chi trả các
chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn ở Bảo hiểm xã hội Thành phố Vinh
Em xin chân thành cảm ơn các cô, các chú tại cơ quan BHXH Thành phố
Vinh và đặc biệt là cô giáo TS. Nguyễn Thị Chính đã chỉ bảo tận tình, giúp đỡ cho
em hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp này. Trong quá trình thực tập và viết
chuyên đề, mặc dù đã rất cố gắng nhưng do bản thân đang là sinh viên, lần đầu tiên
được tiếp xúc với công việc thực tế nên không thể tránh khỏi những khiếm khuyết
nhất định. Em kính mong nhận được sự thông cảm, sự chỉ dẫn, góp ý của các cô,
các chú tại cơ quan BHXH Thành phố Vinh và các thầy, cô giáo trong bộ môn Bảo
hiểm để đề tài của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Thái Thị Mai Bảo hiểm xã hội 50
Chuyên đề tốt nghiệp 3 GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ CÔNG TÁC
CHI TRẢ CÁC CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI DÀI HẠN
1.1 - TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1.1. Sự cần thiết khách quan và vai trò của bảo hiểm xã hội
Để tồn tại và phát triển trước hết con người phải ăn, mặc, ở và đi lại… Để
thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó, con người phải lao động để làm ra những sản
phẩm cần thiết. Khi sản phẩm được tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống của con
người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Như vậy,
việc thoả mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào
khả năng lao động của họ. Nhưng trong thực tế cuộc sống lao động, không phải lúc
nào cũng gặp thuận lợi. Trái lại, con người thường đứng trước những biến cố của xã
hội, rủi ro trong sinh hoạt và lao động, bất trắc của thiên nhiên, những vận động có

tính quy luật và ngẫu nhiên của bản thân họ làm cho họ bị giảm, mất thu nhập hoặc
các điều kiện sinh sống khác. Chẳng hạn, bất ngờ ốm đau hay bị tai nạn trong lao
động, mất việc làm hay khi tuổi già khả năng lao động và khả năng tự phục vụ bị
suy giảm…vv. Khi rơi vào những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc
sống không những vì thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất
hiện thêm một số nhu cầu mới như: Cần được khám chữa bệnh và điều trị khi ốm
đau; tai nạn thương tật nặng cần phải có người chăm sóc, nuôi dưỡng…vv. Bởi vậy,
muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội loài người phải tìm ra và
thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như: San sẻ, đùm bọc lẫn nhau
trong nội bộ cộng đồng; đi vay, đi xin hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà nước… Rõ
ràng, những cách đó là hoàn toàn thụ động và không chắc chắn.
Khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá phát triển, gắn liền với chế độ tư
bản chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường và sức lao động được coi là hàng hoá đặc
biệt, xuất hiện việc thuê mướn công nhân. Lúc đầu, giới chủ chỉ cam kết trả công
lao động, nhưng về sau đã phải cam kết cả việc bảo đảm cho người làm thuê có một
số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi không may bị ốm
đau, tai nạn, bệnh nghề nghiệp… Trên thực tế, nhiều khi các trường hợp trên không
xảy ra và giới chủ không phải chi ra một đồng nào. Nhưng cũng có khi xảy ra dồn
Thái Thị Mai Bảo hiểm xã hội 50
Chuyên đề tốt nghiệp 4 GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
dập buộc họ phải bỏ ra một lúc nhiều khoản tiền lớn mà họ không mong muốn. Do
đó, mâu thuẫn chủ - thợ xảy ra ngày càng gay gắt. Giới thợ đã liên kết lại đấu tranh
buộc giới chủ phải thực hiện cam kết cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn
và có tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế - xã hội. Để giải quyết mâu thuẫn này
Nhà nước phải đứng ra can thiệp bằng cách yêu cầu giới chủ và giới thợ cùng đóng
góp một khoản tiền nhất định theo định kỳ, được tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở
xác suất rủi ro xảy ra đối với người làm thuê, vào một quỹ tài chính chung trên
phạm vi quốc gia. Quỹ này được sử dụng để bù đắp phần thu nhập bị mất do không
được trả lương khi NLĐ gặp phải những rủi ro trên. Ngoài ra, đứng trên giác độ là
người quản lý vĩ mô nền kinh tế, Nhà nước cũng đóng góp một phần vào quỹ tài

chính này, được trích từ NSNN. Đây được coi là hình thức BHXH.
Như vậy, BHXH ra đời là tất yếu khách quan khi mà mọi thành viên trong
xã hội đều cảm thấy sự cần thiết phải tham gia hệ thống BHXH và sự cần
thiết phải tiến hành BHXH cho NLĐ. Đây là một loại hình bảo hiểm có phạm
vi và đối tượng tham gia rất rộng và không phải là ngẫu nhiên mà tất cả các
nước trên thế giới hiện nay thực hiện BHXH cho NLĐ. BHXH đã trở thành
một nhu cầu tất yếu khách quan, một trong những quyền lợi của con người
BHXH ra đời có những vai trò như sau đây:
Đối với người lao động: Nhờ có BHXH mà rủi ro, bất lợi của NLĐ được dàn
trải, cuộc sống của NLĐ và gia đình họ ngày càng được đảm bảo ổn định. Từ đó, làm
cho NLĐ an tâm trong lao động sản xuất góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển.
Đối với người sử dụng lao động: BHXH phục vụ lợi ích của NSDLĐ vì góp
phần duy trì quan hệ lao động ổn định. NLĐ được bảo hiểm sẽ yên tâm phấn khởi
làm việc, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, góp phần giữ vững,
thậm chí làm tăng lợi nhuận cho người sử dụng lao động.
Đối với Nhà nước: BHXH có tác dụng to lớn trên cả hai bình diện:
Trên bình diện xã hội: BHXH giúp duy trì ổn định quan hệ lao động, quan hệ
xã hội, thực hiện công bằng xã hội, góp phần bảo đảm đời sống cho NLĐ và gia
đình họ, đảm bảo an toàn quốc gia.
Trên bình diện kinh tế: Quỹ BHXH là một kênh tài chính quan trọng góp
phần phát triển đất nước; đặc biệt là đối với những quốc gia đang trong quá trình
phát triển mạnh mẽ như Việt Nam chúng ta.
Thái Thị Mai Bảo hiểm xã hội 50
Chuyên đề tốt nghiệp 5 GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
Như vậy, sự xuất hiện của BHXH là một tất yếu khách quan khi mà mọi
thành viên trong xã hội đều cảm thấy sự cần thiết phải tham gia hệ thống BHXH và
sự cần thiết phải tiến hành bảo hiểm cho người lao động.
1.1.2. Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm xã hội
• Trên thế giới
BHXH ra đời vào giữa thế kỷ XIX, khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá

