Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Bội chi Ngân sách Nhà nước ở Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010 _ Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.72 MB, 65 trang )

Lê Quỳnh Anh – Ngân hàng K20 (Hệ 4 + 1)
MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu 2
Chương I _ Lý luận chung về NSNN, Cân đối NSNN và Bội chi NSNN 5
1.1. Lý luận chung về NSNN 5
1.1.1. Khái niệm và bản chất của NSNN 5
1.1.2. Thu NSNN 6
1.1.3. Chi NSNN 8
1.2. Lý luận về Cân đối NSNN 9
1.2.1. Khái niệm Cân đối NSNN 9
1.2.2. Các quan điểm về cân đối NSNN 10
1.3. Lý luận về Bội chi NSNN 12
1.3.1. Khái niệm và các chỉ tiêu phản ánh Bội chi NSNN 12
1.3.2. Nguyên nhân của Bội chi NSNN 13
1.3.3. Các biện pháp xử lý bội chi NSNN 14
Chương II _ Thực trạng và giải pháp cho Bội chi NSNN ở Việt Nam 16
2.1. Những quy định hiện hành về NSNN và cân đối NSNN ở Việt Nam 16
2.2. Thực trạng thu, chi NSNN ở Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010 20
2.2.1. Thực trạng thu cân đối NSNN giai đoạn 2006 – 2010 20
2.2.2. Thực trạng tổng chi cân đối NSNN giai đoạn 2006 – 2010 27
2.3. Thực trạng bội chi NSNN ở Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010 37
2.3.1. Bội chi NSNN giai đoạn 2006 – 2010 37
2.3.2. Nguồn bù đắp bội chi NSNN và tình hình nợ công giai đoạn 2006 – 2010 41
2.3.3. Nguyên nhân của Bội chi NSNN giai đoạn 2006 – 2010 46
2.4. Đề xuất một số giải pháp xử lý Bội chi NSNN trong thời gian tới 54
2.4.1. Định hướng thu chi NSNN ở Việt Nam thời gian tới 54
2.4.2. Giải pháp chống thất thu cho NSNN 55
2.4.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả chi tiêu công 57
2.4.4. Giải pháp quản lý chặt nợ công để sử dụng các khoản vay có hiệu quả 58
2.4.5. Giải pháp cải tiến phân cấp thu chi NSNN cho chính quyền địa phương 60


Kết luận 62
Danh mục tài liệu tham khảo 63
Nhận xét của giáo viên hướng dẫn 64
Đề án LTTCTT _ Bội chi Ngân sách Nhà nước ở Việt Nam
1
Lê Quỳnh Anh – Ngân hàng K20 (Hệ 4 + 1)
LỜI NÓI ĐẦU
Dù ở những mức độ khác nhau nhưng bội chi ngân sách nhà nước là tình trạng đang diễn
ra ở hầu hết các quốc gia trên thế giới do số thu ngân sách có hạn trong khi nhu cầu chi tiêu của
Nhà nước lại không ngừng tăng lên, dẫn đến mất cân đối chi và thu, bội chi ngân sách xảy ra. Khi
sản lượng của nền kinh tế thấp dưới mức sản lượng tiềm năng thì Chính phủ có thể tăng mức chi
ngân sách, chấp nhận bội chi để thúc đẩy hoạt động kinh tế. Vì vậy, bội chi ngân sách không chỉ
diễn ra phổ biến đối với các nước nghèo, kém phát triển mà xảy ra ngay cả đối với những nước
thuộc nhóm các nền kinh tế phát triển nhất (nhóm OECD). Đối với các nước đang phát triển, bội
chi ngân sách thường để đáp ứng nhu cầu rất lớn về đầu tư cơ sở hạ tầng ban đầu như: Giao
thông, điện, nước Nhiều nước phát triển và đang phát triển trong khu vực Đông Á và Đông Nam
Á cũng vẫn bội chi ngân sách. Bội chi xảy ra trong thời gian dài, quy mô lớn và tốc độ cao được
coi là nguyên nhân trực tiếp và quyết định gây ra lạm phát, đe dọa sự ổn định vĩ mô, do vậy khó
duy trì tăng trưởng cao và bền vững của nền kinh tế, gây ảnh hưởng tới đời sống cùa dân cư, làm
tăng thêm gánh nặng nợ nần cho quốc gia. Thêm vào đó, bội chi ngân sách trong thời gian dài
còn làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào chính sách điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Do
vậy, có nên duy trì bội chi ngân sách hay không và duy trì ở mức độ nào, trong thời gian bao lâu
thì phải tiến tới cân đối cũng như phải làm gì để giảm thiểu bội chi ngân sách nhà nước khi nó
buộc phải xảy ra đang là bài toán nan giải đối với nhiều nước, trong đó có Việt Nam.
Đề án môn học Lý thuyết Tài chính – Tiền tệ với đề tài “Bội chi Ngân sách Nhà nước ở
Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010 _ Thực trạng và giải pháp” trong khuôn khổ hạn hẹp sẽ xin
điểm qua lý thuyết về thu, chi, bội chi ngân sách nhà nước, các quan điểm về cân đối ngân sách
nhà nước hiện nay và tiếp đến là tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ ngân sách nhà nước của
Việt Nam giai đoạn 5 năm vừa qua, từ 2006 đến 2010; qua đó chỉ ra những nguyên nhân gây nên
bội chi ngân sách ở nước ta và đưa ra một số kiến nghị, đề xuất nhằm giảm thiểu bội chi ngân

