Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường Cu Ba

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (560.41 KB, 60 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
* Tính cấp thiết của đề tài:
Việt Nam là nước có truyền thống xuất khẩu gạo với những chủng loại sản
phẩm gạo phong phú, đa dạng và chất lượng gạo ổn định. Từ một nước thiếu lương
thực, Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới. Trong thời
gian vừa qua, xuất khẩu gạo Việt Nam đã cung cấp cho thị trường thế giới hàng
triệu tấn gạo, đóng góp không nhỏ vào tỷ trọng tăng trưởng kinh tế của đất nước.
* Lý do chọn đề tài:
Việt Nam luôn coi trọng và không ngừng đẩy mạnh xuất khẩu gạo tới thị
trường các nước châu Á, châu Âu, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Trong đó có thị
trường Cu Ba, đây là một thị trường truyền thống và bạn hàng lâu năm đem lại lợi
nhuận cho nhiều công ty của Việt Nam. Gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO) là một bước tiến quan trọng đối với xuất khẩu lương thực của Việt
Nam nói chung và xuất khẩu gạo nói riêng. Nó mở ra những cơ hội nhưng cũng đầy
thách thức cho xuất khẩu gạo vào thị trường Cu Ba, tuy nhiên do nhiều yếu tố ảnh
hưởng nên Việt Nam không thể đáp ứng được một lượng sản phẩm lớn khi nhu cầu
thị trường đòi hỏi chính vì vậy nhiệm vụ quan trọng là phải đề ra giải đáp để thúc
đẩy xuất khẩu vào thị trường này một cách hiệu quả.
Trong thời gian thực tập tại Bộ Công thương Việt Nam, được sự giúp đỡ tận
tình của Ban lãnh đạo Bộ, các cán bộ cũng như các thầy cô giáo trong khoa, em đã
mạnh dạn đi vào nghiên cứu đề tài: “Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu gạo của Việt
Nam sang thị trường Cu Ba” để làm chuyên đề tốt nghiệp, đây là đề tài em cho
rằng thiết thực đối với Việt Nam trong tình hình toàn cầu hóa như hiện nay.
* Mục đích nghiên cứu đề tài:
Đề xuất các phương hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất
khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường Cu Ba.
Để thực hiện được mục đích trên, đề tài cần phải thực hiện các nhiệm vụ
sau đây:
Sv: Thavisok Sisavath Mssv : CQ494517
1


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Hệ thống hóa những vấn đề lí luận về xuất khẩu và các quy định về nhập
khẩu gạo của thị trường Cu Ba.
- Phân tích và đánh giá thực trạng xuất khẩu gạo sang thị trường Cu Ba của
Việt Nam, từ đó rút ra những thành công, hạn chế cũng như nguyên nhân của những
hạn chế đó.
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là nghiên cứu thị trường gạo thế giới
cùng hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam từ đó đề ra các giải pháp đẩy mạnh
hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường Cu Ba.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Về mặt hàng: Chỉ nghiên cứu mặt hàng gạo xuất khẩu
- Về không gian: Giới hạn vào thị trường Cu Ba
- Về thời gian: Giai đoạn 2008 đến nay.
* Kết cấu của bài viêt:
Ngoài lời mở đầu và kết luận, nội dung của bài viết được chia làm 3
chương:
Chương I. Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu
Chương II. Thực trạng hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị
trường Cuba
Chương III. Giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam
sang thị trường Cuba
EM XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN CÁC THẦY CÔ GIÁO TRONG KHOA, BAN LÃNH ĐẠO BỘ
CÔNG THƯƠNG, CÙNG CÁC ANH CHỊ CÁN BỘ TRONG BỘ ĐÃ NHIỆT TÌNH GIÚP ĐỠ EM
HOÀN THÀNH CHUYÊN ĐỀ NÀY.
Sv: Thavisok Sisavath Mssv : CQ494517
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
I Xuất khẩu

Trước tiên khi tìm hiểu về hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam vào thị
trường Cu Ba ta hãy đi tìm hiểu cơ sở lý luận về xuất khẩu. Để có cơ sở đối chiếu
phân tích và đưa ra biện pháp để đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị
trường Cu Ba.
1. Khái niệm
Hoạt động xuất khẩu hàng hoá: Là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho một quốc gia
khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiên thanh toán, với mục tiêu là lợi nhuận. Tiền tệ
ở đây có thể là ngoại tệ đối với một Quốc gia hoặc với cả hai Quốc gia. Mục đích của hoạt
động này là thu được một khoản ngoại tệ dựa trên cơ sở khai thác lợi thế so sánh của từng
quốc gia trong phân công lao động quốc tế, Và khi việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc
gia đều có lợi thì các quốc gia đều tích cực tham gia mở rộng hoạt động này.
2. Đặc điểm
Hoạt động xuất khẩu là một mặt của hoạt động Thương mại Quốc tế nên nó
cũng có những đặc trưng của hoạt động Thương maị Quốc tế đồng thời nó liên quan
đến các hoạt động Thương mại Quốc tế khác như: Bảo hiểm Quốc tế, Thanh toán
quốc tế, Vận tải quốc tế
Hoạt động xuất khẩu không giống như hoạt động buôn bán trong nước ở đặc
điểm là nó có sự tham gia buôn bán của đối tác nước ngoài, và hàng hoá phục vụ
cho nhu cầu tiêu dùng ở phạm vi nước ngoài.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện của nền
kinh tế, từ xuất khẩu hàng tiêu dùng cho đến tư liệu sản xuất, máy móc hàng hoá
thiết bị công nghệ cao Tất cả các hoạt động này đều nhằm mục tiêu đem lại lợi ích
cho các doanh nghiệp tham gia nói riêng và các Quốc gia, cho nền kinh tế, xã hội
toàn thế giới nói chung.
3. Vai trò
Họat động xuất khẩu đóng vai trò hết sức quan trọng với không chỉ bản thân
doanh nghiệp tham gia xuất nhập khẩu mà còn rất quan trọng với cả nền kinh tế, xã
hội của các bên tham gia.
Sv: Thavisok Sisavath Mssv : CQ494517
3

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
+ Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế toàn cầu:
Như chúng ta đã biết xuất khẩu hàng hoá xuất hiện từ rất sớm. Nó là hoạt
động buôn bán trên phạm vi giữa các quốc gia với nhau. Nó không phải là hành vi
buôn bán riêng lẻ, đơn phương mà ta có cả một hệ thống các quan hệ buôn bán
trong tổ chức Thương mại toàn cầu. Với mục tiêu là tiêu thụ sản phẩm của một
doanh nghiệp nói riêng cả quốc gia nói chung.
Hoạt động xuất khẩu là một nội dung chính của hoạt động ngoại thương, và
là hoạt động đầu tiên của thương mại quốc tế. Xuất khẩu có vai trò đặc biệt quan
trọng trong quá trình phát triển kinh tế của từng quốc gia cũng như trên toàn thế
giới.
Có thể nói sự phát triển của xuất khẩu sẽ là một trong những động lực chính
để thúc đẩy sản xuất. Xuất khẩu hàng hoá nằm trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá là
một trong bốn khâu của quá trình sản xuất mở rộng. Đây là cầu nối giữa sản xuất và
tiêu dùng của nước này với nước khác.
Trước hết, xuất khẩu bắt nguồn từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiện của sản xuất
giữa các nước, nên chuyên môn hoá một số mặt hàng có lợi thế và nhập khẩu các
mặt hàng khác từ nước ngoài mà sản xuất trong nước kém lợi thế hơn thì chắc chắn
sẽ đem lại lợi nhuần lớn hơn.
+ Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế mỗi quốc gia:
Xuất khẩu là một trong những tố tạo đà và thúc đẩy sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Theo như hầu hết các lý thuyết về tăng trưởng và phát triển kinh tế đều
khẳng định và chỉ rõ để tăng trưởng và phát triển kinh tế mỗi quốc gia cần có bốn
điều kiện đó là: Nguồn nhân lực, tài nguyên, vốn, kỹ thuật công nghệ. Nhưng hầu
hết các quốc gia đang phát triển (như Việt Nam ) đều thiếu vốn, kỹ thuật công nghệ.
Do vậy câu hỏi đặt ra làm thế nào để có vốn và công nghệ, xuất khẩu sẽ đem đến
nhiều lợi thế như:
- Một là: Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.