đã bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở các nước châu Âu. Vào năm 1850, dưới thời tổng
thống Bis-mác, nhiều bang của nước Phổ (CHLB Đức ngày nay) đã giúp các địa
phương lập quỹ bảo hiểm ốm đau do các công nhân đóng góp để được bảo hiểm.
Năm 1883, ở nước Phổ đã ban hành luật bảo hiểm ốm đau đầu tiên trên thế giới,
đánh dấu sự ra đời của BHXH. Năm 1884, xuất hiện chế độ bảo hiểm rủi ro nghề
nghiệp. Năm 1889, xuất hiện chế độ bảo hiểm tuổi già và bảo hiểm tàn tật. Từ đó,
BHXH lần lượt xuất hiện ở các nước khác trên thế giới dưới mức độ khác nhau
nhưng cùng chung một mục đích là đảm bảo đời sống cho NLĐ và gia đình họ.
Trong khoảng thời gian từ năm 1883 đến 1889, một hệ thống BHXH lớn lần đầu
tiên đã ra đời áp dụng nguyên tắc người được BHXH phải đóng phí BHXH.
Theo gương nước Đức, năm 1918 nước Pháp đã thực hiện BHXH phổ cập
trong cả nước nhưng không thành công. Đến năm 1930, Pháp thông qua đạo luật
thứ hai về BHXH áp dụng chủ yếu cho ngành công nghiệp và thương mại. Từ thập
kỷ 30 thế kỷ XX, liên tiếp các nước Mỹ La Tinh, Hoa Kỳ, Canada đều có đạo luật
về BHXH. Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, sau khi giành được độc lập,
nhiều nước châu Phi, châu Á và vùng Carribê cũng lần lượt áp dụng cơ chế BHXH
tương tự. Lúc này, BHXH đã được thực hiện ở trên một trăm nước trên thế giới, tuy
nhiên, tuỳ theo đặc điểm kinh tế - xã hội của mỗi nước mà họ áp dụng các chế độ
BHXH khác nhau và nội dung cụ thể của từng chế độ cũng không đồng nhất giữa
các nước.
Sau khi ra đời, BHXH đã trở thành một trong những quyền của con người và
được xã hội thừa nhận. Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp Quốc (10/8/1945) đã
ghi: “Tất cả mọi người lao động với tư cách là thành viên của xã hội có quyền
hưởng bảo hiểm xã hội…” Ngày 4 tháng 6 năm 1952, Tổ chức lao động quốc tế
(ILO) đã ký công ước Giơnevơ số 102 về “Bảo hiểm xã hội cho người lao động” và
khuyến nghị các nước thực hiện BHXH cho NLĐ theo khả năng và điều kiện kinh
Thái Thị Mai Bảo hiểm xã hội 50
Chuyên đề tốt nghiệp 6 GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
tế của mỗi nước. Từ đó, các nước vận dụng khuyến nghị của ILO, đã có những
chính sách, biện pháp phù hợp với từng điều kiện cụ thể, tạo môi trường cho BHXH

phát triển không ngừng. Đến nay, BHXH đã được thực hiện ở tất cả các nước trên
thế giới.
• Ở Việt Nam
Ở Việt Nam, BHXH được thực hiện ngay từ thời phong kiến thuộc Pháp khi
chính phủ Pháp thực hiện BHXH cho những người Việt Nam làm việc trong bộ
máy cầm quyền của Pháp.
Từ khi cách mạng Việt Nam có Đảng Cộng Sản lãnh đạo, BHXH được coi
trọng, củng cố và phát triển không ngừng. Quyền lợi của giai cấp công nhân và
NLĐ làm thuê được quan tâm ghi rõ trong các Nghị quyết của Đảng, từ Đường
Cách Mệnh 1927 đến các Nghị quyết những năm 1930 - 1945. Như Nghị quyết
Trung ương Đảng tháng 11/1940 có ghi: "Khi thiết lập được chính quyền cách
mạng thì đặt luật BHXH, có quỹ hưu bổng cho thợ thuyền già, đặt quỹ cứu tế thất
nghiệp và ban bố Bộ luật Lao động”.
Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, sau khi nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà (nay là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam) ra đời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký các sắc lệnh số 27/SL ngày 12/03/1947, số 76/SL ngày 20/05/1950 và
số 77/SL ngày 22/05/1950 quy định các chế độ ốm đau, tai nạn, hưu trí cho công
nhân viên chức Nhà nước. Sau khi Hiến pháp năm 1959 ra đời, Chính phủ đã ban
hành Nghị định 218/CP ngày 27/12/1961 về việc ban hành Điều lệ tạm thời quy
định các chế độ BHXH đối với công nhân viên chức Nhà nước và được thi hành từ
ngày 01/01/1962 cùng với “Điều lệ đãi ngộ quân nhân” theo Nghị định 161/CP
ngày 30/10/1964 của Chính phủ. Lúc này BHXH được thực hiện trong lực lượng vũ
trang tương tự như CNVC.
Sau hơn 20 năm thực hiện (1962 - 1985), chế độ BHXH đã bộc lộ nhiều hạn
chế không phù hợp với tình hình mới. Do vậy, ngày 18/9/1985, Chính phủ (lúc đó là
Hội đồng Bộ trưởng) đã ban hành Nghị định 236/HĐBT về việc sửa đổi bổ sung
chính sách và chế độ BHXH đối với NLĐ. Nội dung chủ yếu của Nghị định này là
điều chỉnh mức đóng và mức hưởng. Kể từ Đại hội VI và Đại hội VII của Đảng,
công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước ngày càng đi vào chiều sâu. Để đáp ứng
điều đó thì việc cải cách, đổi mới chế độ BHXH càng trở thành yêu cầu bức bách.

