Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần EUROWINDOW

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (350.48 KB, 60 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: ThS Nguyễn Thị Hồng Minh
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Từ khi thị trường ra đời thì đã xuất hiện sự cạnh tranh giữa những người
mua và người bán, giữa các cơ sở sản xuất kinh doanh ra cùng một loại sản
phẩm, dịch vụ hoặc những sản phẩm dịch vụ thay thế. Từ khi xuất hiện sự
cạnh tranh, cạnh tranh chỉ được xuất hiện trong một vùng, lãnh thổ một nước
nhất định, mang tính chất đơn lẻ và số lượng người mua, người bán còn ít nên
chưa có sự cạnh tranh gay gắt .
Ngày nay, khi nền kinh tế thế giới đã phát triển mạnh mẽ, xu thế hội nhập,
toàn cầu hóa đang diễn ra rất sôi động, khi đó sự cạnh tranh trở nên hết sức
gay gắt và mang tính toàn cầu. Do đó đòi hỏi mỗi nền kinh tế muốn tồn tại
phải có những giải pháp để thích ứng và từ đó có cơ sở để phát triển.
Đối với nền kinh tế của Việt Nam, việc chuyển từ cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp sang cơ chế thị trường cũng là một điều tất yếu trong quá trình
chuẩn bị cho công cuộc hội nhập của Việt Nam. Khi thực hiện chủ trương mở
cửa và hội nhập với nền kinh tế thế giới, một mặt giúp hàng hóa Việt Nam
vươn xa hơn đến các thị trường tiềm năng, giúp nâng cao khả năng cạnh tranh
của các doanh nghiệp trong nước. Bên cạnh đó các doanh nghiệp, các hàng
hóa, dịch vụ của Việt Nam không những phải cạnh tranh trong nước mà còn
phải cạnh tranh với nước ngoài. Các doanh nghiệp Việt Nam phải có những
biện pháp nhằm phát huy lợi thế cạnh tranh của mình và chỉ có phát huy lợi
thế cạnh tranh, các doanh nghiệp mới có thể tồn tại lâu dài và phát triển bền
vững.
Trước tầm quan trọng của cạnh tranh trong quá trình hội nhập, toàn cầu
hóa, quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, nên trong quá trình
thực tập tại Công ty cổ phần cửa sổ nhựa Châu Âu – EUROWINDOW em đã
chọn đề tài: “Nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần
EUROWINDOW” làm đề tài chuyên đề thực tập.
SVTH: Lê Huy Tùng Lớp: Quản lý kinh tế QN - K49
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: ThS Nguyễn Thị Hồng Minh


2. Mục tiêu nghiên cứu:
_ Hệ thống cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
_ Nghiên cứu thực trạng về năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp để
từ đó rút ra những kinh nghiệm, giải pháp, cho việc nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp.
_ Giúp cho nâng cao trình độ chuyên môn của sinh viên trước khi tốt
nghiệp ra trường.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
_ Đối tượng: Nghiên cứu năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp.
_ Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung: Chuyên đề nghiên cứu cạnh tranh và năng lực cạnh
tranh của một doanh nghiệp, trong đó tập trung nghiên cứu năng lực cạnh
tranh của một doanh nghiệp.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu, chuyên đề sử dụng một số phương pháp
chủ yếu như: Phương pháp duy vật biện chứng; duy vật lịch sử; phương pháp
hệ thống và khái quát hóa; phương pháp thống kê phân tích; phương pháp so
sánh. Đồng thời quán triệt quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam, hệ thống
các chính sách, pháp luật về đào tạo nghề.
5. Kết cấu của chuyên đề:
Chuyên đề gồm 3 phần chính:
Chương 1: Cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng và năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần
Eurowindow.
Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần
Eurowindow.
SVTH: Lê Huy Tùng Lớp: Quản lý kinh tế QN - K49
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: ThS Nguyễn Thị Hồng Minh
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH

CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường:
1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh:
Từ khi đất nước ta thực hiện đường lối đổi mới, mở cửa nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều
tiết của nhà nước theo định hướng XHCN thì vấn đề cạnh tranh bắt đầu xuất
hiện và len lỏi vào từng bước đi của các doanh nghiệp. Môi trường hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp lúc này đầy biến động và vấn đề cạnh tranh đã
trở nên cấp bách.
Các khái niệm về cạnh tranh có những cách tiếp cận khác nhau nhưng
đều tập trung vào các khía cạnh sau:
- Khi nói đến cạnh tranh là nói đến sự ganh đua nhằm lấy phần thắng
của nhiều chủ thể cùng tham dự.
- Mục đích trực tiếp của cạnh tranh là một đối tượng cụ thể nào đó mà
các bên đều muốn giành giật. Mục đích cuối cùng là kiếm được lợi nhuận cao.
- Cạnh tranh diễn ra trong một môi trường cụ thể, có các ràng buộc
chung mà các bên tham gia phải tuân thủ như: Đặc điểm sản phẩm, thị trường,
các điều kiện pháp lý, các thông lệ kinh doanh….
- Trong quá trình cạnh tranh các chủ thể tham gia cạnh tranh có thể sử
dụng nhiều công cụ khác nhau: Cạnh tranh bằng đặc tính và chất lượng sản
phẩm, cạnh tranh bằng giá cả sản phẩm….
Như vậy, khái niệm cạnh tranh có thể được hiểu như sau: Cạnh tranh là
quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau, tìm mọi biện
pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt được mục tiêu kinh tế của mình, thông
SVTH: Lê Huy Tùng Lớp: Quản lý kinh tế QN - K49
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: ThS Nguyễn Thị Hồng Minh
thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện
sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của chủ thể kinh tế trong
quá trình cạnh tranh là tối đa hóa lợi ích, đối với ngừời sản xuất kinh doanh là

lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích và sự tiện lợi.
1.1.2. Vai trò và tầm quan trọng của cạnh tranh:
Bất kể doanh nghiệp nào cũng vậy, khi tham gia kinh doanh trong nền
kinh tế thị trường thì đều muốn doanh nghiệp mình đứng vững và không
ngừng phát triển lớn mạnh. Để làm được điều đó doanh nghiệp phải có chiến
lược cạnh tranh cụ thể và lâu dài. Họ cạnh tranh để giành những lợi thế về
phía mình như: giành giật khách hàng, làm cho khách hàng tin rằng sản phẩm
của doanh nghiệp là tốt nhất. Do vậy, cạnh tranh là rất quan trọng và cần thiết
với doanh nghiệp.
Cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp phải tiến hành công tác marketing
bắt đầu từ nghiên cứu thị trường để quyết định sản xuất cái gì? Sản xuất như
thế nào? Sản xuất cho ai? Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải áp dụng
những thành tựu khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất kinh doanh, tăng
cường công tác quản lý, nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân, cử cán bộ
đi học để nâng cao trình độ chuyên môn. Cạnh tranh thắng lợi sẽ tạo cho
doanh nghiệp một vị trí xứng đáng trên thị trường tăng thêm uy tín cho doanh
nghiệp trên cơ sở đó mở rộng sản xuất kinh doanh, tái sản xuất xã hội, tạo đà
phát triển cho nền kinh tế.
Qua trên đây ta thấy rằng cạnh tranh không thể thiếu trong một doanh
nghiệp. Cạnh tranh lành mạnh sẽ thực sự tạo ra các nhà doanh nghiệp giỏi,
đồng thời là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển, đảm bảo công bằng xã
hội. Bởi vậy, cạnh tranh cần có sự quản lý của Nhà nước để phát huy những
mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của cạnh tranh như độc quyền hay
lũng đoạn thị trường.
SVTH: Lê Huy Tùng Lớp: Quản lý kinh tế QN - K49
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: ThS Nguyễn Thị Hồng Minh
1.1.3. Các loại hình cạnh tranh của doanh nghiệp:
- Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường:
• Cạnh tranh giữa người bán với người mua

Đây là cuộc cạnh tranh theo quy luật mua rẻ bán đắt, cả hai bên đều
muốn tối đa hóa lợi ích của mình. Người bán muốn bán với giá cao nhất để tối
đa hóa lợi nhuận còn người mua muốn mua với giá thấp nhất nhưng vẫn đảm
bảo được chất lượng. Và mức giá cuối cùng vẫn là sự thỏa thuận giữa hai bên
sao cho hài hòa lợi ích cho cả hai như câu nói “thuận mua vừa bán”.
• Cạnh tranh giữa người mua và người mua:
Trên thị trường khi cung về hàng hóa dịch vụ nhỏ hơn lượng cầu của
thị trường, khi đó hàng hóa khan hiếm, người tiêu dùng để thỏa mãn nhu cầu
của mình họ sẽ sẵn sàng mua với mức giá cao hơn giá trị thực của hàng hóa
đó. Tất yếu của quá trình này là giá cả hàng hóa sẽ tăng lên. Người mua bị
thiệt thòi về giá cả và chất lượng còn người bán thì thu được lợi nhuận lớn
hơn. Đây là hình thức cạnh tranh chủ yếu tồn tại trong nền kinh tế bao cấp và
xảy ra ở một số nơi diễn ra hoạt động bán đấu giá một loại hàng hóa nào đó.
• Cạnh tranh giữa người bán với người bán:
Đây là hình thức cạnh tranh gay go và quyết liệt nhất khi mà trong nền
kinh tế thị trường sức cung lớn hơn sức cầu rất nhiều. Người tiêu dùng trở
thành thượng đế và là người quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp. Bởi chỉ
khi doanh nghiệp có khách hàng thì mới bán được sản phẩm thu
được lợi nhuận tái sản xuất mở rộng. Đặc biệt khi đời sống của
người dân ngày một tăng cao thì nhu cầu về văn hóa cũng nâng lên. Sản phẩm
muốn bán được phải đảm bảo vấn đề chất lượng và an toàn cho sức khỏe. Do
vậy, người bán luôn ganh đua để giành lợi thế về phía mình.
- Dưới góc độ hình thái của cạnh tranh có cạnh tranh hoàn hảo, cạnh
tranh không hoàn hảo và cạnh tranh độc quyền.
SVTH: Lê Huy Tùng Lớp: Quản lý kinh tế QN - K49
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: ThS Nguyễn Thị Hồng Minh
• Cạnh tranh hoàn hảo là hình thái cạnh tranh mà trong đó thị
trường thỏa mãn 4 đặc điểm sau:
Có rất nhiều chủ thể tham gia trên thị trường. Không ai có đủ sức mạnh

để chi phối thị trường.
Thông tin trên thị trường là minh bạch và kịp thời.
Mức giá do thị trường xác định theo quy luật cung cầu.
Rào cản gia nhập cũng như rút khỏi thị trường là rất nhỏ.
Đây là thị trường mà ít gặp trong thực tế mà chỉ tồn tại trên lý thuyết
kinh tế.
• Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo:
Là thị trường mà phần lớn sản phẩm không đồng nhất với nhau. Mỗi
một loại sản phẩm mang một số nhãn hiệu và đặc tính khác nhau dù xem xét
về chất thì sự khác biệt giữa các sản phẩm là không đáng kể nhưng mức giá
mặc định cao hơn rất nhiều. Đây là hình thức phổ biến trên thị trường.
• Thị trường cạnh tranh độc quyền:
Là thị trường mà ở đó một hoặc một số chủ thể có ảnh hưởng lớn, có
thể ép các đối tác của mình bán hoặc mua các sản phẩm của mình với mức giá
mà họ đưa ra sao cho thu được lợi nhuận nhiều nhất. Trên thực tế tình trạng
độc quyền xảy ra nếu không có sản phẩm thay thế, tạo ra sản phẩm độc quyền
hoặc những người độc quyền liên kết với nhau gây tổn hại cho người tiêu
dùng. Vì vậy, Nhà Nước phải ban hành đạo luật chống độc quyền nhằm đem
lại một môi trường lành mạnh cho nền kinh tế.
1.1.4. Các công cụ cạnh tranh:
Công cụ cạnh tranh của doanh nghiệp có thể được hiểu là tập hợp các
yếu tố, các kế hoạch, các chiến lược, các chính sách mà doanh nghiệp sử dụng
nhằm vượt lên trên đối thủ cạnh tranh và tác động vào khách hàng để thỏa
mãn mọi nhu cầu của khách hàng. Từ đó tiêu thụ được nhiều sản phẩm, thu
được lợi nhuận cao.
SVTH: Lê Huy Tùng Lớp: Quản lý kinh tế QN - K49
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: ThS Nguyễn Thị Hồng Minh
Cạnh tranh không chỉ là những hành động mang tính chất thời điểm mà
là cả một quá trình tiếp diễn không ngừng. Doanh nghiệp nào hài lòng với vị

