Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Thực trạng khai thác nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công Ty Cổ Phần Bảo Hiểm AAA – chi nhánh Hà Nội giai đoạn 2006 – 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 73 trang )

Khóa luận tốt nghiệp
MỤC LỤC
1.2.5.1. Đối với công tác giám định: 9
1.2.5.2. Đối với công tác bồi thường : 11
1.3.1.1 Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch khai thác: 14
1.3.1.2 Phân tích cơ cấu khai thác: 14
1.3.1.3 Phân tích tính thời vụ trong khâu khai thác bảo hiểm: 15
2.1.3.1 Chức năng, nhiệm vụ: 20
2.1.3.2 Quyền hạn: 20
2.3.1.1. Phạm vi bảo hiểm 25
2.3.2.1 Số lượng khách hàng tham gia: 33
2.3.2.2 Doanh thu phí bảo hiểm: 34
Chỉ tiêu 40
Số vụ được giải quyết bồi thường 40
Số vụ trục lợi bảo hiểm 40
Về công tác khai thác hợp đồng 50
`
Phan Thị Huệ Vinh Lớp: D3BH3
Khóa luận tốt nghiệp
DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ SƠ ĐỒ
1.2.5.1. Đối với công tác giám định: 9
1.2.5.1. Đối với công tác giám định: 9
1.2.5.2. Đối với công tác bồi thường : 11
1.2.5.2. Đối với công tác bồi thường : 11
1.3.1.1 Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch khai thác: 14
1.3.1.1 Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch khai thác: 14
1.3.1.2 Phân tích cơ cấu khai thác: 14
1.3.1.2 Phân tích cơ cấu khai thác: 14
1.3.1.3 Phân tích tính thời vụ trong khâu khai thác bảo hiểm: 15
1.3.1.3 Phân tích tính thời vụ trong khâu khai thác bảo hiểm: 15
2.1.3.1 Chức năng, nhiệm vụ: 20


2.1.3.1 Chức năng, nhiệm vụ: 20
2.1.3.2 Quyền hạn: 20
2.1.3.2 Quyền hạn: 20
2.3.1.1. Phạm vi bảo hiểm 25
2.3.1.1. Phạm vi bảo hiểm 25
2.3.2.1 Số lượng khách hàng tham gia: 33
2.3.2.1 Số lượng khách hàng tham gia: 33
2.3.2.2 Doanh thu phí bảo hiểm: 34
2.3.2.2 Doanh thu phí bảo hiểm: 34
Chỉ tiêu 40
Số vụ được giải quyết bồi thường 40
Số vụ trục lợi bảo hiểm 40
Về công tác khai thác hợp đồng 50
Về công tác khai thác hợp đồng 50
Phan Thị Huệ Vinh Lớp: D3BH3
Khóa luận tốt nghiệp
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BHVCXCG : Bảo hiểm vật chất xe cơ giới
KTBH : Khai thác bảo hiểm.
BH : Bảo hiểm.
BVHN : Bảo Việt Hà Nội.
TSKT : Tài sản kỹ thuật.
DNBH : Doanh nghiệp bảo hiểm.
Phan Thị Huệ Vinh Lớp: D3BH3
Khóa luận tốt nghiệp
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, nhu cầu về giao thông vận
tải ngày càng tăng lên, các phương tiện tham gia giao thông có chiều hướng
gia tăng nhanh chóng, đặc biệt là xe cơ giới bởi hoạt động của xe cơ giới

được coi là phù hợp với tình hình giao thông ở Việt Nam hiện nay. Tuy
nhiên cùng với sự gia tăng theo cấp số nhân về số lượng xe; sự bất cập về
hệ thống đường giao thông thì vấn đề tai nạn giao thông đã và đang trở
thành vấn đề nhức nhối của toàn xã hội.
Theo uỷ ban an toàn giao thông quốc gia, trung bình một ngày nước ta
có hơn 30 người chết vì tai nạn giao thông, mà đa số các vụ tai nạn giao
thông là do xe cơ giới gây ra, mức độ thiệt hại từ những vụ tai nạn giao
thông do xe cơ giới gây ra là rất lớn. Để khắc phục hậu quả tai nạn, chia sẻ
phần nào khó khăn về tài chính đối với chủ xe thì nghiệp vụ bảo hiểm vật
chất xe cơ giới ra đời là một tất yếu khách quan.
Trong thời gian thực tập ở công ty Bảo Việt Hà Nội, nhận thấy nghiệp
vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới luôn là một thế mạnh của công ty, hàng
năm luôn đóng góp tỷ lệ rất cao chiếm gần 30% tổng doanh thu phí bảo
hiểm. Nhưng bên cạnh đó thì công ty vẫn gặp một số khó khăn trong công
tác triển khai nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới như tỷ lệ bồi thường cao trên
50% thậm chí như năm 2009 lên 70%; trục lợi bảo hiểm ngày càng gia tăng
về số lượng và thủ đoạn ngày càng tinh vi hơn; mặt khác công tác đề phòng
hạn chế vẫn chưa được đội ngũ lãnh đạo và cán bộ công ty coi trọng theo
đúng vai trò của nó. Những điểm hạn chế đó đã làm cho hiệu quả kinh
doanh của nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới đạt hiệu quả thấp chưa tương
xứng với tiềm lực của công ty. Bên cạnh đó, việc tuyên truyền về vai trò
không thể thiếu của bảo hiểm xe cơ giới đến khách hàng cũng như công tác
marketing, quảng bá thương hiệu của công ty trên thị trường vẫn chưa được
chú trọng và đầu tư đúng mức. Đây cũng là một trong những vấn đề mà
công ty cần khắc phục trong thị trường bảo hiểm Việt Nam đang chuyển
biến thay đổi và cạnh tranh gay gắt như hiện nay.
Để làm rõ hơn nữa vấn đề này sau một thời gian nghiên cứu, em xin
chọn đề tài "Nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Bảo Việt Hà Nội
giai đoạn 2006 – 2010. Thực trạng và giải pháp." làm đề tài báo cáo thực
tập tốt nghiệp của mình. Với đề tài này em mong muốn được đóng góp

phần nào ý kiến của mình vào một nghiệp vụ luôn được coi là thế mạnh của
Phan Thị Huệ Vinh Lớp: D3BH3
4
Khóa luận tốt nghiệp
các công ty Bảo hiểm phi nhân thọ nói chung và của Bảo Việt Hà Nội nói
riêng.
2. Mục đích nghiên cứu.
Thông qua việc nghiên cứu về thực trạng nghiệp vụ bảo hiểm vật
chất xe cơ giới tại Bảo Việt Hà Nội để thấy được những mặt đã đạt được,
mặt chưa đạt được, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu:
Thực trạng nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại địa bàn Hà
Nội.
- Phạm vi nghiên cứu:
Công ty Bảo Việt Hà Nội.
- Thời gian nghiên cứu:
Giai đoạn 2006 – 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp thống kê;
- Phương pháp so sánh;
- Phương pháp phân tích.
5. Kết cấu của khóa luận.
Với đề tài: “Nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Bảo Việt
Hà Nội. Thực trạng và giải pháp” ngoài phần mở đầu và kết luận khóa
luận gồm có các phần chính như sau:
Chương I: Cơ sở lý luận chung về bảo hiểm vật chất xe cơ giới
Chương II : Thực trạng nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Bảo
Việt Hà Nội.