sách nhà nước trong giai đoạn 2011 – 2015.
Kết cấu của Đề án gồm hai chương:
Chương I _ Lý luận chung về NSNN, Cân đối NSNN và Bội chi NSNN
Chương II _ Thực trạng và giải pháp cho Bội chi NSNN ở Việt Nam
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn Cô giáo, TS. Cao Thị Ý Nhi đã hướng dẫn em hoàn
thành đề án này. Do hạn chế về thời gian, tài liệu và trình độ nhận thức nên đề án có thể còn
nhiều thiếu sót, em rất mong nhận được sự phân tích, góp ý của Cô và các giáo viên trong Khoa
để đề án của em được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, tháng 05 năm 2011
Sinh viên thực hiện
Lê Quỳnh Anh
Đề án LTTCTT _ Bội chi Ngân sách Nhà nước ở Việt Nam
2
Lê Quỳnh Anh – Ngân hàng K20 (Hệ 4 + 1)
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NSNN Ngân sách Nhà nước
GTGT Giá trị gia tăng
TTĐB Tiêu thụ đặc biệt
XNK Xuất nhập khẩu
TNDN Thu nhập doanh nghiệp
TNCN Thu nhập cá nhân
ĐTXDCB Đầu tư xây dựng cơ bản
CQĐP Chính quyền địa phương
CQTƯ Chính quyền trung ương
NSĐP Ngân sách Địa phương
NSTƯ Ngân sách Trung ương
DN Doanh nghiệp
TTHC Thủ tục hành chính
KBNN Kho bạc Nhà nước
KTNN Kiểm toán Nhà nước

Đề án LTTCTT _ Bội chi Ngân sách Nhà nước ở Việt Nam
3
Lê Quỳnh Anh – Ngân hàng K20 (Hệ 4 + 1)
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ VÀ BẢNG, BIỂU
Trang
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình 1.1
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Bảng 1.1. Ngân sách nhà nước hàng năm 12
Biểu 2.1. Tổng thu cân đối NSNN giai đoạn 2006 – 2010 25
Biểu 2.2. Cơ cấu nguồn thu cân đối NSNN theo phạm vi & lĩnh vực giai đoạn 2006 -2010
26
Biểu 2.3. Mức động viên thuế và phí/GDP giai đoạn 2006 – 2010 26
Biểu 2.4. Tổng chi NSNN giai đoạn 2006 – 2010 34
Biểu 2.5. Cơ cấu tổng chi NSNN giai đoạn 2006 – 2010 theo giá trị tuyệt đối 35
Biểu 2.6. Cơ cấu tổng chi NSNN giai đoạn 2006 – 2010 theo tỷ trọng 36
Bảng 2.1. Cân đối thu - chi NSNN giai đoạn 2006 – 2010 39
Biểu 2.7. Thu – chi & bội chi NSNN giai đoạn 2006 – 2010 39
Biểu 2.8. Tốc độ tăng GDP, thu – chi NSNN & tỷ lệ bội chi NSNN/GDP giai đoạn 2006 –
2010 40
Bảng 2.2. Nguồn bù đắp Bội chi NSNN giai đoạn 2006 – 2010 41
Biểu 2.9. Tỷ trọng các nguồn bù đắp Bội chi NSNN giai đoạn 2006 – 2010 42
Biểu 2.10. Giá trị tuyệt đối của các nguồn bù đắp Bội chi NSNN giai đoạn 2006 – 2010
43
Đề án LTTCTT _ Bội chi Ngân sách Nhà nước ở Việt Nam
4
Lê Quỳnh Anh – Ngân hàng K20 (Hệ 4 + 1)
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NSNN, CÂN ĐỐI NSNN VÀ
BỘI CHI NSNN
1.1. Lý luận chung về Ngân sách Nhà nước