thế đang có trên thương trường sẽ rơi vào tình trạng tụt hậu và sẽ bị đào thải
với một tốc độ nhanh chóng trong một nền kinh tế thị trường có nhiều biến
động như ngày nay.Vì thế doanh nghiệp liên tục nghiên cứu các công cụ cạnh
tranh phù hợp với tình thế cụ thể, với quy mô kinh doanh và thị trường của
doanh nghiệp. Từ đó phát huy được hiệu quả sử dụng các công cụ cạnh
tranh.Dưới đây là một số công cụ cạnh tranh tiêu biểu và quan trọng mà các
doanh nghiệp phải dùng đến.
- Cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm:
Chất lượng sản phẩm là tổng thể các chỉ tiêu, những thuộc tính của sản
phẩm thể hiện mức độ thỏa mãn nhu cầu trong những điều kiện tiêu dùng xác
định, phù hợp với công dụng, lợi ích của sản phẩm. Để sản phẩm của doanh
nghiệp luôn là sự lựa chọn của khách hàng ở hiện tại và tương lai thì nâng cao
chất lượng sản phẩm là điều cần thiết. Nâng cao chất lượng sản phẩm là sự
thay đổi chất liệu sản phẩm hoặc thay công nghệ chế tạo đảm bảo lợi ích và
tính an toàn trong quá trình tiêu dùng và sau khi tiêu dùng. Điều này làm cho
khách hàng cảm nhận được lợi ích mà họ thu được ngày càng tăng lên khi duy
trì tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp.
Chất lượng được coi là một vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp nhất
là đối với doanh nghiệp Việt Nam khi mà họ phải đương đầu với các đối thủ
cạnh tranh từ nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Chất lượng thể hiện tính quyết
định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp ở chỗ nâng cao chất lượng sẽ làm
tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm, tăng khối lượng hàng hóa bán ra, giúp mở rộng
thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Do vậy, cạnh tranh bằng chất
lượng sản phẩm là một yếu tố rất quan trọng và cần thiết mà bất cứ doanh
nghiệp nào dù lớn hay nhỏ đều phải sử dụng nó.
SVTH: Lê Huy Tùng Lớp: Quản lý kinh tế QN - K49
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: ThS Nguyễn Thị Hồng Minh
- Cạnh tranh bằng giá cả:
Giá cả được hiểu là số tiền mà người mua trả cho người bán về việc

cung cấp hàng hóa dịch vụ nào đó. Từ lâu giá cả đã trở thành một biến số
chiến thuật phục vụ mục đích kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp thành công
trong việc cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường là do khéo léo, tinh tế trong chiến
thuật giá cả. Giá cả đã thể hiện như một vũ khí để cạnh tranh thông qua việc
định giá sản phẩm: định giá thấp hơn giá thị trường, định giá ngang bằng giá
thị trường hay chính sách giá cao hơn giá thị trường.
Như vậy, để quyết định sử dụng chính sách giá cả nào cho phù hợp và
thành công khi sử dụng nó thì doanh nghiệp cần cân nhắc và xem xét kỹ
lưỡng xem mình đang ở tình thế nào, nhất là nghiên cứu tiêu dùng và tâm lý
của khách hàng cũng như cần phải xem xét các chiến lược, các chính sách giá
mà đối thủ cạnh tranh đang sử dụng.
- Cạnh tranh bằng hệ thống phân phối:
Phân phối sản phẩm hợp lý là một trong những công cụ cạnh tranh đắc
lực. Doanh nghiệp cần phải lựa chọn các kênh phân phối, nghiên cứu các đặc
trưng của thị trường, của khách hàng. Từ đó đưa ra các chính sách phân phối
sản phẩm hợp lý sẽ tăng nhanh vòng quay của vốn, tăng khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp. Thông thường kênh phân phối của doanh nghiệp được chia
làm năm loại:
Kênh ngắn: người sản xuất người bán lẻ người tiêu dùng
Kênh cực ngắn: người sản xuất người tiêu dùng
Kênh dài: người sản xuất người bán buôn người bán lẻ
người tiêu dùng
Kênh cực dài: người sản xuất đại lý người bán buôn
người bán lẻ người tiêu dùng
SVTH: Lê Huy Tùng Lớp: Quản lý kinh tế QN - K49
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: ThS Nguyễn Thị Hồng Minh
Kênh rút gọn: người sản xuất đại lý người bán buôn
người bán lẻ người tiêu dùng
Tùy theo mặt hàng kinh doanh, tùy theo vị trí địa lý, tùy theo nhu cầu

người mua và người bán, tùy theo quy mô kinh doanh của doanh nghiệp mà
sử dụng các kênh phân phối khác nhau cho hợp lý và mang lại hiệu quả cao
bởi nhiều khi kênh phân phối có tác dụng như một người môi giới nhưng đôi
khi nó lại mang tới sự trở ngại, rườm rà.
- Cạnh tranh bằng phương thức thanh toán:
Phương thức thanh toán là các hình thức thanh toán tiền hàng của
khách hàng khi họ mua sản phẩm của doanh nghiệp.
Việc đa dạng hóa phương thức thanh toán cũng là một cách để tạo nên
khả năng của doanh nghiệp. Hiện nay, có rất nhiều hình thức thanh toán khác
nhau như:
Thanh toán trực tiếp:
Đây là phương thức thanh toán chủ yếu của người Việt Nam. Thói quen
tiêu tiền mặt là một trong những thói quen đã ăn sâu vào trong tiềm thức. Nó
có những ưu điểm như: thuận tiện, nhanh chóng nhưng cũng có những tồn tại
lớn như: làm cho lượng tiền mặt trong lưu thông dễ gây tình trạng lạm phát
cho nền kinh tế, ngoài ra còn cồng kềnh, dễ hư hỏng, mất mát.
Thanh toán bằng chuyển khoản:
Đây là hình thức thanh toán ra đời từ sớm và rất thịnh hành ở các nền
kinh tế phát triển. Bởi nó đã thể hiện được rất nhiều ưu điểm của nó so với
thanh toán bằng tiền mặt. Song do đòi hỏi phải có một cơ sở hạ tầng tín dụng
rất phát triển và một cơ chế quản lý, giám sát của Nhà Nước để kiểm soát hoạt
động của lĩnh vực quan trọng nhất nền kinh tế của một quốc gia này. Hơn nữa
cũng cần một hệ thống các máy rút tiền ATM để thuận lợi cho việc chuyển
đổi trong mua sắm. Để giải quyết vấn đề này thì đòi hỏi các ngân hàng phải
SVTH: Lê Huy Tùng Lớp: Quản lý kinh tế QN - K49
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: ThS Nguyễn Thị Hồng Minh
hợp tác liên kết với nhau tạo thành một hệ thống thẻ liên ngân hàng vừa tiết
kiệm được chi phí vừa thuận tiện cho khách hang.
Thanh toán bằng phương thức trả chậm:

Trả chậm là một phương thức thanh toán rất phù hợp với các hàng hóa
có giá trị lớn. Nó cho phép người mua hàng có thể chia nhỏ khoản nợ ra trả
nhiều lần với một mức lãi suất chấp nhận được. Nó thỏa mãn nhu cầu của cả
người bán và người mua. Song thực tế hiện nay cho thấy cần phải đơn giản
hóa các thủ tục và yêu cầu trong thanh toán, phải giảm bớt sự khắt khe để tạo
điều kiện cho người được hưởng từ hoạt động này.
Phương thức thanh toán quốc tế:
Nền kinh tế mở cửa hội nhập thì tất yếu là có sự trao đổi mua bán của
các doanh nghiệp ở các quốc gia khác nhau. Mà mỗi quốc gia sử dụng đồng
tiền riêng( bán lẻ). Do vậy, đòi hỏi phải có một sự thỏa thuận đồng nhất giữa
hai bên về một loại tiền tự do chuyển đổi và phổ biến để làm trung gian trao
đổi. Thanh toán quốc tế đòi hỏi có một hệ thống các ngân hàng phải liên kết
làm công cụ thanh toán quốc tế cho các doanh nghiệp. Thanh toán quốc tế
phát triển thúc đẩy việc hợp tác kinh tế giữa các quốc gia trên thế giới tạo ra
môi trường rộng lớn không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà còn kèm theo đó là sự
giao lưu trên nhiều lĩnh vực khác nhau nữa như văn hóa - xã hội - chính trị.
Các doanh nghiệp có nhiệm vụ đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách
hàng để từ đó thu được lợi nhuận, tuy nhiên trên thị trường có nhiều khúc thị
trường khác nhau. Vì vậy trong quá trình bán hàng, doanh nghiệp phải áp
dụng một cách linh hoạt các phương thức thanh toán khác nhau, tạo thuận lợi
cho việc thanh toán của khách hàng, thu hút được nhiều đối tượng khách hàng
khác nhau để có thể tiêu thụ tốt nhất sản phẩm của mình.

SVTH: Lê Huy Tùng Lớp: Quản lý kinh tế QN - K49
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: ThS Nguyễn Thị Hồng Minh
Cạnh tranh bằng chính sách marketing:
Để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thì chính sách
marketing đóng một vai trò rất quan trọng bởi khi doanh nghiệp bắt đầu sản
xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần phải nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu

cầu khách hàng đang có xu hướng tiêu dùng những sản phẩm gì? Thu thập
thông tin thông qua phân tích và đánh giá, doanh nghiệp sẽ đi đến quyết định
sản xuất cái gì? Kinh doanh những gì mà khách hàng cần, khách hàng có nhu
cầu. Trong khi thực hiện hoạt động kinh doanh thì doanh nghiệp thường sử
dụng các chính sách bán hàng thông qua các hình thức quảng cáo, truyền bá
sản phẩm đến người tiêu dùng. Kết thúc quá trình bán hàng, để tạo uy tín hơn
nữa đối với khách hàng, doanh nghiệp cần thực hiện các hoạt động dịch vụ
trước khi bán, trong khi bán và sau khi bán.
Như vậy, marketing đã xuyên suốt quá trình hoạt động của doanh
nghiệp, nó vừa có tác dụng chính và tác dụng phụ để hỗ trợ cho các chính
sách khác. Do vậy chính sách marketing không thể thiếu trong bất cứ hoạt
động nào của doanh nghiệp.
1.2. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
1.2.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh:
Phải nói rằng thuật ngữ “Năng lực cạnh tranh” được sử dụng rộng rãi
trên các phương tiện thông tin đại chúng: sách báo, truyền hình, internet,
trong giao tiếp hàng ngày của các chuyên gia kinh tế, nhưng cho đến nay vẫn
chưa có sự nhất trí cao trong các học giả và giới chuyên môn về khái niệm
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Như vậy trên thực tế đang tồn tại nhiều quan niệm cụ thể, khác nhau về
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Song tựu chung lại, khi tiếp cận năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp cần chú ý bốn vấn đề sau:
SVTH: Lê Huy Tùng Lớp: Quản lý kinh tế QN - K49
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: ThS Nguyễn Thị Hồng Minh
Một là, trong điều kiện kinh tế thị trường, phải lấy yêu cầu của khách
hàng là yêu cầu chuẩn mực đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Hai là, yếu tố cơ bản tạo nên sức mạnh trong việc lôi kéo khách hàng
phải là thực lực của doanh nghiệp.
Ba là, khi nói tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp luôn hàm ý so

sánh với các đối thủ cạnh tranh cùng hoạt động trên thị trường.
Bốn là, các biểu hiện cạnh tranh của doanh nghiệp có quan hệ ràng
buộc với nhau. Một doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh mạnh khi nó có khả
năng thỏa mãn đầy đủ tất cả các yêu cầu của khách hàng.
1.2.2. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
Để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp ta có thể dựa vào
một số tiêu chí sau:
- Doanh thu, thị phần:
• Doanh thu:
Là số tiền mà doanh nghiệp thu được khi bán hàng hóa hoặc dịch vụ.
Bởi vậy mà doanh thu có thể coi là một tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp. Nếu doanh thu và chi phí của doanh nghiệp đều tăng lên
qua các năm nhưng tốc độ tăng của doanh thu lớn hơn tốc độ tăng của chi phí
thì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được đánh giá là tốt, doanh
nghiệp đã biết phân bổ và sử dụng hợp lý yếu tố chi phí. Còn ngược lại thì
đánh giá doanh nghiệp hoạt động chưa hiệu quả.
• Thị phần:
Thị phần được hiểu là phần thị trường mà doanh nghiệp chiếm giữ
trong tổng dung lượng thị trường.
Tiêu chí này càng lớn nói lên sự chiếm lĩnh thị trường của doanh
nghiệp càng rộng. Thông qua sự biến động của tiêu chí này ta có thể đánh giá
mức độ hoạt động của doanh nghiệp có hiệu quả hay không bởi nếu doanh
SVTH: Lê Huy Tùng Lớp: Quản lý kinh tế QN - K49
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: ThS Nguyễn Thị Hồng Minh
nghiệp có một mảng thị trường lớn thì số trên đạt ở mức cao nhất và ấn định
cho doanh nghiệp một vị trí ưu thế trên thị trường. Nếu doanh nghiệp có một
phạm vi thị trường nhỏ hẹp thì chỉ số trên ở mức thấp, phản ánh tình trạng
doanh nghiệp đang bị chèn ép bởi các đối thủ cạnh tranh. Bằng tiêu chí thị
phần, doanh nghiệp có thể đánh giá sơ bộ khả năng chiếm lĩnh thị trường so