Đối với mọi quốc gia đang phát triển thì bước đi thích hợp nhất là phải công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để khắc phục tình trạng nghèo làn lạc hậu chậm
Sv: Thavisok Sisavath Mssv : CQ494517
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
phát triển. Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hoá phải có một lượng vốn lớn để nhập
khẩu công nghệ và thiết bị tiên tiến, hiện đại.
Thực tế cho thấy, để có nguồn vốn nhập khẩu một nước có thể sử dụng
nguồn vốn huy động chính như sau:
+ Đầu tư nước ngoài, vay nợ các nguồn viện trợ
+ Thu từ các hoạt động du lịch dịch vụ thu ngoại tệ trong nước
+ Thu từ hoạt động xuất khẩu
Tầm quan trọng của vốn đầu tư nước ngoài thì không ai có thể phủ nhận được,
song việc huy động chúng không phải rễ dàng. Sử dụng nguồn vốn này, ngoài việc
phải trả lãi có thể các nước đi vay phải chịu thiệt thòi phải chịu một số điều kiện bất
lợi về chính trị hay quân sự…
Có thể nói xuất khẩu là một hoạt động tạo một nguồn vốn quan trọng nhất.
Bởi vì xuất khẩu tạo tiền đề cho nhập khẩu, nó quyết định đến qui mô tốc độ tăng
trưởng của hoạt động nhập khẩu. ở một số nước một trong những nguyên nhân chủ
yếu của tình trạng kém phát triển là do thiếu tiềm năng về vốn do đó họ cho nguồn
vốn ở bên ngoài là chủ yếu, song mọi cơ hội đầu tư vay nợ và viện trợ của nước
ngoài chỉ thuận lợi khi chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng sản xuất và
xuất khẩu – nguồn vốn duy nhất để trả nợ thành hiện thực .
- Hai là: Xuất khẩu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản xuất
phát triển
Dưới tác động của xuất khẩu, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng của thế giới đã và
đang thay đổi mạnh mẽ. Xuất khẩu làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các quốc gia
từ nông nghiệp chuyển sang công nghiệp và dịch vụ.
Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế.

Thứ nhất, chỉ xuất khẩu những sản phẩm thừa so với nhu cầu tiêu dùng nội
địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển sản xuất về cơ bản
chưa đủ tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ ở sự dư thừa ra của sản xuất thì xuất khẩu
chỉ bó hẹp trong phạm vi nhỏ và tăng trưởng chậm, chính vì vậy các ngành sản xuất
không có cơ hội phát triển.
Sv: Thavisok Sisavath Mssv : CQ494517
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Thứ hai, coi thị trường thế giới để tổ chức sản xuất và xuất khẩu. Quan điểm
này tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy tăng trưởng cà xuất
khẩu. Nó thể hiện:
Với đặc điêm quan trọng là tiền tệ sản xuất sử dụng làm phương tiện thanh
toán, xuất khẩu góp phần làm tăng dự trữ ngoại tệ một quốc gia. Đặc biệt với các
nước đang phát triển đồng tiền không có khả năng chuyển đổi thì ngoại tệ, thì có
được ngoại tệ nhờ xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong việc điều hoà về cung
cấp ngoại tệ, ổn định sản xuất, qua đó góp phần vào tăng trưởng và phát triển kinh
tế.
- Ba là: Xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm,
cải thiện đời sống nhân dân.
Xuất khẩu tạo động lực tăng trưởng kéo theo đó là thiếu nhân công, chính vì
vậy có thể nói xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động thông qua việc sản xuất hàng
xuất khẩu. Mặt khác, xuất khẩu tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu hàng tiêu dùng đáp
ứng yêu cầu ngay càng đa dạng và phong phú của nhân dân.
- Bốn là: Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy sự phát triển các mối
quan hệ kinh tế đối ngoại.
Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, ngoại giao có tác động qua
lại, phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là cơ sở, là tiền đề vững chắc để xây
dựng các mối quan hệ kinh tế đối ngoại sau này, từ đó kéo theo các mối quan hệ
khác phát triển như du lịch quốc tế, bảo hiểm quốc tế, tín dụng quốc tế… và ngược
lại sự phát triển của các ngành này lại tác động trở lại hoạt động xuất khẩu làm cơ

sở hạ tầng cho hoạt động xuất khẩu phát triển.
Có thể nói xuất khẩu nói riêng và hoạt động thương mại quốc tế nói chung sẽ
dẫn tới những sự thay đổi trong sinh hoạt tiêu dùng hàng hoá của nền kinh tế bằng
hai cách:
+ Cho phép khối lượng hàng tiêu dùng nhiều hơn với số hàng hoá được sản
xuất ra.
+ Kéo theo sự thay đổi có lợi cho phù hợp với các đặc điểm của sản xuất
Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia mà các tác động
của xuất khẩu đối với các quốc gia khác nhau là khác nhau.
Sv: Thavisok Sisavath Mssv : CQ494517
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
+Vai trò của xuất khẩu đối với các doanh nghiệp
Hòa cùng xu hướng toàn cầu hóa hiện nay thì xu hướng xuất khẩu vươn ra
thị trường quốc tế là một xu hướng chung của tất cả các quốc gia và các doanh
nghiệp. Xuất khẩu là một trong những con đường quen thuộc để các doanh nghiệp
thực hiện kế hoạch bành trướng, phát triển, mở rộng thị trường của mình.
Xuất khẩu tạo nguồn ngoại tệ cho các doanh nghiệp, tăng dự trữ qua đó nâng
cao khả năng nhập khẩu, thay thế, bổ sung, nâng cấp máy móc, thiết bị, nguyên vật
liệu… phục vụ cho quá trình phát triển.
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ
sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra. Nhờ có xuất khẩu mà tên tuổi của doanh
nghiệp không chỉ được các khách hàng trong nước biết đến mà còn có mặt ở thị
trường nước ngoài.
Xuất khẩu buộc các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới và không ngừng
hoàn thiện công tác quản trị kinh doanh. Đồng thời giúp các doanh nghiệp kéo dài
tuổi thọ của chu kỳ sống của một sản phẩm.
Xuất khẩu phát huy cao độ tính năng động sáng tạo của cán bộ xuất nhập
khẩu cũng như các đơn vị tham gia như: tích cực tìm tòi và phát triển các mặt trong
khả năng xuất khẩu các thị trường mà doanh nghiệp có khả năng thâm nhập.

