Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Nguyễn Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế đầu tư 49B
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
DANH MỤC HÌNH
Nguyễn Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế đầu tư 49B
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
LỜI NÓI ĐẦU
Đầu tư phát triển là hoạt động không thể thiếu được của bất kì một
doanh nghiệp nào. Nó là chìa khóa là tiền đề cho mọi bước đi của doanh
nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh. Các quyết định đầu tư sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến kết quả và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Có thể nói, chính vì thế việc quản lý và thực hiện các hoạt
động đầu tư cùng các nghiệp vụ liên quan đóng vai trò quan trọng trong hoạt
động của mọi doanh nghiệp.
Nhận thức được tầm quan trọng của đầu tư phát triển đối với doanh
nghiệp , Công ty Cổ phần đầu tư kinh doanh nước sạch phía Bắc Viwaseen 6
cũng đã và đang thực hiện các hoạt động đầu tư phát triển của mình, nhằm
xây dựng đơn vị ngày càng vững mạnh.
Là đơn vị trực thuộc Tổng công ty Đầu tư xây dựng cấp thoát nước và
môi trường Việt Nam – Công ty Cổ phần Viwaseen 6 đã và đang đóng góp
không nhỏ vào quá trình xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng liên
quan đến cấp thoát nước cũng như mạng lưới cung cấp nước sạch của đất
nước.
Sau một thời gian thực tập tại Công ty, được sự giúp đỡ từ các anh chị,
cô chú trong Công ty cũng như sự hướng dẫn tận tình của TS. Nguyễn Hồng
Minh, em đã tổng hợp một số báo cáo phân tích và nghiên cứu để rút ra được
những nhận định chung về Công ty. Qua đó em đã lựa chọn và đi sâu nghiên
cứu đề tài: “Đầu tư phát triển tại Công ty Cổ phần Viwaseen 6: Thực trạng và
giải pháp”
Nguyễn Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế đầu tư 49B
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
Đề tài của em gồm 3 chương:
Chương 1: Những lý luận chung về đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng hoạt động đầu tư phát triển tại Công ty Cổ phần
Viwaseen 6
Chương 3: Giải pháp đối với hoạt động đầu tư phát triển tại Công ty Cổ phần
Viwaseen 6
Do thời gian và trình độ hiểu biết còn hạn chế nên đề tài không tránh
khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự chỉ bảo của các thầy cô. Qua đây
em xin chân thành cảm ơn các bác các cô, các chú và anh chị các phòng ban
trong Công ty Cổ phần Viwaseen 6cũng như các thầy cô Khoa Đầu tư đã tận
tình giúp đỡ em trong quá trình thực tập và thực hiện chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn !
Nguyễn Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế đầu tư 49B
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ
PHÁT TRIỂN TRONG DOANH NGHIỆP
1.1 Lý luận chung về đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
1.1.1 Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp:
Đầu tư là quá trình sử dụng vốn hoặc các nguồn lực khác nhằm đạt
được một hoặc một tập hợp các mục tiêu nào đó. Tuy nhiên, với các cách tiếp
cận khác nhau sẽ có một số các định nghĩa khác về khái niệm này.
- Theo quan điểm thiên về tài chính: Đầu tư là một chuỗi hành động chi của
chủ đầu tư và ngược lại chủ đầu tư sẽ nhận được một chuỗi hành động thu để
hoàn vốn và sinh lời.
- Theo quan điểm thiên về tài sản: đầu tư chính là quá trình bỏ vốn để tạo ra
tiềm lực sản xuất kinh doanh dưới hình thức các tài sản kinh doanh, đó cũng
là quá trình quản trị tài sản để sinh lợi.
- Theo quan điểm thiên về tiến bộ khoa học kỹ thuật: đầu tư là quá trình thay
đổi phương thức sản xuất thông qua việc đổi mới và hiện đại hoá phương tiện
sản xuất để thay thế lao động thủ công.
- Theo góc độ tiêu dùng : Đầu tư là hình thức hạn chế tiêu dùng hiện tại để
thu về một mức độ tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai.
Tóm lại, đầu tư nói chung là quá trình sử dụng phối hợp các nguồn lực
ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó với kỳ vọng đem lại cho nền kinh
tế và xã hội những kết quả (hoặc lợi ích) trong tương lai lớn hơn các nguồn
lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Các nguồn lực được sử dụng bao
gồm nguồn lực vật chất và phi vật chất, chẳng hạn như tiền, tài nguyên thiên
nhiên, sức lao động và trí tuệ… Các nguồn lực này được sử dụng một cách
hợp lý để tạo ra các kết quả tốt với một chi phí thấp nhất. Còn các kết qủa đạt
được có thể là sự gia tăng về tài sản tài chính, tài sản vật chất, tài sản trí tuệ
Nguyễn Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế đầu tư 49B
5
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
và nguồn nhân lực có đủ trình độ tay nghề, khả năng làm việc với năng suất
và hiệu qủa cao… Và chính những kết quả này lại là điều kiện để thực hiện
một hoặc một tập hợp các mục tiêu của chủ đầu tư.
Trong đầu tư có ba loại đầu tư chính luôn tồn tại và có quan hệ tương
hỗ với nhau. Đó là: đầu tư phát triển, đầu tư tài chính và đầu tư thương mại.
Đầu tư tài chính là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc
mua các chứng từ có giá để hưởng lãi suất định trước hoặc lãi suất tùy thuộc
vào kết quả hoạt động kinh doanh của công ty phát hành. Đầu tư tài chính
không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế mà chỉ tăng tài sản tài chính của tổ
chức, cá nhân đầu tư. Đầu tư thương mại là loại đầu tư trong đó người có
tiền bỏ tiền ra mua hàng hóa và sau đó bán lại với giá cao hơn nhằm thu lợi
nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán. Loại đầu tư này cũng không tạo
ra tài sản mới cho nền kinh tế mà chỉ tăng tài sản tài chính của người đầu tư
trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa giữa
người bán và người đầu tư và người đầu tư với khách hàng của họ.
Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, một hình thức của đầu
tư trực tiếp, là việc chi dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động
nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất (nhà xưởng, thiết bị )
và tài sản trí tuệ (tri thức, kỹ năng ), gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm
việc làm và vì mục tiêu phát triển. Đầu tư phát triển bao gồm các hoạt động
chuẩn bị đầu tư, mua sắm các yếu tố đầu vào của quá trình đầu tư, thi công
xây lắp công trình, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và xây lắp cơ bản
khác có liên quan đến sự phát huy tác dụng sau này của công cuộc đầu tư phát
triển. Hoạt động đầu tư này nhằm tạo ra năng lực mới trong sản xuất kinh
doanh dịch vụ và sinh hoạt đời sống xã hội.
Hoạt động đầu tư phát triển trong doanh nghiệp là một nhân tố có thể
được coi là quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Để
Nguyễn Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế đầu tư 49B
6
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
tạo dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho bất kì cơ sở, đơn vị sản xuất và cung ứng
dịch vụ nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm, lắp
đặt máy móc thiết bị, tiến hành công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi
phí gắn liền với hoat động trong cùng một chu kì.
Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động, hoạt động đầu tư phát triển
có thể là việc tiến hành sửa chữa, nâng cấp hoặc thay mới máy móc, thiết bị,
cơ sở kĩ thuật bị hao mòn, hư hỏng…để thích ứng, phù hợp với điều kiện hoạt
động mới của doanh nghiệp.
1.1.2 Vai trò của hoạt động đầu tư đối với doanh nghiệp
Trên góc độ vi mô thì đầu tư là nhân tố quyết định sự ra đời, tồn tại và
phát triển của các cơ sở sản xuất cung ứng dịch vụ và của cả các đơn vị vô vị
lợi. Để tạo dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho sự ra đời của bất kì cơ sở đơn vị
sản xuất và cung ứng dịch vụ nào cũng đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu
trúc hạ tầng, mua sắm, lắp đặt máy móc thiêt bị, tiến hành các công tác xây
dựng cơ bản khác và thực hiện các chi phí gắn liền với hoạt động trong một
chu kỳ chứa các cơ sở vật chất kĩ thuật vừa được tạo ra. Đây chính là biểu
hiện cụ thể của hoạt động đầu tư đối với các đơn vị đang hoạt động, khi cơ sở
vật chất kỹ thuật của các cơ sở này hao mòn hư hỏng cần phải tiến hành sửa
chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất kỹ thuật đã hư hỏng hao mòn này
hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triên khoa
học kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội. Phải mua sắm
trang thiết bị mới thay thế cho trang thiết bị cũ đã lỗi thời. Đó chính là hoạt
động đầu tư.
1.1.3.Vốn và nguồn vốn cho đầu tư phát triển
Khi tiến hành bất cứ một hoạt động đầu tư thì vốn luôn là một nguồn
lực vô cùng quan trọng, ảnh hưởng quyết định tới quá trình đầu tư. Căn cứ
theo nguồn hình thành và mục tiêu sử dụng thì vốn đầu tư được hiểu là tiền
Nguyễn Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế đầu tư 49B
7
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
tích lũy của xã hội của các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ là tiền tiết kiệm
của dân cư và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào trong quá trình
tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở sẵn có và
tạo ra tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội.
Trước đây, theo quan niệm truyền thống, vốn đầu tư phát triển chỉ là
những chi phí bằng tiền dùng cho việc xây dựng mới, mở rộng, xây dựng lại
và khôi phục tài sản cố định trong nền kinh tế. Như vây, về thực chất, vốn đầu
tư phát triển chỉ gồm những chi phí trực tiếp làm tăng tài sản cố định. Theo
khái niệm đầu tư phát triển vừa nêu ở trên, vốn đầu tư phát triển dược quan
niệm là những chi phí bỏ ra găn liền với việc làm tăng thêm tài sản cho toàn
xã hội. Nghĩa là, vốn đầu tư phát triển ngoài vai trò làm tăng tài sản cố định
còn làm tăng tài sản lưu động, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực, nâng cao mức
sống dân cư, mặt bằng dân trí, bảo vệ môi trường sinh thái Nói cách khác,
vốn đầu tư phát triển có thể chia thành các nội dung cơ bản sau: vốn đầu tư
xây dựng cơ bản và sửa chữa lớn tài sản cố định; vốn lưu động bổ sung; vốn
đầu tư phát triển khác (đây là tất cả các khoản đầu tư của xã hội nhằm gia
tăng năng lực phát triển của xã hội, nâng cao trình độ dân trí, cải thiện chất
lượng môi trường…). Trong đó, vốn đầu tư xây dựng cơ bản chiếm tỷ trọng
lớn nhất.
Nguồn vốn đầu tư phát triển là thuật ngữ để chỉ các nguồn tích luỹ, tập
trung và phân phối cho đầu tư phát triển kinh tế, đáp ứng nhu cầu chung của
nhà nước và xã hội. Đứng trên góc độ vi mô, nguồn vốn đầu tư của các DN,
các đơn vị thực hiện đầu tư bao gồm hai nguồn chính là nguồn vốn bên trong
và nguồn vốn bên ngoài. Nguồn vốn bên trong được hình thành từ phần tích
luỹ nội bộ DN (vốn góp ban đầu, thu nhập giữ lại…) và phần khấu hao hàng
năm. Nguồn vốn này có vai trò rất lớn đối với hoạt động đầu tư sản xuất kinh
doanh của mọi DN, nó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thực hiện thêm các
Nguyễn Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế đầu tư 49B
8
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
hoạt động đầu tư mới khác, tạo cho các doanh nghiệp vị thế vững chắc bằng
chính khả năng của mình. Ở các nước phát triển, sự lớn mạnh của nhiều Công
ty, Tổng công ty, Tập đoàn đã chứng tỏ khả năng tạo chỗ đứng vững chắc trên
trường quốc tế chính bằng tiềm lực tích luỹ của họ. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp, nếu chỉ dựa vào nguồn vốn này thì sẽ tạo ra cản trở cho hoạt động
đầu tư của DN.