Thái Thị Mai Bảo hiểm xã hội 50
Chuyên đề tốt nghiệp 7 GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
Do đó, ngày 22/6/1993, Chính phủ ban hành Nghị định 43/CP quy định tạm thời về
các chế độ BHXH áp dụng cho các thành phần kinh tế. Nội dung của Nghị định này
là nhằm xoá bỏ tư duy bao cấp, ỷ lại trong lĩnh vực BHXH, mở ra loại hình BHXH
bắt buộc và loại hình BHXH tự nguyện, thực hiện cơ chế đóng góp phí BHXH đối
với người được bảo hiểm.
Nhưng BHXH Việt Nam chỉ thật sự có bước đột phá sau khi có Nghị định
12/CP của Chính phủ ngày 26/01/1995 về việc ban hành “Điều lệ BHXH” đối với
CNVC Nhà nước và mọi NLĐ theo loại hình BHXH bắt buộc; Nghị định 45/CP
ngày 15/7/1995 của Chính phủ về ban hành Điều lệ BHXH đối với sĩ quan, quân
nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và công an nhân dân;
Nghị định 19/CP ngày 16/02/1995 về việc thành lập BHXH Việt Nam. Từ đây mở
ra một trang mới trong lịch sử hình thành và phát triển của BHXH ở nước ta, phù
hợp với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Để phù hợp với quá trình phát triển và hội nhập, từ năm 1998 đến nay Chính
phủ đã ban hành nhiều văn bản nhằm sửa đổi, bổ sung chính sách BHXH. Sự thay
đổi về chính sách BHXH đã được cụ thể hoá tại Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày
09/01/2003 của Chính phủ và đặc biệt là tại Luật BHXH Việt Nam. Luật BHXH
được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày
29/6/2006 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2007 là một sự kiện vô cùng quan
trọng trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật về BHXH ở nước ta. Nhiều nội
dung mới, thể hiện những bước cải cách cần thiết trong lĩnh vực BHXH đã được
đưa vào Luật BHXH. Đó là việc quy định lại đối tượng tham gia BHXH bắt buộc;
số lượng, nội dung của các chế độ BHXH bắt buộc như mức đóng, mức hưởng, thời
gian hưởng… cũng có nhiều thay đổi. Ngoài ra, Luật BHXH còn mở ra loại hình
BHXH tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp với những quy định về đối tượng tham
gia, mức đóng, điều kiện hưởng, thời gian và mức hưởng rất rõ ràng, cụ thể. Hiện
nay, Luật BHXH là văn bản có tính pháp lý cao nhất về BHXH ở Việt Nam.

Như vậy, ngay sau khi giành được chính quyền, trong thời chiến cũng như
trong thời bình, Đảng và Nhà nước ta đã luôn quan tâm đến chính sách BHXH cho
NLĐ. Theo đó, chế độ BHXH đã trải qua nhiều giai đoạn, nhiều lần được sửa đổi,
bổ sung và cải tiến, từng bước phát triển thành một hệ thống các chế độ BHXH
tương đối hoàn chỉnh.
1.1.3. Bản chất của bảo hiểm xã hội
Thái Thị Mai Bảo hiểm xã hội 50
Chuyên đề tốt nghiệp 8 GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
Như chúng ta đã biết, BHXH có mầm mống từ hàng trăm năm trước đây khi
kinh tế hàng hoá hình thành và phát triển. Tuy ra đời lâu như vậy, nhưng do tính
lịch sử và tính phức tạp của vấn đề nên khái niệm BHXH đến nay vẫn chưa được
hiểu hoàn toàn thống nhất. Tuy nhiên, đứng trên quan điểm cơ chế hoạt động và
mục đích của BHXH, thì BHXH có thể được hiểu như sau: “BHXH là sự đảm bảo
thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải
những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình
thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao
động và gia đình họ, góp phần bảo đảm an toàn xã hội.”
Với cách hiểu như trên, bản chất của BHXH được thể hiện như sau:
- BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là
trong xã hội mà sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường và mối quan hệ
thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nào đó. Vì vậy, có thể nói kinh tế là
nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi nước,
kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và phát triển.
- Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao
động và diễn ra giữa 3 bên đó là: bên tham gia BHXH (NLĐ và NSDLĐ); bên
BHXH (cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ); bên được BHXH
(NLĐ và gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết).
- BHXH là một hoạt động nhằm chia sẻ rủi ro của NLĐ trên cơ sở bù đắp tổn
thất do các “rủi ro xã hội” gây nên theo nguyên tắc “số đông bù số ít”. Các “rủi ro
xã hội” này có thể là những rủi ro hoàn toàn ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan

của con người như: Ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp… Hoặc cũng có
thể là những trường hợp không hoàn toàn ngẫu nhiên như: Thai sản, tuổi già…
Đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động.
- Phần thu nhập của NLĐ bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những biến cố,
rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích
lại. Nguồn quỹ này được hình thành do các bên tham gia BHXH đóng góp là chủ
yếu, ngoài ra còn được sự hỗ trợ của Nhà nước.
- Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của NLĐ
trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Và mục tiêu này đã
được tổ chức lao động quốc tế (ILO) cụ thể hoá như sau:
+ Đền bù cho NLĐ những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu sinh
Thái Thị Mai Bảo hiểm xã hội 50
Chuyên đề tốt nghiệp 9 GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
sống thiết yếu của họ;
+ Chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật cho NLĐ;
+ Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các nhu cầu
đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em vv.
1.1.4. Hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội
Chính sách BHXH là một trong những chính sách xã hội cơ bản nhất của mỗi
quốc gia. Nó là những quy định chung về cả đối tượng, phạm vi, các mối quan hệ
và những giải pháp lớn nhằm đạt được mục tiêu chung đã đề ra đối với BHXH. Tuy
nhiên, chính sách BHXH lại rất khó thực hiện nếu không được cụ thể hoá và không
thông qua các chế độ BHXH.
Chế độ BHXH là sự cụ thể hoá chính sách BHXH, là hệ thống các quy định
cụ thể và chi tiết, là sự bố trí, sắp xếp các phương tiện để thực hiện BHXH đối với
NLĐ. Nói cách khác, đó là một hệ thống các quy định được pháp luật hoá về đối
tượng hưởng, nghĩa vụ và mức đóng góp cho từng trường hợp cụ thể. Chế độ
BHXH thường được biểu hiện dưới dạng các văn bản pháp luật và dưới luật, các
thông tư, điều lệ…
Theo khuyến nghị của Tổ chức lao động thế giới (ILO) đã nêu trong Công

ước Giơnevơ số 102 (1952), hệ thống các chế độ BHXH bao gồm 9 chế độ sau:
- Chăm sóc y tế
- Trợ cấp ốm đau
- Trợ cấp thất nghiệp
- Trợ cấp tuổi già
- Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
- Trợ cấp gia đình
- Trợ cấp sinh đẻ
- Trợ cấp khi tàn phế
- Trợ cấp cho người còn sống (trợ cấp mất người nuôi dưỡng)
Chín chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH, tuỳ vào điều
kiện kinh tế - xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ thực hiện khuyến
nghị đó ở mức độ khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện được 3 chế độ. Trong đó,
ít nhất phải có một trong năm chế độ: (3); (4); (5); (8); (9).
Thái Thị Mai Bảo hiểm xã hội 50
Chuyên đề tốt nghiệp 10 GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
Theo khuyến nghị trên, ngày 29 tháng 6 năm 2006, Quốc hội Việt Nam
chính thức thông qua Luật BHXH. Bộ Luật này có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm
2007. Theo Luật BHXH hiện hành, nước ta thực hiện cả loại hình BHXH bắt buộc,
BHXH tự nguyện và BHTN. Nhưng BHXH tự nguyện được thực hiện từ ngày 1
tháng 1 năm 2008 với 2 chế độ hưu trí và tử tuất. Còn BHTN được thực hiện từ
ngày 1 tháng 1 năm 2009. BHXH bắt buộc được thực hiện với 5 chế độ sau:
- Chế độ ốm đau
- Chế độ thai sản
- Chế độ tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp
- Chế độ hưu trí
- Chế độ tử tuất
Hệ thống các chế độ BHXH bắt buộc trên được chia thành 2 hệ thống là hệ
thống các chế độ BHXH dài hạn và hệ thống các chế độ BHXH ngắn hạn.
1.1.4.1. Các chế độ Bảo hiểm xã hội dài hạn