Xuất khẩu tất yếu dẫn đến cạnh tranh, theo dõi lần nhau giữa các đơn vị tham
gia xuất khẩu trong và ngoài nước. Đây là một trong những nguyên nhân buộc các
doanh nghiệp tham gia xuất khẩu phải nâng cao chất lượng của hàng hoá xuất khẩu,
các doanh nghiệp phải chú ý hơn nữa trong việc hạ giá thành của sản phẩm, từ đó
tiết kiệm các yếu tố đầu vào, hay nói cách khác tiết kiệm các nguồn lực.
Sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao động,
ngoài việc tăng thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp, xuất khẩu còn tạo ra thu nhập ổn
định cho đời sống cán bộ của công nhân viên và tăng thêm thu nhập ổn định cho đời
sống cán bộ của công nhân viên…
4. Hình thức xuất khẩu
Hiện nay trên thị trường thế giới, các nhà buôn giao dịch với nhau theo
những cách thức nhất định. Ứng với mỗi phương thức xuất khẩu đó có những đặc
Sv: Thavisok Sisavath Mssv : CQ494517
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
điểm riêng và kỹ thuật tiến hành riêng. Tuy nhiên trong thực tế xuất khẩu thường sử
dụng một trong những phương thức chủ yếu sau:
Một là: Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là việc xuất khẩu các loại hàng hoá và dịch vụ do chính
doanh nghiệp sản xuất ra, hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước tới khách
hàng nước ngoài thông qua các tổ chức của mình.
Trong trường hợp doanh nghiệp tham gia xuất khẩu là doanh nghiệp thương
mại không tự sản xuất ra sản phẩm thì việc xuất khẩu bao gồm hai công đoạn:
+ Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu với các đơn vị, địa phương trong nước.
+ Đàm phán ký kết với doanh nghiệp nước ngoài, giao hàng và thanh toán
tiền hàng với đối tác kinh doanh.
Phương thức này có ưu điểm là: Thông qua đàm phán thảo luận trực tiếp dễ
dàng đi đến thống nhất và ít xảy ra những hiểu lầm đáng tiếc do đó sẽ giảm thiểu
được rủi ro có thể sảy ra như:
+ Giảm được chi phí trung gian, nên giảm tổng chi phí làm tăng lợi nhuận

cho doanh nghiệp.
+ Có nhiều điều kiện cho doanh nghiệp phát huy tính độc lập bởi họ phải
thực hiện tất cả các khâu giao dịch mà nếu như có bên trung gian thì họ không phải
làm.
+ Chủ động trong việc tiêu thụ hàng hoá sản phẩm của mình. Đặc biệt chủ
động trong liên lạc, cập nhập thông tin, những biến cố từ đó kịp thời xử lý giảm
thiểu và ngăn ngừa những rủi ro đáng tiếc có thể sảy ra.
Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực thì phương thức này còn bộc lộ
những nhược điểm như:
+ Dễ xảy ra rủi ro: Vì một mình kiêm quá nhiều việc tất cả các khâu từ khâu
sản xuất đến bán được hàng, tức là vừa sản xuất vừa phải tìm đối tác, thực hiện các
thủ tục….để xuất khẩu được hàng và thu hồi tiền khách hàng thanh toán. Nên khó
có thể thực hiện tốt tất cả các khâu dễ dẫn đến rủi ro.
+ Nếu như không có cán bộ xuất nhập khẩu đủ trình độ và kinh nghiệm, và
đạo đức khi tham gia ký kết hợp đồng ở một thị trường mới hay mắc phải sai lầm
gây bất lợi cho mình.
Sv: Thavisok Sisavath Mssv : CQ494517
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
+ Khối lượng hàng hoá khi tham giao giao dịch thường phải lớn thì mới có
thể bù đắp được chi phí trong việc giao dịch.
Nói tóm lại nếu hai bên lựa chọn hình thức xuất khẩu trực tiếp thì phải thực
hiện nhiều khâu để có thể đạt được mục tiêu đó là nghiên cứu, và tìm hiểu hiểu kỹ
về bạn hàng, loại hàng hoá định mua bán, các điều kiện giao dịch đưa ra trao đổi,
cần phải xác định rõ mục tiêu và yêu cầu của công việc. Lựa chọn người có đủ năng
lực tham gia giao dịch, cần nhắc khối lượng hàng hoá, dịch vụ cần thiết để công
việc giao dịch có hiệu quả.
Hai là : Xuất khẩu uỷ thác
Đây là hình thức kinh doanh trong đó đơn vị xuất nhập khẩu đóng vai trò là
người trung gian thay cho đơn vị sản xuất tiến hành ký kết hợp đồng xuất khẩu, và

tiến hành làm các thủ tục cần thiết để xuất khẩu cho nhà sản xuất và qua đó được
hưởng một số tiền nhất định gọi là phí uỷ thác.
Hình thức này bao gồm các bước sau:
+ Ký kết hợp đồng xuất khẩu uỷ thác với đơn vị trong nước.
+ Ký hợp đồng xuất khẩu, giao hàng và thanh toán tiền hàng bên nước ngoài.
+ Nhận phí uy thác xuất khẩu từ đơn vị trong nước.
Phương thức xuất khẩu có ưu điểm là:
+ Những người nhận uỷ thác hiểu rõ tình hình thị trường, pháp luật và tập
quán địa phương xuất nhập khẩu, do đó họ có khả năng đẩy mạnh việc buôn bán và
thanh tránh bớt rủi ro uỷ thác cho người uỷ thác.
+ Đối với người nhận uỷ thác: Họ không cần bỏ vốn vào kinh doanh, nhưng
vẫn thu được lợi nhuận, góp phần an sinh xã hội tạo ra công ăn việc làm cho lao
động.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm mà hình thức xuất khẩu này mang lại thì
cung không ít những hạn chế:
+ Công ty kinh doanh xuất nhập khẩu mất đi sự liên kết trực tiếp với thị
trường thường phải đáp ứng những yêu sách của người trung gian.
+ Thêm vào đó là lợi nhuận bị chia sẻ.
+ Làm giảm khả năng độc lập của công ty.
Sv: Thavisok Sisavath Mssv : CQ494517
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Ba là: Buôn bán đối lưu (Counter – trade)
Buôn bán đối lưu là một trong những phương thức giao dịch xuất khẩu,
trong xuất khẩu kết hợp chặc chẽ với nhập khẩu, người bán hàng đồng thời là người
mua, lượng trao đổi với nhau có giá trị tương đương. Trong phương thức xuất khẩu
này mục tiêu là thu về một lượng hàng hoá có giá trị tương đương. Vì đặc điểm này
mà phương thức này còn có tên gọi khác như: xuất nhập khẩu liên kết, hay hàng đổi
hàng.
Các bên tham gia buôn bán đối lưu luôn luôn phải quan tâm đến sự cân bằng

trong trao đổi hàng hoá. Sự cần bằng này được thể hiện ở những khía cạnh sau:
+ Cân bằng về mặt hàng: Tức là mặt hàng tốt đổi lấy mặt hàng tốt, mặt hàng
tồn kho đổi lấy mặt hàng tồn kho khó bán…
+ Cân bằng về giá cả so với giá thực tế: Nếu giá hàng nhập cao thì khi xuất
đối phương giá hàng xuất khẩu cũng phải được tính cao tương ứng và ngược lại.
+ Cân bằng về tổng giá trị hàng giao cho nhau:
+ Cân bằng về điều kiện giao hàng: nếu xuất khẩu CIF phải nhập khẩu CIF.
5. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu, sau đây là một số
yếu tố chủ yếu:
5.1 Cơ chế chính sách nhà nước
Cơ chế chính sách nhà nước ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến hoạt động xuất
khẩu. Cơ chế chính sách nhà nước thông thoáng, chủ chương hội nhập, tham gia sâu
rộng vào thị trường Quốc tế và khu vực, cải cách tổ chức hành chính, phát huy nội
lực…. là một trong các yếu tố làm cho xuất khẩu tăng lên cả về số lượng và chất
lượng.
Từ khi ra nhập WTO các doanh nghiệp đã có rất nhiều cơ hội xuất khẩu, nhà
nước Việt Nam cũng có nhiều biện pháp hỗ trợ về mặt ngoại giao tạo mối quan hệ
tốt đẹp lâu dài với các nước đối tác, tìm kiếm bạn hàng cho xuất khẩu, tạo hành lang
pháp lý và bảo vệ cho các doanh nghiệp trong nước…. Có thể nói cơ chế, chính
sách nhà nước chính là người dẫn đường, người bảo vệ và giúp đỡ cho các doanh
nghiệp xuất khẩu.
Sv: Thavisok Sisavath Mssv : CQ494517
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Các nghị định của Chính phủ về xuất khẩu gạo thay đổi phù hợp với tình
hình kinh tế trong nước và nước ngoài, Nghị đinh số 44/2001/NĐ – CP ngày
2/8/2001 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số
57/1998/NĐ – CP và quyết định số 46/2001/QĐ – TTg ngày 4/4/2001 của Thủ
tướng chính phủ về quản lý xuất nhập khẩu hàng hoá thời kì 2001 – 2005 là một

