Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Thực trạng triển khai nghiệp vụ Tái bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Tổng Công ty Cổ phần Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam – VINARE

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (498.74 KB, 81 trang )

1
Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Năm 2007, sau quá trình nhiều năm tham gia đàm phán, Việt Nam đã chính thức
gia nhập Tổ chức Kinh tế Thế giới WTO. Đây chính là cột mốc vô cùng quan trọng,
mở ra một giai đoạn phát triển hoàn toàn mới cho nền kinh tế nước nhà nói chung và
ngành bảo hiểm nói riêng. Tuy nhiên, việc gia nhập WTO cũng đã đặt ra vô vàn khó
khăn cho các doanh nghiệp trong nước bởi những quy định về mở cửa thị trường cũng
như hạn chế những chính sách ưu tiên chủ quan cho kinh tế nước nhà. Chỉ sau bốn
năm, hàng ngàn doanh nghiệp nước ngoài đã xâm nhập thị trường Việt Nam cùng với
nguồn vốn giàu có về kinh nghiệm cũng như tài chính. Không nằm ngoài xu thế của thị
trường, ngành Bảo hiểm – Tái bảo hiểm nước nhà cũng là một mảnh đất màu mỡ cho
các doanh nghiệp nước ngoài. Chính sự cạnh tranh vô cùng gay gắt này đã đặt ra cho
các doanh nghiệp Bảo hiểm – Tái bảo hiểm nước nhà yêu cầu phải thay đổi cách quản
lý cũng như cách tiếp cận thị trường theo hướng ngày một minh bạch hơn. Đặc biệt,
yêu cầu này là vô cùng cấp thiết đối với các doanh nghiệp bảo hiểm – tái bảo hiểm khai
thác nghiệp vụ tái bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển.
Với đặc tính nghiệp vụ liên quan nhiều đến sự phát triển của nền kinh tế thương mại
quốc tế, cũng như những hợp đồng thường mang tính quốc tế cao, các doanh nghiệp
bảo hiểm khai thác nghiệp vụ này phải chịu sự cạnh tranh rất lớn từ những đối thủ
nước ngoài.
Bước sang giai đoạn 2 năm 2008 và 2009, khi các doanh nghiệp bảo hiểm nước
nhà đang trong những bước đầu thích nghi với một thị trường mới theo hướng tự do
hóa thương mại thì nền kinh tế thế giới lại có những diễn biến xấu. Cuộc khủng hoảng
kinh tế toàn cầu kéo dài từ giữa năm 2008 đến nay đã ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh
tế Thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Kéo theo hậu quả của sự suy thoái nền
kinh tế nước nhà, lượng hàng hóa xuất nhập khẩu cũng vì thế mà bị giảm đi đáng kể.
Tào Quang Hiển – Kinh tế Bảo hiểm 49
2
Chuyên đề tốt nghiệp
Điều này hệ lụy đã tác động mạnh mẽ đến nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập


khẩu vận chuyển bằng đường biển vận chuyển bằng đường biển tại các doanh nghiệp
bảo hiểm. Đứng trước tình hình đó, Nhà nước và cơ quan quản lý đã yêu cầu VINARE
thể hiện rõ vai trò là người dẫn đầu, đầu tàu của ngành bảo hiểm nước nhà, đưa ngành
vượt qua những khó khăn của cuộc khủng hoảng kinh tế.
Năm 2010, nền kinh tế Việt Nam dần dần bước ra khỏi cuộc khủng hoảng, suy
thoái kinh tế toàn cầu. Nhưng tác động của cuộc khủng hoảng đến nền kinh tế hiện thời
là rất lớn, điều này có thể thấy con số mức lạm phát năm 2010 vào khoảng 11,75%.
Tuy nhiên, nhờ những đường lối đúng đắn của Nhà nước, những quyết sách hợp lý của
các đơn vị chức năng, tình hình xuất nhập khẩu của nước nhà đã có nhiều tín hiệu đáng
mừng. Năm 2010, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt khoảng 71,6 tỷ USD, góp
phần giảm nhập siêu còn 12,3 tỷ USD (so với 13,5 tỷ USD kế hoạch đầu năm giảm 1,2
tỷ USD). Trong đó, hầu hết giá trị hàng hóa xuất nhập khẩu đều được vận chuyển bằng
đường biển. Nhờ thực tế đó, các doanh nghiệp bảo hiểm khai thác nghiệp vụ bảo hiểm
hàng hóa xuất nhập khẩu đã có những thành công bước đầu về doanh thu phí. Để có
được thành công này, một phần công sức không nhỏ đó là nhờ vào sự thích hợp, kịp
thời, chính xác của các doanh nghiệp bảo hiểm gốc trong việc nhận những hợp đồng
bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển phù hợp với khả năng
chi trả của công ty và tái đi những hợp đồng có giá trị lớn hơn.
Có thể khẳng định, sau 4 năm gia nhập WTO, mặc dù còn rất nhiều khó khăn
trước mắt, nhưng nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành bảo hiểm Việt Nam nói
riêng đã vượt qua được những thách thức ban đầu, rút ra được nhiều bài học để định
hướng phát triển bền vững. Môi trường kinh doanh nước nhà đã được cải thiện một
cách rõ rệt, minh bạch hơn nhờ thực thi các cam kết về minh bạch hóa chính sách,
không phân biệt đối xử, giảm bớt rào cản trong tiếp cận thị trường và bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ. Nhận thức của người dân và các doanh nghiệp về tham gia WTO đã có
Tào Quang Hiển – Kinh tế Bảo hiểm 49
3
Chuyên đề tốt nghiệp
những sự chuyển biến tích cực. Tất cả những thay đổi đó đã tác động vô cùng mạnh mẽ
đến các doanh nghiệp bảo hiểm và tái bảo hiểm.

Và, VINARE cũng không nằm ngoài xu thế đó. Với vai trò là đầu tàu của
ngành, VINARE không chỉ thể hiện vai trò là một nhà tái bảo hiểm mà còn làm rất tốt
vai trò là cầu nối giúp các doanh nghiệp bảo hiểm gốc trong nước thực hiện nghiệp vụ
tái bảo hiểm với nhau và với các doanh nghiệp nước ngoài. Trong những năm vừa qua,
cùng với sự phát triển ngày một lớn mạnh của công ty, ban lãnh đạo VINARE cũng đã
thể hiện sự quan tâm đến nghiệp vụ tái bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển
bằng đường biển. Tuy nhiên, trong quá trình kinh doanh vẫn còn một số vấn đề cần
nghiên cứu và làm rõ để giải quyết vướng mắc ở khâu nghiệp vụ.
Với vốn kiến thức còn rất hạn chế của một sinh viên năm thứ tư và niềm yêu
thích đối với nghiệp vụ Tái bảo hiểm, sau một quá trình thực tập tại Tổng Công ty Cổ
phần Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam – VINARE, em xin mạnh dạn đề xuất đề tài:
“Thực trạng triển khai nghiệp vụ Tái bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu
vận chuyển bằng đường biển tại Tổng Công ty Cổ phần Tái bảo hiểm Quốc gia Việt
Nam – VINARE”
Bài viết được chia thành ba chương:
- Chương I: Khái quát chung về Tái bảo hiểm và Tái bảo hiểm hàng hóa
xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển
- Chương II: Thực trạng triển khai nghiệp vụ Tái bảo hiểm hàng hóa xuất
nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Tổng Công ty Cổ phần Tái bảo hiểm
Quốc gia Việt Nam
- Chương III: Một số kiến nghị nhằm phát triển nghiệp vụ tái bảo hiểm
hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Tổng Công ty Cổ phần
Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam – VINARE
Tào Quang Hiển – Kinh tế Bảo hiểm 49
4
Chuyên đề tốt nghiệp
Trong quá trình thực hiện bài viết, mặc dù đã hết sức cố gắng, nhưng do sự hạn
chế về mặt kiến thức nên bài viết chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót
nhất định. Em kính mong sự đóng góp ý kiến, nhận xét của thầy cô, các cán bộ và các
bạn để bài viết của em có thể được hoàn thiện hơn.

Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô giáo – Ths. Bùi Quỳnh
Anh, ban lãnh đạo Tổng Công ty Cổ phần Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam –
VINARE và đặc biệt là các anh chị cán bộ, trưởng phòng Tái bảo hiểm hàng hải của
Quý công ty đã giúp đỡ em hoàn thành bài viết này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Tào Quang Hiển – Kinh tế Bảo hiểm 49
5
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG I: Khái quát chung về Tái bảo hiểm và
Tái bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển
1.1 Khái quát chung về Tái bảo hiểm
1.1.1 Tái bảo hiểm
1.1.1.1 Khái niệm, sự cần thiết, lịch sử ra đời và quá trình phát triển của Tái bảo
hiểm
a. Khái niệm:
Khi nền sản xuất xã hội ngày càng đạt được nhiều thành tự lớn cũng là lúc bảo
hiểm xuất hiện và ngày càng trở thành một nhu cầu không thể thiếu được trong đời
sống kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Nhờ có bảo hiểm, giá trị của một số lượng lớn
những rủi ro xảy ra đối với một cá nhân hay tổ chức đã được “chia sẻ” cho những
người khác, tạo nên tính bền vững, tính cộng đồng của xã hội. Theo quan điểm đó, nếu
như bảo hiểm được hiểu là hình thức dàn trải tổn thất của một số ít người cho nhiều
người khi họ cùng tham gia bảo hiểm thì tái bảo hiểm là hình thức dàn trải những tốt
thất mà công ty bảo hiểm phải gánh chịu. Nói một cách khác, Tái bảo hiểm là bảo
hiểm cho các nhà bảo hiểm.
b. Sự cần thiết của Tái bảo hiểm
Tào Quang Hiển – Kinh tế Bảo hiểm 49
6
Chuyên đề tốt nghiệp
Đi kèm với sự phát triển của nền kinh tế xã hội nói chung và ngành bảo hiểm
nói riêng là một số lượng rất lớn những rủi ro mà các doanh nghiệp bảo hiểm thường

xuyên phải đối mặt, trong đó phải kể đến: đối tượng tham gia có giá trị quá lớn mà khả
năng tài chính của doanh nghiệp có hạn, những tổn thất xảy ra liên tục trong thời gian
ngắn, xác định phí bảo hiểm không chính xác gây ra hiện tượng thu không đủ bù chi,
đối tượng tham gia bảo hiểm hoạt động ở địa bàn quá xa công ty, không đủ khả năng
kiểm soát và quản lý ruiri ro cũng dễ bị phá sản. Đứng trước những khó khăn thực tế
đó, việc đưa ra hình thức nhằm bảo vệ các công ty bảo hiểm hiểm được đặt ra.
Đầu tiên, để giải quyết khó khăn này, hình thức đồng bảo hiểm (nhiều công ty
cùng bảo hiểm cho một đối tượng tham gia) được đưa ra, nhưng hình thức này khi thực
tế đưa vào hoạt động đã mắc phải hai nhược điểm lớn, đó là: việc ký kết hợp đồng
thường bị kéo dài làm ảnh hưởng đến cơ hội kinh doanh; nếu tổn thất xảy ra, rất khó
tập trung bồi thường dẫn đến tình trạng đối tượng tham gia bảo hiểm dễ nghi ngờ khả
năng tài chính của công ty bảo hiểm.
Chính vì thực tế đó, hình thức tái bảo hiểm đã được đưa ra. Trong hình thức
này, công ty bảo hiểm ban đầu là công ty gốc (công ty nhượng tái bảo hiểm), các công
ty còn lại là các công ty tái bảo hiểm (công ty nhận tái bảo hiểm). Tái bảo hiểm đã giải
quyết được những vướng mắc của hình thức đồng bảo hiểm, thể hiện trên bốn tác dụng
chủ yếu:
- Phân tán rủi ro nhanh để tránh phá sản góp phần ổn định tài chính cho công ty
gốc.
- Góp phần làm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước và tăng ngoại tệ cho các
quốc gia.
- Công ty gốc còn nhận được một tỷ lệ phần trăm hoa hồng nhất định tính trên
phí tái bảo hiểm, đồng thời nó còn tăng uy tín cho công ty gốc.
Tào Quang Hiển – Kinh tế Bảo hiểm 49
7
Chuyên đề tốt nghiệp
- Tái bảo hiểm ra đời còn góp phần thực hiện đường lối kinh tế đối ngoại của
các quốc gia.
Như vậy, sự ra đời của tái bảo hiểm là một tất yếu khách quan, nhằm mục đích
thúc đẩy phát triển hơn nữa thị trường bảo hiểm đầy triển vọng của các quốc gia nói

riêng và thế giới nói chung
c. Lịch sử ra đời và quá trình phát triển của tái bảo hiểm
* Trên thị trường quốc tế:
Vào giai đoạn cuối cùng của thời đại trung cổ, cùng với sự phát triển của nền
kinh tế Tư bản chủ nghĩ là sự mở rộng cả về quy mô và chất lượng của ngành bảo hiểm
ở Châu Âu. Song song với sự phát triển này là sự tương đương về số lượng rủi ro mà
các nhà bảo hiểm phải đối mặt. Đó có thể là rủi ro về việc số lượng đơn bảo hiểm phải
đền bù ngày càng tăng, việc gian lận, truộc lợi bảo hiểm được thực hiện một cách tinh
xảo… Và kèm theo những rủi ro đó, các công ty còn phải giải quyết một vấn đề nan
giải khác đó là việc có những đơn bảo hiểm với giá trị bảo hiểm vượt khả năng của các
công ty. Chính để giải quyết vấn đề này, Tái bảo hiểm ra đời như một tất yếu khách
quan và ngày càng khẳng định vai trò không thể thiếu trong sự phát triển của thị trường
bảo hiểm thế giới nói chung.
Italia là nước đầu tiên chứng kiến sự ra đời của dịch vụ tái bảo hiểm vào giai
đoạn cuối cùng của thời đại trung cổ. Bản giao ước cổ nhất được biết đến với tính chất
pháp lý như một hợp đồng tái bảo hiểm đã được ký kết tại thành phố Genoa vào năm
1370 giữa một bên là hai thương nhân hoạt động với tư cách như nhà tái bảo hiểm và
một bên là đại diện cho một nhà bảo hiểm. Và sau sự kiện có tính chất mở đầu này, với
sự phát triển rộng rãi về những mối quan hệ giữa các thành phố của Italia và các nước
Bắc Âu, đặc biệt là Anh, dịch vụ tái Bảo hiểm đã đạt được những bước tiến mới.
Nhưng do những sai phạm xảy ra, nước Anh đã ra đạo luật cấm hoạt động tái
bảo hiểm hàng hải trong một thời gian dài, từ năm 1746 – 1804. Đạo luật này đã tạo
Tào Quang Hiển – Kinh tế Bảo hiểm 49
8
Chuyên đề tốt nghiệp
điều kiện cho Lloy’d phát huy ảnh hưởng của mình bằng cách đồng bảo hiểm. Và sau
năm 1804, Lloy’d nghiễm nhiên trở thành một cơ sở tái bảo hiểm hàng đầu trên thế
giới. Trong thời gian này, hình thức tái bảo hiểm duy nhất được áp dụng đó là tái bảo
hiểm tùy ý lựa chọn cho từng hợ đồng riêng lẻ.
Đến giữa thế kỷ 19, những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật khi