Các chế độ BHXH dài hạn gồm 3 chế độ là chế độ TNLĐ - BNN, chế độ hưu
trí và chế độ tử tuất.
* Chế độ tai nạn lao đông và bệnh nghề nghiệp:
Chế đọ TNLĐ - BNN là chế độ BHXH nhằm trợ cấp phần thu nhập bị giảm
hoặc mất của người lao động do bị giảm hoặc mất sức lao động từ TNLĐ - BNN.
Cụ thể đới với chế độ tai nạn lao động, người lao động đang đóng bảo hiểm xã hội
bị tai nạn lao động trong các trường hợp dưới đây dẫn đến suy giảm khả năng lao
động từ 5% trở lên thì được hưởng trợ cấp tai nạn lao động do quỹ bảo hiểm xã hội
chi trả: Bị tai nạn tại nơi làm việc và trong giờ làm việc; Bị tai nạn ngoài nơi làm
việc hoặc ngoài giờ làm việc khi thực hiện công việc theo yêu cầu của người sử
dụng lao động; Bị tai nạn trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc trong
khoảng thời gian và tuyến đường hợp lý. Đối với chế độ bệnh nghề nghiệp, người
lao động được hưởng trợ cấp bệnh nghề nghiệp do quỹ bảo hiểm xã hội chi trả khi
bị bệnh thuộc danh mục bệnh nghề nghiệp do làm việc trong môi trường hoặc nghề
có yếu tố độc hại dẫn đến suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên.
* Chế độ hưu trí:
Chế độ hưu trí: Đây là một chế độ BHXH lớn, được xây dựng với mục đích
Thái Thị Mai Bảo hiểm xã hội 50
Chuyên đề tốt nghiệp 11 GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
trợ cấp thu nhập cho người lao động khi về già, không còn làm việc nữa. Điều kiện
hưởng lương hưu được quy định tại điều 70 Luật BHXH ban hành ngày 29 tháng 6
năm 2006 như sau: người lao động có đủ 2 điều kiện là nam đủ 60 tuổi, nữ đủ năm
mươi lăm tuổi và phải đủ 20 năm đóng BHXH trơ lên. Đối với trường hợp nam đủ
60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi nhưng thời gian đóng BHXH còn thiếu không quá 5 năm thời
gian quy đinh thì được đóng tiếp cho đến khi đủ 20 năm tham gia BHXH.
Người lao động đã đóng BHXH trên 30 năm đối với nam và trên 25 năm đối với nữ,
khi nghỉ hưu, ngoài lương hưu còn được hưởng trợ cấp hưu 1 lần. Mức trợ cấp hưu
1 lần được tính theo số năm đóng BHXH kể từ năm thứ 31 trở đi đối với nam và
năm thứ 26 trở đi đối với nữ. Cữ mỗi năm đóng BHXH thì được tính bằng 0.5 tháng
mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH.

* Chế độ tử tuất:
Chế độ tử tuất: là chế độ BHXH được thiết kế nhằm trợ cấp một phần thu
nhập cho thân nhân người lao động đang sống phụ thuộc vào họ, nếu chẳng may
người lao động bị chết. Thân nhân người lao động có thể là vợ, chồng, bố ruột, mẹ
ruột, bố chồng, mẹ chồng, bố vợ, mẹ vợ, con ruột, con nuôi… Theo Luật BHXH
Việt Nam quy định các đối tượng được hưởng trợ cấp tuất như sau:
Các đối tượng sau đây khi chết thì người lo mai táng được nhận trợ cấp mai
táng đó là NLĐ đã có ít nhất 5 năm đóng BHXH; người đang hưởng hưu; hoặc
trường hợp các đối tượng trên bị tòa án tuyên bố là đã chết thì thân nhân được
hưởng trợ cấp mai táng bằng 10 tháng lương tối thiểu chung.
NLĐ đang dóng BHXH, NLĐ đang bảo lưu thời gian đóng BHXH, người
đang hưởng lương hưu khi chết thì thân nhân được hưởng trợ cấp tuất 1 lần.
1.1.4.2. Các chế độ Bảo hiểm xã hội ngắn hạn
Các chế độ BHXH ngắn hạn bao gồm 2 chế độ là chế độ ốm đau và chế độ
thai sản.
* Chế độ ốm đau:
Trợ cấp ốm đau: Mục đích của chế độ này là nhằm bù đắp một phần thu nhập
cho người lao động khi bị ốm đau bệnh tật, không đi làm được và không được
người sử dụng lao động trả lương. Điều kiện hưởng chế độ ốm đau là bị ốm đau, tai
nạn rủi ro phải nghỉ làm và có xác nhận của cơ sở y tế. trường hợp ốm đau, tai nạn
do tự hủy hoại sức khỏe, do say rượu hoạc sử dụng ma túy, chất gây nghiện khác thì
Thái Thị Mai Bảo hiểm xã hội 50
Chuyên đề tốt nghiệp 12 GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
không được hưởng chế độ ốm đau. Trường hợp có con dưới 7 tuổi ốm đau, phải
nghỉ việc để chăm sóc thì phải có xác nhận của cơ sở y tế.
* Chế độ thai sản:
Trợ cấp thai sản: Chế độ này được thiết kế nhằm bảo vệ quyền lợi cho người
phụ nữ khi sinh con, trên cơ sở thay thế phần thu nhập không được người sử dụng
lao động trả trong thời gian nghỉ sinh con. Cụ thể các điều kiện được hưởng chế độ
thai sản là lao động nữ mang thai, lao động nữ sinh con, người lao động nhận nuôi