Nguồn vốn bên ngoài được hình thành từ việc vay nợ hoặc phát hành
chứng khoán ra công chúng thông qua hai hình thức tài trợ chủ yếu là tài trợ
gián tiếp thông qua các trung gian tài chính (ngân hàng thương mại, các tổ
chức tín dụng…) hoặc tài trợ trực tiếp qua thị trường vốn (như thị trường
chứng khoán, hoạt động tín dụng thuê mua…). Với các DN có quy mô trung
bình thì nguồn vốn bên ngoài luôn đóng vai trò quan trọng thúc đẩy hoạt động
sản xuất kinh doanh cũng như tạo tiền đề để DN có thể phát triển, mở rộng
hơn về quy mô. Các DN Việt Nam hiện nay thường lựa chọn hình thức huy
động vốn thông qua các trung gian tài chính. Còn việc huy động vốn trực tiếp
như thông qua thị trường chứng khoán chưa được các DN lựa chọn nhiều.
Tóm lại, mỗi nguồn vốn đều có những ưu điểm và nhược điểm nhất
định đối với mỗi loại hình DN. Tuỳ theo từng hoàn cảnh và điều kiện cụ thể,
các DN cần có những sự lựa chọn phù hợp nhằm đạt được hiệu quả cao nhất
trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình.
1.2 Nội dung đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
Hoạt động đầu tư phát triển bao gồm nhiều nội dung khác nhau. Tuy nhiên,
dưới góc độ doanh nghiệp thì hoạt động này bao gồm một số nội dung chủ
yếu sau:
1.2.1. Hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản:
Đầu tư xây dựng cơ bản là hoạt động đầu tư nhằm tái tạo tài sản
cố định của doanh nghiệp. Đầu tư XDCB bao gồm các hoạt động chính như:
Nguyễn Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế đầu tư 49B
9
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
xây lắp và mua sắm máy móc trang thiết bị. Đầu tư xây dựng công trình là
hoạt động có liên quan đến việc bỏ vốn ở giai đoạn hiện tại nhằm tạo dựng
TSCĐ (là công trình xây dựng) để tiến hành khai thác công trình, sinh lợi
trong một khoảng thời gian nhất định nào đó ở tương lai. Còn đầu tư mua sắm
thiết bị máy móc là hoạt động mua sắm trang thiết bị nhằm làm tăng năng
suất lao động hoặc nâng cao chất lượng sản phẩm. Ngoài ra còn có một số
hoạt động khác như đầu tư sửa chữa, nâng cấp, lắp đặt máy móc, thiết bị…
Hoạt động đầu tư này đòi hỏi vốn lớn và chiếm tỉ trọng cao trong tổng vốn
đầu tư phát triển của đơn vị.
Đầu tư xây dựng cơ bản là một trong những cơ sở đầu tiên nhằm hình
thành nên DN cũng như tài sản cho DN. Chính hoạt động này sẽ giúp DN
nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm; từ đó tăng tính cạnh tranh trên thị
trường. Đầu tư nhằm tái tạo TSCĐ là một trong những hoạt động cơ bản nhất
của DN nhằm tạo tiền đề và cơ sở cho hoạt động đầu tư vào hàng tồn trữ, đầu
tư marketing cũng như hoạt động nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ.
Đầu tư vào tài sản cố định (TSCĐ) đóng vai trò quan trọng nhất trong
hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bởi hai lý do cơ bản sau:
Thứ nhất, chi phí cho các hạng mục chiếm tỷ lệ cao trong tổng vốn đầu tư.
Thứ hai, đó là bộ phận cơ bản tạo ra sản phẩm- hoạt động chính của
mỗi doanh nghiệp.
Như vậy, hoạt động đầu tư vào TSCĐ đóng vai trò quan trọng nhất nếu
không muốn nói là đóng vai trò quyết định đối với phần lợi nhuận thu được
của doanh nghiệp (mặc dù chúng ta chưa đề cập đến vấn đề tiêu thụ sản
phẩm). Các hãng thường tăng cường thêm TSCĐ khi họ thấy trước những cơ
hội có lợi để mở rộng sản xuất, hoặc vì có thể giảm bớt chi phí bằng cách
chuyển sang những phương pháp sản xuất dùng nhiều vốn hơn.
Nguyễn Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế đầu tư 49B
10
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
TSCĐ bao gồm cơ sở hạ tầng xây dựng và máy móc thiết bị. Đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng (CSHT) là một trong những hoạt động được thực hiện
đầu tưiên của mỗi công cuộc đầu tư (trừ trường hợp đầu tư chiều sâu). Hoạt
động đó bao gồm các hạng mục xây dựng nhằm tạo điều kiện và đảm bảo cho
dây chuyền thiết bị sản xuất, công nhân hoạt động thuận lợi an toàn. Đó là các
phân xưởng sản xuất chính, phụ, hệ thống điện nước, giao thông, thông tin
liên lạc, các văn phòng, khu công cộng khác… Để thực hiện tốt các hạng mục
này thì phải tính đến các điều kiện thuận lợi, khó khăn của vị trí địa lý, địa
hình, địa chất… đồng thời căn cứ vào yếu cầu về đặc tính kỹ thuật của máy
móc thiết bị, dây chuyền sản xuất, cách tổ chức điều hành và các yêu cầu
khác.
Đối với các hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản, vốn đầu tư chủ yếu bao
gồm chi phí xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng, chi phí mua sắm máy móc thiết
bị, phương tiện vận tải, chi phí lắp đặt máy móc thiết bị, chi phí đầu tư sửa
chữa TSCĐ…
1.2.2 Đầu tư bổ sung hàng tồn trữ:
Hàng tồn trữ trong DN là toàn bộ nguyên vật liệu, bán thành phẩm và
sản phẩm hoàn thành được tồn trữ trong DN. Với mỗi loại hình DN khác nhau
thì những yêu cầu về hàng tồn trữ cũng khác nhau. Nhưng có thể nói rằng,
hàng tồn trữ đóng một vai trò khá quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của DN, góp phần đảm bảo cho quá trình kinh doanh được tiến hành
liên tục. Chính vì thế, đầu tư vào hàng tồn trữ là điều không thể thiếu đối với
sự tồn tại và phát triển của mỗi một doanh nghiệp. Do vậy, việc xác định quy
mô đầu tư hàng dự trữ tối ưu cho doanh nghiệp là rất cần thiết. Mỗi doanh
nghiệp đều cần phải xác định một lượng hàng dự trữ hợp lý. Lượng hàng tồn
kho dự trữ hợp lý là lượng dự trữ vừa đáp ứng được nhu cầu kinh doanh liên
tục, vừa không gia tăng chi phí tồn kho gây ứ đọng vốn.