áp dụng vào sản xuất đã đưa nền kinh tế của các nước tư bản lên một tầm cao mới.
Quan hệ thương mại giữa các nước ngày càng được mở rộng và phát triển mạnh. Và
thực tế đã cho thấy hình thức hợp đồng tái bảo hiểm trao đổi qua lại giữa các nhà bảo
hiểm như trên không còn đáp ứng được nhu cầu. Và để đáp ứng nhu cầu đổi mới, các
công ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp (công ty nhận tái bảo hiểm, nhà tái bảo hiểm) được
thành lập. Năm 1846, công ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp đầu tiên được thành lập với
cái tên KolnischeRuck AG tại Koln nước Đức. Tiếp theo đó, hàng loạt các công ty hoạt
động trên lĩnh vực tái bảo hiểm được thành lập, đáng chú ý có Công ty tái bảo hiểm
Thụy Sỹ (Swiss Re) năm 1963, Công ty tái bảo hiểm London (London Guarantee
Reinsurance Co.LTD) năm 1869, Công ty tái bảo hiểm Munich Re (Munchences Ruck.
AG) năm 1880. Cùng với sự xuất hiện của ngày càng nhiều công ty, các hình thức,
phương pháp tái bảo hiểm được xây dựng, kỹ thuật tái bảo hiểm ngày càng được cải
tiến.
Tuy nhiên, do ảnh hưởng của hai cuộc chiến tranh thế giới, cùng với cuộc khủng
hoảng kinh tế, lạm phát tiền tệ đã làm tổn hại lớn đến sự phát triển của bảo hiểm nói
chung và tái bảo hiểm nói riêng. Trong đó, bị tổn hại nhiều nhất phải kể đến các công
ty tái bảo hiểm của Đức. Và cũng trong thời gian này, lợi dụng sự suy yếu của các công
ty tái bảo hiểm của Đức, các công ty tái bảo hiểm quốc tê của Mỹ, Thụy Sỹ đã vươn
lên thành những công ty tái bảo hiểm “đồ sộ” trên thế giới.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, các công ty tái bảo hiểm của Đức phục hồi một
cách nhanh chóng. Các công ty bảo hiểm cũng có xu hướng tiến hành đồng thời dịch
Tào Quang Hiển – Kinh tế Bảo hiểm 49
9
Chuyên đề tốt nghiệp
vụ tái bảo hiểm. Cùng với đó, ở các nước XHCN, các tổ chức độc quyền tái bảo hiểm,
cục bộ hay toàn phần cũng được thành lập, nhằm bảo vệ lợi ích cho riêng họ.
Cho đến nay, tái bảo hiểm đã trở nên hết sức quen thuộc và phổ biến trong hoạt
động kinh doanh bảo hiểm. Ngày nay, khi quá trình hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra
trên cả bề rộng và bề sâu thì tái bảo hiểm đang đứng trước một cơ hội phát triển rất lớn,
với kỳ vọng sớm trở thành một hệ thống mang tính quốc tế cao.

* Trên thị trường Việt Nam
Hoạt động bảo hiểm ở nước ta ra đời khá muộn so với thế giới. Gần 30 năm đầu
tiên, từ 1965 – 1993, các nghiệp vụ bảo hiểm và tái bảo hiểm được cung cấp độc quyền
bởi Công ty bảo hiểm Việt Nam (nay là Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam – Bảo Việt).
Sau khi nghị định 100-CP (18/12/1993) của Chính Phủ được ban hành, hàng loạt các
công ty bảo hiểm trong và ngoài nước đã được thành lập và đi vào hoạt động, trong đó
phải kể đến: Bảo Minh, AAA, PJICO, PVI, PTI, Prudential, Liberty, Cathay, Mars…
Chính sự xuất hiện ngày một nhiều công ty bảo hiểm đã khiến cho thị trường bảo hiểm
Việt Nam ngày càng phát triển, đồng thời tăng cường mối quan hệ với thị trường bảo
hiểm và tái bảo hiểm thế giới. Chính vì vậy, kèm theo sự phát triển của các công ty bảo
hiểm gốc là sự xuất hiện của các công ty tái bảo hiểm ở Việt Nam, đặc biệt là Công ty
Cổ phần Tái bảo hiểm Quốc gia – VINARE.
Sau gần 20 năm hoạt động, thị trường tái bảo hiểm ở nước ta có những nét khái
quát như sau:
- Từ 1965 – 1975: Giai đoạn độc quyền của Công ty Bảo hiểm Việt Nam, nhưng
cũng chỉ thực hiện tái bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu và thân tàu thủy với các nước
XHCN. Do mới xuất hiện và chưa có được nhiều sự đón nhận của dân chúng nên giai
đoạn này chỉ được coi là giai đoạn thử nghiệm hoạt động bảo hiểm và tái bảo hiểm.
- Từ 1975 – tháng 12/1993: Hoạt động tái bảo hiểm được mở rộng. Trước tháng
2/1993, Bảo Việt giữ lại 5% và tái đi 10% cho các nước XHCN và 85% cho hội tái bảo
Tào Quang Hiển – Kinh tế Bảo hiểm 49
10
Chuyên đề tốt nghiệp
hiểm Tây Âu. Đối với dịch vụ bảo hiểm hàng không, Bảo Việt tái bảo hiểm toàn bộ giá
trị bảo hiểm thân máy bay, mức trách nhiệm giữ lại rất ít.
- Từ 1994 – nay: sau khi nghị quyết 100-CP của Chính Phủ được ban hành, hoạt
động tái bảo hiểm có mở rộng, nhưng mức giữ lại của các công ty bảo hiểm gốc vẫn rất
thấp. Để khắc phục tình trạng đó, chính phủ đã ra quyết định thành lập Công ty Tái bảo
hiểm Quốc gia Việt Nam – VINARE vào 20/12/2994. VINARE đi vào hoạt động đã
mở ra một thời kỳ phát triển mới cho thị trường bảo hiểm và tái bảo hiểm Việt Nam.