con nuôi, người lao động đặt vòng tránh thai, thực hiện các biện pháp triệt sản. Đối
với lao đông nữ sinh con và nhận nuôi con nuôi phải đóng BHXH từ đủ 6 tháng trở
lên trong 12 tháng trước khi sinh con hoạc nhận con nuôi.
1.1.5. Quỹ BHXH
1.1.5.1. Khái niệm và đặc điểm quỹ BHXH
• Khái niệm:
Quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập, tập trung, nằm ngoài ngân sách
Nhà nước. Quỹ có mục đích và chủ thể riêng, mục đích tạo lập quỹ BHXH là dùng
để chi trả cho người lao động, giúp họ ổn định cuộc sống khi gặp các biến cố hoặc
rủi ro. Chủ thể của quỹ BHXH chính là những người tham gia đóng góp để hình
thành nên quỹ, do đó có thể bao gồm cả: NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước. Để nâng cao
khả năng giải quyết các phát sinh lớn của quỹ BHXH, thì việc bảo tồn và tăng
trưởng quỹ là một vấn đề hết sức quan trọng. Trong đó, việc xác định rõ nguồn hình
thành và sử dụng quỹ đúng mục đích, hiệu quả là một vấn đề mang tính cốt lõi.
Như vậy, quỹ BHXH là quỹ tiền tệ tập trung, hạch toán độc lập với ngân
sách Nhà nước, được Nhà nước bảo hộ và bù thiếu. Quỹ này được quản lý theo cơ
chế cân bằng thu chi do đó quỹ BHXH không đơn thuần ở trạng thái tĩnh mà luôn
có sự biến động theo chiều hướng tăng lên hoặc thâm hụt. Quỹ BHXH hình thành
và hoạt động đã tạo ra khả năng giải quyết những rủi ro của tất cả những người
tham gia với tổng dự trữ ít nhất, do rủi ro được dàn trải cho số đông người tham gia.
Đồng thời quỹ này cũng góp phần giảm chi NSNN; khi có biến cố xã hội xảy ra như
thiên tai, hạn hán, dịch bệnh, quỹ BHXH cũng là một khoản không nhỏ giúp Nhà
nước thay cho cứu trợ xã hội, phúc lợi xã hội, …
• Đặc điểm quỹ BHXH:
Thái Thị Mai Bảo hiểm xã hội 50
Chuyên đề tốt nghiệp 13 GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
Qũy BHXH có đặc điểm sau:
- Là một quỹ tiền tệ tập trung, giữ vị trí là khâu tài chính trung gian trong hệ
thống tài chính quốc gia. Là tổ chức tái chính nằm giao thoa giữa NSNN với các tổ
chức tài chính Nhà nước, tài chính doanh nghiệp và sau đó là tài chính dân cư.

- Phân phối quỹ BHXH vừa mang tính hoàn trả, vừa mang tính không hoàn trả.
Tính không hoàn trả của quỹ BHXH được áp dụng đối với người đã tham gia BHXH
trong suốt quá trình lao động nhưng không ốm đau, tai nạn lao động, sinh con.
- Sự ra đời, tồn tại và phát triển của BHXH gắn liền với chức năng vốn có của
nhà nước là vì quyền lợi của NLĐ chứ không vì mục đích kiếm lời, đồng thời nó
cũng phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội và điều kiện lịch sử trong từng
thời kì của từng quốc gia. Khi nền kinh tế càng phát triển thì càng có nhiều chế độ
BHXH được thực hiện, và bản thân từng chế độ cùng được áp dụng rộng rãi hơn,
nhu cầu thoả mãn về BHXH đối với NLĐ càng được nâng cao và họ càng có khả
năng tham gia vào nhiều chế độ BHXH.
- Một mặt, quỹ BHXH mang tính tiêu dùng được thể hiện thông qua mục tiêu,
mục đích của nó là chi trả cho các chế độ BHXH. Nhưng mặt khác nó lại mang tính
dự trữ vì thông thường, khi NLĐ đóng góp vào quỹ BHXH thì họ không được quỹ
này chi trả ngay khi gặp rủi ro mà phải có đủ thời gian dự bị.
- Hoạt động của quỹ BHXH đặt ra yêu cầu và hình thành tất yếu chế độ tiết
kiệm bắt buộc của xã hội và NLĐ dành cho ốm đau, hưu trí. Đó cũng là quá trình
phân phối lại thu nhập của cá nhân và cộng đồng.
1.1.5.2. Nguồn hình thành và mục đích sử dụng quỹ BHXH
• Nguồn hình thành quỹ BHXH
Quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn sau:
- Người sử dụng lao động đóng góp
- Người lao động đóng góp
- Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm
- Các nguồn khác (như cá nhân và các tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi do đầu tư
phần quỹ nhàn rỗi)
Trong đó, sự đóng góp của NLĐ và NSDLĐ được coi là nguồn thường
Thái Thị Mai Bảo hiểm xã hội 50
Chuyên đề tốt nghiệp 14 GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
xuyên và cơ bản nhất. Đối với NSDLĐ, việc đóng góp một phần để BHXH cho
NLĐ sẽ tránh được thiệt hại kinh tế do phải chi ra một khoản tiền lớn khi có rủi ro

xảy ra đối với NLĐ mà mình thuê mướn. Đồng thời, nó còn góp phần giảm bớt tình
trạng tranh chấp, xây dựng được mối quan hệ chủ - thợ tốt đẹp. Đối với NLĐ, việc
đóng góp một phần để BHXH cho mình vừa biểu hiện sự tự gánh chịu trực tiếp rủi
ro của chính mình, vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt
chẽ. Hầu hết ở các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ các nguồn
nêu trên. Tuy nhiên, phương thức đóng góp và mức đóng góp của các bên tham gia
BHXH lại có sự khác nhau giữa các nước.
Về phương thức đóng góp BHXH của NLĐ và NSDLĐ hiện nay vẫn tồn tại
2 quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng, việc xác định mức đóng góp BHXH
phải căn cứ vào mức lương cá nhân và quỹ lương của cơ quan, doanh nghiệp. Quan
điểm thứ hai lại cho rằng cần căn cứ vào mức thu nhập cơ bản của NLĐ được cân
đối chung trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Về mức đóng góp BHXH, một số nước quy định NSDLĐ phải chịu toàn bộ
chi phí cho chế độ TNLĐ – BNN, Chính phủ trả chi phí y tế và trợ cấp gia đình, các
chế độ còn lại cả NLĐ và NSDLĐ cùng đóng góp. Một số nước khác lại quy định,
Chính phủ bù thiếu cho quỹ BHXH hoặc chịu toàn bộ chi phí quản lý BHXH…
Bảng 1: Mức đóng góp BHXH ở một số nước trên thế giới
Tên nước Chính phủ
Tỷ lệ đóng góp của
người lao động so
với tiền lương (%)
Tỷ lệ đóng góp của người
sử dụng lao động so với
quỹ lương (%)
CHLB
Đức
CH Pháp
Inđônêxia
Philipin
Malaixia