Chương III : Giải pháp và khuyến nghị nhằm năng cao hiệu quả
nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Bảo Việt Hà Nội.
Phan Thị Huệ Vinh Lớp: D3BH3
5
Khóa luận tốt nghiệp
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM VẬT CHẤT
XE CƠ GIỚI
1.1 Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm vật chất xe cơ giới:
1.1.1 Vai trò của xe cơ giới đối với nền kinh tế:
Xe cơ giới có thể hiểu là tất cả các loại xe tham gia giao thông trên
đường bộ bằng động cơ của chính chiếc xe đó, bao gồm xe ô tô; máy kéo;
rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo; xe mô tô hai
bánh; xe mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện).
Trong hệ thống giao thông đường bộ của nước ta xe cơ giới có vai
trò hết sức quan trọng vì các yếu tố sau:
Xe cơ giới có tính cơ động, linh hoạt cao với nhiều loại xe khác
nhau: xe tải, xe contenner, xe khách, xe con, xe máy…hoạt động trong
phạm vi rộng kể cả địa hình phức tạp, có thể vận chuyển người và hàng hoá
tới những nơi mà các loại hình vận tải khác không thể đến được.
Tốc độ vận chuyển của loại hình vận tải này nhanh với chi phí vừa
phải. Tiền vốn đầu tư mua sắm phương tiện, xây dựng bến bãi ít tốn kém
hơn các hình thức khác, phù hợp với hoàn cảnh kinh tế xã hội của đất nước.
Việc sử dụng các phương tiện xe cơ giới cũng đơn giản và thuận tiện
hơn các loại phương tiện khác.
Với những đặc điểm vượt trội và do nền kinh tế đang ngày càng phát
triển nên việc đi lại, giao lưu, trao đổi hàng hóa ngày càng trở nên cấp thiết
hơn. Vì vậy, xe cơ giới đang tăng lên một cách vũ bão. Theo thống kê của
Cục đường bộ Việt Nam năm 2010 đã có trên 112.000 ôtô được bán ra
nâng tổng số ôtô lên 1.147.765 chiếc.
Tuy nhiên việc gia tăng lượng xe cơ giới quá nhanh so với hệ thống đường

giao thông ở Việt Nam đã và đang đặt ra những vấn đề nhức nhối mà cả xã
hội rất quan tâm: tình hình tắc đường, tai nạn giao thông…
1.1.2 Tình hình tai nạn giao thông tại Việt Nam:
Tai nạn giao thông đường bộ đang là vấn đề đáng báo động tại Việt
Nam hiện nay và luôn là bài toán khó giải cho các nhà chức trách và cho
toàn xã hội. Năm 2007, theo số liệu thống kê của tổ chức JICA (Nhật Bản):
thiệt hại kinh tế do tai nạn giao thông tại Việt Nam gây ra chiếm 2,89%
GDP, tương đương 2,041 tỷ USD. Dự báo đến năm 2020, mức độ thiệt hại
sẽ vượt 5,551 tỷ USD.
Phan Thị Huệ Vinh Lớp: D3BH3
1
Khóa luận tốt nghiệp
Bảng 1: Tình hình tai nạn giao thông tại Việt Nam (2006 – 2010)
Năm
Số vụ tai nạn (vụ) Số người chết (người)
Số vụ
Tăng (giảm)
tuyệt đối
Số người
chết
Tăng (giảm)
tuyệt đối
2006
14.161 20 12.373 1.189
2007
14.652 491 13.106 733
2008
12.882 -1.770 11.594 -1.512
2009
12.492 -390 11.516 -78

2010
11.958 -534 11.710 194
Nguồn: Báo cáo của Ủy ban an toàn giao thông quốc gia
Nhìn vào bảng số liệu ta có thể nhận thấy tình hình tai nạn giao
thông ở Việt Nam diễn ra rất phức tạp và đáng báo động. Mặc dù số vụ tai
nạn giao thông có xu hướng giảm qua các năm nhưng số người chết thì vẫn
có xu hướng tăng và số vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng dẫn đến tình
trạng tử vong ngày càng nhiều. Tuy các cơ quan chức năng đã cố gắng áp
dụng nhiều biện pháp nhằm giảm thiểu tai nạn nhưng các biện pháp này
xem ra vẫn chưa mang lại hiệu quả như mong muốn.
1.1.3. Sự cần thiết của bảo hiểm vật chất xe cơ giới.
Là một trong những nguyên nhân gây thương vong hàng đầu cho con
nguời, tai nạn giao thông đường bộ còn gây thiệt hại rất lớn về kinh tế, bao
gồm: thiệt hại về phương tiện giao thông, về tài sản liên quan, về hạ tầng,
chi phí khắc phục, sửa chữa hơn hết tai nạn giao thông còn cản trở sự
phát triển kinh tế và ảnh hưởng đến ổn định xã hội của mỗi quốc gia.
Đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam, mức độ tăng
trưởng nhanh của nền kinh tế trong nước kéo theo hoạt động giao thông
vận tải những năm gần đây trở nên nhộn nhịp, sôi động. Theo thống kê của
ngành giao thông vận tải, nhu cầu vận tải đường bộ thường chiếm tỷ trọng
trên 81% khối lượng hành khách vận chuyển và 67% khối lượng hàng hoá
vận chuyển.
Tai nạn giao thông là một trong những rủi ro mang tính xã hội, trong
khi trên 80% chủ thể sở hữu phương tiện giao thông là những người chủ,
trụ cột của gia đình và những chủ doanh nghiệp. Vì vậy, khi tai nạn giao
Phan Thị Huệ Vinh Lớp: D3BH3
2
Khóa luận tốt nghiệp
thông xảy ra thì thiệt hại không chỉ bó hẹp trong vụ tai nạn mà còn làm
giảm thu nhập của gia đình, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của

doanh nghiệp và gián tiếp gây thiệt hại cho nền kinh tế quốc dân. Tai nạn
có thể gây thiệt hại đến nhiều bên liên quan, trong đó chủ phương tiện cơ
giới trong vụ tai nạn ngoài chịu thiệt hại của chính mình nếu có lỗi gây tai
nạn còn phải chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại của bên liên quan
nên việc giải quyết bồi thường khá khó khăn và phức tạp, lợi ích của những
chủ thể bị thiệt hại không được đảm bảo.
Do đó, bảo hiểm xe cơ giới trong đó có bảo hiểm vật chất xe cơ giới
ra đời thông qua việc huy động sự đóng góp phí bảo hiểm của các chủ xe
hình thành nên quỹ bảo hiểm dùng để bồi thường, bù đắp cho những thiệt
hại về người và tài sản của chủ xe khi xảy ra tai nạn là một tất yếu khách
quan. Vậy nên, sự tham gia đầy đủ vào các loại hình bảo hiểm xe cơ giới
của các chủ xe là hoàn toàn cần thiết, giúp họ nhanh chóng khắc phục hậu
quả tai nạn cũng như sớm ổn định sản xuất kinh doanh, ổn định cuộc sống.
1.1.4. Vai trò của bảo hiểm vật chất xe cơ giới.
Đối với cá nhân :
Trước hết, Bảo hiểm vật chất xe cơ giới hỗ trợ trực tiếp về mặt tài
chính, cho các chủ phương tiện không may gặp rủi ro tai nạn. Cụ thể những
nhà bảo hiểm thông qua hoạt động nghiệp vụ của mình sử dụng nguồn quỹ
bảo hiểm để chi trả bồi thường cho chủ phương tiện tạo điều kiện cho họ
sớm khắc phục hậu quả tai nạn và những khó khăn phát sinh, đáp ứng cho
những khoản chi phí bất thường như: sửa chữa, phục hồi, thay mới tài sản.
Nhờ đó, ổn định về mặt tài chính cho các chủ xe; hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, đời sống sinh hoạt dân cư vì thế không bị ngừng
trệ; tạo sự yên tâm làm việc cho mọi cá nhân, tổ chức; góp phần bảo đảm
an sinh xã hội.
Tham gia bảo hiểm vật chất xe cơ giới còn góp phần nâng cao ý
thức thực hiện nghiêm chỉnh các quy định về trật tự an toàn giao thông của
chủ xe và lái xe, gắn quyền lợi với trách nhiệm mỗi chủ phương tiện, buộc
họ tham gia tích cực vào việc ngăn ngừa, đề phòng tai nạn giao thông để
bảo vệ tính mạng và tài sản của mình.