1.1.1.2. Phân biệt tái bảo hiểm với đồng bảo hiểm
Tại các công ty bảo hiểm, người ta thường nhắc đến hai phương pháp san sẻ rủi
ro, đó là: tái bảo hiểm và đồng bảo hiểm. Người tham gia bảo hiểm rất dễ nhầm lẫn
giữa hai phương pháp này nếu không hiểu rõ bản chất và sự khác biệt của hai phương
pháp.
* Giống nhau: Nếu coi vai trò của người được bảo hiểm khi kí kết hợp đồng bảo
hiểm gốc và người nhận bảo hiểm gốc khi kí kết tái bảo hiểm là như nhau, thì tái bảo
hiểm và đồng bảo hiểm đều là phương pháp giúp phân tán rủi ro, chuyển rủi ro có thể
xảy ra đối với người tham gia bảo hiểm (công ty bảo hiểm gốc) sang người nhận bảo
hiểm (các nhà tái bảo hiểm).
* Khác nhau:
Những điểm khác nhau cơ bản của Tái bảo hiểm và Đồng bảo hiểm bao gồm:
Tiêu chí so sánh Tái bảo hiểm Đồng bảo hiểm
Điểm xuất phát Xuất phát từ người bảo hiểm Xuất phát từ người tham gia
bảo hiểm
Tính chịu trách
nhiệm
Công ty nhận tái bảo hiểm
chỉ chịu trách nhiệm đối với
công ty bảo hiểm gốc (công
ty nhượng tái bảo hiểm)
Công ty bảo hiểm chịu trách
nhiệm trực tiếp với người
tham gia bảo hiểm
Tào Quang Hiển – Kinh tế Bảo hiểm 49
11
Chuyên đề tốt nghiệp
Số lượng đơn vị
nhận trách nhiệm
Có thể chỉ cần một nhà tái

bảo hiểm hoặc nhiều hơn
Phải có ít nhất hai nhà bảo
hiểm trở lên
Công tác bồi
thường tổn thất
Có thể huy động vốn bồi
thường một cách nhanh
chóng, công ty tái bảo hiểm
có thể trích trước để giải
quyết sự cố
Huy động vốn bồi thường rất
khó khăn và mất nhiều thời
gian, gây khó khăn cho người
tham gia bảo hiểm
Ngoài ra, chúng ta cũng có thể thấy điểm khác biệt của Tái bảo hiểm và Đồng
bảo hiểm qua những sơ đồ sau:
Sơ đồ 1: Đồng bảo hiểm
Công ty Bảo hiểm A Công ty Bảo hiểm B Công ty Bảo hiểm C
Người được bảo hiểm
: Thực hiện hợp đồng bảo hiểm
Trong sơ đồ trên, Công ty Bảo hiểm A, Công ty Bảo hiểm B, Công ty Bảo hiểm
C cùng bảo hiểm cho Người được bảo hiểm, điều này có nghĩa là Các công ty bảo hiểm
A, B, C đồng bảo hiểm cho Người được bảo hiểm.
Sơ đồ 2: Tái bảo hiểm
Tào Quang Hiển – Kinh tế Bảo hiểm 49
12
Chuyên đề tốt nghiệp
Công ty
Tái bảo hiểm A
Công ty

Tái bảo hiểm B
Công ty
Tái bảo hiểm C
Công ty Bảo hiểm gốc
: Thực hiện hợp đồng Tái bảo hiểm
Trong sơ đồ trên, Công ty Bảo hiểm gốc sau khi kí kết hợp đồng bảo hiểm đối với
khách hàng sẽ thực hiện việc tái đi hợp đồng Bảo hiểm đó cho các Công ty Tái bảo
hiểm.
1.1.2. Các hình thức tái bảo hiểm
1.1.2.1 Tái bảo hiểm tạm thời (Facultative Reinsurance)
a. Khái niệm
Tái bảo hiểm tạm thời còn gọi là tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn, là hính thức tái
bảo hiểm cơ bản và cổ điển nhất. Theo hình thức này, công ty bảo hiểm gốc nhượng
cho công ty tái bảo hiểm từng dịch vụ hay từng đơn bảo hiểm một cách riêng lẻ. Công
ty bảo hiểm gốc có toàn quyền quyết định tái bảo hiểm cho dịch vụ nào, với tỷ lệ bao
nhiêu, cho công ty tái bảo hiểm nào. Công ty tái bảo hiểm có quyền nhận hoặc từ chối
dịch vụ và đơn bảo hiểm đó, hoặc chỉ nhận tái bảo hiểm với một tỷ lệ nhất định mà họ
con là thích hợp.
Công ty bảo hiểm gốc có nghĩa vụ cung cấp cho công ty tái bảo hiểm mọi thông
tin có liên quan đến dịch vụ được bảo hiểm. Trên thực tế, nhà tái bảo hiểm cũng tiền
hành đánh giá mức độ rủi ro của dịch vụ rồi quyết định có nhận tái bảo hiểm hay không
mà không cần đầy đủ các thông tin chi tiết.
Tào Quang Hiển – Kinh tế Bảo hiểm 49
13
Chuyên đề tốt nghiệp
b. Ưu, nhược điểm:
* Ưu điểm:
- Phương pháp này cho pháp các công ty bảo hiểm nhỏ có thể cạnh tranh để
nhận những đơn bảo hiểm lớn nằm ngoài khả năng của mình.
- Tái bảo hiểm tạm thời cho pháp công ty bảo hiểm gốc nhận những dịch vụ

nằm ngoài phạm vi khai thác thông thường của mình. Những dịch vụ như vậy giúp các
công ty bảo hiểm gốc giữ được uy tín đối với khách hàng.
- Phương pháp này giúp một nhóm các công ty bảo hiểm gốc có quan hệ thân
thiết, có khả năng trao đổi các rủi ro được đánh giá là tốt trên cơ sở tạm thời để tiến
hành phân tán rủi ro và đảm bảo doanh thu ổn định
* Nhược điểm
- Tái bảo hiểm tạm thời đòi hỏi nhiều thời gian vì mỗi dịch vụ phải được giải
quyết riêng lẻ. Công ty bảo hiểm gốc phải thu xếp tái bảo hiểm tạm thời trước khi nhận
một dịch vụ, do đó việc quyết định nhận bảo hiểm sẽ bị chậm lại cho đến khi thu xếp
xong toàn bộ tái bảo hiểm tạm thời. Chính việc này sẽ gây ra tình trạng công ty bảo
hiểm gốc có khả năng phải nhường dịch vụ cho những đối thủ cạnh tranh lớn mạnh
hơn, hoặc nhận bảo hiểm mà không được bảo vệ đầy đủ bằng tái bảo hiểm, dẫn đến đôi
khi làm mất uy tín đối với khách hàng do hiện tượng chậm trễ xảy ra.
- Tái bảo hiểm tạm thời yêu cầu công ty bảo hiểm gốc phải thực hiện những
công việc liên quan đến đàm phán, soạn thảo hợp đồng và thanh toán, điều này sẽ ảnh
hưởng không nhỏ đến lợi nhuận thu được của doanh nghiệp.
- Tái bảo hiểm tạm thời cũng yêu cầu các công ty bảo hiểm gốc phải lặp lại toàn
bộ quy trình đàm phán trước mỗi kỳ tái bảo hiểm mới. Nếu có thay đổi, hủy bỏ thì càng
gây ra thêm nhiều công việc không cần thiết cho doanh nghiệp bảo hiểm.
Tào Quang Hiển – Kinh tế Bảo hiểm 49
14
Chuyên đề tốt nghiệp
- Tái bảo hiểm tạm thời nghĩa là liên tục phải tiết lộ những thông tin về dịch vụ
nhận bảo hiểm, điều này dễ dẫn đến việc rò rỉ tin tức khách hàng, tạo cơ hội cạnh tranh
cho đối thủ.
1.1.2.2 Tái bảo hiểm cố định (Obligatory Reinsurance)
a. Khái niệm
Tái bảo hiểm cố định (hay còn gọi là tái bảo hiểm bắt buộc) là hình thức tái bảo
hiểm mà theo đó công ty nhượng tái phải nhượng cho công ty nhận tái bảo hiểm tất cả
các đơn vị rủi ro bảo hiểm gốc mà hai bên đã thỏa thuận và quy định trong hợp đồng.