Bù thiếu
Bù thiếu
Bù thiếu
Chi toàn bộ chế độ
ốm đau, thai sản
14,8÷18,8
11,82
3,0
2,85÷9,25
9,5
16,3÷22,6
19,68
6,5
6,85÷8,05
12,75
(Nguồn: BHXH ở một số nước trên thế giới)
Ở Việt Nam, mức đóng góp BHXH được xác định căn cứ vào mức lương cá
nhân và quỹ lương của cơ quan, doanh nghiệp. Quỹ BHXH của Việt Nam do NLĐ
Thái Thị Mai Bảo hiểm xã hội 50
Chuyên đề tốt nghiệp 15 GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
và NSDLĐ đóng góp là chủ yếu. Ngoài ra, Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm để đảm
bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với NLĐ. Ở các nước phát triển, tỷ lệ đóng góp
BHXH của NLĐ và NSDLĐ gần như là tương đương nhau. Nhưng ở các nước đang
phát triển như Việt Nam, thu nhập của NLĐ còn thấp, nên NSDLĐ thường phải
đóng với tỷ lệ cao hơn gấp 2 hoặc 3 lần so với NLĐ.
Mức đóng góp BHXH thực chất là phí BHXH. Phí BHXH là yếu tố quyết
định sự cân đối thu chi quỹ BHXH. Nếu căn cứ vào thời hạn, quan hệ bảo hiểm, có
thể chia phí BHXH thành 2 loại: phí dài hạn và phí ngắn hạn. Tuy nhiên, dù thuộc
loại dài hạn hay ngắn hạn, cơ cấu phí đều bao gồm các phần sau:
Phí BHXH = Phí thuần tuý + Phí dự phòng + Phí quản lý

Trong đó:
- Phí thuần tuý là phí sử dụng để trợ cấp cho BHXH cả các chế độ ngắn hạn
và dài hạn.
- Đối với các chế độ BHXH dài hạn như hưu trí, tử tuất, tai nạn lao động -
bệnh nghề nghiệp, quá trình đóng và hưởng BHXH tương đối độc lập với nhau và
diễn ra trong khoảng thời gian nhất định. Cho nên, sự cân bằng giữa đóng và hưởng
phải được dàn trải trong cả thời kỳ dài. Vì thế, ngoài phí thuần tuý phải có phí dự
phòng để đảm bảo quỹ BHXH có dự trữ đủ lớn.
- Phí quản lý được sử dụng để trang trải chi phí quản lý như: tiền lương cho
những người làm việc trong hệ thống BHXH; khấu hao tài sản cố định, văn phòng
phẩm…vv
• Mục đích sử dụng quỹ BHXH
Quỹ BHXH chủ yếu được sử dụng cho các mục đích sau:
- Chi trợ cấp cho các chế độ BHXH
- Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH
- Chi đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH
Trong đó, chi trả trợ cấp theo các chế độ BHXH là khoản chi lớn nhất và
quan trọng nhất của quỹ BHXH.
Việc quản lý quỹ BHXH là một nội dung quan trọng trong hoạt động quản lý
BHXH nhằm đảm bảo thu đúng, thu đủ, không thất thoát và đủ để chi trả cho quyền
Thái Thị Mai Bảo hiểm xã hội 50
Chuyên đề tốt nghiệp 16 GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
lợi của NLĐ. Tuỳ thuộc vào phương thức quản lý của từng nước mà quỹ BHXH chỉ
có một quỹ tập trung duy nhất hay được quản lý dưới dạng các quỹ thành phần,
thông thường bao gồm các quỹ sau: Quỹ BHYT, quỹ BHTN, quỹ hưu trí,…
Việc chi trả các chế độ BHXH cũng phụ thuộc vào việc thành lập quỹ BHXH
theo phương thức sau:
- Nếu chỉ thành lập một quỹ tập trung thống nhất thì việc chi trả cũng phải
đảm bảo tính thống nhất theo các nội dung chi. Điều này có nghĩa là, tất cả các
nguồn thu BHXH đều được tập trung để hình thành một quỹ duy nhất, sau đó quỹ

này được sử dụng để chi trả theo các chế độ, chi quản lý và đầu tư. Đây là phương
thức thành lập quỹ rất đơn giản và tác dụng chủ yếu của nó là quản lý quỹ được tập
trung nên dễ dàng điều tiết giữa các chế độ BHXH trong quá trình chi trả.
- Nếu quỹ BHXH được hình thành theo 2 loại: Quỹ BHXH ngắn hạn và
quỹ BHXH dài hạn thì việc chi trả và quản lý chi trả sẽ được cụ thể hơn. Trong
đó, quỹ BHXH ngắn hạn được sử dụng để chi trả cho các chế độ ngắn hạn như:
ốm đau, thai sản và được cân đối hàng năm; còn quỹ BHXH dài hạn được sử
dụng để chi trả cho các chế độ dài hạn như: hưu trí, tử tuất, TNLĐ - BNN và
được cân đối trong nhiều năm. Phương thức này sẽ đảm bảo cho công tác chi trả
sát thực tế và đúng mục đích hơn.
- Nếu quỹ BHXH được thành lập theo từng chế độ: Quỹ ốm đau, quỹ thai
sản, quỹ hưu trí, quỹ TNLĐ - BNN, tức là, mỗi chế độ có thể hình thành một quỹ và
mỗi loại quỹ sẽ được hạch toán độc lập, bảo tồn và tăng trưởng. Phương thức này có
ưu điểm là dễ dàng cân đối thu chi, từ đó góp phần xác định mức đóng và mức
hưởng trong từng chế độ một cách chính xác. Đồng thời, công tác chi trả lại càng
trở nên đơn giản và đúng mục đích bởi vì thu của chế độ nào thì chi ở chế độ đó.
Hoạt động của quỹ BHXH là một quá trình bắt đầu từ lúc cơ quan BHXH thu
phí từ những người tham gia bảo hiểm cho đến lúc tiến hành chi trả trợ cấp cho
NLĐ theo các chế độ BHXH. Quá trình đó có thể được biểu diễn bằng sơ đồ sau:
Thái Thị Mai Bảo hiểm xã hội 50
Chuyên đề tốt nghiệp 17 GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
Sơ đồ 1: Chu trình quỹ của một hệ thống BHXH (điển hình)
1.1.5.3. Đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH
Quỹ BHXH là quỹ tiền tệ độc lập, tập trung, nằm ngoài NSNN. Quỹ BHXH
được hình thành chủ yếu từ sự đóng góp bằng tiền của các bên tham gia BHXH
nhằm mục đích chi trả cho những người được BHXH và gia đình họ khi họ bị giảm
hoặc mất thu nhập do gặp các rủi ro, mất khả năng lao động hoặc mất việc làm.
* Đầu tư là yêu cầu khách quan
Do đặc thù người tham gia BHXH đóng phí trong một thời gian dài và
thường là rất lâu sau họ mới được hưởng các chế độ trợ cấp dài hạn (như hưu trí,

tuất ), đồng thời số người tham gia đóng phí và hưởng tại một thời điểm thường có
chênh lệch dương (đôi khi khá lớn) nên quỹ BHXH tại một thời điểm nhất định có
số tiền kết dư lớn.
Thái Thị Mai Bảo hiểm xã hội 50
Phạt
Chi trả trợ cấp
Trợ cấp
ngắn hạn:
- Chăm sóc
y tế
- Ốm đau
- Thai sản
- Mai táng
Đóng góp từ chủ sử
dụng lao động
Đóng góp từ người
được bảo hiểm
Hỗ trợ của Nhà nước
Thu nhập từ đầu tư
Qũy BHXH Tài sản đầu tư
Phí quản lý Phí đầu tư
Trợ cấp
dài hạn:
- Mất sức
lao động
- Tuổi già
- Tử tuất
Trợ cấp tai nạn
lao động:
- Chăm sóc y tế