bước tiến lớn trong việc tự do hoá thương mại và mớ cửa thị trường. Hai nghị định
này đã tạo cho doanh nghiệp quyền chủ động cho các chủ thể tham gia vào xuất
nhập khẩu, đồng thời mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh
nghiệp FDI góp phần mở rộng và đẩy mạnh thi trường xuất khẩu gạo.
Năm 2010 do nhiều yếu tố mà chính phủ lại đưa ra nghị định 109 thắt chặt
hơn việc xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp: "Thương nhân phải dự trữ tối thiểu
10% lượng gạo đã xuất khẩu 6 tháng trước đó" sẽ giảm thiểu rủi ro trong hoạt động
xuất khẩu gạo giúp họ chủ động khi các biến động như thiên tai, giá cả thu mua
tăng….và đồng thời Nghị định giúp giá trị gạo xuất khẩu tăng, có lợi cho người
nông dân…
5.2 Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam tác động không nhỏ đến
xuất khẩu. Chiến lược đặt ra như đổi mới, nâng cao chất lượng công nghệ kỹ thuật,
thâm canh tăng vụ, áp dụng sinh học, hóa học…vào phát triển chất lượng sản xuất
gạo… là một yếu tố quan trọng góp phần tăng sản lượng và chất lượng cao hơn,
điều này làm lượng gạo xuất khẩu ngày càng nhiều và số tiền thu về càng lớn.
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011 – 2020, và đề ra nhiệm
vụ trọng tâm cho năm 2011 là phát huy mặt hàng truyền thống, dựa vào những lợi
thế về mặt hàng gạo, không ngừng nâng cao hiệu quả sản xất, chất lượng gạo và đẩy
mạnh xuất khẩu là động lực giúp các doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ đó.
5.3 Đặc điểm thị trường Cu Ba
Món ăn chính của Cu Ba gọi là Congrí, gồm cơm trộn đậu đen, chuối khô và
salad. Gạo trở thành một sản phẩm không thể thiếu trong bữa ăn hàng ngày của
người dân Cu Ba. Mỗi năm Cu Ba phải chi hàng tỉ USD, là một nước nhập khẩu
gạo hàng đầu thế giới. Ngay như La Habana, thủ đô của Cu Ba, mỗi người dân chỉ
được cung cấp 9 liu, khoảng 4 ký rưỡi gạo một tháng. Mỗi năm thì Cuba phải có tối
Sv: Thavisok Sisavath Mssv : CQ494517
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
thiểu 600 ngàn tấn gạo, nhưng hiện nay mới chỉ sản xuất được khoảng 100 ngàn

tấn, chỉ riêng tỉnh Holguin, theo sổ phân phối hàng năm cũng phải có 5 vạn tấn gạo.
Ở Cu ba gạo, dầu ăn, đường, sữa, bánh mỳ, thịt, xăng dầu trừ vải vóc, tất
cả đều phải có tem phiếu. Hình thức phân phối sản phẩm khá giống với thời kì bao
cấp trước đây tại Việt Nam. Do đó, lương thực, thực phẩm cũng như các nhu yếu
phẩm khác trở thành vấn đề cấp thiết đối với cả chính phủ cũng như người dân Cu
Ba.
Về nông nghiệp: Cuba có đất đai phì nhiêu và khí hậu thuận lơi cho việc phát
triển nông nghiệp và chăn nuôi. Tuy nhiên hiện nay nông nghiệp chỉ chiếm 20% lực
lượng sản xuất và đóng góp 20% GDP và chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng
trong nước, mà phải nhập khẩu.
Liên hiệp Lúa gạo Cu Ba nhận thấy rất nhiều nhân tố khác nhau tác động tới
việc kìm hãm sản xuất gạo trong nước. Trước hết, phải kể tới thu nhập của người
nông dân cũng như công nhân nông nghiệp của Cu ba còn thấp. Nhiều công trường
cả gia đình còn ăn bếp tập thể.
Tiếp theo là chính sách giá cả trong việc thu mua lúa gạo, yếu tố thị trường
chưa có, gần như rất hiếm mô hình chợ mua bán. Trong khi cả nước còn thiếu lúa
gạo, thì có những huyện sản xuất ra không bán được vì thiếu phương tiện vận
chuyển. Bởi vậy, có vùng nông dân phải bán cho tư thương chỉ bằng một nửa giá
nhà nước thu mua ở huyện vì không có phương tiện vận chuyển. Ở Cu Ba công
đoạn sau thu hoạch còn kém. Do đó, hạt lúa phải đi qua nhiều nơi mới trở lại chính
nơi làm ra nó.
5.4 Điều kiện tự nhiên
Việt Nam là một nước có truyền thống trồng lúa nước, được thiên nhiên ưu
đãi, đất đai màu mỡ rộng lớn, lao động lại nhiều… có rất nhiều điều kiện thuận lợi
để sản xuất gạo.
Tuy nhiên gần đây tình hình thời tiết thay đổi thất thường, nhiều bão lũ sảy
ra, gây thiệt hại nặng nề cho bà con nông dân, cũng như cho công ty thu mua, xuất
khẩu gạo. Gây nên rủi ro cho công ty xuất khẩu nếu ký đã hợp đồng khi không thu
mua đủ hàng, hoặc có thu mua đủ số lượng thì cũng chịu thiệt thòi vì chi phí tăng
Sv: Thavisok Sisavath Mssv : CQ494517

12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
do giá cả gạo tăng… Nên có thể nói điều kiện tự nhiên là nhân tố ảnh hưởng đến
hoạt động xuất khẩu mà khó dự đoán nhất
II Nội dung của hoạt động xuất khẩu gạo
1. Nghiên cứu thị trường
Nghiên cứu thị trường là một việc vô cùng quan trọng, nếu công tác nghiên
cứu thị trường được làm tốt, nó cung cấp đầy đủ thông tin chính xác để giúp người
làm marketing đưa ra một chiến lược phù hợp và do đó mang lại hiệu quả cao.
Ngược lại, nếu công tác nghiên cứu thị trường thu thập về những thông tin không
chính xác, không phản ảnh đúng tình hình thực tế thị trường, và do không dựa trên
cơ sở thông tin vững chắc nên quyết định được đưa ra sẽ không sát với thực tế, dẫn
đến hoạt động marketing sẽ không hiệu quả, lãng phí nhân vật lực, và rủi ro có thể
sảy ra cho kế hoạch kinh doanh là rất lớn
Nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập và phân tích có hệ thống các dữ
liệu về các vấn đề có liên quan đến hoạt động Marketing về hàng hóa và dịch vụ.
Trong đó Marketing là quá trình xúc tiến với thị trường nhằm thỏa mãn những nhu
cầu và mong muốn của con người, Marketing là cách nghĩ, cách làm để có và giữ
được khách hàng.
Nghiên cứu thị trường thì cần nghiên cứu những vấn đề sau:
• Nghiên cứu về thị trường: Trả lời các câu hỏi, các tính chất của chúng ở
vùng lãnh thổ của thị trường như thế nào? Tiềm năng thương mại của thị
trường.
• Nghiên cứu về sản phẩm: Sản phẩm của hãng được chấp nhận như thế nào?
Các sản phẩm của hãng khác cạnh tranh với ta về điều gì? Việc phát triển sản
phẩm hiện tại theo hướng nào?
• Nghiên cứu về phân phối: Mạng lưới kênh phân phối như thế nào? Phương
thức phân phối thế nào?
• Nghiên cứu về giá cả: Quan niệm của khách hàng về giá cả? Khả năng chấp
nhận, khả năng chi trả ra sao?