Ngược lại, công ty nhận tái bảo hiểm cũng buộc phải chấp nhận bảo hiểm toàn bộ các
rủi ro đó.
b. Ưu, nhược điểm
* Ưu điểm:
- Tái bảo hiểm cố định giúp các công ty nhượng tái bảo hiểm có thể chủ động
chấp nhận, định phí bảo hiểm cho rủi ro bảo hiểm gốc mà không mất thời gian tham
khảo ý kiến của công ty nhận tái bảo hiểm, điều đó sẽ giúp hợp đồng bảo hiểm nhanh
chóng được ký kết.
- Việc công ty nhận tái bảo hiểm bảo vệ cho mọi rủi ro thuộc phạm vi hợp đồng
sẽ tăng khả năng an toàn của công ty bảo hiểm.
- Việc nhận tái bảo hiểm theo hợp đồng cố định cho phép công ty tái bảo hiểm
nhận được nhiều dịch vụ hơn so với việc nhận từng hợp đồng tạm thời đơn lẻ. Công ty
tái bảo hiểm sẽ có điều kiện thu được phí lớn, phù hợp với nguyên tắc “quy luật số
đông” giúp các nhà tái bảo hiểm có điều kiện đẩy mạnh tiến bộ kỹ thuật của ngành bảo
hiểm bằng việc chấp nhận rủi ro mới.
* Nhược điểm
Tào Quang Hiển – Kinh tế Bảo hiểm 49
15
Chuyên đề tốt nghiệp
- Thông thường thì tái bảo hiểm cố định sẽ gắn liền với một giai đoạn nhất định,
chính yếu tố đó đã gây ra sự thiếu linh hoạt trước những thay đổi của công ty nhượng
tái bảo hiểm.
- Vì mọi rủi ro phải tái đi cho nên công ty nhượng tái bảo hiểm phải nhượng cả
những đơn vị rủi ro có số tiền bảo hiểm nhỏ trong khi khả năng tài chính của họ vẫn đu
để đảm đương.
- Nếu công ty nhượng thiếu kinh nghiệm, đặc biệt nếu có sơ suất trong việc ký
kết hợp đồng bảo hiểm gốc thì hậu quả đối với các nhà tái bảo hiểm là rất khó lường
trước được.
1.1.2.3 Tái bảo hiểm lựa chọn - bắt buộc (Facultative-Obligatory Reinsurance)
a. Khái niệm:

Tái bảo hiểm lựa chọn – bắt buộc là một hình thức bảo hiểm mà công ty nhượng
không bắt buộc phải nhượng tất cả những dịch vụ mà mình nhận bảo hiểm, nhưng
ngược lại, nhà tái bảo hiểm bắt bộc phải chấp nhận các dịch vụ mà công ty nhương đã
đưa vào thỏa thuận này với điều kiện là những dịch vụ đó phải phù hợp với nội dung
và điều khoản đã quy ước của hợp đồng tái bảo hiểm thỏa thuận. Các bên tham gia hợp
đồng tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn – bắt buộc cần phải có sự trung thực tuyệt đối để đảm
bảo lợi ích cho các nhà nhận tái bảo hiểm
b. Ưu, nhược điểm:
* Ưu điểm:
- Với điều kiện này, công ty nhượng tái bảo hiểm không bắt buộc phải nhượng
tất cả những dịch vụ mà mình nhận bảo hiểm. Chính điểm linh hoạt này sẽ giúp công ty
nhượng tái bảo hiểm có thể lựa chọn dịch vụ để nhượng từng phần trách nhiệm vượt
quá khả năng giữ lại của mình và giữ lại những phần rủi ro trong khả năng đảm bảo bồi
thường nếu tổn thất xảy ra của công ty. Tuy nhiên, công ty nhượng không được lợi
dụng hình thức tái bảo hiểm này để lựa chọn những rủi ro xảy ra tổn thất đưa vào hợp
Tào Quang Hiển – Kinh tế Bảo hiểm 49
16
Chuyên đề tốt nghiệp
đồng và giữ lại những rủi ro có độ an toàn cao hơn. Để phòng ngừa trường hợp này xảy
ra, công ty tái bảo hiểm cần nắm rõ được ý đồ của công ty nhượng, xem xét kỹ các rủi
ro mà công ty nhượng đem tái bảo hiểm và thường xuyên theo dõi diễn biến của thỏa
thuận mà mình đã ký kết.
- Công ty nhận tái bảo hiểm có điều kiện thu được một nguồn phí tái bảo hiểm
lớn hơn và có phần thăn bằng hơn so với các hình thức tái bảo hiểm tạm thời.
- Công ty nhượng tái bảo hiểm có điều kiện đem chào tái bảo hiểm bảo hiểm
từng phần trách nhiệm thặng dư so với khả năng tự giữ lại cửa mình cho một nhà tái
bảo hiểm duy nhất hoặc một số nhà tái bảo hiểm mà họ lựa chọn thay cho việc phải
đem phân chia tất cả thặng dư so với khả năng tự giữ lại của mình cho các nhà tái bảo
hiểm. Tuy nhiên, cách tái bảo hiểm như thế này thường chỉ có thể thực hiện được bằng
cách chào cho các nhà tái bảo hiểm có tiềm lực thật lớn vì chỉ có họ mới có thể nhận

các giá trị bảo hiểm cao.
* Nhược điểm:
- Những quy định của tái bảo hiểm lựa chọn – bắt buộc khiến nhà tái bảo hiểm
không có quyền từ chối nhưng rủi ro mà người tái bảo hiểm chuyển cho họ. Tuy nhiên,
những rủi ro đó phải phù hợp với nội dung và điều khoản đã quy ước trong hợp đồng
tái bảo hiểm cố định.
- Ngoài ra, hình thức này còn gây ra nhiều bất lợi cho nhà tái bảo hiểm, vì
nguồn dịch vụ đưa vào hợp đồng này không thường xuyên và có khả năng gây ra tổn
thất một cách thất thường. Vì vậy, các bên tham gia hợp đồng cẩn phải có sự trung thực
tuyệt đối để đảm bảo cho các nhà tái bảo hiểm nhận được các dịch vụ phù hợp.
- Trường hợp công ty nhường có nhiều đơn vị rủi ro cần nhượng tái bảo hiểm thì
chi phí hành chính cho việc áp dụng hình thức này là rất tốn kém.
1.1.3. Các phương pháp tái bảo hiểm
Tào Quang Hiển – Kinh tế Bảo hiểm 49
17
Chuyên đề tốt nghiệp
Để đánh giá về các phương pháp tái bảo hiểm, chúng ta chia tái bảo hiểm thành
02 loại
- Tái bảo hiểm theo tỷ lệ (tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm).
- Tái bảo hiểm phi tỷ lệ (tái bảo hiểm theo mức bồi thường).
1.1.3.1 Tái bảo hiểm theo tỷ lệ
Tái bảo hiểm theo tỷ lệ (tái bảo hiểm theo số tiền bồi thường) là phương thức tái
bảo hiểm mà trong đó trách nhiệm của công ty nhượng tái bảo hiểm và công ty nhận tái
bảo hiểm đối với đơn vị rủi ro được bảo hiểm phân bố theo tỷ lệ tham gia của mỗi bên
trên cơ sở số tiền được bảo hiểm.
Tái bảo hiểm theo tỷ lệ được chia làm hai loại: Tái bảo hiểm số thành và Tái bảo
hiểm mức dôi.
a. Tái bảo hiểm số thành
Với phương pháp tái bảo hiểm số thành, công ty nhượng tái giữ lại cho mình
một tỷ lệ nhất định so với số tiền bảo hiểm, phần còn lại sẽ được tái đi. Chính vì điều