Đối với nhà nước :
Mặt khác, khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này, với mục đích giảm
thiểu những thiệt hại cho những chủ xe tham gia bảo hiểm góp phần giảm
chi phí bồi thường, đòi hỏi các công ty bảo hiểm phải có những biện pháp
cần thiết đề phòng, hạn chế những rủi ro tai nạn xảy ra trên những tuyến
Phan Thị Huệ Vinh Lớp: D3BH3
3
Khóa luận tốt nghiệp
đường giao thông bằng việc sử dụng nguồn phí thu được đầu tư vào việc
nâng cấp, cải tạo cơ sở hạ tầng giao thông tạo sự an toàn chung trong lưu
thông phương tiện đồng thời giảm bớt áp lực chi tiêu hàng năm từ Ngân
sách Nhà nước cho vấn đề đảm bảo an toàn giao thông.
Ngoài ra, Bảo hiểm vật chất xe cơ giới còn góp phần tăng thu cho
Ngân sách Nhà nước. Khoản thuế nộp vào Ngân sách Nhà nước hàng năm
được trích từ lợi nhuận của các doanh nghiệp kinh doanh các nghiệp vụ bảo
hiểm trong đó có bảo hiểm vật chất xe cơ giới là nguồn thu quan trọng,
đóng góp không nhỏ vào nguồn ngân sách đầu tư cho cơ sở hạ tầng giao
thông cũng như các lĩnh vực khác trong nền kinh tế quốc dân.
Đối với tổ chức xã hội :
Qua công tác thống kê rủi ro, xác định nguyên nhân tai nạn và giám
định tổn thất đối với các vụ tai nạn giao thông thuộc trách nhiệm của các
công ty bảo hiểm sẽ giúp các cơ quan chức năng đánh giá rủi ro, tìm ra
những nguyên nhân phổ biến gây tai nạn, từ đó đưa ra biện pháp thiết thực
để phòng tránh tai nạn giao thông, xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý
về trật tự an toàn giao thông.
1.2 Nội dung cơ bản về bảo hiểm vật chất thân xe
1.2.1 Đối tượng bảo hiểm:
Là loại hình bảo hiểm tài sản, bảo hiểm vật chất xe cơ giới có đối
tượng bảo hiểm là chính những chiếc xe cơ giới còn giá trị, tham gia lưu
thông trên đường bộ, thường được chia làm 4 loại chính gồm: các loại

môtô; xe gắn máy; xe ôtô và xe chuyên dụng khác. Nhìn chung, đối tượng
bảo hiểm vật chất xe cơ giới mang những tiêu thức như: xe cơ giới phải
được gắn động cơ, di chuyển được trên đất liền không cần đến đường dẫn
và phải có tối thiểu một chỗ ngồi cho người điều khiển. Tuy nhiên, xe cơ
giới để có thể coi là một đối tượng bảo hiểm thì phải đáp ứng những điều
kiện sau:
- Phải có giá trị sử dụng,
- Xác định được giá trị bằng tiền tệ,
- Đảm bảo an toàn về mặt kỹ thuật và môi trường, phải được lưu
hành hợp pháp (tức là được cơ quan có thẩm quyền cấp đăng ký xe, giấy
phép, chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và môi trường, giấy phép lưu
hành xe).
Về mặt kỹ thuật, xe cơ giới được cấu thành từ nhiều bộ phận khác
nhau tùy vào từng loại xe nhưng về cơ bản được chia thành các bộ phận
sau: khối động cơ và hệ thống nhiên liệu, điện, hệ thống truyền lực; hệ
Phan Thị Huệ Vinh Lớp: D3BH3
4
Khóa luận tốt nghiệp
thống lái; hệ thống phanh, hộp số và bộ phận thân vỏ. Riêng trong bảo
hiểm vật chất xe cơ giới, người ta phân xe ô tô thành 7 tổng thành chủ yếu:
- Tổng thành động cơ
- Tổng thành hộp số
- Tổng thành thân vỏ
- Tổng thành hệ thống lái
- Tổng thành trục trước
- Tổng thành cầu sau, cầu chủ động
- Tổng thành lốp
Trên cơ sở phân chia đó, nhà bảo hiểm có thể bảo hiểm toàn bộ xe
hoặc bảo hiểm cho từng bộ phận xe. Trong đó, bảo hiểm toàn bộ xe có đối
tượng được bảo hiểm là toàn bộ chiếc xe cơ giới với đầy đủ các bộ phận

tổng thành của xe; còn bảo hiểm bộ phận xe có đối tượng được bảo hiểm
chỉ là một hay một số các tổng thành của xe. Trên thực tế, trong số các tổng
thành của xe thì tổng thành thân vỏ chiếm tỷ trọng giá trị lớn và thường hay
chịu tổn thất nhiều nhất khi tai nạn xảy ra. Do đó, hiện nay các công ty bảo
hiểm thường chỉ bảo hiểm cho toàn bộ xe hoặc bảo hiểm cho bộ phận là
tổng thành thân vỏ. Đối với các loại xe mô tô, chỉ có hình thức bảo hiểm
toàn bộ vật chất xe dành cho người tham gia bảo hiểm.
1.2.2. Phạm vi bảo hiểm.
Rủi ro được bảo hiểm:
- Đâm va, lật đổ;
- Hỏa hoạn, cháy nổ;
- Những tai nạn bất khả kháng do thiên nhiên: bão, lũ lụt, sụt lở, sét
đánh, động đất, mưa đá;
- Vật thể từ bên ngoài tác động lên xe cơ giới: rơi vào, va chạm vào;
- Mất toàn bộ xe trong trường hợp: xe bị trộm cắp, bị cướp.
Ngoài việc bồi thường tổn thất về vật chất cho xe cơ giới được bảo
hiểm do những rủi ro trên gây ra, công ty bảo hiểm còn chịu trách nhiệm
thanh toán cho chủ xe tham gia bảo hiểm những phí tổn hợp lý và cần thiết
phát sinh nhằm: ngăn ngừa, hạn chế tổn thất phát sinh thêm đối với xe bị
tai nạn; chi phí bảo vệ và đưa xe bị thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất,
giám định thiệt hại nếu tổn thất phát sinh thuộc trách nhiệm bảo hiểm.
Trong mọi trường hợp, tổng số tiền bồi thường của công ty bảo hiểm
(bao gồm cả những phí tổn) đối với một sự kiện bảo hiểm không vượt quá
số tiền bảo hiểm (hay mức trách nhiệm bảo hiểm) ghi trên đơn hoặc giấy
chứng nhận bảo hiểm.
Phan Thị Huệ Vinh Lớp: D3BH3
5
Khóa luận tốt nghiệp
Rủi ro loại trừ ( rủi ro không được bảo hiểm ):
* Hư hỏng do khuyết tật, mất giá, giảm chất lượng hoặc hư hỏng

thêm do sửa chữa; hao mòn và hư hỏng tự nhiên phát sinh từ việc hoạt
động bình thường của xe cơ giới thường được tính dưới hình thức khấu hao
theo thời gian.
* Hư hỏng về điện hoặc các thiết bị, bộ phận máy móc mà không
phải do những rủi ro được bảo hiểm gây ra. Cụ thể, đây là những hư hỏng
mang tính chất ẩn tỳ của bộ phận thiết bị từ đó gây hư hỏng trực tiếp tới
toàn bộ hệ thống máy móc của xe thì không được bảo hiểm bồi thường,
nhưng do những hư hỏng đó mà xe bị tai nạn gây hư hỏng đến các bộ phận
khác của xe thì vẫn thuộc trách nhiệm bảo hiểm. Riêng tổn thất về săm lốp,
đề can xe chỉ được nhà bảo hiểm bồi thường trong trường hợp tổn thất này
xảy ra do cùng nguyên nhân và đồng thời với các bộ phận khác của xe
trong cùng vụ tai nạn.
* Mất cắp bộ phận xe.
Để tránh nguy cơ trục lợi bảo hiểm, hành vi vi phạm pháp luật, đảm
bảo đúng nguyên tắc trong bảo hiểm, những thiệt hại, tổn thất xảy ro do
một số nguyên nhân sau cũng không thuộc trách nhiệm bảo hiểm:
Hành động cố ý gây thiệt hại;
Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và tiêu chuẩn an toàn để lưu hành
theo luật định;
Chủ xe, lái xe vi phạm nghiêm trọng các quy định về an toàn giao
thông như: lái xe không có giấy phép hoặc giấy phép lái xe không hợp lệ;
lái xe bị ảnh hưởng bởi rượu bia, các chất kích thích gây nghiện trong quá
trình điều khiển phương tiện; xe không có giấy phép lưu hành; xe chở các
chất cháy nổ trái phép; xe đi vào đường cấm, chở quá trọng tải, chạy thử,
tập lái hay sử dụng để đua xe…
Thiệt hại có tính hậu quả gián tiếp do: giảm giá trị thương mại, gắn
liền với việc sử dụng và khai thác tài sản bị thiệt hại;
Thiệt hại do chiến tranh, bạo động, đình công, khủng bố.
1.2.3. Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm.
Xe cơ giới là một loại tài sản được bảo hiểm nên giá trị bảo hiểm xác