• Nghiên cứu quảng cáo: Đánh giá hiệu quả của quảng cáo, cần quảng cáo
trên phương tiện nào, nội dung quảng cáo như thế nào?
Sv: Thavisok Sisavath Mssv : CQ494517
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
• Nghiên cứu dự báo: Dự báo thị trường trong ngắn hạn (1 năm), dự báo trung
hạn và dài hạn (2 năm).
Lập kế hoạch xuất khẩu
Lập kế hoạch xuất khẩu là công việc tiếp theo sau khi nghiên cứu thị
trường. Bản Kế hoạch marketing xuất khẩu bao gồm các mục:
+ Giới thiệu và nhiệm vụ
+ Vị trí thị trường hiện tại
+ Xu hướng của ngành và thị trường
+ Đánh giá xuất khẩu: Gồm đánh giá công ty, đánh giá thị trường, những kết
luận về phân tích điểm mạnh-điểm yếu (SWOT) và Phân tích các đối thủ cạnh
tranh
+ Dự đoán thị trường
+ Mục tiêu xuất khẩu
+ Chiến lược thâm nhập thị trường bao gồm: Tóm tắt chiến lược Thị trường
và phân đoạn thị trường, Chiến lược định vị sản phẩm, Chiến lược thương hiệu,
Chiến lược sản phẩm, Chiến lược giá, Chiến lược phân phối, Chiến lược quảng cáo
+ Kế hoạch quản lý, kế hoạch hoạt động, kết quả tài chính.
2. Tổ chức triển khai xuất khẩu
Sau khi tiến hành nghiên cứu thị trường xuất khẩu lên kế hoạch xuất khẩu
thì bước tiếp theo là tổ chức và triển khai xuất khẩu. Các bước để tổ chức triển khai
xuất khẩu như sau:
+ Thu mua gạo: Các công ty xuất khẩu gạo tiến hành thu mua gạo
Khi lúa chín được thu hoạch đa phần bằng thủ công, sau đó qua máy đập lúa
loại bỏ rơm và các tạp chất hữu cơ và vô cơ khác. Khi thu mua lúa đã được sơ chế
phải thực hiện công việc lấy mẩu kiểm tra nguyện liệu đầu vào…Đối với lúa chưa

đạt ẩm độ cần thiết phải cho qua máy sấy để xử lý độ ẩm, thường là loại máy sấy
tầng sôi và loại máy sấy vĩ ngang. Sau khi thu mua đựa lúa tiến hành xay xát thì gạo
nguyên liệu từ máy xay xát chuyển qua được đưa vào dây chuyền máy đánh bóng.
Bước tiếp theo là đóng gói nhập kho hoặc bốc xếp vận chuyển gạo đến cảng.
+ Tiếp đến là khâu kí kết hợp đồng xuất khẩu: kí kết số lượng chủng loại,
hình thức vận chuyển hàng, hình thức thanh toán…., phân bổ chỉ tiêu xuất khẩu và
Sv: Thavisok Sisavath Mssv : CQ494517
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
thực hiện vận chuyển hàng đến cảng xuất khẩu…Vận chuyển gạo của Việt Nam chủ
yếu là bằng đường biển, dịch vụ này tương đối đắt đỏ, năng lực bốc xếp thấp, lệ phí
cảng cao, năng lực vận tải thấp. Chính vì năng lực vận tải biển thấp nên đa số các
doanh nghiệp xuất khẩu sử dụng phương thức xuất khẩu FOB chỉ có một số lô hàng
theo kí kết của Chính phủ mới sử dụng tàu của các công ty tàu biển trong nước….
Trên đây là cơ sở lý luân giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan, hiểu được hoạt
động xuất khẩu là gì, đặc điểm vai trò cũng như các hình thức xuất khẩu như thế
nào, và sơ lược về nội dung của một hoạt động xuất khẩu hàng hóa (gạo). Chương
tiếp theo sẽ trình bày thực trạng về hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị
trường Cu Ba
Sv: Thavisok Sisavath Mssv : CQ494517
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA
VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG CU BA
I Điều kiện kinh tế - xã hội – tự nhiên Việt Nam
* Điều kiện kinh tế - xã hội:
Việt Nam là nước có nền kinh tế đang phát triển, và mở cửa, luôn
quan tâm phát triển các ngành nghề truyền thống như gạo… thêm
vào đó được thiên nhiên ưu đãi, lại có lực lượng lao động dồi dào,
nên đã tạo rất nhiều điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu gạo phát triển,

và thực sự xuất khẩu gạo Việt Nam tự hào là một nước đứng thứ 2
thế giới về xuất khẩu gạo. Sau đây là một số tóm tắt về tình hình
kinh tế xã hội Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010:
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế:
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2006 đạt 8,23%, năm
2007 đạt 8,46%, năm 2008 đạt 6,31%, năm 2009 đạt 5,32% và năm 2010 ước tính
đạt 6,78%, và bình quân thời kỳ 2006-2010, tăng trưởng kinh tế đạt 7,01%/năm,
trong đó bình quân giai đoạn 2006-2007 đạt 8,34%, bình quân giai đoạn 2008-2010
đạt 6,14% do ảnh hưởng của lạm phát tăng cao và suy thoái kinh tế thế giới. Tăng
trưởng ba khu vực kinh tế như sau:
- Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản: tăng 3,34%/năm thời kỳ 2006-
2010, trong đó giai đoạn 2006-2007 tăng 3,72%; giai đoạn 2008-2010 tăng 3,09%.
- Khu vực công nghiệp và xây dựng: tăng 7,94%/năm thời kỳ 2006-2010,
trong đó giai đoạn 2006-2007 tăng 10,30%; giai đoạn 2008-2010 tăng 6,40%.
- Khu vực dịch vụ: tăng 7,73%/năm thời kỳ 2006-2010, trong đó giai đoạn
2006-2007 tăng 8,57%; giai đoạn 2008-2010 tăng 7,17%.
Tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người tăng từ 11694 nghìn đồng
năm 2006 lên 22778 nghìn đồng năm 2010, gấp gần 2 lần, tương đương 11084
nghìn đồng. Nếu tính theo USD (Theo tỷ giá hối đoái bình quân năm) thì tổng sản
phẩm trong nước bình quân đầu người tăng từ 730 USD năm 2006 lên 1168 USD
năm 2010, gấp 1,6 lần, tương đương 438 USD.
Sv: Thavisok Sisavath Mssv : CQ494517
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
+ Sản xuất công nghiệp:
Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh 1994 năm 2010 tăng 63,2% so
với năm 2006. Bình quân trong thời kỳ 2006-2010, giá trị sản xuất công nghiệp theo
giá so sánh 1994 tăng 13,8%/năm (Công nghiệp khai thác mỏ tăng 0,3%, công
nghiệp chế biến tăng 15%, công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước
tăng 12,1%), trong đó giai đoạn 2006-2007 tăng 16,8%/năm (Công nghiệp khai thác