Nguyễn Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế đầu tư 49B
11
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
Trước đây, người ta ít coi trọng đến đầu tư hàng tồn trữ và coi đây như
là một hiện tượng bất thường, không đưa lại kết quả như mong muốn của
doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, yêu hoạt động của doanh nghiệp
cho thấy rằng việc đầu tư hàng tồn trừ là cần thiết, bởi hai lý do cơ bản sau:
Thứ nhất, hãng có thể dự đoán hay khẳng định giá cả sẽ tăng. Ví dụ giá
sẽ rẻ hơn sau này. Tương tự, các hãng có thể om hàng thành phẩm không chịu
bán với hy vọng sẽ bán được giá cao hơn trong tương lai gần.
Thứ hai, các hãng có ý định giữ lại hàng dự trữ là do nhiều quá trình
sản xuất cần có thời gian để hoàn tất. Một số hàng dự trữ có vai trò là khâu
trung gian của các đầu tư vào trước khi chúng trở thành sản phẩm. Nhưng còn
một số động cơ khác nữa là để đề phòng nhu cầu về sản phẩm của hãng bất
ngờ tăng lên. Do không thể thay đổi công suất nhà máy một cách nhanh
chóng, hãng có thể phải chi trả một khoản lớn cho việc làm ngoài giờ nếu
hãng muốn đáp ứng được đơn đặt hàng tăng vọt, do vậy có thể sẽ ít tốn kém
hơn nếu giữ một lượng hàng dự trữ để đáp ứng nhu cầu tăng đột ngột đó.
Tương tự, khi có suy thoái tạm thời, việc tiếp tục sản xuất và tích trữ một số
hàng không bán được có thể rẻ hơn là phải những khoản trợ cấp tốn kém trả
cho số lao động dôi thừa với mục đích giảm bớt lực lượng lao động và cắt
giảm sản xuất.
Ngoài hai lý do trên thì đầu tư hàng dự trữ còn có tác dụng điều hoà
sản xuất, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục, hợp
lý, hiệu quả.
Căn cứ vào mục đích dự trữ, dự trữ được chia thành các loại cơ bản
sau:
- Dự trữ chu kỳ: là khoản dự trữ thay đổi theo qui mô của đơn đặt hàng.
- Dự trữ bảo hiểm: là khoản dữ trữ cho tình trạng bất định về cung cầu
và thời gian chờ hàng.
Nguyễn Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế đầu tư 49B
12
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
Xét về mặt chi phí, bằng việc giữ lại các hàng hoá lẽ ra có thể bán
được, hay mua vào những hàng hoá mà việc mua đó đáng ra có thể hoãn lại,
hãng giữ lại khoản tiền đáng ra có thể sử dụng theo cách khác để thu lãi. Do
đó, chi phí của việc giữ hàng tồn kho chính là khoản lãi cho số tiền có thể thu
được bằng cách bán những hàng hoá này đi hay số tiền bỏ ra để mua chúng.
Khi lãi suất thực tế tăng, việc giữ hàng tồn kho trở nên tốn kém, cho
nên các doanh nghiệp hành động hợp lý tìm cách giảm bớt hàng tồn kho của
mình. Bởi vậy, việc tăng lãi suất tạo ra áp lực đối với đầu tư vào hàng tồn
kho. Chẳng hạn, vào những năm 1980, nhiều doanh nghiệp áp dụng kế hoạch
sản xuất “đúng lúc” (Just in time), để cắt giảm khối lượng hàng tồn kho bằng
cách sản xuất hàng hoá ngay trước khi bán. Lãi suất cao phổ biến trong phần
lớn thập kỷ đó là một cách để lý giải sự thay đổi trong chiến lược kinh doanh.
Đây là một khoản chi phí tương đôí lớn trong vốn đầu tư của doanh
nghiệp. Vì vậy, trong quá trình sử dụng phải tính toán kỹ lưỡng, tránh tồn kho
quá nhiều hoặc quá ít, đảm bảo hiệu quả của đồng vốn và đáp ứng nhu cầu
của thị trường.
1.2.3. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực:
Đứng trên góc độ vĩ mô, nguồn nhân lực đựợc hiểu là nguồn nhân lực
con người của một quốc gia, vùng lãnh thổ, là một bộ phận của các nguồn lực
có khả năng huy động, quản lí để tham gia vào quá trình phát triển kinh tế xã
hội như nguồn lực vật chất, nguồn lực tài chính… Nguồn nhân lực còn có thể
hiểu là tổng hợp các cá nhân những con người cụ thể tham gia vào quá trình
lao động, là tổng thể các yếu tố về thể chất và tinh thần đựợc huy động vào
quá trình lao động. Với cách hiểu này, nguồn nhân lực bao gồm những người
từ giới hạn dưới độ tuổi lao động trở lên.
Còn trên giác độ vi mô, chúng ta có nguồn nhân lực trong 1 tổ chức.
Theo đó nguồn nhân lực trong 1 tổ chức là lực lượng lao động của từng đơn
Nguyễn Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế đầu tư 49B
13
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
vị, tổ chức, cơ quan. Hay nói cách khác, đó là tổng số người (bao gồm cán bộ
lãnh đạo và quản lí, công chức chuyên môn, nhân viên phục vụ…) có trong
danh sách của tổ chức, hoạt động theo các nhiệm vụ do tổ chức phân công và
được tổ chức trả lượng. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực chính là hoạt động
đầu tư để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, là điều kiện quyết định để
doanh nghiệp có thể đứng vững và giành thắng lợi trong môi trường cạnh
tranh ngày càng khốc liệt. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực bao gồm: đầu tư
cho hoạt động đào tạo (chính quy, không chính quy, dài hạn, ngắn hạn, bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ…) đội ngũ lao động; đầu tư cho công tác chăm
sóc sức khỏe, y tế; đầu tư cải thiện môi trường, điều kiện làm việc cho người
lao động, cũng như việc trả lương đúng và đủ cho người lao động…
Trên cơ sở đầu tư đúng hướng và có hiệu quả, doanh nghiệp sẽ nâng
cao trình độ chuyên môn, kỹ năng của người lao động, tạo ra các động lực
khuyến khích người lao động phát huy tối đa khả năng của mình trong công
việc. Đầu tư cho nguồn nhân lực là một hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp trong
việc thực hiện mục tiêu cơ bản của mình là lợi nhuận.