- Mất sức tạm
thời
- Mất sức vĩnh
viễn
Trợ cấp thất
nghiệp:
- Trợ cấp thất
nghiệp
- Trợ cấp bổ
sung cho
người ăn theo
Trợ cấp
gia đình:
- Trợ cấp
gia đình
- Trợ cấp
khi sinh
đẻ non
Chuyên đề tốt nghiệp 18 GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
Mặt khác, quỹ BHXH cũng luôn phải đối mặt với những nguy cơ rủi ro, như
việc tính toán mức đóng - mức hưởng của đối tượng không khoa học; những biến
động xã hội đặc biệt dẫn đến việc bội chi quỹ; bị giảm giá trị do lạm phát thông
thường, do lạm phát từ các cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội trong nước
và nước ngoài tác động
Những đặc thù đó đòi hỏi quỹ BHXH phải được chú trọng đến hoạt động đầu
tư tăng trưởng để tránh bị bội chi. Sự quay vòng bảo toàn và tăng trưởng quỹ
BHXH là một đặc trưng cơ bản của hoạt động BHXH trong nền kinh tế thị trường.
Hoạt động đầu tư quay vòng vốn để bảo toàn và tăng trưởng giá trị quỹ BHXH là
một yêu cầu nhất thiết khách quan, đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển và phát huy
tác dụng của chính sách BHXH trong việc bảo đảm an sinh xã hội và hỗ trợ cho nền

kinh tế phát triển bền vững.
* Lợi ích và các hình thức đầu tư của quỹ BHXH
Hoạt động đầu tư trước hết giúp mang lại lợi ích cho chính quỹ BHXH.
Thông qua hoạt động đầu tư quỹ BHXH vào các lĩnh vực có khả năng sinh lời của
nền kinh tế, nguồn tài chính nhàn rỗi từ quỹ BHXH có thể tạo ra một nguồn tài
chính tương đối lớn bổ sung vào quỹ, từ đó tăng quy mô và sức mạnh cho quỹ
BHXH. Mặt khác, quy mô số người tham gia BHXH ngày càng tăng cũng tạo nên
sự tăng trưởng cho quỹ, đảm bảo khả năng chi trả thường xuyên cho các đối tượng
hưởng chế độ BHXH.
Đối với nền kinh tế, nguồn vốn lớn có được từ tín dụng quỹ BHXH sẽ hỗ trợ
quan trọng để đầu tư phát triển một số dự án phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước,
giúp thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đặc biệt, trong điều kiện nền kinh tế
đang phát triển, nhu cầu vốn cho đầu tư không ngừng tăng nhanh thì bên cạnh việc
thu hút các nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài, việc cung ứng vốn từ nền
kinh tế thông qua các tụ điểm tài chính như quỹ BHXH có ý nghĩa rất quan trọng,
nhất là tạo ra sự tự chủ và thế chủ động trong việc phát triển kinh tế đất nước.
Mặt khác, thông thường Nhà nước phải hỗ trợ một phần ngân sách Nhà nước
để cân bằng thu - chi quỹ BHXH. Quỹ BHXH đầu tư hiệu quả, đem lại một nguồn tài
chính không nhỏ sẽ giúp ngân sách nhà nước giảm gánh nặng bù đắp cho quỹ BHXH.
Hiện nay, quỹ BHXH thường được đầu tư vào các lĩnh vực như: mua các
loại trái phiếu Chính phủ, trái phiếu địa phương hoặc trái phiếu công ty; gửi tiết
kiệm ở ngân hàng, mua kỳ phiếu ngân hàng; mua cổ phiếu; cho các công ty vay
Thái Thị Mai Bảo hiểm xã hội 50
Chuyên đề tốt nghiệp 19 GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
vốn; trực tiếp liên doanh hoặc uỷ thác kinh doanh; kinh doanh bất động sản. Trong
đó, mua trái phiếu chính phủ và gửi ngân hàng là an toàn hơn cả và được hầu hết
các nước áp dụng.
Tuy nhiên, ở những nước có hệ thống BHXH trưởng thành và hệ thống pháp
luật hoàn chỉnh, Nhà nước một mặt để hệ thống BHXH tự chủ về tài chính, mặt
khác luôn hậu thuẫn để BHXH dám đầu tư vào lĩnh vực có thể ít lãi hơn nhưng có

mục tiêu xã hội quan trọng (như cho vay xây dựng các công trình phúc lợi công
cộng, các công trình giáo dục hay chăm sóc sức khoẻ). Một số nước lập ngân hàng
riêng trong hệ thống BHXH để đầu tư vào các xí nghiệp với mục tiêu chính là tạo
công ăn việc làm
* Nguyên tắc đầu tư của quỹ BHXH
Quá trình đem số dư tạm thời nhàn rỗi của quỹ BHXH đầu tư sinh lời phải
tuân thủ chặt chẽ những nguyên tắc về an toàn và hiệu quả để hạn chế tối đa rủi
ro. Bên cạnh đó, xuất phát từ đặc điểm và mục đích hoạt động của quỹ BHXH,
hoạt động đầu tư vốn nhàn rỗi còn phải đảm bảo nguyên tắc thanh khoản và lợi
ích xã hội.
Nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong hoạt động đầu tư quỹ BHXH là: an
toàn (không chỉ bảo toàn được số vốn đầu tư mà còn phải giữ được giá trị thực sự
của vốn), nhằm trước hết là bảo toàn được quỹ, đảm bảo quyền lợi chính đáng của
người lao động về chi trả BHXH.
Nếu hoạt động đầu tư để xảy ra tình trạng không an toàn, gánh nặng sẽ đè lên
vai Nhà nước và nguy hại hơn là dẫn đến sự mất ổn định về xã hội - chính trị, mất
lòng tin của người dân.
Do hậu quả của việc mất quỹ BHXH là rất nghiêm trọng nên quỹ BHXH
không được đầu tư vào lĩnh vực rủi ro cao, mạo hiểm lớn; không nên tập trung đầu
tư vào một ít dự án hoặc công trình, mà nên phân tán đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác
nhau (cả trong nước và nước ngoài) để giảm thiểu rủi ro trong đầu tư. Ngoài ra, quỹ
BHXH cần được Chính phủ ưu tiên đầu tư vào các lĩnh vực có lợi nhuận cao.
Nguyên tắc thứ hai: khi đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH là tính hiệu quả.
Nguyên tắc này rất quan trọng vì nếu đầu tư không sinh lời thì không thể thực hiện
được mục tiêu tăng trưởng quỹ, và ảnh hưởng tới độ an toàn của quỹ cũng như khả
năng chi trả trong tương lai. Để thực hiện được nguyên tắc này, cần thiết phải xác
định được danh mục đầu tư, các lĩnh vực đầu tư chủ yếu. Đối với từng dự án đầu tư,
Thái Thị Mai Bảo hiểm xã hội 50
Chuyên đề tốt nghiệp 20 GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
phải đánh giá chính xác nhất hiệu quả kinh tế dựa trên một hệ thống các chỉ tiêu