định bởi giá trị thực tế của xe trên thị trường tại thời điểm tham gia bảo
hiểm hay ký kết hợp đồng bảo hiểm. Giá trị bảo hiểm được coi là cơ sở để
xác định số tiền bảo hiểm, làm căn cứ áp dụng các hình thức bảo hiểm theo
mức giá trị bảo hiểm khác nhau (như: bảo hiểm dưới giá trị, ngang giá trị,
trên giá trị) và để chi trả bồi thường thiệt hại thực tế cho chủ xe khi có sự
Phan Thị Huệ Vinh Lớp: D3BH3
6
Khóa luận tốt nghiệp
kiện bảo hiểm. Trên thực tế, giá trị của mỗi loại xe trên thị trường khác
nhau và giá cả xe cũng luôn biến động nên thông thường các công ty bảo
hiểm dựa vào yếu tố: loại xe, tuổi của xe, thời gian sử dụng xe để xác định
giá trị xe tham gia bảo hiểm.
Việc xác định giá trị thực tế của xe trên thị trường căn cứ vào các
yếu tố sau: Giá mua xe ban đầu của chủ xe, giá mới của xe cùng loại hoặc
loại xe tương đương trên thị trường vào thời điểm hiện tại, xu hướng tiêu
dùng các loại xe của thị trường, tình trạng hao mòn thực tế của xe… Ngoài
ra, do xe cơ giới là loại tài sản cố định bị hao mòn theo thời gian sử dụng
nên các nhà bảo hiểm áp dụng phổ biến phương pháp khấu hao theo thời
gian để xác định giá trị của xe khi tham gia bảo hiểm, trong đó: Giá trị bảo
hiểm là giá trị mới 100% của xe đã sử dụng dưới một năm được tính theo
nguyên giá (nguyên giá bao gồm giá mua xe ban đầu, chi phí vận chuyển
và thuế các loại), trường hợp xe đã sử dụng trên một năm thì được tính theo
công thức sau:
Giá trị bảo hiểm = Giá trị mới – Khấu hao sử dụng (nếu có).
(Tỷ lệ khấu hao thường được áp dụng hiện nay là 9%/năm).
Số tiền bảo hiểm là một khoản tiền nhất định được ghi trong đơn bảo
hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm để xác định giới hạn trách nhiệm của
người bảo hiểm trong việc bồi thường hoặc chi trả tiền bảo hiểm. Như vậy,
khi tham gia bảo hiểm vật chất xe cơ giới cho toàn bộ xe hoặc bộ phận của
xe tức là chủ xe đã mua bảo hiểm cho toàn bộ hay một phần giá trị của

chiếc xe và phần giá trị được bảo hiểm đó được coi là số tiền bảo hiểm (tức
là mức trách nhiệm bồi thường cao nhất của công ty bảo hiểm cho những
thiệt hại đối với xe tham gia bảo hiểm mỗi vụ tai nạn).
Cũng như các loại hình bảo hiểm tài sản khác, trong nhiều trường
hợp chủ xe có thể tham gia với số tiền bảo hiểm nhỏ hơn giá trị bảo hiểm
(bao gồm cả trường hợp tham gia bảo hiểm cho bộ phận xe) hoặc tham gia
với số tiền bảo hiểm bằng giá trị bảo hiểm tùy thuộc vào khả năng tài chính
và mục đích sử dụng. Theo nguyên tắc bảo hiểm thì số tiền bảo hiểm không
vượt quá giá trị bảo hiểm, tuy nhiên trường hợp chủ xe tham gia với số tiền
bảo hiểm lớn hơn giá trị bảo hiểm theo điều khoản “giá trị thay thế mới” thì
vẫn được chấp nhận.
1.2.4. Phí bảo hiểm.
Đối với các công ty bảo hiểm, việc xác định phí bảo hiểm một cách
hợp lý vừa được sự chấp nhận của khách hàng vừa tăng khả năng cạnh
tranh mà vẫn đảm bảo hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp bảo hiểm là
Phan Thị Huệ Vinh Lớp: D3BH3
7
Khóa luận tốt nghiệp
công việc khó và khá phức tạp. Hiện nay, phí bảo hiểm vật chất xe được
xác định dưới hình thức tỷ lệ phí áp dụng cho mỗi đầu xe đối với mỗi loại
xe, trong đó cơ cấu phí bảo hiểm mỗi đầu xe như sau:
P = f + d
P : Phí bảo hiểm mỗi đầu xe
f : Phí thuần
d : Phụ phí ∑ Si x Ti
f =


Ci
(Với i = 1, 2, … , n)

Trong đó : Si : Số vụ tai nạn xảy ra trong năm thứ i.
Ti : Thiệt hại bình quân một vụ trong năm thứ i.
Ci : Số xe hoạt động thực tế trong năm thứ i.
n : Thứ tự các năm lấy số liệu tính phí.
Theo đó, việc xác định phí thuần dựa vào tình hình tổn thất trong
nhiều năm trước đó thông qua số liệu thống kê về: tần suất tổn thất, chi phí
bình quân bồi thường một vụ tổn thất, định mức chi phí quản lý của người
bảo hiểm đối với từng nghiệp vụ. Phần phụ phí bao gồm các chi phí như:
đề phòng hạn chế tổn thất, chi phí quản lý… được tính bằng tỷ lệ phần trăm
nhất định so với phí bồi thường.
Cơ sở xác định phí bảo hiểm chủ yếu dựa trên các yếu tố sau:
Loại xe: Mỗi loại xe có những đặc điểm kỹ thuật, mức độ an toàn
khác nhau nên phí bảo hiểm vì thế cũng khác nhau.
Mục đích sử dụng xe: Xe lăn bánh trên đường càng nhiều thì mức
độ rủi ro tai nạn càng lớn.
Phạm vi địa bàn hoạt động: xe hoạt động trên những địa bàn có
mức độ phức tạp, nguy hiểm cao nên xác suất gặp rủi ro lớn vì thế mức phí
bảo hiểm cho những loại xe này phải cao hơn các xe khác.
Tuổi tác, kinh nghiệm của người lái xe: Theo số liệu thống kê
những lái xe trẻ tuổi bị tai nạn nhiều hơn so với lái xe lớn tuổi, đặc biệt tình
trạng tai nạn trong nhóm thanh thiếu niên sử dụng xe cơ giới ngày một
tăng.
Thời gian xe đã qua sử dụng, giá trị xe: vì xe sử dụng càng lâu,
mức độ hao mòn càng nhiều nên tính an toàn càng thấp, khả năng gặp rủi
ro lớn.
Phan Thị Huệ Vinh Lớp: D3BH3
8
Khóa luận tốt nghiệp
Tiền sử của lái xe: cho biết các hành vi vi phạm an toàn giao thông,
mức độ liên quan đến các vụ tai nạn giao thông phát sinh…

Việc xác định phí bảo hiểm của mỗi công ty cũng hết sức linh hoạt
trong một số trường hợp đặc biệt, chẳng hạn như:
Trường hợp xe hoạt động mang tính chất mùa vụ thì chủ xe chỉ đóng
phí cho những ngày hoat động của xe theo công thức:
Số tháng xe hoạt động
Phí bảo hiểm = Mức phí cả năm ×
12 tháng
Trường hợp chủ xe tham gia bảo hiểm đã đóng phí cả năm nhưng vì
lý do nào đó xe phải ngừng hoạt động một thời gian, công ty sẽ hoàn phí
bảo hiểm của những tháng không hoạt động đó cho chủ xe.