Hoạt động quản lý nhân lực của doanh nghiệp bao gồm công tác tuyển
dụng, đào tạo, sử dụng, đào tạo lại, đào tạo nâng cao… Trong đó phát triển
chất lượng nguồn nhân lực tập trung ở công tác đào tạo. Đào tạo quyết định
phẩm chất chính trị, năng lực quản lý, trình độ tay nghề. Đào tạo của doanh
nghiệp có thể lựa chọn đào tạo bên ngoài do các tổ chức chuyên về đào tạo
đảm trách hay tổ chức các khoá đào tạo nội bộ. Về đối tượng đào tạo, ta có ba
nhóm là:
- Đào tạo lực lượng quản lý, cán bộ chuyên môn.
- Đào tạo đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học công nghệ.
- Đào tạo và nâng cao tay nghề cho công nhân.
Nguyễn Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế đầu tư 49B
14
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
Có thể nói rằng lực lượng cán bộ quản lý trong doanh nghiệp không
đông về số lượng nhưng lại có tính chất quyết định đối với sự thành bại của
doanh nghiệp. Người quản lý trong cơ chế thị trường không chỉ thực hiện
những công việc “thành tên” và còn phải năng động sáng tạo trong những tình
huống khó khăn, bất ngờ. Do đó đòi hỏi họ không ngừng nâng cao nhận thức,
trình độ. Mặt khác, sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ đòi hỏi
doanh nghiệp có sự đầu tư thích đáng cho đào tạo cán bộ nghiên cứu và ứng
dụng khoa học. Họ sẽ là người đem tri thức mới và tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất kinh doanh. Và để vận hành được máy móc thiết bị hiện đại, bắt
kịp với trình độ sản xuất tiên tiến thì nâng cao tay nghề của công nhân cũng là
một tất yếu khách quan.
Khi doanh nghiệp tiến hành hoạt động đầu tư phát triển nguồn nhân lực
tức là doanh nghiệp đã mang lại cho mình nhiều lợi ích trong hoạt động sản
xuất kinh doanh như việc nâng cao năng suất lao động, hiệu quả thực hiện
công việc cũng như nâng cao chất lượng của việc thực hiện công việc; giảm
bớt sự giám sát vì người lao động được đào tạo có khả năng tự giám sát; nâng
cao tính ổn định và năng động của tổ chức; tạo điều kiện cho áp dụng tiến bộ
kĩ thuật và quản lý vào doanh nghiệp cũng như tạo ra lợi thế cạnh tranh của
doanh nghiệp… Còn đối với người lao động thì phát triển nguồn nhân lực thể
hiện ở chỗ tạo ra được sự gắn bó giữa người lao động và doanh nghiệp, tạo ra
tính chuyên nghiệp của người lao động, tạo ra sự thích ứng giữa người lao
động và công việc hiện tại cũng như tương lai, đáp ứng nhu cầu và nguyện
vọng phát triển của người lao động, và tạo cho người lao động có cách nhìn
cách tư duy mới trong công việc của họ là cơ sở để phát huy tính sáng tạo của
người lao động trong công việc. Chính vì những lý do đó mà các DN ngày
nay rất chú trọng tới hoạt động đầu tư phát triển nguồn nhân lực, coi đó là
một hoạt động thường xuyên và quan trọng của DN.
Nguyễn Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế đầu tư 49B
15
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
1.2.4. Đầu tư nghiên cứu và triển khai hoạt động khoa học công nghệ:
Cùng với giáo dục-đào tạo, khoa học và công nghệ (KHCN) được
xác định là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế xã hội, là điều
kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội. CNH, HĐH đất nước phải bằng và dựa vào KHCN. KHCN đã
trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp trong nền kinh tế.
ĐTPT KHCN là phát triển sản phẩm mới và các lĩnh vực hoạt động mới đòi
hỏi cần đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu, triển khai, ứng dụng công nghệ.
Khi đầu tư, doanh nghiệp cần phải có đội ngũ cán bộ am hiểu nhất địn về
công nghệ, biết định giá chính xác về thiết bị công nghệ. Giá của công nghệ gồm
nhiều thành phần: chi phí sản xuất, chi phí mua bằng sáng chế, bí quyết kỹ thuật,
thương hiệu, chi phí huấn luyện chuyên môn… Phần khó định giá nhất là chi phí
sáng chế, bí quyết kỹ thuật hay còn gọi là “phần mềm”. Để đổi mới công nghệ,
các doanh nghiệp có thể thực hiện bằng các con đường sau:
- Cải tiến, hiện đại hoá công nghệ truyền thống hiện có.
- Tự nghiên cứu, phát triển, ứng dụng công nghệ mới.
- Nhập công nghệ tiến tiến từ nước ngoài thông qua mua sắm trang
thiết bị và chuyển giao công nghệ.
Theo quan điểm hiện đại thì đầu tư đổi mới công nghệ và phát triển
khoa học kỹ thuật là hình thức của đầu tư phát triển nhằm hiện đại hoá dây
chuyền công nghệ và trang thiết bị cũng như trình độ nhân lực, tăng năng lực
sản xuất kinh doanh cũng như cải tiến đổi mới sản phẩm hàng hoá, dịch vụ,
đây cũng là hoạt động đầu tư vào lĩnh vực phần mềm của công nghệ như
thông tin, thương hiệu và thể chế doanh nghiệp.