với toàn ngành.
• Kênh phân phối:
Kênh phân phối được quan niệm là sự kết hợp hữu cơ giữa nhà sản xuất
với các trung gian phân phối để đưa hàng hóa tới tay người tiêu dùng cuối
cùng. Trong điều kiện hội nhập, Việt Nam sẽ ở vị trí bất lợi trong việc cạnh
tranh với các đối thủ nước ngoài trên phương diện giá cả, sản phẩm hay một
vài phương diện nào khác của marketing. Nhưng doanh nghiệp Việt Nam có
thể tìm kiếm lợi thế cạnh tranh thông qua việc phát triển hệ thống phân phối.
Việc lựa chọn kênh và thiết lập đúng đắn mạng lưới phân phối sẽ đảm bảo
đưa đúng hàng đến đúng nơi yêu cầu của khách hàng và với chi phí thấp nhất,
đó chính là một yếu quan trọng của lợi thế cạnh tranh.
• Chi phí:
Chi phí là số tiền mà doanh nghiệp phải bỏ ra khi tiến hành hoạt động
kinh doanh, bởi vậy mà nó được coi là một tiêu chí để đánh giá năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp. Xét một cách tổng thể chi phí thấp sẽ giúp cho
doanh nghiệp giảm giá bán tăng số lượng bán ra tăng lợi
nhuận tăng khả năng cạnh tranh. Ngược lại, chi phí cao sẽ dẫn đến
giá thành cao, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ kém hơn so với các
đối thủ có chi phí thấp. Để sử dụng chi phí có hiệu quả doanh nghiệp cần đưa
ra được định mức chi phí cho từng công việc và giảm bớt đi những chi phí
không cần thiết.
SVTH: Lê Huy Tùng Lớp: Quản lý kinh tế QN - K49
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: ThS Nguyễn Thị Hồng Minh
• Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận:
Lợi nhuận là phần còn lại của doanh thu khi đã trừ đi các chi phí
dùng vào hoạt động kinh doanh. Lợi nhuận là tiêu chí tổng hợp đánh giá
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi vì nếu doanh nghiệp thu được
lợi nhuận cao có nghĩa là doanh nghiệp có doanh thu lớn và chi phí thấp.
Căn cứ vào tiêu chí lợi nhuận các doanh nghiệp có thể đánh giá được năng

lực cạnh tranh của mình so với các đối thủ cạnh tranh. Ta thường đi tính
chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận.
Chỉ tiêu này cho thấy: Cứ một đồng doanh thu thì thu được bao
nhiêu đồng lợi nhuận. Nó phản ánh chất lượng hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Vì nếu doanh nghiệp có thu được doanh thu lớn nhưng kèm
theo đó là chi phí lớn thì hiệu quả không cao. Doanh nghiệp cần phấn đấu
làm sao vừa tăng doanh thu nhưng vừa phải kết hợp với giảm chi phí để
đạt được lợi nhuận cao.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
Các nhân tố khách quan:
- Nhà cung cấp:
Là người cung cấp các yếu tố đầu vào đảm bảo cho quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra bình thường. Trên thực tế nhà cung
cấp thường được phân ra thành ba loại chủ yếu: loại cung cấp thiết bị,
nguyên vật liệu, loại cung cấp nhân công; cung cấp vốn và các dịch vụ
ngân hàng, bảo hiểm. Vấn đề quan trọng là phải duy trì được các mối quan
hệ tốt đẹp với các nhà cung cấp để đảm bảo việc cung ứng được kịp thời về
thời gian, đảm bảo về số lượng và chất lượng và ổn định về giá cả. Muốn
vậy, doanh nghiệp cần phải lựa chọn nhà cung cấp để tránh bị độc quyền
chèn ép từ phía nhà cung ứng.
SVTH: Lê Huy Tùng Lớp: Quản lý kinh tế QN - K49
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: ThS Nguyễn Thị Hồng Minh
-Khách hàng:
Khách hàng là những người đang mua và sẽ mua hàng hóa của doanh
nghiệp. Đối với doanh nghiệp thì khách hàng là nhân tố sống còn quan trọng
nhất quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Khách hàng giải
quyết khâu cuối cùng của quá trình sản xuất đó là khâu tiêu thụ. Chỉ khi tiêu
thụ được hàng hóa thì doanh nghiệp mới thu được vốn để tái sản xuất và lợi
nhuận để mở rộng hoạt động kinh doanh, giải quyết việc làm và thu nhập cho

người lao động. Do vậy, doanh nghiệp muốn kéo khách hàng về phía mình thì
phải không ngừng hoàn thiện sản phẩm, cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất
lượng, đa dạng hóa mẫu mã sản phẩm để đáp ứng thị hiếu đa dạng của người
tiêu dùng.
- Đối thủ cạnh tranh:
Đối thủ cạnh tranh là những người cùng kinh doanh những hàng hóa
dịch vụ như doanh nghiệp. Đối thủ cạnh tranh vừa là thách thức vừa là động
lực nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi lẽ sự xuất hiện đối
thủ cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải không ngừng hoàn thiện mình để
không bị đối thủ cạnh tranh đè bẹp. Muốn vậy, doanh nghiệp cần tìm tòi sáng
tạo để sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng tốt hơn, rẻ hơn, mẫu mã
phong phú, đa dạng hơn.
- Sự xuất hiện của các sản phẩm thay thế:
Những sản phẩm thay thế là một trong những lực lượng tạo nên sức ép
cạnh tranh đối với các doanh nghiệp cùng ngành. Sự ra đời của sản phẩm thay
thế mới là nhu cầu tất yếu nhằm đáp ứng biến động của nhu cầu thị trường
theo hướng ngày càng đa dạng, phong phú. Chính nó làm giảm khả năng cạnh
tranh của các dòng sản phẩm bị thay thế. Các sản phẩm thay thế sẽ chiếm ưu
thế hơn về công nghệ, mẫu mã, giá cả và dần thu hẹp thị trường của sản phẩm
bị thay thế. Để khắc phục tình trạng thị trường bị thu hẹp thì các doanh nghiệp
SVTH: Lê Huy Tùng Lớp: Quản lý kinh tế QN - K49
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: ThS Nguyễn Thị Hồng Minh
phải luôn hướng tới những sản phẩm mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, cải
tiến mẫu mã đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm thay thế.
- Chính trị, pháp luật:
Một thể chế chính trị, pháp luật rõ ràng, rộng mở và ổn định sẽ là
cơ sở đảm bảo sự thuận lợi bình đẳng cho các doanh nghiệp nói chung,
doanh nghiệp thương mại nói riêng tham gia cạnh tranh có hiệu quả.
Chính sách của Nhà Nước về kinh tế cũng sẽ ảnh hưởng đến sức cạnh