1.1.1. Khái niệm và bản chất của NSNN
 Khái niệm
Trong hệ thống tài chính thống nhất, NSNN là khâu tài chính tập trung giữ vị trí chủ đạo và
cũng là khâu tài chính được hình thành sớm nhất, ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với sự ra đời
của hệ thống quản lý Nhà nước và sự phát triển của kinh tế hàng hóa, tiền tệ. Cho đến nay, thuật
ngữ NSNN được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế, xã hội mọi quốc gia nhưng trên thực tế
chưa có quan điểm thống nhất về khái niệm NSNN vì nó bị chi phối bởi những trường phái kinh tế
cũng như những mục đích khác nhau của người nghiên cứu.
Từ “Ngân sách” được lấy ra từ thuật ngữ “budget”, một từ tiếng Anh thời trung cổ, dùng để
mô tả chiếc túi của nhà vua, trong đó có chứa đựng những khoản tiền cần thiết cho những khoản
chi tiêu công cộng. Dưới chế độ phong kiến, chi tiêu của nhà vua cho những mục đích công cộng
như đắp đê phòng chống lũ lụt, xây dựng đường xá và chi tiêu cho bản thân hoàng gia không có sự
tách biệt nhau. Khi giai cấp tư sản lớn mạnh từng bước khống chế nghị viện và đấu tranh đòi (1)
phải có quy định bằng luật pháp về mức độ đóng góp của các chủ thể vào ngân sách và mức độ này
phải tương đối ổn định theo thời gian và (2) phải tách biệt những khoản chi tiêu chung cho quốc
gia (sử dụng NSNN) và chi tiêu cho hoàng gia (sử dụng Ngân khố Hoàng gia). Từ đó làm nảy sinh
khái niệm NSNN.
 Nếu phân tách thuật ngữ NSNN, ta có quan điểm chung nhất là:
• Ngân sách = Quỹ tiền tệ.
• Ngân sách Nhà nước = Quỹ tiền tệ của Nhà nước, dùng cho hoạt động chung của
Nhà nước.
 Theo quan điểm của những nhà nghiên cứu kinh tế cổ điển: NSNN là một văn kiện
tài chính, mô tả các khoản thu và chi của chính phủ, được thiết lập hàng năm.
 Các nhà kinh tế học hiện đại cũng đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về NSNN. Các
nhà kinh tế học Nga cho rằng “NSNN là bảng liệt kê các khoản thu, chi bằng tiền trong một giai
đoạn nhất định của Nhà nước”.
 Theo điều 1 của Luật NSNN được Quốc hội khóa XI nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
thông qua tại kỳ hợp thứ hai, năm 2002 thì “NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”.