này, phí bảo hiểm và số tiền bảo hiểm cũng được phân bố giữa công ty nhượng tái bảo
hiểm và công ty nhận tái bảo hiểm theo tỷ lệ tương ứng.
* Ưu điểm: Phương pháp này sẽ giúp cho việc tính toánh hợp đồng diễn ra đơn
giản, ít tốn kém và công ty nhận tái bảo hiểm tham gia vào mỏi rủi roc ho nên phân tán
đều tổn thất, từ đó, việc cân đối thu chi của công ty nhượng và công ty nhận tái bảo
hiểm được đảm bảo.
* Nhược điểm: Tuy nhiên, phương thức này cũng tồn tại nhược điểm, đó là buộc
công ty nhượng phải tái đi mọi rủi ro cho nên không thể khai thác hết khả năng của
công ty, ảnh hưởng đến lợi nhuận. Mặt khác, công ty nhượng cũng gặp khó khăn trong
việc khống chế được tỷ lệ bồi thường đối với mức giữ lại nên cũng ảnh hưởng đến kết
quả kinh doanh.
Tào Quang Hiển – Kinh tế Bảo hiểm 49
18
Chuyên đề tốt nghiệp
Tái bảo hiểm số thành thường được sử dụng trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự,
bảo hiểm vận chuyển hàng hóa bằng đường biển… và thường kết hợp với tái bảo hiểm
mức dôi.
b. Tái bảo hiểm mức dôi
Với phương pháp tái bảo hiểm mức dôi, công ty nhượng tái bảo hiểm ấn định
mức giữ lại, số dôi ra sẽ được tái đi. Trong tái bảo hiểm mức dôi, trách nhiệm của
người nhận tái bảo hiểm được xác định theo lớp, tức là bội số của mức giữ lại. Do đó,
phí bảo hiểm và số tiền bảo hiểm bồi thường được phân bổ theo tỷ lệ tương ứng giữa
công ty nhượng và công ty nhận tái bảo hiểm.
* Ưu điểm: Đối với phương pháp này, công ty nhượng tái bảo hiểm có thể chủ
động tính toán và giữ lại được một cách ổn định số phí cho phù hợp với khả năng của
mình. Đồi với những hợp đồng có số tiền bảo hiểm nhỏ thì công ty nhượng tái bảo
hiểm có thể giữ lại toàn bộ. Còn về phía công ty nhận tái bảo hiểm, họ sẽ không tham
gia vào mọi đơn vị rủi ro mà chỉ can thiệp khi đơn vị rủi ro có số tiền bảo hiểm lớn hơn
mức giữ lại của người nhượng tái bảo hiểm.
* Nhược điểm: Tuy nhiên, phương pháp tái bảo hiểm mức dôi cũng đối mặt với

nhiều hạn chế. Người nhượng tái bảo hiểm vẫn có thể bị đe dọa bởi những trường hợp
tích tụ rủi ro và không thể áp dụng cho bảo hiểm trách nhiệm dân sự không giới hạn.
Hơn nữa, hình thức tái bảo hiểm mức dôi sẽ đòi hỏi công tác quản lý hợp đồng phức
tạp và tốn kém.
c. Tái bảo hiểm kết hợp số thành - mức dôi
Đây là hình thức kết hợp giữa hai phương pháp: tái bảo hiểm số thành và tái bảo
hiểm mức dôi. Trong phương pháp này, việc phân chia trách nhiệm và quyền lợi giữa
Tào Quang Hiển – Kinh tế Bảo hiểm 49
19
Chuyên đề tốt nghiệp
các bên được tiến hành theo trình tự từng hợp đồng. Trước hết tiến hành phân bổ cho
hợp đồng mức dôi.
* Ưu điểm: Phương pháp tái bảo hiểm kết hợp số thành – mức dôi có tác dụng
làm giảm nhẹ trách nhiệm của hợp đồng số thành, đồng thời công ty nhượng tái bảo
hiểm phải lo thu xếp tái bảo hiểm tạm thời.
* Nhược điểm: Đối với phương pháp tái bảo hiểm kết hợp số thành – mức dôi,
việc phân chia trách nhiệm và quyền lợi giữa các bên thực hiện theo trình tự từng hợp
đồng, việc này dẫn đến việc tốn kém về thời gian, tiền bạc trong việc thực hiện phân
chia trách nhiệm, quyền lợi; cũng như những yêu cầu khắt khe về độ chính xác trong
quá trình thực hiện để tránh tranh chấp, kiện tụng.
1.1.3.2 Tái bảo hiểm phi tỷ lệ
Tái bảo hiểm phi tỷ lệ (tái bảo hiểm theo mức bồi thường bảo hiểm) là phương
pháp tái bảo hiểm mà trong đó công ty nhượng tái bảo hiểm ấn định giới hạn bồi
thường bằng một số tiền mà họ có thể tự gánh chịu cho tổn thất, phần tổn thất vượt quá
mức giới hạn đó được chuyển cho nhà tái bảo hiểm gánh chịu. Các phương thức tái bảo
hiểm theo tỷ lệ liên quan đến các mức tỷ lệ của giá trị đối tượng chịu rủi ro, nhưng đối
với phương pháp tái bảo hiểm phi tỷ lệ lại có sự khác biệt. Phương pháp này dựa trên
các tổn thất chứ không phải là số tiền bảo hiểm.
Có ba phương thức tái bảo hiểm phi tỷ lệ cơ bản sau:
- Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường.