mỏ giảm 1,7%, công nghiệp chế biến tăng 19%, công nghiệp sản xuất và phân
phối điện, khí đốt và nước tăng 11,1%), giai đoạn 2008-2010 tăng 11,8%/năm
(Công nghiệp khai thác mỏ tăng 1,6%, công nghiệp chế biến tăng 12,4%, công
nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước tăng 12,8%).
+ Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản:
Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng bình quân 5%/năm thời
kỳ 2006-2010, trong đó nông nghiệp tăng 4,2%, lâm nghiệp tăng 3,1%, thuỷ sản
tăng 8%. Kết quả sản xuất một số sản phẩm chủ yếu vào thời kỳ 2006-2010 như
sau:
- Sản lượng lương thực có hạt năm 2010 đạt 44,6 triệu tấn, tăng 12,3% so với
năm 2006, tương đương 4,9 triệu tấn. Bình quân mỗi năm thời kỳ 2006-2010 sản
lượng lương thực tăng 2,4% (trong đó sản lượng lúa tăng 2,2%/năm). Sản xuất
lương thực đã đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và nâng cao lượng xuất khẩu.
- Diện tích lúa năm 2010 ước tính đạt 7513,7 nghìn ha, tăng 2,6% so với năm
2006, tương đương 188,9 nghìn ha. Bình quân thời kỳ 2006-2010, diện tích lúa tăng
0,5%.
- Thời kỳ 2006 -2010, mô hình chăn nuôi quy mô lớn theo hướng sản phẩm
hàng hoá có chất lượng cao được phát triển mạnh. Tại thời điểm 01/7/2010, cả nước có
23558 trang trại chăn nuôi, tăng 42% so với năm 2006. Tại thời điểm 01/10/2010, đàn
lợn cả nước tăng 1,9% so với cùng thời điểm năm 2006, đàn trâu giảm 0,3%, đàn bò
giảm 9,1%, đàn gia cầm tăng 40%. Bình quân mỗi năm trong giai đoạn 2006-2010,
đàn lợn giảm 0,04%, đàn trâu giảm 0,06%, đàn bò tăng 1,32%, đàn gia cầm tăng
6,4%.
Sv: Thavisok Sisavath Mssv : CQ494517
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Sản xuất lâm nghiệp đã có sự phát triển nhanh theo hướng chuyển từ khai
thác sang xây dựng vốn rừng là chủ yếu và đầu tư theo các chương trình, dự án,
giao đất lâm nghiệp ổn định lâu dài cho hộ gia đình. Trong thời kỳ 2006- 2010, bình
quân mỗi năm diện tích rừng trồng mới tập trung đạt 215 nghìn ha, tốc độ tăng đạt

7,3%/năm. Sản lượng gỗ khai thác giai đoạn 2006-2010 bình quân đạt 3602 nghìn
m
3
/năm, mỗi năm tăng 6,2%, nét mới là chuyển khai thác gỗ từ rừng tự nhiên sang
khai thác từ rừng trồng là chủ yếu.
- Sản xuất thủy sản tuy gặp không ít khó khăn trong quá trình Việt Nam gia
nhập WTO và việc áp dụng thuế chống bán phá giá hàng thủy sản của Mỹ. Nhưng
đây vẫn là sản phẩm xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam. Sản lượng thủy sản năm
2010 ước tính tăng 37,8% so với năm 2006, bình quân mỗi năm trong giai đoạn
2006-2010, sản lượng thủy sản tăng 8,1%. Cơ cấu sản lượng thủy sản thay đổi theo
hướng tăng tỷ trọng sản lượng nuôi trồng từ 45,5% năm 2006 lên 52,8% năm 2010.
+ Vốn đầu tư:
Vốn đầu tư xã hội thực hiện năm 2010 theo giá so sánh 1994 tăng 64,5% so
với năm 2006, bình quân mỗi năm thời kỳ 2006-2010 vốn đầu tư tăng 13,3%. Vốn
đầu tư khu vực Nhà nước thực hiện năm 2010 tăng 42% so với năm 2006, bình
quân mỗi năm thời kỳ 2006-2010 tăng 9,3%. Vốn đầu tư khu vực ngoài Nhà nước
thực hiện năm 2010 tăng 47,6% so với năm 2006, bình quân mỗi năm thời kỳ 2006-
2010 tăng 11,4%. Vốn đầu tư khu vực FDI thực hiện năm 2010 tăng 157,5% so với
năm 2006, bình quân mỗi năm thời kỳ 2006-2010 tăng 25,7%.
Đầu tư nước ngoài năm 2010 giảm 18 dự án và tăng 54,9% về vốn đăng ký
so với năm 2006. Bình quân mỗi năm trong thời kỳ 2006-2010 có 1253 dự án đầu
tư nước ngoài được cấp phép với vốn đăng ký bình quân 29,4 tỷ USD.
+ Xuất, nhập khẩu hàng hóa:
Xuất khẩu hàng hóa
Thời kỳ 2006- 2010, hoạt động xuất nhập khẩu đạt được những bước tiến
mạnh nhờ việc Việt Nam tham gia các tổ chức quốc tế như: trở thành thành viên của
WTO (Tháng 1/2007 trở thành thành viên chính thức). Tiếp đó là đàm phán FTA
Sv: Thavisok Sisavath Mssv : CQ494517
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

song phương với EU, Nhật Bản, Chi Lê được khởi động và thu được những kết quả
quan trọng. Đến tháng 12/2008 Hiệp định đối tác kinh tế (EPA) với Nhật Bản được
ký kết.
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thời kỳ 2006 - 2010 đạt 56 tỷ USD/năm,
bằng 2,5 lần thời kỳ 2001 - 2005 và tăng 17,2%/năm. Kim ngạch xuất khẩu các mặt
hàng ngày càng tăng, từ 4 mặt hàng có kim ngạch trên 3 tỷ USD năm 2006 tăng lên
8 mặt hàng năm 2010.
Một số mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu cao trong giai đoạn này là: Hàng
dệt may đứng đầu với bình quân 8,6 tỷ USD/năm, tăng mạnh so với 3,5 tỷ USD của
giai đoạn trước. Giày dép đạt 4,3 tỷ USD/năm, tăng so với 2,3 tỷ USD/năm của thời
kỳ trước. Hải sản đạt 4,2 tỷ USD/năm, giai đoạn trước là 2,2 tỷ USD/năm.
Kim ngạch gạo xuất khẩu tăng mạnh với mức tăng 17,9%/năm. Riêng dầu
thô xuất khẩu giai đoạn 2006 - 2010 giảm đáng kể do tăng tăng nguồn nguyên liệu
cung cấp cho Nhà máy lọc dầu Dung Quất, thay thế dần hàng nhập khẩu. Kim
ngạch xuất khẩu dầu thô giai đoạn này chiếm 13,7% tổng kim ngạch xuất khẩu,
giảm nhiều so với 21% của thời kỳ trước.
Về thị trường xuất khẩu giai đoạn 2006-2010, châu Á đứng đầu với 45,6%
tổng kim ngạch xuất khẩu, Châu Mỹ tiếp tục tăng mạnh và ở vị trí thứ hai với 23%,
châu Âu chiếm 20,8%, châu Đại Dương chiếm 6,2%, châu Phi tuy chiếm tỷ lệ nhỏ
với 2,7% nhưng đã gấp 3,8 lần so với thời kỳ 5 năm trước.
Nhập khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tăng mạnh trong thời kỳ 2006-2010, đặc biệt
trong 2 năm đầu khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO. Kim ngạch hàng hóa
nhập khẩu đạt bình quân 68,5 tỷ USD/năm trong thời kỳ này, bằng 2,6 lần thời kỳ 5
năm trước và tăng bình quân 18%/năm. Đáng chú ý là nhập khẩu của khu vực FDI
tăng cao, chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng kim ngạch nhập khẩu, thường
chiếm trên 34%.
Cơ cấu hàng nhập khẩu trọng tâm là tư liệu, nguyên liệu cho sản xuất do sản
xuất trong nước phát triển khá, đặc biệt là sản xuất hàng xuất khẩu nhưng vẫn phụ
Sv: Thavisok Sisavath Mssv : CQ494517