tranh của doanh nghiệp.
Các nhân tố chủ quan:
- Năng lực về tài chính:
Vốn là tiền đề vật chất cần thiết cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có tiềm lực tài chính lớn sẽ rất thuận lợi
trong việc huy động vốn đầu tư, trong mua sắm đổi mới công nghệ máy móc
thiết bị cũng như các điều kiện để đào tạo và đãi ngộ nhân sự. Ngược lại các
doanh nghiệp sẽ không tạo được uy tín về khả năng thanh toán và khả năng
đáp ứng những sản phẩm và chất lượng cao đối với khách hàng, làm cho hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp không tiến triển được và có nguy cơ bị
thụt lùi hoặc phá sản. Như vậy, năng lực tài chính là yếu tố quan trọng đầu
tiên để doanh nghiệp hình thành và phát triển.
- Nguồn nhân lực:
Là yếu tố quan trọng nhất, quyết định sự thành bại và phát triển của
doanh nghiệp. Tiềm lực con người là cơ bản và chỉ duy nhất con người mới
có khả năng kết hợp hài hòa các nguồn lực nội bộ doanh nghiệp với các yếu
tố khách quan để đề ra quyết định đúng đắn trong việc nâng cao khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp. Chất lượng đội ngũ lao động, cán bộ quản lý
doanh nghiệp là yếu tố quyết định hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Nếu các thành viên có trình độ, kinh nghiệm, có quan hệ tốt với bên
SVTH: Lê Huy Tùng Lớp: Quản lý kinh tế QN - K49
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: ThS Nguyễn Thị Hồng Minh
ngoài thì họ sẽ đem lại cho doanh nghiệp không những lợi ích trước mắt như:
Tăng doanh thu, lợi nhuận mà còn cả uy tín và lợi ích lâu dài cho doanh
nghiệp. Trình độ tay nghề, chuyên môn nghiệp vụ của họ là một yếu tố tác
động mạnh mẽ đến sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Trình độ công nghệ:
Tình trạng máy móc thiết bị và công nghệ có ảnh hưởng một cách sâu
sắc tới sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp. Nó là yếu tố vật chất quan

trọng bậc nhất thể hiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và tác động trực
tiếp tới chất lượng sản phẩm. Trình độ khoa học công nghệ có ý nghĩa quyết
định đến hai yếu tố cơ bản nhất tạo nên sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị
trường, đó là chất lượng và giá bán. Khoa học công nghệ tác động đến chi phí
cá biệt của doanh nghiệp, qua đó tạo nên sức cạnh tranh của doanh nghiệp nói
chung. Trên thế giới hiện nay đã chuyển từ cạnh tranh về giá sang cạnh tranh
về chất lượng, cạnh tranh giữa những sản phẩm và dịch vụ có hàm lượng kỹ
thuật cao. Vì vậy, có thể nói khoa học kỹ thuật là tiền đề để các doanh nghiệp
ổn định và nâng cao sức cạnh tranh của mình.
- Năng lực quản lý và điều hành kinh doanh:
Do môi trường kinh doanh luôn ở trạng thái không ổn định, thay đổi
một cách chóng mặt, đòi hỏi các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển
được phải linh động thích ứng với các biến động đó, nếu không doanh nghiệp
sẽ trở thành lạc hậu và bị loại ra khỏi cuộc. Nhu cầu luôn thay đổi, chu kỳ
sống của sản phẩm bị rút ngắn, các sản phẩm thay thế liên tục xuất hiện với
chất lượng, mẫu mã, công cụ cao hơn. Do vậy, sức cạnh tranh của doanh
nghiệp được đánh giá bởi sự linh hoạt để luôn đáp ứng được nhu cầu không
ngừng thay đổi của môi trường.
SVTH: Lê Huy Tùng Lớp: Quản lý kinh tế QN - K49
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: ThS Nguyễn Thị Hồng Minh
1.3. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Cạnh tranh là một đặc trưng của nền kinh tế thị trường. Bất kỳ một
doanh nghiệp nào cũng vậy, khi tham gia vào kinh doanh trên thị trường
muốn doanh nghiệp mình tồn tại và đứng vững thì phải chấp nhận cạnh
tranh. Vì vậy doanh nghiệp phải không ngừng điều tra thị trường, tìm hiểu
nhu cầu của khách hàng để tìm các biện pháp thỏa mãn tốt nhất các nhu cầu
mới có thể cạnh tranh tốt được. Chính vì cạnh tranh là rất cần thiết nó giúp
doanh nghiệp:
Tồn tại và đứng vững trên thị trường:

Cạnh tranh sẽ tạo ra môi trường kinh doanh và những điều kiện thuận
lợi để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, làm cho khách hàng tin rằng sản
phẩm của doanh nghiệp mình là tốt nhất, phù hợp với thị hiếu của người
tiêu dùng nhất. Doanh nghiệp nào càng đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng
thì doanh nghiệp đó mới có khả năng tồn tại trong nền kinh tế thị trường
hiện nay.
Cạnh tranh để phát triển:
Quy luật cạnh tranh là động lực thúc đẩy phát triển sản xuất, sản xuất
hàng hoá ngày càng phát triển, số lượng nhà cung ứng càng đông thì cạnh
tranh ngày càng gay gắt kết quả là loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn kém
hiệu quả và ngược lại nó thúc đẩy những doanh nghiệp làm ăn hiệu quả. Như
vậy cạnh tranh sẽ tạo ra trong nền kinh tế những doanh nghiệp khỏe mạnh có
đủ sức chống chọi với những biến động khó lường của nền kinh tế toàn cầu
hiện nay. Đặc biệt là khi nước ta đã trở thành thành viên chính thức của tổ
chức thương mại thế giới thì vấn đề cạnh tranh của các doanh nghiệp trong
nước càng trở nên khó khăn. Giải được bài toán khó này thì doanh nghiệp mới
có thể phát triển bền vững được.
SVTH: Lê Huy Tùng Lớp: Quản lý kinh tế QN - K49
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: ThS Nguyễn Thị Hồng Minh
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
CÔNG TY CỔ PHẦN EUROWINDOW
2.1. Khái quát về Công ty cổ phần cửa sổ nhựa Châu Âu- Eurowindow:
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển:
Mỗi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh đều chịu ảnh hưởng lớn bởi
lịch sử hình thành của bản thân mình trong bối cảnh chung của toàn bộ nền
kinh tế, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh ngày càng ác liệt cả
trong nước lẫn nước ngoài.
Công ty Cổ Phần cửa sổ nhựa Châu Âu (Eurowindow) được sinh ra