 Bản chất
Trong một chừng mực nào đó, các định nghĩa trên đây có những sự khác biệt nhất định.
Tuy nhiên, tựu chung lại, chúng đều thể hiện bản chất của NSNN là:
 Xét về phương diện pháp lý: NSNN là một đạo luật dự trù các khoản thu, chi bằng tiền
của Nhà nước trong một thời gian nhất định, thường là một năm. Đạo luật này được cơ quan lập
pháp của quốc gia đó ban hành và có tính chất bắt buộc các bên liên quan phải chấp hành nghiêm
Đề án LTTCTT _ Bội chi Ngân sách Nhà nước ở Việt Nam
5
Lê Quỳnh Anh – Ngân hàng K20 (Hệ 4 + 1)
túc theo dự toán ngân sách đã được duyệt. Nếu thu thiếu hoặc chi không hết theo dự toán sẽ bị phạt
và bị xem xét, giám sát một cách kỹ lưỡng quá trình lập dự toán cho năm tiếp theo.
 Xét về bản chất kinh tế: Mọi hoạt động của NSNN đều là hoạt động phân phối các
nguồn tài nguyên quốc gia (phân phối lần đầu và tái phân phối). Vì vậy, về nội dung kinh tế,
NSNN thể hiện một hệ thống những mối quan hệ kinh tế giữa một bên là nhà nước và một bên là
các tổ chức kinh tế, xã hội, các tầng lớp dân cư phát sinh trong quá trình nhà nước huy động và sử
dụng các nguồn tài chính nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện các chức năng của nhà nước.
 Về tính chất xã hội: NSNN luôn luôn là một công cụ kinh tế của Nhà nước nhằm phục
vụ cho việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của nhà nước như phát triển kinh tế, phát triển văn
hóa – xã hội gồm y tế, giáo dục, môi trường, du lịch, thể dục thể thao, phát thanh – truyền hình,
khoa học – công nghệ và giữ gìn trật tự, an ninh quốc phòng.
1.1.2. Thu NSNN
 Khái niệm và bản chất
Thu NSNN là (1) quá trình nhà nước sử dụng quyền lực để huy động một bộ phận giá trị
của cải xã hội hình thành quỹ NSNN nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước; (2) toàn bộ
các khoản tiền thu được tập trung trong tay Nhà nước để hình thành nên quỹ NSNN.
Về mặt bản chất, thu NSNN là hệ thống những quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và xã hội
phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động các nguồn tài chính để hình thành nên quỹ tiền tệ tập
trung nhằm thỏa mãn các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
Trên thực tế, người ta chỉ tính những khoản thu không mang tính hoàn trả khi xác định
nguồn hình thành ngân sách hoặc khi xác định bội chi ngân sách. Còn để tiện cho việc hạch toán

thì các khoản vay mang tính hoàn trả để bù đắp cho thiếu hụt ngân sách sẽ được đưa vào khi xác
định Quỹ NSNN.
Quỹ NSNN bao gồm toàn bộ các khoản tiền của Nhà nước kể cả tiền vay (phải hoàn trả) có
trên tài khoản của NS các cấp.
Quỹ NSNN = Tổng thu NSNN = Thu không hoàn trả + Thu để bù đắp (phải hoàn trả).
 Đặc trưng
 Luôn gắn liền với chức năng, nhiệm vụ và quyền lực chính trị của Nhà nước
Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước là điều kiện xuất hiện các khoản thu NSNN.
Đến lượt mình, các khoản thu NSNN là tiền đề vật chất không thể thiếu được đẻ thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
 Luôn gắn liền với các quá trình kinh tế và các phạm trù giá trị
Quá trình kinh tế bao gồm 4 giai đoạn cơ bản là sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng.
Các phạm trù giá trị: giá cả, tiền lương, thu nhập, lãi suất, tỷ giá, doanh thu, chi phí, lợi nhuận…
Kết quả của quá trình hoạt động kinh tế và hình thức, phạm vi, mức độ vận động của các
phạm trù giá trị là tiền đề quan trọng để xuất hiện hệ thống thu NSNN (VD: Thuế GTGT, thuế
TTĐB, thuế tài nguyên đánh vào các đầu vào của quá trình sản xuất; Thuế GTGT, thuế XNK, môn
bài đánh vào quá trình phân phối; thuế suất thuế GTGT tính trên giá cả và số lượng hàng hóa; thuế
môn bài tính trên doanh thu của doanh nghiệp). Nhưng cũng chính hệ thống thu NSNN lại là nhân
tố quan trọng có ảnh hưởng to lớn đến kết quả của quá trình kinh tế cũng như sự vận động của các
phạm trù giá trị (các loại thuế GTGT, TTĐB, XNK, môn bài, TNDN… sẽ tác động làm tăng giá cả
của hàng hóa, giảm thu nhập của doanh nghiệp).
Đề án LTTCTT _ Bội chi Ngân sách Nhà nước ở Việt Nam
6
Lê Quỳnh Anh – Ngân hàng K20 (Hệ 4 + 1)
 Phân loại
Tùy theo nhu cầu của việc phân tích đánh giá, người ta có thể phân loại nội dung thu
NSNN theo nhiều tiêu thức khác nhau:
 Xét theo nguồn hình thành các khoản thu
• Nhóm nguồn thu trong nước: Là các nguồn tài chính có khả năng tạo lập nên quỹ
NSNN do kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước mang lại. Bao gồm:

 Nguồn thu được hình thành và thực hiện trong khâu sản xuất:
Đặc điểm: Là nguồn thu quan trọng nhất và chiếm tỷ trọng lớn. Phản ánh sự tăng trưởng
của nền kinh tế về quy mô và hiệu quả. Sự tăng trưởng của nguồn thu này có ảnh hưởng to lớn đến
nguồn thu của các khâu khác.
Bao gồm: Nguồn thu từ sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng cơ bản…
 Nguồn thu được hình thành và thực hiện trong khâu lưu thông – phân
phối:
Đặc điểm: Là nguồn thu được tạo ra trong khâu sản xuất song thực hiện một phần trong
khâu lưu thông phân phối. Nguồn thu này tăng hay giảm phản ánh thực trạng giao lưu hàng hóa
trong và ngoài nước, thực trạng hoạt động của ngành sản xuất và tình hình biến động của thị
trường tiền tệ. Nguồn thu này ngày càng trở nên quan trọng nên cần được quản lý và khai thác tốt.
Bao gồm: Nguồn thu trong thương mại, ngân hàng, giao thông vận tải…
 Nguồn thu từ các hoạt động dịch vụ:
Đặc điểm: Các hoạt động dịch vụ so với hoạt động sản xuất thì có chi phí thấp hơn nhưng
mức doanh lợi thu được lại rất cao. Hơn nữa hoạt động này đang ngày càng phong phú và đa dạng.
Việc áp dụng các hình thức thu thích hợp không chỉ đóng góp vào tăng thu cho NSNN mà còn góp
phần kiểm soát và hướng dẫn các hoạt động dịch vụ, đảm bảo sự cân đối giữa ngành sản xuất với
dịch vụ.
Bao gồm: Dịch vụ giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa, môi trường, thể dục thể thao, phát thanh
truyền hình, khoa học công nghệ, du lịch…
 Nguồn thu từ hoạt động nghiệp vụ của các cơ quan tài chính:
Đặc điểm: Đây là nguồn thu được huy động bởi NHNN, Kho bạc Nhà nước và chỉ được
thực hiện khi cần bổ sung một lượng tiền cho nhu cầu chi tiêu của Chính phủ (khi bội chi ngân
sách xảy ra), không phải là khoản thu thường xuyên của ngân sách.
Bao gồm: Phát hành tiền, trái phiếu Chính phủ, tín phiếu Kho bạc trong nước.
• Nhóm nguồn thu ngoài nước:
Đặc điểm: Nguồn thu này gắn chặt với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và ngoại giao của
đất nước; thường không ổn định và có tính chất bù đắp một phần trong quá trình cân đối ngân
sách.
Bao gồm: Vay nợ, viện trợ của nước ngoài, phát hành trái phiếu ra nước ngoài.

 Xét theo mối quan hệ giữa các nguồn thu và quá trình cân đối ngân sách
• Thu trong cân đối ngân sách:
Bao gồm: Các hình thức chủ yếu sau:
Đề án LTTCTT _ Bội chi Ngân sách Nhà nước ở Việt Nam
7
Lê Quỳnh Anh – Ngân hàng K20 (Hệ 4 + 1)
- Thuế: GTGT, TTĐB, TNDN, TNCN, XNK, thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất nông
nghiệp.
- Phí và lệ phí.
- Thu về bán và cho thuê các tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước.
- Thu lợi tức cổ phần của Nhà nước.
- Các khoản thu khác theo luật định.
Đặc điểm:
- Là các khoản thu chủ động, có tính chất ổn định tương đối, có thể tính được và kế hoạch
hóa được.
- Thường không mang tính hoàn trả nên Nhà nước gần như có thể sử dụng tuyệt đối.
- Thuế là khoản thu quan trọng nhất và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong nhóm này.
• Thu để bù đắp sự thiếu hụt của NSNN:
Bao gồm:
- Vay trong nước: Vay của tầng lớp dân cư, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, xã hội trong
nước dưới hình thức phát hành các công cụ nợ của Chính phủ (ngắn, trung và dài hạn) như tín
phiếu Kho bạc Nhà nước, trái phiếu Chính phủ.
- Vay ngoài nước: Thực hiện thông qua các khoản viện trợ có hoàn lại (một phần quan
trọng trong nguồn vốn ODA); vay nợ của Chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế và các công ty.
Đặc điểm:
- Là các khoản thu thường mang tính hoàn trả, chỉ phát sinh khi có thiếu hụt ngân sách tức
là các khoản chi NSNN vượt quá các khoản thu trong cân đối ngân sách.
- Là khoản thu có tính bị động, không dự kiến trước được, chỉ khi có nhu cầu mới huy
động.
1.1.3. Chi NSNN