- Tái bảo hiểm vượt tỷ lệ bồi thường.
- Tái bảo hiểm kết hợp mức dôi – vượt mức bồi thường.
* Ưu điểm:
Phương pháp tái bảo hiểm theo tỷ lệ giúp cho công ty bảo hiểm gốc có khả năng
giữ lại ở một hạn mức nào đó lượng giá trị bảo hiểm trong khả năng đền bù của công ty
khi rủi ro xảy ra. Điều này giúp cho công ty bảo hiểm gốc có khả năng tăng cao về
Tào Quang Hiển – Kinh tế Bảo hiểm 49
20
Chuyên đề tốt nghiệp
nguồn thu. Hơn nữa, tái bảo hiểm theo tỷ lệ còn đặc biệt có ích đối với những công ty
bảo hiểm mới thành lập, còn ít kinh nghiệm hay những công ty nhận tái bảo hiểm mức
dôi.
* Nhược điểm:
Nhược điểm lớn nhất của Phương pháp tái bảo hiểm theo tỷ lệ là việc công ty
nhận tái bảo hiểm phải đối mặt với những rủi ro lớn hơn. Nếu không có sự chuẩn bị tốt
về tính toán, thống kê tổn thất thì công ty nhận tái bảo hiểm (tái bảo hiểm vượt mức bồi
thường) có nguy cơ phải đối mặt với những tổn thất lớn.
a. Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường
Đối với phương pháp tái bảo hiểm vượt mức bồi thường, công ty nhượng tái bảo
hiểm ấn định số tổn thất vượt quá điểm tự bồi thường chuyển giao cho công ty nhận tái
bảo hiểm, và công ty tái bảo hiểm nhận tái bảo hiểm theo từng lớp.
Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường có ba dạng:
- Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo nghiệp vụ không hạn mức.
- Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường có hạn mức từng sự cố.
- Tái bảo hiểm vượt mức bôi thường đảm bảo tai họa khốc liệt.
b. Tái bảo hiểm vượt tỷ lệ bồi thường
Đối với phương pháp tái bảo hiểm vượt tỷ lệ bồi thường, công ty nhượng tái bảo
hiểm khống chế trách nhiệm bồi thường một tỷ lệ nhất định, những tỷ lệ bồi thường
vượt mức quy định này sẽ được chuyển giao cho nhà tái bảo hiểm. Phương pháp này
giúp cho công ty nhượng tái bảo hiểm “an toàn” trước sự gia tăng đột biến của tỷ lệ bồi

thường trong một ngành bảo hiểm hay một gói bảo hiểm nào đó trong một thời gian
nhất định, bất luận tình trạng đó do nguyên nhân nào gây ra.
c. Tái bảo hiểm kết hợp mức dôi - vượt mức bồi thường
Tào Quang Hiển – Kinh tế Bảo hiểm 49
21
Chuyên đề tốt nghiệp
Đối với phương pháp tái bảo hiểm kết hợp mức dôi – vượt mức bồi thường, việc
phân chia trách nhiệm ban đầu sẽ được tiến hành cho hợp đồng mức dôi. Khi tổn thất
xảy ra, các công ty tái bảo hiểm vượt mức bồi thường sẽ bảo vệ cho công ty nhượng
hoặc công ty nhận tái bảo hiểm mức dôi tùy theo yêu cầu. Công ty nào được bảo vệ
được bảo vệ thì công ty đó phải nộp phí đặt cọc. Nếu trong năm sau đó, tổn thất không
xảy ra, công ty được bảo hiểm không được đòi lại khoản phí này. Phương pháp này
giúp giảm nhẹ trách nhiệm cho công ty nhượng hay công ty nhận tái bảo hiểm mức dôi
khi có tổn thất lớn xảy ra. Đồng thời, phương pháp này cũng giúp ích nhiều cho những
công ty mới thành lập, ít kinh nghiệm. Hơn nữa, nó còn rất phù hợp với những nghiệp
vụ tái bảo hiểm ngắn hạn, giúp công ty nhượng tái bảo hiểm mức dôi không phải tạo
những hợp đồng tạm thời vào cuối năm nghiệp vụ.
1.1.4. Hợp đồng tái bảo hiểm
1.1.4.1. Định nghĩa
Hợp đồng tái bảo hiểm là thỏa thuận được ký kết giữa công ty nhượng và công
ty nhận tái bảo hiểm (công ty tái bảo hiểm, nhà tái bảo hiểm), trong đó nhà tái bảo
hiểm cam kết bồi thường phần trách nhiệm mà công ty nhượng phải gánh chịu trong
hợp đồng khi sự kiện bảo hiểm xảy ra với điều kiện công ty nhượng phải chuyển giao
một số phí bảo hiểm tương ứng với mức trách nhiệm của nhà tái bảo hiểm mà không
được yêu cầu bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm.
Hợp đồng tái bảo hiểm là hợp đồng riêng biệt giữa nhà tái bảo hiểm và công ty
nhượng tái bảo hiểm, còn người được bảo hiểm không tham gia trực tiếp vào hợp đồng
này, do đó trong trường hợp sự kiện bảo hiểm xảy ra, người được bảo hiểm không
được đòi nhà tái bảo hiểm bồi thường trực tiếp cho mình mà chỉ được đòi người bảo
hiểm (tức là công ty nhượng tái bảo hiểm).

Hợp đồng tái bảo hiểm có ba đặc điểm là:
- Nhà tái bảo hiểm cam kết bồi thường cho công ty nhượng mà bản thân công ty
nhượng là một thành viên của hợp đồng bảo hiểm.
Tào Quang Hiển – Kinh tế Bảo hiểm 49
22
Chuyên đề tốt nghiệp
- Tái bảo hiểm có thể cung cấp một sự bồi thường toàn bộ hoặc chỉ một phần đối
với những trách nhiệm mà công ty nhượng có thể phải gánh chịu theo hợp đồng bảo
hiểm
- Hợp đồng tái bảo hiểm là một hợp đồng riêng biệt giữa nhà tái bảo hiểm và công
ty nhượng mà trong đó Người được bảo hiểm không phải là một bên tham gia của hợp
đồng.
1.1.4.2. Các hình thức hợp đồng tái bảo hiểm
a. Hợp đồng tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn (Facultative Reinsurance)
Đây là hình thức tái bảo hiểm cơ bản nhất, theo đó công ty nhượng toàn quyền
lựa chọn rủi ro cần phải tái bảo hiểm và công ty nhận có quyền nhận hoắc từ chối rủi ro
đó.
b. Hợp đồng tái bảo hiểm bắt buộc (Obligtory Reinsurance)
Đây là thỏa thuận giữa công ty nhượng và nhà tái bảo hiểm trong đó công ty
nhượng bắt buộc phải nhượng cho nhà tái bảo hiểm tất cả các đơn vị rủi ro bảo hiểm
gốc mà hai bên đã thỏa thuận từ trước. Ngược lại, công ty tái bảo hiểm bắt buộc phải
nhận toàn bộ những đơn vị rủi ro đó. Công ty nhượng tái bảo hiểm toàn quyền trong
việc chấp nhận bảo hiểm gốc, định phí… mà không phải tham khảo ý kiến của công ty
tái bảo hiểm. Đây là hình thức tái bảo hiểm ràng buộc các bên một cách chặt chẽ.
c. Hợp đồng tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn – bắt buộc (Facultative – Obligtory
Reinsurance)
Đây là hình thức kết hợp của hai hình thức kể trên. Với hình thức hợp đồng này,
công ty nhượng không bắt buộc phải nhượng lại tất cả các rủi ro bảo hiểm đã nhận,
ngược lại công ty tái bảo hiểm bắt buộc phải chấp nhận các dịch vụ mà công ty nhượng
chuyển giao. Mỗi hình thức hợp đồng yêu cầu công ty nhượng thông báo những thông