1.2.5. Một số hoạt động đầu tư khác:
Ngày nay sự phát triển của khoa học công nghệ, sự bùng nổ của thông
tin luôn đặt các DN trước những sức ép cạnh tranh gắt. Doanh nghiệp muốn
Nguyễn Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế đầu tư 49B
16
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
cạnh tranh thắng lợi thì marketing được nhiều người cho rằng là chức năng
then chốt của thành công của doanh nghiệp. Chiến lược marketing của doanh
nghiệp là một hệ thống các giải pháp nhằm kết nối mối quan hệ thích ứng
giữa doanh nghiệp và thị trường. Nó là cơ sở để hoạch định chiến lược sản
xuất, chiến lược tài chính, chiến lược con người. Như vậy, đầu tư cho hoạt
động Marketing bao gồm đầu tư cho hoạt động quảng cáo, xúc tiến thương
mại, xây dựng thương hiệu. Trong đó một doanh nghiệp muốn khách hàng
biết đến sản phẩm của mình thì nhất thiết phải dựa vào các kênh quảng cáo,
để bán được nhiều sản trường phẩm hơn thì cần một chiến lược xúc tiến
thương mại và để doanh nghiệp có chỗ đứng trên thị trường thì cần xây dựng
một thương hiệu vững mạnh.
Thực tế hiện nay, khi sự cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn thì đầu tư
cho hoạt động marketing cần phải chiếm một tỷ trọng hợp lý trong tổng vốn
đầu tư của DN.
Ngoài ra, còn có các hoạt động đầu tư vào tài sản vô hình khác của DN
như việc mua hoặc thuê quyền sử dụng đất, đầu tư vào tài sản trí tụê, các yếu
tố vô hình của sản nghiệp thương mại…
1.3. Kết quả và hiệu quả hoạt động đầu tư:
1.3.1. Kết quả của hoạt động đầu tư phát triển
Kết quả của hoạt động đầu tư là những biểu hiện của mục tiêu đầu tư
dưới dạng lợi ích cụ thể, có định lượng đạt được từ các hoạt động khác nhau
của dự án. Nghĩa là việc đánh giá kết quả đầu tư chỉ đơn thuần cho biết dự án
đạt được những gì mà không có ý nghĩa trong việc đánh giá lựa chọn dự án.
Kết quả của hoạt động đầu tư được thể hiện ở khối lượng vốn đầu tư đã
được thực hiện, ở các tài sản cố định (TSCĐ) được huy động hay năng lực
sản xuất kinh doanh phục vụ tăng thêm.
1.3.1.1 Kết quả của hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản:
Nguyễn Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế đầu tư 49B
17
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
Kết quả của hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản được thể hiện ở sự gia
tăng tài sản cố định của doanh nghiệp, trong doanh nghiệp nó được thể hiện
rõ ràng ở các hiện vật như máy móc, trang thiết bị, nhà xưởng…Ngoài ra, kết
quả của hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản còn được thể hiện ở các chỉ tiêu
giá trị như khối lượng vốn đầu tư thực hiện hay tài sản cố định huy động.
a,Khối lượng vốn đầu tư thực hiện
* Xét về mặt giá trị
Khối lượng vốn đầu tư thực hiện bao gồm tổng số tiền đã chi để tiến
hành các hoạt động của các công cuộc đầu tư, bao gồm các chi phí cho công
tác chuẩn bị đầu tư xây dựng nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt
máy móc thiết bị để tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và chi phí khác
theo quy định của thiết kế dự toán và được ghi trong dự án đầu tư được duyệt.
- Đối với các dự án đầu tư xây dựng hoặc lắp đặt do Ngân sách Nhà nước tài trợ,
để số vốn đã chi được tính vào khối lượng vốn đầu tư thực hiện thì các kết quả
của quá trình đầu tư được tách theo phương pháp đơn giá với công thức sau:
I
V
= ∑Q
i
P
i
+ C
in
+ W
Trong đó:
I
V
: Mức vốn đầu tư thực hiện
Q
i
: Khối lượng công việc hoàn thành theo đúng tiêu chuẩn.
P
i
: Đơn giá dự toán tính cho một đơn vị khối lượng công việc
C
in
: Phụ phí bao gồm những chi phí chưa được tính trong đơn giá dự toán. C
in
được quy định theo tỷ lệ % so với một loại chi phí nào đó và được phân biệt
theo từng công trình và từng khu vực lãnh thổ đất nước Việt Nam.
W: Lãi định mức, được Nhà nước quy định theo tỷ lệ % so với giá thành dự
toán hoặc giá trị dự toán của khối lượng công việc hoàn thành.
- Đối với công tác mua sắm trang thiết bị máy móc.
+ Đối với những trang thiết bị cần lắp:
Nguyễn Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế đầu tư 49B
18
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
Iv
TB
= Giá mua + CP vận chuyển + CP bảo quản cho đến khi giao lắp
+ Đối với những trang thiết bị không cần lắp:
Iv
TB
= Giá mua + Chi phí vận chuyển đến kho và nhập kho.
* Xét về mặt hiện vật:
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản thông qua hoạt động xây lắp được chuyển hoá
thành các công trình và hạng mục công trình đã hoàn thành hoặc s t n máy đã
lắp xong, các linh kiện cấu kiện được tạo ra ngay tại công trình.
b,Tài sản cố định huy động và năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm
Tài sản cố định huy động là công trình hay hạng mục công trình đối
tượng xây dựng có khả năng phát huy tác dụng độc lập đã kết thúc quá trình
xây dựng, mua sắm, đã làm xong thủ tục nghiệm thu sử dụng, có thể đưa vào
hoạt động được ngay.
Năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm là khả năng đáp ứng nhu cầu sản
xuất, phục vụ của các TSCĐ đã được huy động vào sử dụng chúng để sản
xuất ra sản phẩm hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ theo quy định được
ghi trong dự án đầu tư.
Các TSCĐ được huy động và năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm là
các sản phẩm cuối cùng của các công cuộc đầu tư, chúng có thể được biểu
hiện bằng tiền mặt hoặc bằng hiện vật. Các chỉ tiêu biểu hiện bằng hiện vật
như số lượng các TSCĐ được huy động, công suất hoặc năng lực phát huy tác
dụng của các TSCĐ được huy động, mức tiêu dùng nguyên vật liệu trong một
đơn vị thời gian
Công thức tính giá trị TSCĐ huy động được của một dự án đầu tư:
F = Iv
o
- C
Trong đó:
F: Giá trị TSCĐ được huy động.
Nguyễn Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế đầu tư 49B
19
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
Iv
o
: Vốn đầu tư đã được thực hiện của các đối tượng, hạng mục công trình đã
được huy động.
C: Các chi phí không làm tăng giá trị TSCĐ bao gồm:
- Chi phí đào tạo cán bộ quản lý hoặc nhân viên kỹ thuật có thể đưa vào hoạt
động ngay khi công trình được xây xong.