19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
thuộc hàng nhập khẩu là chủ yếu, cụ thể là: Nhập khẩu xăng dầu bình quân giai
đoạn 2006-2010 tăng 2,7%/năm và tăng 19,7% so với giai đoạn trước. Sắt thép
nhập khẩu bình quân tăng 15,7%/năm và tăng 71% so với giai đoạn trước. Trong đó
vải nhập khẩu bình quân tăng 16,8%/năm và tăng 140% so với giai đoạn trước.
Linh kiện điện tử nhập khẩu bình quân tăng 25,8% năm và tăng 226,3% so với giai
đoạn trước. Nhập khẩu ô tô nguyên chiếc giai đoạn 2006-2010 tăng 174% so với
giai đoạn trước.
Bên cạnh những kết quả tích cực đạt được, thời kỳ 2006-2010 là thời kỳ mức
nhập siêu tăng mạnh, bình quân 12,5 tỷ USD/năm, bằng 3,3 lần thời kỳ trước và chiếm
22,3% kim ngạch xuất khẩu bình quân năm, cao hơn mức 17,3% của thời kỳ 2001-
2005.
+ Xã hội
Dân số, lao động
Dân số trung bình cả nước năm 2010 tăng 4,34% so với năm 2006, tương
đương 3,62 triệu người. Bình quân thời kỳ 2006-2010, mỗi năm dân số trung bình
tăng 1,08%. Tỷ lệ dân số thành thị tăng từ 27,66% năm 2006 lên 29,92% năm 2010.
Tỷ lệ giới tính khi sinh năm 2006 là 109,8 trẻ em trai/100 trẻ em gái, năm 2007 là
111,6/100, năm 2008 là 112,1/100, năm 2009 là 110,5/100 và năm 2010 là
111,2/100. Tỷ lệ giới tính năm 2006 là 96,89 nam/100 nữ, tỷ lệ này tăng lên 97,7
nam/100 nữ trong năm 2010.
Cơ cấu lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các khu vực kinh tế có
sự chuyển dịch đáng kể và theo hướng tích cực từ năm 2006 đến 2010, trong đó cơ
cấu lao động khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 55,4% năm 2006 xuống
48,2% năm 2010; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng từ 19,3% lên 22,4%, khu
vực dịch vụ tăng từ 25,3% lên 29,4%. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi
khu vực thành thị giảm từ 4,82% năm 2006 xuống 4,43% năm 2010.
Giáo dục phổ thông
Số trường phổ thông năm học 2010-2011 tăng 4% so với năm học 2006-

2007. Bình quân mỗi năm giai đoạn 2006-2010, số trường phổ thông tăng 1,06%.
Sv: Thavisok Sisavath Mssv : CQ494517
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Số giáo viên phổ thông năm học 2010-2011 tăng 1,06% so với năm học 2006-2007,
trong đó giáo viên tiểu học tăng 1,04%, giáo viên trung học cơ sở tăng 1,03%, giáo
viên trung học phổ thông tăng 1,19%. Bình quân thời kỳ 2006-2010, số giáo viên
phổ thông tăng 1,4%/năm, trong đó giáo viên tiểu học tăng 0,4%, giáo viên trung
học cơ sở tăng 0,8%, giáo viên trung học phổ thông tăng 5,3%.
Giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp
Năm học 2010-2011 cả nước có 413 trường đại học và cao đẳng, tăng 91
trường so với năm học 2006-2007, 2200 nghìn sinh viên, tăng 32% và 78,3 nghìn
giáo viên, tăng 46,6%. Trong thời kỳ 2006-2010, bình quân mỗi năm số trường tăng
8,3%, số sinh viên tăng 9,7% và số giáo viên tăng 10%, trong đó số trường và sinh
viên ngoài công lập tăng mạnh hơn khối công lập: Số trường tăng 18,4% so với
6,6%, số sinh viên tăng 16% so với 8,7%. Tuy nhiên số giáo viên ngoài công lập
tăng ít hơn giáo viên công lập với mức tăng 9,6% so với 10%.
Ở khối trung học chuyên nghiệp, năm 2010-2011 cả nước có 286 trường
trung cấp chuyên nghiệp, tăng 17 trường so với năm học 2006-2007, 820 nghìn
sinh viên, tăng 59% và 21,1 nghìn giáo viên, tăng 45,5%. Trong thời kỳ 2006-2010,
bình quân mỗi năm số trường tăng 1,2%, số sinh viên tăng 9,7% và số giáo viên
tăng 7,8%.
* Điều kiện tự nhiên:
Đất đai: Đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng hàng đầu trong canh tác sản
xuất ra lúa gạo. Diện tích trồng lúa của Việt Nam hiện nay là khoảng hơn 4 triệu ha,
theo khảo sát của Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn thì diện tích bình quân đất theo đầu người của Việt Nam thấp
nhưng quỹ đất có khả năng trồng lúa lại chiếm tỷ lệ cao trong quy đất nông nghiệp
chiếm 8,5/10 triệu ha đất có khả năng sản xuất. Ở Việt Nam diện tích đất có phù sa
bồi đắp lớn, đất đai màu mỡ là điều kiện thuận lợi để sản xuất gạo ngon, thâm canh

tăng vụ.
Khí hậu: Theo khảo sát thì điều kiện khí hậu của Việt Nam rất thích hợp cho
việc canh tác sản xuất lúa gạo nhất là ở Đồng bằng Nam Bộ và Đồng bằng Bắc Bộ
chế độ thâm canh và luân canh tối ưu để khai thác triệt để những lợi thế đó. Thực tế
Sv: Thavisok Sisavath Mssv : CQ494517
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
cho thấy sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự
nhiên, hiện tượng bão lũ vẫn thường xuyên sảy ra gậy thiệt hại nặng nề cho bà con
nông dân và nền kinh tế.
Nước tưới tiêu: Trồng lúa nước là lợi thế của Việt Nam từ bao đời nay, và
một trong những lợi thế nổi bật cho trồng lúa ở Việt Nam đó là có một nguồn tài
nguyên nước rất dồi dào. Với lượng mưa trung bình vào khoảng 120 – 140
ngày/năm ở hai đồng bằng lớn đã cung cấp lượng nước tưới tiêu quý giá cho cây
lúa, đồng thời còn cung cấp lượng phân đạm thiên nhiên dễ hấp thụ và rất tốt cho
cây lúa.
Nhân lực: Lịch sử sản xuất lúa gạo của Việt Nam đã trải qua quá trình lâu
dài từ thời cộng đồng nguyên thuỷ tới khi ra đời nhà nước Văn Lang và cho tới
ngày nay, đã được lớp lớp con cháu thế hệ người Việt đúc rút và để lại nhiều kinh
nghiệm quý báu. Kho tàng kinh nghiệm đó là một lợi thế đặc biệt giúp cho những
người nông dân nước ta có được sự tinh thông, am hiểu về việc canh tác và sản xuất
lúa gạo
Thêm vào đó lượng lao động trình độ thấp ở Việt Nam rất lớn, tham gia vào
sản xuất nông nghiệp giá cả cho sức lao động thấp, vì vậy đó là một yếu tố tạo nên
giá thành gạo rẻ.
Cảng biển:
Trong thương mại quốc tế ngày nay việc xuất khẩu và buôn bán gạo hầu hết
đều được vận chuyển bằng đường biển (chiếm khoảng trên 80%) So với các phương
thức vận chuyển bẳng đường bộ và đường hàng không thì vận chuyển bằng đường
biển có nhiều ưu thế rõ rệt như: tiện lợi, thông dụng, có mức phí hợp lý…