Số tháng không hoạt động
Phí hoàn lại = Phí đóng cả năm × × Tỷ lệ hoàn phí
12 tháng
Trường hợp chủ xe muốn hủy hợp đồng bảo hiểm khi chưa hết thời
hạn bảo hiểm trên hợp đồng thì công ty sẽ hoàn lại phí trong thời gian còn
lại của hợp đồng, phí hoàn lại được tính như trong trường hợp xe tạm thời
ngừng hoạt động một thời gian, với điều kiện là chủ xe chưa có lần nào
được công ty bảo hiểm trả tiền bảo hiểm.
Hiện nay, ở nước ta, các công ty đều áp dụng mức tỷ lệ phí theo biểu
phí của Bộ Tài Chính ban hành. Trong đó, tỷ lệ phí cơ bản thường được
tính cho thời hạn bảo hiểm là một năm hợp đồng kèm theo đó là quy định
về tỷ lệ giảm phí đối với những hợp đồng có thời hạn dưới một năm.
Trường hợp chủ xe tham gia bảo hiểm dài hạn trên một năm, công ty
bảo hiểm sẽ xem xét đối tượng có đủ điều kiện tham gia hay không để có
thể chấp nhận bảo hiểm với tỷ lệ giảm phí bảo hiểm tương ứng thời hạn.
Như vậy, nếu chủ xe tham gia bảo hiểm với thời hạn bảo hiểm càng dài thì
mức phí càng thấp.
1.2.5. Công tác giám định và bồi thường:
1.2.5.1. Đối với công tác giám định:

Nguyên tắc giám định :
Việc giám định phải tiến hành sớm nhất sau khi nhận được thông tin
tai nạn (quy định chung là 5 ngày). Nếu không tiến hành giám định sớm
Phan Thị Huệ Vinh Lớp: D3BH3
9
Khóa luận tốt nghiệp
được thì lý do của việc chậm trễ phải được đề cập trong biên bản giám
định.
Mọi thiệt hại về vật chất xe thuộc trách nhiệm bảo hiểm đều phải
được tiến hành giám định trực tiếp bởi công ty bảo hiểm hoặc người được
công ty bảo hiểm ủy quyền với sự có mặt của chủ xe, người có nghĩa vụ,
quyền lợi liên quan hoặc người đại diện hợp pháp nhằm xác định nguyên
nhân và mức độ thiệt hại.
Khi chủ xe không thống nhất được nguyên nhân và mức độ tổn thất
do giám định viên của công ty xác định thì hai bên thoả thuận chọn giám
định viên độc lập, phí giám định do doanh nghiệp bảo hiểm trả nếu kết luận
giám định của hai bên không trùng nhau, nếu kết luận giám định trùng nhau
thì chủ xe phải trả phí.
Công tác giám định của công ty bảo hiểm phải độc lập với các cơ
quan chức năng khác và không được tiết lộ nội dung giám định. Trong
trường hợp đặc biệt không thể thực hiện được việc giám định, thì doanh
nghiệp bảo hiểm được căn cứ vào các biên bản, kết luận của các cơ quan
chức năng có thẩm quyền và các tài liệu liên quan do chủ xe có trách nhiệm
cung cấp để xác định nguyên nhân và mức độ thiệt hại.
Quy trình giám định:
Bước 1: Tiếp nhận và xử lý thông tin:
Yêu cầu khi tiếp nhận thông tin tai nạn cần phải nắm được:
Tình hình tai nạn: số xe, chủ xe, thời gian, địa điểm xảy ra tai nạn,
sơ bộ thiệt hại…
Việc tham gia bảo hiểm: thời hạn bảo hiểm, nơi cấp giấy chứng

nhận bảo hiểm (hoặc đơn bảo hiểm), phạm vi tham gia bảo hiểm.
Giải quyết bước đầu của chủ xe và các cơ quan chức năng.
Sau khi tiếp nhận thông tin tùy theo tình hình yêu cầu hướng dẫn
bước đầu cho chủ xe thu thập các giấy tờ cần thiết chuẩn bị cho công tác
giám định cũng như giải quyết bồi thường sau này đồng thời tiến hành
những công việc cần thiết để hạn chế tổn thất phát sinh, bảo vệ hiện trường
xe bị tai nạn, nếu cần phải khai báo cơ quan chức năng để giải quyết tai nạn
đúng luật. Thống nhất với lái xe, chủ xe về thời gian, địa điểm giám định.
Chuẩn bị những yếu tố cần thiết về con người, trang thiết bị, phương tiện
để tiến hành giám định.
Bước 2: Tiến hành giám định:
Kiểm tra đối chiếu các giấy tờ liên quan đến đối tượng được bảo
hiểm đảm bảo tính hợp lệ.
Phan Thị Huệ Vinh Lớp: D3BH3
10
Khóa luận tốt nghiệp
Tiến hành chụp ảnh tổng thể và chi tiết kết hợp với ghi nhận nguyên
nhân, mức độ tổn thất để làm căn cứ: yêu cầu ảnh chụp đưa vào hồ sơ phải
có ngày chụp, chú thích, đóng dấu xác nhận còn ghi nhận nguyên nhân, tổn
thất phải trung thực, chính xác.
Giám định thiệt hại và lập biên bản giám định: đây là khâu hết sức
quan trọng, đòi hỏi phải được kê khai chi tiết, tỉ mỉ đồng thời ghi nhận
trung thực, chính xác mức độ thiệt hại nhằm bộc lộ rõ được thiệt hại và thể
hiện được mối quan hệ nhân quả giữa nguyên nhân và hậu quả thiệt hại.
Tùy thuộc mức độ phức tạp, có thể tiến hành giám định một lần hoặc nhiều
lần.
Bước 3: Thống nhất với chủ xe phương án khắc phục thiệt hại
Các thỏa thuận có thể thực hiện theo ba phương án:
Phương án 1: Bồi thường trên cơ sở chi phí sửa chữa thiệt hại
Phương án 2: Bồi thường trên cơ sở đánh giá thiệt hại

Phương án 3: Bồi thường toàn bộ và xử lý tài sản thu hồi
1.2.5.2. Đối với công tác bồi thường :
Nguyên tắc bồi thường :
Trường hợp xe tham gia bảo hiểm bằng hoặc dưới giá trị thực tế:
Số tiền bảo hiểm
Số tiền bồi thường = Giá trị thiệt hại thực tế ×
Giá trị thực tế xe
Trường hợp xe tham gia bảo hiểm trên giá trị thực tế: Số tiền bồi
thường thực tế cũng chỉ bằng thiệt hại thực tế và không vượt quá giá trị
thực tế của xe.
Trường hợp tổn thất bộ phận: Các công ty bảo hiểm thường giới hạn
mức trách nhiệm bồi thường bằng bảng tỷ lệ giá trị tổng thành xe và áp
dụng một trong hai nguyên tắc trên để giải quyết bồi thường.
Trường hợp tổn thất toàn bộ: Xe được coi là tổn thất toàn bộ khi bị
mất cắp, mất tích hoặc xe bị thiệt hại đến mức không thể sửa chữa phục hồi
để đảm bảo lưu hành an toàn (quy định chung hiện nay là thiệt hại trên
75%) hoặc chi phí phục hồi bằng hay lớn hơn giá trị thực tế của xe. Khi đó,
số tiền bồi thường lớn nhất bằng số tiền bảo hiểm và phải trừ khấu hao cho
thời gian xe đã sử dụng hoặc bằng giá trị thực tế của xe ngay trước thời điểm xảy
ra tổn thất.
Trên thưc tế, các công ty bảo hiểm thường quy định khi giá trị thiệt
hại so với giá trị thực tế của xe bằng hoặc lớn hơn một tỷ lệ nhất định nào
Phan Thị Huệ Vinh Lớp: D3BH3
11
Khóa luận tốt nghiệp
đó thì được xem là tổn thất toàn bộ ước tính, tuy nhiên lại bị giới hạn bởi
bảng tỷ lệ tổng thành.
Trong quá trình sửa chữa, khắc phục xe được bảo hiểm, nếu phải
thay thế mới bộ phận, thì mọi chi phí cho việc thay thế bộ phận đó sẽ trừ đi
khấu hao đã sử dụng. Nếu tổn thất xảy ra trước ngày 16 của tháng thì