- Chi phí quản lý công trình đã xây dựng, chi phí cho chuẩn bị sản xuất, chuẩn
bị xây dựng.
- Chi phí di chuyển máy thi công, chi phí mua sắm công cụ, dụng cụ không đủ
tiêu chuẩn là TSCĐ.
1.3.1.2 Kết quả của hoạt động đầu tư bổ sung hàng tồn trữ
Đối với doanh nghiệp, kết quả của hoạt động đầu tư bổ sung hàng tồn
trữ thể hiện rõ nét nhất ở khối lượng hàng tồn trữ tăng thêm. Lượng hàng tồn
trữ này được dùng để đáp ứng nhu cầu cung cấp sản phẩm của doanh nghiệp
trong những giai đoạn nhất định. Hơn thế, hàng tồn trữ đóng vai trò quan
trọng trong kế hoạch phát triển của mỗi một doanh nghiệp. Trong nền kinh tế
thị trường khi mà giá cả, cung cầu thường xuyên biến động, việc chủ động lưu
trữ một lượng nguyên vật liệu nhằm đảm bảo sản xuất kinh doanh cũng như
dự trữ một lượng hàng hóa để đáp ứng nhu cầu thị trường là thiết yếu, giúp
cho doanh nghiệp có thể chủ động hơn trong sản xuất kinh doanh và có khả
năng chống chọi được với những thay đổi bất thường của thị trường.
1.3.1.3 Kết quả của hoạt động đầu tư phát triển nguồn nhân lực
Kết của của hoạt động đầu tư phát triển nguồn nhân lực thể hiện ở năng
lực, trình độ chuyên môn của đội ngũ lao động. Thể hiện ở số lượng lao động
được tham gia các lớp đào tạo, nâng cao năng lực chuyên môn, bổ sung
những kĩ năng cần thiết, số những lớp học được tổ chức cũng như số lượng
lao động tham gia vào những lớp bồi dưỡng đó.
Nguyễn Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế đầu tư 49B
20
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
Có thể nói rằng lực lượng cán bộ quản lý trong doanh nghiệp không
đông về số lượng nhưng lại có tính chất quyết định đối với sự thành bại của
doanh nghiệp. Người quản lý trong cơ chế thị trường không chỉ thực hiện
những công việc “thành tên” và còn phải năng động sáng tạo trong những tình
huống khó khăn, bất ngờ. Do đó đòi hỏi họ không ngừng nâng cao nhận thức,
trình độ. Mặt khác, sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ đòi hỏi
doanh nghiệp có sự đầu tư thích đáng cho đào tạo cán bộ nghiên cứu và ứng
dụng khoa học. Họ sẽ là người đem tri thức mới và tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất kinh doanh. Và để vận hành được máy móc thiết bị hiện đại, bắt
kịp với trình độ sản xuất tiên tiến thì nâng cao tay nghề của công nhân cũng là
một tất yếu khách quan.
1.3.1.4 Kết quả của hoạt động đầu tư nghiên cứu triển khai các hoạt động
khoa học công nghệ.
Đối với công tác đầu tư nghiên cứu triển khai các hoạt động khoa học
công nghệ, kết quả được thể hiện thông qua số lượng sản phẩm mới được đưa
vào thị trường. Khả năng ứng dụng các kĩ thuật mới vào sản xuất kinh doanh,
ứng dụng khoa học công nghệ vào quản lý và sản xuất.
1.3.1.5 Kết quả của hoạt động marketing
Đây là hoạt động nhằm mục đích quảng bá thương hiệu sản phẩm của
doanh nghiệp. Kết quả của hoạt động này chính là mức độ phổ biến của
thương hiệu sản phẩm trên thị trường. Cũng như thể hiện ở khả năng chiếm
lĩnh thị trường của doanh nghiệp mà cuối cùng chính là sự gia tăng nhu cầu
về sản phẩm của doanh nghiệp.
Đầu tư cho nâng cao uy tín và vị thế của công ty thông qua các hoạt
động quảng cáo bằng các hình thức trực tiếp như sử dụng các phương tiện
truyền thông, pa nô áp phích, đồ dùng cá nhân… hoặc hình thức gián tiếp như
Nguyễn Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế đầu tư 49B
21
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
tài trợ cho các hoạt động, chương trình, dự án… cùng các hoạt động giao tiếp
khuyếch trương khác.
1.3.2. Hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển
1.3.2.1. Khái niệm và phân loại hiệu quả đầu tư:
Hiệu quả đầu tư là phạm trù kinh tế biểu hiện quan hệ so sánh giữa các
kết quả kinh tế-xã hội đạt được của hoạt động đầu tư với các chi phí phải bỏ
ra để có các kết quả đó trong một thời kì nhất định.
Hiệu quả của hoạt động đầu tư được đánh giá thông qua các chỉ tiêu đo
lường hiệu quả. Việc xác định các chỉ tiêu này phụ thuộc vào muc tiêu của
doanh nghiệp, thỏa mãn tiêu chuẩn hiệu quả trên cơ sở sử dụng các định mức
hiệu quả do doanh nghiệp định ra.
Theo phạm vi lợi ích thì phân loại hiệu quả đầu tư gồm hiệu quả tài
chính và hiệu quả kinh tế- xã hội. Hiệu quả tài chính hay được gọi là hiệu quả
hạch toán kinh tế, được xem xét trong phạm vi một doanh nghiệp. Hiệu quả
kinh tế- xã hội của hoạt đông đầu tư là hiệu quả tổng hợp được xem trên
phạm vi toàn bộ nền kinh tế.
Để đáp ứng nhu càc quản lý và nghiên cứu thì có thể phân loại hiệu quả
đầu tư theo các tiêu thức sau đây:
- Theo lĩnh vực hoạt động của xã hội có hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội,
hiệu quả kĩ thuật hiệu quả quốc phòng.
- Theo phạm vi tác dụng của hiệu quả, có hiệu quả đầu tư của từng dự án,
từng doanh nghiệp, từng ngành, địa phương và toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Theo phạm vi lợi ích có hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế-xã hội .Hiệu
quả tài chình là hiệu quả kinh tế được xem xét trong phạm vi một doanh
nghiệp còn hiệu quả kinh tế-xã hội là hiệu quả tổng hợp được xem xét trong
phạm vi toàn bộ nền kinh tế.