không chỉ là kết quả của hướng đổi mới mà còn là kết quả của sự năng động,
tìm tòi và sáng tạo của những nhà lãnh đạo Công ty. Công ty Cổ Phần cửa sổ
nhựa Châu Âu (Eurowindow) được thành lập ngày 29/08/2002, tiền thân là
công ty 100% vốn nước ngoài. Tháng 5/2007, Eurowindow đã chính thức
chuyển đổi thành công ty cổ phần theo luật đầu tư mới. Công ty có tư cách
pháp nhân, có con dấu riêng, được mở tài khoản và quan hệ tín dụng với các
ngân hàng trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật, hoạt động theo
luật doanh nghiệp và điều lệ của Công ty.
- Tên gọi đầy đủ: Công ty Cổ Phần cửa sổ nhựa Châu Âu.
- Tên giao dịch: Eurowindow Join Stock Company.
- Tên viết tắt: EW
- Trụ sở chính: 25 Lý Bôn, phường Ngô Quyền, thành phố Vĩnh Yên,
tỉnh Vĩnh Phúc.
- Văn phòng giao dịch : 30 B C D Lý Nam Đế – Hoàn Kiếm- Hà Nội.
- Điện thoại : 04 37 47 47 00
- Fax: 043 37 47 47 11
SVTH: Lê Huy Tùng Lớp: Quản lý kinh tế QN - K49
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: ThS Nguyễn Thị Hồng Minh
- Email:
- Chi nhánh tại Đà Nẵng:
60B Núi Thành, Quận Hải Châu.
Điện thoại: 05113 582 899 / Fax: 05113582855
- Chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh:
39 bis, Mạc Đĩnh Chi, Quận 1.
Điện thoại: 0838 24 81 24 / Fax: 0838 24 82 24
- Nhà máy tại Hà Nội:
+Nhà máy 1: Lô 15, khu công nghiệp Quang Minh, Mê Linh.
Điện thoại: 0435 860 727 / Fax : 0435 860 720
+Nhà máy 2: Lô 49 khu công nghiệp Quang Minh, Mê Linh.

Điện thoại: 0435 250 986 / Fax: 0435 250 985
- Nhà máy tại Đà Nẵng:
Lô số 3 đường số 9 khu công nghiệp Hòa Khánh, Quận Liên Chiểu, Tp Đà
Nẵng.
Điện thoại: 0511 373 58 58 / Fax 0511 373 56 56
- Nhà máy tại Bình Dương:
Khu 4, thị trấn Uyên Hưng, huyện Tân Uyên.
Điện thoại: 06503 641 551 / Fax : 06503 641 552
Công ty cổ phần cửa sổ nhựa Châu Âu hoạt động chuyên nghiệp trong
lĩnh vực sản xuất kinh doanh các loại cửa sổ, cửa đi, vách ngăn bằng vật liệu
u-PVC cao cấp và các loại cửa nhôm, vách nhôm lớn tiêu chuẩn Châu Âu.
Ngoài ra Eurowindow còn cung cấp các loại cửa gỗ, cửa cuốn, cửa tự động,
hộp kính, kính an toàn, kính cường lực… Công ty không ngừng phấn đấu để
đưa tới cho khách hàng những sản phẩm mới nhất đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
của mọi đối tượng, mọi công trình. Công ty đang phát triển không ngừng, trở
thành thương hiệu hàng đầu trong lĩnh vực vật liệu xây dựng. Tiêu chí của
SVTH: Lê Huy Tùng Lớp: Quản lý kinh tế QN - K49
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: ThS Nguyễn Thị Hồng Minh
Công ty là cung cấp cho khách hàng những sản phẩm có chất lượng cao của
các tập đoàn hàng đầu trên thế giới cùng với các dịch vụ hoàn hảo với một chi
phí hợp lý nhằm mang đến cho khách hàng sự thành công và hiệu quả nhất
trong công việc.
2.1.2. Chức năng và nhiệm vụ:
- Công ty là một doanh nghiệp hàng đầu chuyên cung cấp các loại cửa
uPVC cao cấp, cửa nhôm và vách nhôm kính lớn tại Việt Nam.
- Là nhà cung cấp độc quyền sản phẩm profile uPVC Koemmerling
(CHLB Đức) tại Việt Nam.
- Là nhà gia công kính và hộp kính của tập đoàn Saint- Gobain Glass
(Pháp) tại Việt Nam.

- Là một Công ty cổ phần, Công ty có nhiệm vụ bảo toàn và phát triển
tổng số vốn của các thành viên góp vốn, thực hiện chế độ hạch toán độc lập,
tự chủ về tài chính.
- Công ty có nhiệm vụ hoàn thành các chỉ tiêu về lợi nhuận do Hội
đồng thành viên đưa ra, có nhiệm vụ nộp ngân sách cho nhà nước.
- Công ty phải tiến hành kinh doanh theo đúng luật pháp, chịu
trách nhiệm về kinh tế và dân sự đối với các hoạt động kinh doanh và tài
sản của mình.
- Củng cố và mở rộng các quan hệ kinh tế, đáp ứng nhu cầu trong nước
và ngoài nước.
2.1.3. Cơ cấu bộ máy tổ chức:
Cơ cấu bộ máy tổ chức theo sơ đồ 2.1 như sau:
SVTH: Lê Huy Tùng Lớp: Quản lý kinh tế QN - K49
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: ThS Nguyễn Thị Hồng Minh
SVTH: Lê Huy Tùng Lớp: Quản lý kinh tế QN - K49
HĐQT
TGĐ
Các phòng
quản lý
Tài chính - Kế
toán
Các nhà máy
Nhà máy 1
Các chi
nhánh
Đà Nẵng
Hành chính
nhân sự
Ban kiểm soát

Kinh doanh
Kỹ thuật
Vật tư- XNK-
Kho bãi
Phát triển thị
trường và
chăm sóc
khách hàng
Quảng cáo và
phát triển
thương hiệu
Công nghệ
-thông tin
TP Hồ Chí
Minh
Nhà máy 2
Nhà máy 3
Bình Dương
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: ThS Nguyễn Thị Hồng Minh
- Phòng hành chính- nhân sự: Phòng có chức năng tham mưu cho Ban
giám đốc về việc tổ chức bộ máy, tuyển dụng, sắp xếp, bố trí lao động vào
làm việc tại những vị trí phù hợp. Phòng cũng có trách nhiệm đào tạo và bồi
dưỡng trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ kinh doanh, giải quyết khiếu
nại, tố tụng và đảm bảo quyền lợi cho người lao động.
- Phòng Kế toán- tài chính: Thực hiện chức năng giám đốc tiền tệ thông
qua việc kiểm soát và quản lý vốn, tài sản của Công ty, phòng có trách nhiệm
giám sát việc sử dụng vốn nhằm ngăn chặn nguy cơ tồn đọng vốn, thâm hụt
vốn. Phòng có trách nhiệm tham mưu cho Tổng giám đốc về việc lập kế hoạch
tài chính của các phòng kinh doanh. Ngoài ra, Phòng còn có trách nhiệm kiểm