khoa học, từ đó mới có được quyết định đầu tư đúng đắn, mang lại lợi nhuận cao.
Nguyên tắc thứ ba: là phải chú trọng đến tính thanh khoản của dòng vốn (dễ
luân chuyển vốn). Quỹ BHXH luôn vận động không ngừng, đó là quá trình tạo lập
và sử dụng quỹ để chi trả cho các đối tượng hưởng chế độ BHXH. Do vậy, đầu tư
quỹ vào lĩnh vực nào, dưới hình thức nào cũng phải đảm bảo khả năng chuyển đổi
các tài sản đầu tư thành tiền mặt để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ chi trả cho người
lao động.
Thủ tục thanh toán cũng là một vấn đề cần xem xét khi quyết định đầu tư,
đảm bảo thủ tục không không quá phức tạp, dẫn đến tồn khoản. Ngoài ra, đầu tư
tăng trưởng quỹ BHXH còn phải đảm bảo lợi ích kinh tế và xã hội, bởi BHXH là
một chính sách xã hội quan trọng của Nhà nước.
Tuỳ theo tính chất và nội dung đầu tư mà các nguyên tắc trên có tầm quan
trọng khác nhau. Chẳng hạn, khi đầu tư dài hạn thì nguyên tắc “dễ luân chuyển
vốn” không quan trọng bằng nguyên tắc “an toàn” và “hiệu quả”. Ngược lại, đầu tư
ngắn hạn thì nguyên tắc “dễ luân chuyển vốn” phải được ưu tiên hàng đầu.
Tóm lại, đầu tư nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH có vai trò quan
trọng và góp phần đảm bảo quyền lợi cho người lao động, thực hiện an sinh xã hội.
Song với sự vận động không ngừng của thực tiễn kinh tế, nội dung và hình thức đầu
tư cần được tiếp tục nghiên cứu để hoạt động đầu tư quỹ BHXH đạt hiệu quả cao
nhất, phục vụ sự phát triển bền vững của đất nước.
1.2 – CÔNG TÁC CHI TRẢ CÁC CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI DÀI HẠN
1.2.1. Đặc điểm các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn
Như chúng ta đã biết, theo công ước quốc tế Giơnevơ số 102 (1952) của Tổ
chức lao động quốc tế (ILO), hệ thống các chế độ BHXH bao gồm 9 chế độ sau:
Chăm sóc y tế, trợ cấp ốm đau, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp tai nạn
lao động - bệnh nghề nghiệp, trợ cấp gia đình, trợ cấp sinh đẻ, trợ cấp khi tàn phế,
trợ cấp cho người còn sống. Trong đó, các chế độ trợ cấp ốm đau, trợ cấp sinh đẻ
(thai sản) được gọi là các chế độ BHXH ngắn hạn. Còn các chế độ trợ cấp tuổi già
(hưu trí), trợ cấp cho người còn sống (tử tuất), TNLĐ - BNN được gọi là các chế độ
BHXH dài hạn.

Đối với các chế độ BHXH ngắn hạn, việc đóng và hưởng BHXH xảy ra
trong thời gian ngắn (thường là 1 năm). Vì vậy, đặc trưng của quỹ BHXH ngắn hạn
Thái Thị Mai Bảo hiểm xã hội 50
Chuyên đề tốt nghiệp 21 GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
thường là thu của quỹ phải chi trả ngay cho các chế độ, thu đến đâu, chi đến đó,
không có kết dư hoặc có một phần kết dư nhưng rất nhỏ để gối đầu cho thời kỳ kế
tiếp. Hạch toán và cân đối thu chi của quỹ ngắn hạn thường được tiến hành trong 1
năm, theo niên độ kế toán từ 1/1 đến 31/12. Số thu trong năm chủ yếu dùng để chi
trả ngay trong năm đó.
Khác với các chế độ BHXH ngắn hạn, các chế độ BHXH dài hạn có những
đặc điểm sau:
- Quá trình đóng và quá trình hưởng BHXH tương đối độc lập với nhau và
diễn ra trong khoảng thời gian nhất định. Vì vậy, sự cân bằng giữa đóng và hưởng
BHXH phải được dàn trải trong cả một thời kỳ dài.
- Để được hưởng các chế độ BHXH dài hạn, bản thân NLĐ và NSDLĐ phải
tham gia đóng BHXH trong một thời gian dài theo quy định (thường là 15 năm).
- Khi đủ các điều kiện theo quy định, NLĐ và gia đình họ thường được
hưởng trợ cấp trong một thời gian dài.
- Số thu trong năm thường không chi hết trong năm đó, quỹ luôn có số dư và
số tiền tạm thời nhàn rỗi đó thường được dùng để đầu tư tăng trưởng quỹ.
Từ những đặc điểm cơ bản trên cho thấy việc bảo tồn, tăng trưởng và sử
dụng quỹ BHXH dài hạn làm sao để đạt hiệu quả cao nhất và mang lại lợi ích nhiều
nhất cho cả NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước luôn là vấn đề cần được quan tâm.
Ở Việt Nam hiện nay, quy định hệ thống các chế độ BHXH dài hạn bao
gồm: chế độ TNLĐ - BNN, hưu trí và tử tuất. Nội dung cụ thể của từng chế độ được
quy định rõ trong Luật BHXH ban hành ngày 29/6/2006.
1.2.2. Công tác chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn
1.2.2.1. Vai trò của công tác chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn
Hiện nay, ở hầu hết các nước trên thế giới, chi trả các chế độ BHXH dài hạn
luôn được coi là trọng tâm của công tác chi trả BHXH. Bởi lẽ việc chi trả các chế

độ BHXH này liên quan trực tiếp đến cuộc sống của nhóm đối tượng nhạy cảm nhất
trong xã hội. Đa số họ đều là những người đã cống hiến rất nhiều cho đất nước
trong khi đang công tác. Và sau cả cuộc đời làm việc, họ sống chủ yếu dựa vào
khoản tiền trợ cấp BHXH. Vì vậy, công tác chi trả các chế độ BHXH dài hạn có
một vai trò rất quan trọng; ngoài việc nó chính là hoạt động cụ thể, thiết thực nhất
nhằm đảm bảo quyền lợi cho NLĐ, nó còn thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối
với sự cống hiến của họ cho xã hội.
Thái Thị Mai Bảo hiểm xã hội 50

×