Nguyễn Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế đầu tư 49B
22
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
- Theo mức độ phát sinh trực tiếp hay gián tiếp có hiệu quả trực tiếp và hiệu
quả gián tiếp.
-Theo cách tính toán có hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối .Hiệu quả
tuyệt đối là hiệu quả được tính bằng hiệu số giữa kết quả và chi phí. Còn hiệu
quả tương đối được tính bằng tỷ số giữa kết quả và chi phí.
1.3.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư :
1.3.2.2.1. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư :
Hiệu quả tài chính (E
tc
) của hoạt động đầu tư là mức độ đáp ứng nhu
cầu phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và nâng cao đời sống
của người lao động trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ trên cơ sở
vốn đầu tư mà cơ sở đã sử dụng so với các kì khác, các cơ sở khác hoặc so
với định mức chung. Việc phân tích đánh giá hiệu qủa tài chính của dự án đầu
tư dựa trên các báo cáo tài chính của Công ty về tình hình hoạt động tài chính
tại doanh nghiệp. Trong quá trình phân tích bằng các chỉ tiêu giá trị cần phải
tính tới giá trị thời gian của tiền. Bởi vì, các kết quả do hoạt động đầu tư đem
lại rất đa dạng và trong một thời gian dài, trong khi đó giá trị của tiền lại hay
thay đổi theo thời gian.
Etc được coi là hiệu quả khi E
tc
>E
tc0
.
Trong đó:
E
tc0
: chỉ tiêu hiệu quả tài chính định mức, hoặc của các kỳ khác mà cơ sở
đạt được chọn làm cơ sở so sánh, hoặc của đơn vị khác đạt tiêu chuẩn hiệu quả.
Để đánh giá hiệu quả tài chính chúng ta phải sử dụng một hệ thống các
chỉ tiêu như:
a, Chỉ tiêu lợi nhuận thuần, thu nhập thuần của dự án:
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả tuyệt đối của dự án đầu tư và phải được tính
chuyển về mặt bằng tiền tệ theo thời gian.
Nguyễn Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế đầu tư 49B
23
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
Chỉ tiêu lợi nhuận thuần (W-Worth) tính cho từng năm của đời dự án,
phản ánh hiệu quả hoạt động trong từng năm của đời dự án và được xác
định như sau:
W
i
= O
i
– C
i
Trong đó: O
i
– Doanh thu thuần năm i
C
i
: Các chi phí ở năm i bao gồm tất cả các khảon chi có liên quan
đến sản xuất, kinh doanh ở năm i (chi phí sản xuất, chi phí tiêu thụ sản phẩm,
chi phí quản lý hành chính…)
( ) ( )
∑ ∑
= =
+
−
+
=
n
i
n
i
i
i
i
i
r
C
r
B
NPV
0 0
11
Đây là chỉ tiêu vô cùng quan trọng khi đánh giá các dự án đầu tư. Một dự án
được coi là có hiệu quả tài chính khi NPV > 0.
b, Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư:
Nếu tính cho từng năm hoạt động:
RR
i
= W
ipv
/ Iv
o
RR
i
là mức sinh lời của vốn đầu tư năm i
W
ipv
là lợi nhuận năm I tính chuyển về thời điểm hiện tại .
I
v0
là vốn đầu tư tại thời điểm hiện tại (tại thòi điểm dự án bắt đầu hoạt động)
Nếu tính cho cả đời dự án:
npv = NPV / I
vo
npv: mức thu nhập thuần tính trên một đơn vị vốn đầu tư
NPV: Thu nhập thuần tính chuyển về thời điểm dự án bắt đầu đi vào hoạt động
Chỉ tiêu này phản ánh mức lợi nhuận thu được từng năm trên một đơn vị vốn
đầu tư phát huy tác dụng (1000đ, 1000000đ,…).
c, Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời vốn tự có:
Vốn tự có là một bộ phận rất quan trọng của vốn đầu tư, là một thành phần
giữ vai trò quyết định trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp bởi đây là yếu tố cơ
Nguyễn Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế đầu tư 49B
24
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Hồng Minh
bản để xem xét tiềm lực tài chính cho việc tiến hành các công cuộc đầu tư có
hiệu quả. Chỉ tiêu này được xác định:
- Nếu tính cho từng năm hoạt động của dự án:
r
Ei
= W
i
/ E
i
trong đó: r
Ei
: Tỷ suất sinh lời vốn tự có năm i
E
i
: Vốn tự có bình quân năm i
W
i
: Lợi nhuận thuần năm i
- Nếu tính cho cả đời dự án:
npv
E
= NPV / E
pv
trong đó : npv : mức thu nhập thuần tính trên một đơn vị vốn tự có
E
pv
: Vốn tự có bình quân năm của đời dự án tính ở thời điểm dự án
bắt đầu đi vào hoạt động
Chỉ tiêu này phản ánh mức thu nhập của đời dự án tính ở thời điểm dự án bắt
đầu đi vào hoạt động.
d, Tỷ suất giữa giá trị gia tăng với tổng vốn
Giá trị gia tăng
Tỷ suất giữa giá trị gia tăng với tổng vốn = x100%
Tổng vốn
Chỉ tiêu này phản ảnh cứ một đồng vốn tham gia vào quá trình sản xuất
kinh doanh tạo ra bao nhiêu đồng giá trị gia tăng nhằm thực hiện tái sản xuất
mở rộng doanh nghiệp, đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế-xã
hội, nâng cao đời sống nguời lao động. Tỷ suất giá trị gia tăng phản ảnh một
cách tổng quát và đầy đủ nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh đầu tư của doanh
nghiệp nhà nước, phản ảnh cả hiệu quả kinh tế lẫn xã hội mà doanh nghiệp
nhà nước tạo ra trong quá trình hoạt động.
e, Tỷ suất giữa thuế với tổng vốn
Thuế phải nộp
Tỷ suất giữa thuế với tổng vốn = x 100%
Tổng vốn
Nguyễn Thị Hải Yến Lớp: Kinh tế đầu tư 49B
25