không tính khấu hao cho tháng đó, còn nếu xảy ra từ ngày 16 của tháng thì
phải tính cả khấu hao của tháng.
Công ty có quyền thu hồi và xử lý những bộ phận được thay thế hoặc
đã được bồi thường toàn bộ giá trị.
Trường hợp thiệt hại liên quan đến trách nhiệm người thứ ba, công ty
bồi thường cho chủ xe và yêu cầu chủ xe bảo lưu quyền khiếu nại và
chuyển quyền bồi thường cho công ty bảo hiểm kèm theo toàn bộ hồ sơ và
chứng từ có liên quan.
Trường hợp được bảo hiểm trùng theo nhiều đơn bảo hiểm khác
nhau, mức trách nhiệm bồi thường từ mỗi đơn bảo hiểm tính theo tỷ lệ giữa
số tiền bảo hiểm trong mỗi đơn so với tổng số tiền bảo hiểm trong tất cả
các đơn bảo hiểm.
Trong mọi trường hợp, công tác giải quyết bồi thường cũng phải dựa
trên cơ sở giám định và căn cứ pháp lý chứng minh (như: hợp đồng bảo
hiểm còn hiệu lực, giấy tờ liên quan hợp lệ, rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm )
Quy trình bồi thường :
Bước 1: Tiếp nhận và Hoàn chỉnh hồ sơ bồi thường
Sau khi tiếp nhận được hồ sơ từ khách hàng, căn cứ vào quy tắc bảo
hiểm và hợp đồng bảo hiểm gốc, yêu cầu giám định viên và chủ xe cung
cấp thêm nếu chưa đầy đủ.
Một bộ hồ sơ bồi thường hoàn chỉnh thường bao gồm những giấy tờ sau:
Thông báo tai nạn và công văn yêu cầu bồi thường của chủ xe.
Giấy tờ xe (bản photo có giám định viên ký xác nhận) bao gồm:
Giấy chứng nhận bảo hiểm; Đăng ký xe hoặc giấy tờ liên quan đến quyền
sở hữu xe; giấy phép lưu hành hoặc giấy phép sử dụng xe; Bằng lái xe.
Bản sao hồ sơ vụ tai nạn giao thông gồm có: Biên bản khám nghiệm
hiện trường; Biên bản khám nghiệm xe; Sơ đồ hiện trường và các giấy tờ
liên quan đến việc điều tra nguyên nhân tai nạn; Biên bản hoặc thông báo
giải quyết tai nạn giao thông; Bản trưng cầu kết luận điều tra tai nạn giao
thông khi cần thiết; Biên bản hòa giải dân sự và kết luận cả tòa án (nếu có).

Phan Thị Huệ Vinh Lớp: D3BH3
12
Khóa luận tốt nghiệp
Các chứng từ liên quan đến xác định thiệt hại: Hóa đơn, chứng từ
liên quan đến sửa chữa thiệt hại; Hóa đơn xuất kho; Các biên bản đánh giá,
xác định thiệt hại;
Các chứng từ khác nếu cần.
Bước 2: Xác định số tiền bồi thường
Khi đã hoàn chỉnh hồ sơ, cán bộ bồi thường kiểm tra những khoản
mục bồi thường thuộc trách nhiệm bảo hiểm dựa vào: biên bản giám định,
kê khai tổn thất, điều khoản hợp đồng…và xem xét phương án khắc phục
thiệt hại cũng như chi phí khắc phục dự toán được thỏa thuận trước đó với
chủ xe. Nếu thấy không rõ ràng và không hợp lý có thể cho tiến hành giám
định lại.
Bước 3: Tiến hành bồi thường
Trình lãnh đạo duyệt bồi thường,
Thông báo chấp nhận hoặc từ chối bồi thường cho khách hàng, tiến
hành thủ tục bồi thường theo phương án đã thống nhất với khách hàng.
Đòi người thứ ba (trong trường hợp liên quan đến trách nhiệm của
bên thứ ba), thu hồi tài sản bị hư hỏng.
Đóng hồ sơ bồi thường
1.2.6. Công tác đề phòng hạn chế tổn thất:
Kiểm soát tổn thất liên quan đến cả trách nhiệm và quyền lợi của
doanh nghiệp bảo hiểm. Nếu làm tốt khâu này, số vụ tổn thất sẽ giảm đi và
mức độ tổn thất trong mỗi vụ cũng giảm, từ đó doanh nghiệp bảo hiểm sẽ
tiết kiệm được số tiền bồi thường hoặc chi trả. Kiểm soát tổn thất bao gồm
đề phòng và hạn chế tổn thất, cho nên khâu này không chỉ có ý nghĩa kinh
tế mà còn có ý nghĩa xã hội rất lớn. Tổn thất không xảy ra và kiểm soát
được tổn thất tạo thêm niềm tin của khách hàng với doanh nghiệp bảo hiểm
và hơn thế nữa là góp phần bảo đảm an toàn cho xã hội. Đối với mỗi loại

hình, mỗi loại nghiệp vụ bảo hiểm khác nhau công tác đề phòng và hạn chế
tổn thất khác nhau. Chẳng hạn, đối với các nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe
cơ giới, muốn giảm bớt tổn thất, thiệt hại, các doanh nghiệp bảo hiểm phải
phối hợp chặt chẽ với cơ quan chức năng có liên quan như: công an, giao
thông công chính để tăng cường hệ thống biển báo chỉ đường, xây dựng
đường lánh nạn trên các đèo dốc nguy hiểm, hỗ trợ kinh phí tổ chức các
cuộc thi lái xe tải an toàn và tuyên truyền giáo dục luật lệ an toàn giao
thông…Dù thực hiện đề phòng và hạn chế tổn thất theo phương thức nào
chăng nữa thì hàng năm các doanh nghiệp bảo hiểm đều phải chi ra một
Phan Thị Huệ Vinh Lớp: D3BH3
13
Khóa luận tốt nghiệp
khoản tiền nhất định trong tổng số phí bảo hiểm thu được. Để nâng cao
hiệu quả của khoản chi này cần phải thống kê chi tiết số vụ tổn thất xảy ra
theo các nguyên nhân khác nhau, sau đó phân tích và đề ra các biện pháp
kiểm soát tổn thất phù hợp và có tính khả thi cho từng nghiệp vụ bảo hiểm.
Phân tích tình hình đề phòng và hạn chế tổn thất có thể tiến hành theo các
hướng sau:
So sánh và đánh giá các vụ tổn thất xảy ra do các nguyên nhân khác
nhau, so sánh với cùng kỳ hoặc so với kỳ trước khi thực hiện các biện pháp
đề phòng, hạn chế tổn thất.
Vận dụng phương pháp phân tổ, phương pháp hồi quy tương quan để
phân tích mối quan hệ giữa chi phí bỏ ra trong khâu này với số vụ tổn thất
xảy ra với số tiền bồi thường thực tế của doanh nghiệp bảo hiểm.
1.3 Các chỉ tiêu phân tích tình hình triển khai bảo hiểm:
1.3.1 Chỉ tiêu phân tích tình hình khai thác:
1.3.1.1 Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch khai thác:
Hàng năm, các doanh nghiệp bảo hiểm phải tiến hành lập kế hoạch
khai thác cho từng nghiệp vụ bảo hiểm.
Để lập kế hoạch và kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch khai thác

có thể vận dụng các chỉ số sau:
• Chỉ số nhiệm vụ kế hoạch (i
NK
)
y
k
i
NK
=
y
0
• Chỉ số hoàn thành kế hoạch (i
HK
)
y
1
i
HK
=
y
k
• Chỉ số thực hiện (i )
y
1
i

=
y
0
Ba loại chỉ số trên có quan hệ tích số :

y
1
y
1
y
k
i = i
NK
× i
HK
y
0
=

y
k
×

y
0
Trong đó: y
1,
y
0,
y
k
là mức độ khai thác kỳ báo cáo, kỳ gốc, kỳ kế
hoạch. Các mức độ trên ( y
1,
y