 Khái niệm và bản chất
Chi NSNN là quá trình phân phối và sử dụng quỹ NSNN theo những nguyên tắc nhất định
nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Bản chất chi NSNN là sự kết hợp của hai quá trình gồm:
Quá trình phân phối: là quá trình cấp phát kinh phí từ NSNN để hình thành các loại quỹ
trước khi đưa vào sử dụng.
Quá trình sử dụng: là trực tiếp chi dùng khoản tiền cấp phát từ NSNN mà không phải trải
qua việc hình thành các loại quỹ trước khi đưa vào sử dụng.
 Đặc trưng
 Thứ nhất: Chi NSNN luôn gắn chặt với các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội mà
Chính phủ phải đảm nhận trong mỗi thời kỳ.
 Thứ hai: Tính hiệu quả của các khoản chi NSNN được thể hiện ở tầm vĩ mô và mang
tính toàn diện cả về hiệu quả kinh tế trực tiếp lẫn hiệu quả về mặt xã hội và chính trị và ngoại giao.
Đề án LTTCTT _ Bội chi Ngân sách Nhà nước ở Việt Nam
8
Lê Quỳnh Anh – Ngân hàng K20 (Hệ 4 + 1)
 Thứ ba: Xét về tính chất, phần lớn các khoản chi NSNN đều là các khoản cấp phát
không hoàn trả trực tiếp và mang tính bao cấp. Vì vậy cần cẩn thận trước các quyết định chi tiêu để
tránh gây lãng phí, kém hiệu quả.
 Phân loại
Trong nền kinh tế thị trường, chi NSNN được phổ biến phân loại theo tính chất kinh tế của
các khoản chi. Theo đó, chi NSNN được chia ra các nội dung sau:
 Chi thường xuyên:
Đặc điểm:
- Là những khoản chi không có trong khu vực đầu tư và có tính chất thường xuyên để tài
trợ cho hoạt động của các cơ quan Nhà nước nhằm duy trì “đời sống quốc gia”.
- Về nguyên tắc: Chúng phải được tài trợ bằng các khoản thu trong cân đối của NSNN (thu
không mang tính hoàn trả).
Bao gồm:
- Chi về chủ quyền quốc gia: Bao gồm các chi phí mà các cơ quan Nhà nước cần phải thực