tra việc thực hiện các phương án đã duyệt và đối chiếu chứng từ để giúp đơn vị
hạch toán chính xác, góp ý và chịu trách nhiệm với từng phương án kinh doanh
cụ thể, xác định lỗ, lãi để trả cho các chi nhánh kinh doanh.
- Phòng kinh doanh: Đây là phòng có vai trò rất quan trọng trong việc tìm
kiếm bạn hàng, mở rộng thị trường, giao dịch, ký kết hợp đồng cho Công ty.
Hay nói cách khác đây là nơi thể hiện bộ mặt Công ty vì phải trực tiếp tiếp xúc
với nhiều khách hàng và làm các thủ tục giao dịch theo các quy định của pháp
luật. Vì vậy, đội ngũ nhân viên đều có trình độ cao từ Đại học trở lên, trình độ
ngoại ngữ và vi tính thành thạo. Góp phần trực tiếp nâng cao uy tín của Công ty.
- Phòng kỹ thuật: Thực hiện chức năng thiết kế, phát triển các sản
phẩm, kiểm tra quá trình sản xuất sản phẩm, phát hiện các lỗi của sản phẩm
để có sự chỉnh sửa.
- Phòng Vật tư- XNK- Kho bãi: Thực hiện chức năng chuẩn bị các loại
trang thiết bị, các nguyên vật liệu cho quá trình sản xuất kinh doanh. Đây là
một bộ phận quan trọng, nó ảnh hưởng đến tiến trình sản xuất sản phẩm của
Công ty. Các hợp đồng sản xuất có đạt được đúng tiến độ hay không đóng
một phần quan trọng là của bộ phận này.
SVTH: Lê Huy Tùng Lớp: Quản lý kinh tế QN - K49
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: ThS Nguyễn Thị Hồng Minh
- Phòng phát triển thị trường và chăm sóc khách hàng: Đây là bộ phận
luôn đi đầu trong việc tìm hiểu thị hiếu khách hàng, sự thay đổi của thị trường
cũng như tìm hiểu hoạt động của các đối thủ cạnh tranh. Bên cạnh đó bộ phận
còn đảm nhận việc tư vấn, giải đáp những thắc mắc của khách hàng, nhận các
phản hồi của khách hàng trong quá trình bảo dưỡng, bảo hành, sửa chửa.
- Phòng quảng cáo và phát triển thương hiệu: Thực hiện chức năng đưa
đến cho người tiêu dùng những hình ảnh, những thông tin về Công ty cũng
như sản phẩm của Công ty nhằm tạo cho khách hàng một ấn tượng sâu sắc về
một thương hiệu Eurowindow đẳng cấp và chất lượng.
- Phòng Công nghệ thông tin: Thực hiện chức năng thiết lập, vận hành,

kiểm tra, giám sát, bảo dưỡng hệ thống mạng nội bộ, các thiết bị điện tử của
Công ty, Quản lý trang web của Công ty.
- Ban kiểm soát: đóng vai trò như là bộ phận thanh tra của Công ty.
Nhiệm vụ của bộ phận này là kiểm tra, giám sát tất cả các hoạt động của Công
ty. Mọi hoạt động của Công ty đều phải thông qua sự xem xét của bộ phận
này, đồng thời tham mưu cho Ban lãnh đạo các chiến luợc kinh doanh.
- Các chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương và Đà Nẵng
là một bộ phận quan trọng của Công ty trong việc khai thác khu vực thị
trường rất năng động và phát triển ở các khu vực. Đây là các khu vực có mật
độ dân cư cao, tập trung nhiều khu chế suất, khu công nghiệp, khu nghỉ mát,
an dưỡng là một điều kiện thuận lợi để Eurowindow phát triển thị trường. Bởi
vậy Công đầu tư rất nhiều cả về nhân lực lẫn tài lực để định hướng mở rộng
thị trường nhiều hơn nữa.
- Các nhà máy 1, 2, 3 và 4: Đây được coi là xương sống của Công ty, là
nơi sản xuất, gia công các sản phẩm của Eurowindow. Đây chính là thể hiện
sự vượt trội của thương hiệu Eurowindow bằng chất lượng và công nghệ.
Trong những năm gần đây Công ty luôn chú trọng đầu tư máy móc trang thiết
bị, đổi mới công nghệ để không ngừng hoàn thiện sản phẩm của mình.
SVTH: Lê Huy Tùng Lớp: Quản lý kinh tế QN - K49
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: ThS Nguyễn Thị Hồng Minh
2.1.4. Đặc điểm ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của Công ty:
2.1.4.1.Đặc điểm tài chính:
Kể từ ngày thành lập cho đến nay, vốn của Công ty không ngừng tăng
lên. Công ty có khả năng quay vòng vốn nhanh, tận dụng được các cơ hội
kinh doanh, phát triển sản phẩm và xây dựng kế hoạch và bảo toàn vốn.Vốn
điều lệ hiện nay của Công ty là 515 000 000 000 VNĐ. Năm 2010 là một năm
thành công của Eurowindow trong hoạt động sản xuất kinh doanh với doanh
số bán hàng cả năm lên đến 10 007 tỷ đồng, tăng 112% so với năm 2009, lợi
nhuận đạt hơn 120 tỷ đồng, trả cổ tức với tỷ lệ 27.85% tương đương 115 600

000 000 VNĐ. Điều đó cho thấy tình hình kinh doanh của Công ty ngày càng
phát triển và khả năng tài chính đó được đảm bảo.
2.1.4.2.Đặc điểm về sản phẩm:
Được sản xuất theo tiêu chuẩn chất lượng châu Âu, cửa Eurowindow là
tập hợp đồng bộ các linh kiện, được thiết kế nhằm mục đích đạt hiệu quả cách
âm, cách nhiệt cao nhất: từ thanh profile định hình uPVC lắp lõi thép gia
cường có cấu trúc dạng hộp, được chia làm nhiều khoảng trống, hộp kính
được bơm khí trơ, hệ gioăng kép đảm bảo độ kín khít. Nhờ vậy dòng cửa này
có ưu điểm nổi trội hơn hẳn các loại cửa gỗ, cửa kính khung nhôm thông
thường trên thị trường về khả năng cách âm, cách nhiệt cao. Ngoài ra, vật liệu
uPVC cao cấp còn có những ưu điểm khác như: không cong vênh, co ngót, ít
phải sơn sửa, bảo dưỡng định kỳ, khả năng chống cháy cao, không bị oxy
hóa, không bị lão hóa hay ố vàng trong điều kiện bức xạ mặt trời hay mưa
axit. Chính vì vậy, cửa Eurowindow luôn giữ được vẻ đẹp ban đầu trong suốt
thời gian sử dụng. Bên cạnh sự khác biệt về chất lượng là hệ phụ kiện kim khí
với chốt đa điểm và bản lề 3D giúp cân chỉnh và mở theo nhiều chế độ khác
nhau. Bên cạnh đó, Công ty còn phát triển thêm hai dòng sản phẩm mới là
AsiaWindow và VietWindow với mức giá thấp hơn dòng cửa Eurowindow
SVTH: Lê Huy Tùng Lớp: Quản lý kinh tế QN - K49
23

×