0,
y
k
) có thể là: Số hợp đồng, số giấy chứng
nhận bảo hiểm, số phí bảo hiểm, doanh thu phí bảo hiểm.
1.3.1.2 Phân tích cơ cấu khai thác:
Phan Thị Huệ Vinh Lớp: D3BH3
14
Khóa luận tốt nghiệp
Phân tích cơ cấu khai thác bảo hiểm chủ yếu được thực hiện với các
chỉ tiêu: Tổng số hợp đồng bảo hiểm và doanh thu phí bảo hiểm.
Khi phân tích cần phải quan tâm đến lợi nhuận mà nghiệp vụ hoặc
loại hình bảo hiểm đó mang lại.
Với nghiệp vụ bảo hiểm vật chất thân xe có thể phân tích cơ cấu khai
thác theo chủng loại xe, theo số năm xe đã sử dụng, theo vùng lãnh thổ.
1.3.1.3 Phân tích tính thời vụ trong khâu khai thác bảo hiểm:
Việc xác định và vạch rõ tính thời vụ cho nghiệp vụ và mỗi loại sản
phẩm là rất cần thiết. Phân tích tính thời vụ trong khâu khai thác có thể sử
dụng các phương pháp:
• Tính theo chỉ số thời vụ theo các tháng trong năm:
X
i
K
i
=

X
Trong đó:
k
i

- Chỉ số thời vụ tháng thứ i
X
i
- Mức độ khai thác tháng thứ i
X - Mức độ khai thác bình quân một tháng trong năm
12
∑ X
i
f = i=1
12
• Chỉ số thời vụ theo tháng ( k
i
): Phản ánh mối quan hệ giữa
mức độ khai thác trong từng tháng với mức độ khai thác bình quân một
tháng trong năm. Kết quả tính ra càng gần 1 thì tính chất thời vụ trong
tháng đó càng ít và ngược lại. Có thể đưa kết quả tính toán của 12 tháng
trong năm lên một biểu đồ sẽ dễ dàng nhận thấy tính chất thời vụ trong
từng tháng. Nếu tính toán và so sánh kết quả nhiều năm liên tục sẽ lộ rõ
tính quy luật trong khâu khai thác đối với từng nghiệp vụ hay từng loại sản
phẩm bảo hiểm. Sau khi xác định được các chỉ số thời vụ theo tháng, cần
tính thêm hệ số biến thiên để thấy được sự biến động tương đối về mức độ
khai thác.
1.3.2 Phân tích tình hình kiểm soát tổn thất:
Phan Thị Huệ Vinh Lớp: D3BH3
15
Khóa luận tốt nghiệp
Kiểm soát tổn thất liên quan đến cả trách nhiệm và quyền lợi của
doanh nghiệp bảo hiểm. Nếu làm tốt khâu này, số vụ tổn thất sẽ giảm đi và
mức độ tổn thất sẽ giảm đi, từ đó doanh nghiệp bảo hiểm sẽ tiết kiệm được
số tiền bồi thường hoặc chi trả. Kiểm soát tổn thất bao gồm cả đề phòng

hạn chế tổn thất, cho nên khâu này không chỉ có ý nghĩa kinh tế mà còn có
ý nghĩa xã hội rất lớn. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới, muốn giảm
thiểu tổn thất, thiệt hại, các doanh nghiệp bảo hiểm phải phối hợp chặt chẽ
với các cơ quan chức năng có liên quan như: công an, giao thông công
chính để tăng cường hệ thống biển báo đường lánh nạn trên các đèo dốc
nguy hiểm, hỗ trợ kinh phí tổ chức các cuộc thi lái xe tải an toàn và tuyên
truyền giáo dục luật lệ an toàn giao thông.
Phân tích tình hình đề phòng hạn chế tổn thất có thể tiến hành theo
các hướng sau:
So sánh và đánh giá các vụ tổn thất xảy ra do các nguyên nhân khác
nhau, so với cùng kỳ hoặc so với kỳ trước khi thực hiện các biện pháp đề
phòng, hạn chế tổn thất.
Vận dụng phương pháp phân tổ, phương pháp hồi quy tương quan để
phân tích mối quan hệ giữa chi phí bỏ ra trong khâu này với số vụ tổn thất
xảy ra với số tiền bồi thường thực tế của doanh nghiệp bảo hiểm.
Khi phân tích cần chú ý đến độ trễ thời gian vì chi phí đề phòng và
hạn chế tổn thất chi ra kỳ này, nhưng các kỳ sau mới phát huy tác dụng.
1.3.3 Phân tích tình hình giám định và bồi thường tổn thất:
Phân tích và đánh giá thực trạng của khâu này thường dựa vào các
chỉ tiêu sau:
- Số vụ khiếu nại đòi giải quyết bồi thường trong kỳ;
- Số vụ khiếu nại đã được giải quyết bồi thường trong kỳ;
- Số vụ giải quyết khiếu nại còn tồn đọng chưa giải quyết bồi thường
trong kỳ;
Số vụ khiếu nại đã được giải
quyết bồi thường trong kỳ
Tỷ lệ giải quyết bồi thường
=
× 100
Số vụ khiếu nại đòi giải quyết

bồi thường
- Số vụ khiếu nại còn tồn đọng chưa
Phan Thị Huệ Vinh Lớp: D3BH3
16
Khóa luận tốt nghiệp
giải quyết bồi thường trong kỳ
Tỷ lệ tồn đọng
=
× 100
Số vụ khiếu nại đòi giải quyết
bồi thường
- Số tiền bồi thường thực tế trong kỳ:
Số tiền bồi thường Tổng số tiền phải bồi thường cho các vụ
bình quân mỗi vụ khiếu nại đã được giải quyết trong kỳ
khiếu nại được giải
=
số vụ khiếu nại đã được giải quyết bồi
quyết trong kỳ thường trong kỳ
- Tỷ lệ chi Số tiền chi bồi thường thực tế
bồi thường
=
trong kỳ
×

100
Tổng chi trong kỳ
Tỷ lệ bồi thường Tổng số tiền chi bồi thường trong kỳ
trong kỳ
=
Tổng doanh thu phí bảo hiểm trong kỳ

× 100
Tỷ lệ tổn thất Tổng số tiền bị tổn thất trong kỳ
trong kỳ
=
thuộc phạm vị bảo hiểm ×100
Tổng số tiền bảo hiểm trong kỳ
- Thời gian xử lý ban đầu: Là khoảng thời gian kể từ khi doanh
nghiệp bảo hiểm nhận được thông báo tổn thất đến khi có phản hồi ban đầu
với khách hàng. Chỉ tiêu này phản ánh mức độ nhanh nhạy của doanh
nghiệp bảo hiểm trong việc thực hiện những phương hướng, hành động xử
lý khi nhận được thông báo tổn thất. Những hành động xử lý ban đầu
thường là: ghi nhận tổn thất, tiến hành tổ chức giám định và trả lời khách
hàng.
- Thời gian giải quyết bồi thường: Là khoảng thời gian kể từ khi
Doanh nghiệp bảo hiểm nhận được thông báo tổn thất của khách hàng nhận
được thông báo bồi thường (hoặc từ chối bồi thường) của doanh nghiệp bảo
hiểm.
- Số vụ khiếu nại bồi thường sai sót trong kỳ:
- Tỷ lệ bồi thường
=
số vụ bồi thường sai sót trong kỳ
×
100
sai sót trong kỳ số vụ khiếu nại đã được giải quyết bồi thường
trong kỳ
Phan Thị Huệ Vinh Lớp: D3BH3
17
Khóa luận tốt nghiệp
- Số tiền bị thất thoát do bồi thường sai sót trong kỳ
- Tỷ lệ số tiền số tiền bị thất thoát do