tin khác nhau. Nếu người bảo hiểm cung cấp thông tin không chính xác về rủi ro bảo
hiểm đã được chấp nhận trong hợp đồng bảo hiểm gốc, cơ sở để xây dựng hợp đồng tái
Tào Quang Hiển – Kinh tế Bảo hiểm 49
23
Chuyên đề tốt nghiệp
bảo hiểm, thì nhà tái bảo hiểm có quyền từ chối trách nhiệm bồi thường khi phát hiện
ra sự thiếu trung thực đó.
1.1.4.3. Những nội dung cơ bản trong hợp đồng tái bảo hiểm
a. Hoa hồng tái bảo hiểm, thủ tục phí (Commission)
Thủ tục phí tái bảo hiểm (hoa hồng tái bảo hiểm) là một khoản tiền mà công ty
tái bảo hiểm trả cho công ty nhượng khi họ nhận tái bảo hiểm của công ty nhượng. Thủ
tục phí này nhằm mục đích chi phí cho điều hành dịch vụ của công ty nhượng, nó được
tính toán trên cơ sở tỷ lệ bồi thường của dịch vụ bảo hiểm tỷ lệ.
Thủ tục phí bảo hiểm được chia làm ba loại:
- Thủ tục phí cố định: Theo loại hình này, nhà tái bảo hiểm trả cho công ty
nhượng theo một tỷ lệ cố định của số phí tái bảo hiểm.
- Thủ tục phí theo thang lũy tiến: Theo loại hình này, thủ tục phí tăng hoặc giảm
theo tỷ lệ bồi thường. Mỗi công ty đều có một bảng thủ tục phí theo thang lũy tiến
riêng. Ví dụ: thang lũy tiến theo tỷ lệ 1 – 2 có ý nghĩa là tỷ lệ thủ tục phí tăng 1% khi
tỷ lệ bồi thường giảm 2%. Cuối mỗi kỳ, thủ tục phí tái bảo hiểm sẽ được tính lại và
điều chỉnh lại theo tỷ lệ của thang lũy tiến trên cơ sở bồi thường của năm nghiệp vụ.
- Thủ tục phí theo lãi (profit commission): Mục đích của loại hình này là thu lại
một phần lãi cho công ty nhượng trong trường hợp kết quả kinh doanh thực tế tốt hơn
nhiều so với tỷ lệ bồi thường trugn bình dự kiến. Theo loại hình này, nhà tái bảo hiểm
sẽ phải trả thêm cho công ty nhượng một khoản lợi nhuận nhất định. Kết quả kinh
doanh của nhà tái bảo hiểm được xác định trên cơ sở “Tài khoản lỗ, lãi”, chênh lệch
dương giữa thu và chi được gọi là lãi và thủ tục phí tái bảo hiểm theo lãi được tính trên
cơ sở số lãi thu được đó. Thông thường, mức phí theo lãi khoảng 10 – 20%, tùy thuộc
vào sự thỏa thuận giữa các bên tham gia hợp đồng.
b. Phí tạm giữ

Tào Quang Hiển – Kinh tế Bảo hiểm 49
24
Chuyên đề tốt nghiệp
Là khoản dự phòng riêng giúp cho công ty nhượng có thuận lợi trong việc giải
quyết bồi thường cho nghiệp vụ bảo hiểm gốc khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra trước khi
quyết toán đòi bồi thường của nhà tái bảo hiểm. Trong trường hợp công ty tái bảo hiểm
không tiếp tục tham gia hợp đồng năm sau thì phí tạm giữ sẽ được giải quyết như sau:
Phương án 1: Công ty tái bảo hiểm tiếp tục chịu trách nhiệm đối với những rủi
ro còn hiệu lực cho đến khi chấm dứt toàn bộ những rủi ro được bảo hiểm trong năm
nghiệp vụ bảo hiểm đó.
Phương án 2: Số phí tạm giữ sẽ được chuyển giao toàn bộ, cùng với những phần
trách nhiệm còn tồn tại sang cho các nhà tái bảo hiểm mới cho năm tới.
1.2. Khái quát chung về tái bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển
1.2.1. Khái niệm tái bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường
biển
Hiện nay, có rất nhiều khái niệm khác nhau về tái bảo hiểm, song khái niệm
thông dụng nhất đó là: tái bảo hiểm là sự bảo hiểm cho những rủi ro của công ty bảo
hiểm gốc bởi một công ty bảo hiểm khác.
Tái bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển, với tư
cách là một bộ phận của tái bảo hiểm, Tái bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận
chuyển bằng đường biển là nghiệp vụ bảo hiểm được thực hiện bởi những công ty nhận
tái bảo hiểm và những công ty bảo hiểm gốc, nhằm giúp phân tán rủi ro và giảm trách
nhiềm bồi thường của các công ty bảo hiểm gốc trong trường hợp có tổn thất xảy ra
trong quá trình vận chuyển hàng hóa bằng đường biển, từ đó một cách gián tiếp đảm
bảo số tiền bồi thường không vượt quá khả năng tài chính của công ty nhận bảo hiểm
gốc khi những rủi ro xảy ra đối với lượng hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển mà công ty này nhận bảo hiểm (số tiền bồi thường vượt quá khả năng tài
chính của công ty nhận bảo hiểm gốc sẽ được chi trả bởi công ty nhận tái bảo hiểm).
Tào Quang Hiển – Kinh tế Bảo hiểm 49

25
Chuyên đề tốt nghiệp
1.2.2. Sự cần thiết của tái bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển
Trên thực tế, mỗi công ty bảo hiểm có một khả năng vốn nhất định, điều này
đồng nghĩa với khả năng nhận bảo hiểm cho một rủi ro nào đó hoàn toàn bị giới hạn
trong số vốn của công ty bảo hiểm. Nhưng trong quá trình hoạt động kinh doanh, công
ty có thể nhận được những yêu cầu bảo hiểm vượt quá xa khả năng tài chính của mình,
đặt biệt đối với ngành vận chuyển bằng đường biển luôn phải đối mặt với nhiều rủi ro
có mức đền bù lớn. Việc chậm trễ, từ chối những đơn bảo hiểm này sẽ làm ảnh hưởng
đến mối quan hệ, uy tín của công ty với khách hàng. Và để giải quyết thực tế đó, tái
bảo hiểm đã giúp các công ty bảo hiểm có thể đảm đương được những dịch vụ vượt
quá khả năng tài chính của mình, đồng thời có thể khai thác được sự giúp đỡ của công
ty tái bảo hiểm đối với lĩnh vực mới, nghiệp vụ mới.
Trong thực tế những năm qua, đặc trưng của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất
nhập khẩu bằng đường biển luôn phải đối mặt với rất nhiều rủi ro có giá trị lớn, vượt
quá khả năng tài chính của các công ty bảo hiểm. Mặt khác, những rủi ro về hàng hóa
xuất nhập khẩu thường diễn ra ở trên biển nên công ty bảo hiểm không đủ khả năng để
kiểm soát rủi ro. Những trường hợp rủi ro xảy ra không có sự khắc phục kịp thời hoặc
do sự tắc trách của chủ tàu càng làm cho tổn thất diễn ra lớn hơn. Chính những điều
này đã khẳng định sự cần thiết của tái bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu để tránh
trường hợp phá sản của các công ty bảo hiểm gốc.
1.2.3. Vai trò của tái bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường
biển
1.2.3.1. Đối với nền kinh tế quốc dân
Nghiệp vụ tái bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu làm tăng khả năng nhận bảo
hiểm của thị trường bảo hiểm trong nước. Như vậy, chủ của hàng hóa – người được
bảo hiểm sẽ không phải quá băn khoăn về việc tìm công ty bảo hiểm nước ngoài để
Tào Quang Hiển – Kinh tế Bảo hiểm 49

×