Việt nam có vị trí địa lý đặc thù phía Đông giáp biển nên giao thông đường
biển rất thuận lợi và có nhiều ưu thế. Hệ thống cảng biển nói chung đều nằm trên
những tuyến đường hàng hải quốc tế và có thể hành trình theo nhiều tuyến đi khắp
các châu lục: Ví như đi Đông Bắc Á, Đông Nam Á, Thái Bình Dương, Trung cận
Đông, Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ… Điều này góp phần không nhỏ vào thành
công trong lĩnh vực xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường thế giới.
Sv: Thavisok Sisavath Mssv : CQ494517
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
II Thực trạng hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường Cu Ba
* Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam trong những năm gần đây:
Số liệu thống kê mới nhất của Tổng cục Hải quan cho thấy tổng trị giá xuất
nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam trong tháng 12/2010 đạt 16,29 tỷ USD tăng
11,7%, trong đó xuất khẩu đạt gần 7,5 tỷ USD, tăng 12,9% và nhập khẩu là 8,79 tỷ
USD, tăng 10,7% so với tháng 11/2010.
Hết năm 2010, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam đạt
gần 157 tỷ USD, tăng 23,6% so với năm 2009. Trong đó, trị giá xuất khẩu đạt
72,19 tỷ USD, tăng 26,4% và nhập khẩu là 84,8 tỷ USD, tăng 21,2%. Nhập siêu là
12,61 tỷ USD, bằng 17,5% kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Biểu đồ 1: Kim ngạch xuất nhập khẩu, cán cân thương mại của Việt Nam
giai đoạn 2006 – 2010
Trong tháng 12/2010, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của khối doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài đạt 7,22 tỷ USD, tăng 5,7% so với tháng trước, trong đó,
kim ngạch xuất khẩu của khối này đạt 3,5 tỷ USD, tăng 6,3% và nhập khẩu là 3,72
tỷ USD, tăng 5,2%.
Sv: Thavisok Sisavath Mssv : CQ494517
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Hết năm 2010, tổng trị giá xuất nhập khẩu của khu vực FDI là 70,92 tỷ USD, tăng
41,5% so với năm trước. Trong đó, trị giá xuất khẩu là 34,1 tỷ USD, tăng 41,2% và chiếm

47% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trị giá nhập khẩu của khu vực này là 36,97 tỷ
USD, tăng 41,8%, chiếm 43,6% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước.
Một số mặt hàng xuất khẩu chính
- Hàng dệt may: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong
tháng 12/2010 đạt gần 1,19 tỷ USD, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này
trong năm 2010 lên 11,21 tỷ USD, tăng 23,7% so với năm 2009. Trong đó, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt hơn 6,8 tỷ USD, tăng 25%.
Trong năm qua, Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản tiếp tục là 3 đối tác lớn nhất của
hàng dệt may Việt Nam với kim ngạch và tốc độ tăng so với năm 2009 lần lượt là
6,12 tỷ USD và 22,5%, 1,92 tỷ USD và 16,5%, 1,15 tỷ USD và 21%. Tổng kim
ngạch hàng dệt may xuất sang 3 thị trường này đạt gần 9,2 tỷ USD, chiếm 82% tổng
kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước.
- Giày dép các loại: trong tháng trị giá xuất khẩu đạt 563 triệu USD, tăng
13,5% so với tháng 11, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2010 lên 5,12 tỷ USD,
tăng 26% so với năm trước.
Năm 2010, xuất khẩu giày dép sang EU chiếm 44% thị phần xuất khẩu nhóm
hàng này của cả nước, đạt 2,25 tỷ USD, tăng 14,3% so với năm 2009. Tiếp theo là
sang thị trường Hoa Kỳ đạt 1,41 tỷ USD, tăng 35,5%, sang Mexico đạt 192 triệu
USD, tăng 38,7%; sang Nhật Bản đạt 172 triệu USD, tăng 40,4%;…
- Thuỷ sản: xuất khẩu trong tháng đạt 514 triệu USD, tăng 6,1% so với tháng
trước, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam trong năm 2010 đạt
hơn 5 tỷ USD, tăng 18% so với năm 2009.
Xuất khẩu thuỷ sản của nước ta trong năm 2010 sang EU đạt 1,2 tỷ USD, tăng
7,6%, sang Hoa Kỳ đạt 956 triệu USD, tăng 34,4%; sang Nhật Bản đạt 894 triệu
USD, tăng 17,5%, sang Hàn Quốc đạt 389 triệu USD, tăng 24,2% so với năm
2009. Tổng giá trị thuỷ sản xuất khẩu sang 4 thị trường này đạt 3,44 tỷ USD, chiếm
68,6% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản cả nước.
Sv: Thavisok Sisavath Mssv : CQ494517
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

- Dầu thô: lượng xuất khẩu dầu thô trong tháng là hơn 714 nghìn tấn, giảm
0,9%, kim ngạch xuất khẩu đạt 505 triệu USD, tăng 6,7% so với tháng 11/2010.
Tính đến hết năm 2010, lượng dầu thô xuất khẩu của nước ta đạt gần 8 triệu tấn,
giảm 40,4% và kim ngạch đạt 4,96 tỷ USD, giảm 20% so với năm 2009.
Dầu thô của nước ta trong năm 2010 chủ yếu được xuất sang Ôxtrâylia với
2,9 triệu tấn, giảm 13%; sang Malaysia: 1,3 triệu tấn, giảm 28%; sang Singapore:
997 nghìn tấn, giảm 56%; sang Hàn Quốc: 875 nghìn tấn, tăng 4,3%; sang Hoa Kỳ:
594 nghìn tấn, giảm 44%…
- Gạo: xuất khẩu gạo trong tháng đạt gần 500 nghìn tấn với trị giá là 260 triệu
USD, tăng 0,5% về lượng và tăng 6,4% về trị giá. Tính đến hết năm 2010, lượng
gạo xuất khẩu của nước ta đạt 6,89 triệu tấn, tăng 15,6% và kim ngạch đạt 3,25 tỷ
USD, tăng 21,9% so với năm 2009.
Philippin là đối tác dẫn đầu về nhập khẩu gạo của Việt Nam trong năm qua
với 1,48 triệu tấn, giảm 13,6% so với năm trước; tiếp theo là các thị trường:
Singapore đạt 539 nghìn tấn, tăng 64,7%, Cuba đạt 472 nghìn tấn, tăng 5%. Mặc
dù, xuất khẩu gạo giảm ở thị trường lớn nhất Philippin, nhưng tăng mạnh ở một số
thị trường mới nổi như thị trường Inđônêxia đạt 687 nghìn tấn (năm 2009 chỉ là
17,8 nghìn tấn), Bănglađét đạt 359 nghìn tấn (năm 2009 là hơn 5 nghìn tấn);…
- Cao su: lượng xuất khẩu trong tháng đạt 101nghìn tấn với trị giá gần 393
triệu USD, tăng 13,3% về lượng và tăng 21,9% về trị giá so với tháng trước. Tính
đến hết năm 2010, lượng cao su xuất khẩu đạt 782 nghìn tấn, tăng 6,9% và kim
ngạch đạt 2,39 tỷ USD, tăng 94,7% so với năm 2009.
Trung Quốc là thị trường dẫn đầu về nhập khẩu cao su của Việt Nam trong
năm 2010 với 464 nghìn tấn, giảm 9% so với năm 2009 và chiếm 59,4% tổng lượng
cao su xuất khẩu của cả nước . Tiếp theo là Malaixia: 58,9 nghìn tấn, tăng 95,5%;
Hàn Quốc: 34,7 nghìn tấn, tăng 22,4%; Đài Loan: 31,9 nghìn tấn, tăng 27,5%; Đức:
27,8 nghìn tấn, tăng 29,9%; …
- Sắt thép các loại: Lượng sắt thép xuất khẩu trong năm 2010 đạt 1,28 triệu
tấn, tăng 162,9% và kim ngạch đạt 1,05 tỷ USD, tăng 174,2% so với năm 2009.
Sv: Thavisok Sisavath Mssv : CQ494517

25

×