bồi thường bị
=
bồi thường sai sót trong kỳ
×
100
thất thoát tống số tiền đã giải quyết
bồi thường trong kỳ
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM
VẬT CHẤT XE CƠ GIỚI TẠI BẢO VIỆT HÀ NỘI
2.1. Khái quát chung về công ty Bảo Việt Hà Nội:
2.1.1 Lịch sử hình thành của Tổng công ty Bảo hiểm Bảo Việt:
Bảo hiểm Bảo Việt là doanh nghiệp hạch toán độc lập - thành viên
của Tập đoàn Tài chính – Bảo hiểm Bảo Việt. Với kinh nghiệm hoạt động
trên 45 năm (từ 15/01/1965) trong các lĩnh vực: Bảo hiểm tài sản, bảo hiểm
trách nhiệm và bảo hiểm con người; với mạng lưới 66 công ty thành viên
tại tất cả 64 tỉnh, thành phố và hơn 400 văn phòng đại diện trên toàn quốc,
bảo hiểm Bảo Việt hiện chiếm gần 40% thị phần và là doanh nghiệp bảo
hiểm phi nhân thọ dẫn đầu thị trường bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam.
Năm 2010 bảo hiểm Bảo Việt đã hoàn thành vượt mức kế hoạch
kinh doanh, tăng trưởng cao về doanh thu và lợi nhuận. Tổng doanh thu đạt
4.930 tỷ đồng, tăng trưởng 15,8% so với năm 2009. Trong đó, doanh thu
bảo hiểm đạt 4.593 tỷ đồng, tăng trưởng 15% so với năm 2009; lợi nhuận
trước thuế đạt 381 tỷ đồng, tăng 74% so với năm 2009. Với 25% thị phần,
bảo hiểm Bảo Việt giữ vững vị trí dẫn đầu thị trường. Phát biểu tại Hội
nghị triển khai công tác năm 2011 diễn ra trong hai ngày 21 và 22/2 tại Hà
Nội, ông Trần Trọng Phúc - Tổng Giám đốc bảo hiểm Bảo Việt nhấn
mạnh, năm 2011, bảo hiểm Bảo Việt đặt mục tiêu tổng doanh thu 5.660 tỷ
đồng, tăng trưởng 14,8% so với năm trước, trong đó doanh thu bảo hiểm
gốc đạt 4.872 tỷ đồng; lợi nhuận trước thuế đạt 406 tỷ đồng và tập trung
thực hiện ba chủ trương “Đổi mới - Chất lượng - Hiệu quả”. Trước

những yêu cầu, thách thức kinh doanh của năm 2011, bảo hiểm Bảo Việt
cần tập trung vào 3 mục tiêu: kinh doanh hiệu quả để tạo ra giá trị gia tăng
cho nhà đầu tư; cung cấp dịch vụ đa tiện ích, gia tăng giá trị cho khách
hàng; xây dựng môi trường làm việc thân thiện, tăng cường trách nhiệm
với cộng đồng.
Với quyết tâm và khí thế phấn đấu hoàn thành kế hoạch kinh doanh
năm 2011 của toàn thể tập thể cán bộ nhân viên, cùng đồng lòng chung sức,
bảo hiểm Bảo Việt sẽ đạt được các mục tiêu phát triển đặt ra, góp phần xây
Phan Thị Huệ Vinh Lớp: D3BH3
18
Khóa luận tốt nghiệp
dựng “Một Bảo Việt - Một nền tảng mới” và thực hiện “Niềm tin vững
chắc, Cam kết vững bền” trong toàn hệ thống của Bảo Việt.
2.1.2 Lịch sử ra đời hình thành và phát triển của công ty Bảo Việt Hà
Nội:
Ngày 17/11/1980 Bộ Trưởng Bộ Tài Chính đã ra Quyết định số:
1125/TC- QĐ- TCCB về việc thành lập Chi nhánh bảo hiểm thành phố Hà
Nội- tên giao dịch là “BAO VIET HA NOI” – đơn vị thành viên hạch toán
báo sổ trực thuộc công ty bảo hiểm Việt Nam và chính thức đưa chi nhánh
vào hoạt động.
Ngay sau khi được thành lập, Bảo Việt Hà Nội triển khai thực hiện
các hoạt động cụ thể:
+ Triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gốc: Từ nghiệp vụ triển khai đầu tiên
là Bảo hiểm tai nạn hành khách đi lại trên các phương tiện vận tải công
cộng của Nhà nước như: bảo hiểm cho toàn bộ hành khách đi lại trên
phương tiện vận tải đường sắt trong cả nước, cho ngành vận tải trên địa bàn
Thủ đô, đến tháng 3/1981 triển khai thêm nghiệp vụ bảo hiểm Trách nhiệm
dân sự chủ xe cơ giới, sau đó tiếp tục triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm
con người và đến năm 1986 bắt đầu triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm tài
sản và bảo hiểm hàng hải.

+ Cơ cấu tổ chức: Khi mới ra đời công ty chỉ có 7 cán bộ được điều
động từ Công ty Bảo hiểm Việt Nam tham gia tổ chức bộ máy. Lúc này
Công ty chỉ hình thành 2 bộ phận ( Quản lý và nghiệp vụ ) công việc giao
cho các cán bộ hầu hết là kiêm nhiệm. Từ năm 1985- 1986 cơ cấu quản lý
tại Bảo Việt Hà Nội đã hình thành một cách rõ rệt các phòng chuyên biệt:
Phòng bảo hiểm hàng hải, phòng bảo hiểm xe cơ giới, phòng bảo hiểm con
người, phòng tài chính kế toán tổng hợp. Ngày đầu thành lập, Trụ sở chính
của Bảo Việt Hà Nội được đặt tại số 7 Lý Thường Kiệt, Hà Nội, sau đó
chuyển về 17 phố Hàng Than và từ năm 1990 chuyển về 15C Trần Khánh
Dư, Hà Nội.
Công ty Bảo Việt Hà Nội:
Tên doanh nghiệp: CÔNG TY BẢO HIỂM BẢO VIỆT
Tên giao dịch quốc tế: BAO VIET INSURANCE HA NOI
Ban giám đốc công ty:
Giám đốc: Ông ĐINH HỒNG HẢI
Phó giám đốc: HOÀNG VĂN LỊCH- PHẠM KHẮC THIỆM- VŨ
ĐĂNG
Loại hình doanh nghiệp: Công ty cổ phần.
Phan Thị Huệ Vinh Lớp: D3BH3
19
Khóa luận tốt nghiệp
Ngành nghề kinh doanh: Bảo hiểm phi nhân thọ.
Trụ sở chính: 15C Trần Khánh Dư- Q. Hoàn Kiếm- Hà Nội.
Điện thoại: 043 933 3950, 043 824 2287.
Fax: 043 826 7663.
2.1.3 Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và hệ thống tổ chức bộ máy
của công ty Bảo Việt Hà Nội:
2.1.3.1 Chức năng, nhiệm vụ:
Triển khai công tác bảo hiểm nhà nước trên địa bàn Thủ đô theo tổ
chức và quản lý của Tổng công ty Bảo hiểm Bảo Việt.

Tuân thủ các chế độ chính sách quản lý kinh tế, quản lý tài sản, tài
chính, lao động do Nhà nước ban hành.
2.1.3.2 Quyền hạn:
Công ty Bảo Việt Hà Nội là công ty trực thuộc Tổng công ty Bảo
Việt Việt Nam, công ty có trụ sở riêng, có tư cách pháp nhân đầy đủ và có
con dấu riêng, được mở tài khoản tại ngân hàng trong nước bằng tiền Việt
hoặc ngoại tệ.
2.1.3.3 Bộ máy tổ chức:(phụ lục 1)
Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty theo kiểu trực tuyến đứng đầu là
Ban giám đốc gồm 1 giám đốc và 3 phó giám đốc. Giám đốc công ty do
Hội Đồng Quản Trị Tổng công ty bổ nhiệm, là người chịu trách nhiệm
trước pháp luật và là người có quyền điều hành cao nhất công ty. Phó giám
đốc phụ trách giám sát trực tiếp tất cả các phòng ban, trợ giúp tham mưu
cho giám đốc. Dưới ban giám đốc là các phòng ban chức năng có vai trò
trực tiếp quản lý các nghiệp vụ và thực hiện các chức năng kinh doanh.
Mô hình tổ chức theo kiểu trực tuyến là cơ cấu điển hình mà hầu hết
các công ty bảo hiểm đều áp dụng. Chính cơ cấu này đã có những ảnh
hưởng đến hoạt động kinh doanh của công ty, cụ thể qua một số ưu nhược
điểm sau:
Ưu điểm: Mô hình theo chức năng đảm bảo phát huy tối đa khả năng
làm việc của các cá nhân. Mô hình tổ chức theo khu vực đại lý theo quận
đảm bảo đáp ứng đầy đủ nhu cầu và dịch vụ phục vụ cho khách hàng thuận
lợi nhất, mạng lưới bảo hiểm rộng khắp mà chi phí quản lý không quá tốn
kém. Đáp ứng được yêu cầu chuyên môn hóa cao, đảm bảo phát huy được
những ưu điểm của chế độ một lãnh đạo và phát triển tối đa hệ thống các
bộ phận trực tuyến.
Phan Thị Huệ Vinh Lớp: D3BH3
20

×