hiện để bảo vệ chủ quyền quốc gia, nhất là trên các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao,
thông tin đại chúng…
- Chi phí liên quan đến sự điều hành và duy trì hoạt động của các cơ quan Nhà nước để
thực hiện những nhiệm vụ được giao phó.
- Chi phí do sự can thiệp của Nhà nước vào các hoạt động kinh doanh, văn hóa, xã hội để
cải thiện đời sống nhân dân. Là chi phí thuộc loại chuyển nhượng như: trợ cấp cho các cơ quan
Nhà nước để thực hiện các hoạt động sự nghiệp, trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội, hỗ
trợ quỹ bảo hiểm xã hội.
 Chi đầu tư phát triển:
Đặc điểm: Là tất cả các khoản chi làm tăng thêm tài sản quốc gia hoặc đem lại lợi ích quốc
gia trong tương lai.
Bao gồm:
- Chi mua sắm máy móc, thiết bị và dụng cụ.
- Chi xây dựng mới và tu bổ công sở, đường xá, kiến thiết đô thị.
- Chi cho việc thành lập các doanh nghiệp Nhà nước, góp vốn vào các công ty, đơn vị, tổ
chức sản xuất kinh doanh.
- Các chi phí chuyển nhượng đầu tư.
- Các khoản cho vay ưu đãi hoặc trợ cấp cho những pháp nhân kinh tế công hay tư để thực
hiện các nhiệm vụ nêu trên nhằm thực hiện chính sách phân tích kinh tế của Nhà nước.
 Chi trả nợ và viện trợ: Bao gồm các khoản chi để nhà nước thực hiện nghĩa vụ trả nợ
các khoản đã vay trong nước, vay nước ngoài khi đến hạn và các khoản chi làm nghĩa vụ quốc tế.
 Chi bổ sung ngân quỹ quốc gia: Là những khoản chi NSNN để bổ sung quỹ dự trữ nhà
nước và quỹ dự trữ tài chính (chỉ thực hiện khi ngân sách dư thừa sau khi đã chi 3 khoản trên).
1.2. Lý luận về Cân đối NSNN
1.2.1. Khái niệm Cân đối NSNN
Đề án LTTCTT _ Bội chi Ngân sách Nhà nước ở Việt Nam
9
Lê Quỳnh Anh – Ngân hàng K20 (Hệ 4 + 1)
Trong tiếng Việt, “cân đối” có thể là danh từ, động từ hoặc tính từ.
• Với tư cách là danh từ, cân đối NSNN là mối quan hệ cân bằng giữa tổng thu và

tổng chi NSNN.
• Với tư cách là động từ, cân đối NSNN có nghĩa là làm cho tổng thu và tổng chi
NSNN được cân bằng.
• Với tư cách là một tính từ, NSNN cân đối có nghĩa là tổng thu và tổng chi có tương
quan cân bằng.
Tóm lại, “Cân đối NSNN” là việc giải quyết mối quan hệ giữa thu và chi ngân sách sao
cho các nguồn thu ngân sách đáp ứng được nhu cầu chi ngân sách.
1.2.2. Các quan điểm về cân đối NSNN
Khi so sánh giữa “thu trong cân đối ngân sách” với “tổng chi ngân sách” sẽ xảy ra 3 trạng
thái của ngân sách:
(1) Thu > Chi: Ngân sách thặng dư  phải tính toán sẽ làm gì để kiếm lời từ khoản thặng
dư đó.
(2) Thu = Chi  Ngân sách thăng bằng  chỉ tồn tại trên lý thuyết, không có trong thực
tế.
(3) Thu < Chi  Ngân sách thâm hụt hay Bội chi ngân sách  phải tìm nguồn thu bù đắp
cho nhu cầu chi tiêu vượt quá.
Cho tới nay đã tồn tại ba lý thuyết về cân đối NSNN là (1) Lý thuyết cổ điển về sự thăng
bằng ngân sách; (2) Lý thuyết về ngân sách chu kỳ và (3) Lý thuyết về ngân sách cố ý thiếu hụt.
 Lý thuyết cổ điển về sự thăng bằng ngân sách
Quan điểm này cho rằng trong mỗi năm ngân sách, Nhà nước phải đảm bảo tổng số các
khoản thu vào ngang bằng với tổng số các khoản chi ra và một ngân sách thăng bằng thì không
được dùng đến công trái, trừ khi phải xuất tiền ra để thực hiện những nhiệm vụ to lớn của đất
nước.
Theo đó, tất cả các khoản chi tiêu thường xuyên của Nhà nước phải do thuế tài trợ. Lý
thuyết cổ điển cho là không chính đáng khi Nhà nước đứng lên vay để chi tiêu thường xuyên. Vay
ngắn hạn chỉ chính đáng khi nào NSNN cần tiền mặt và trong thời gian ngắn có thể hoàn trả một
cách chắc chắn. Công trái chỉ có ý nghĩa về phương diện kinh tế khi được đem dùng để tài trợ cho
sản xuất, chế tạo sản phẩm mới. Vậy, Nhà nước có thể vay tiền dài hạn để đầu tư. Trong hoàn cảnh
chiến tranh, Nhà nước cũng có thể vay nợ để chi tiêu cho quốc phòng, vì đó là vấn đề sống còn của
cả nước.

Lý thuyết này được đưa ra dựa trên việc phân tích những nguy hại của sự mất thăng bằng
ngân sách:
(1) Nếu tổng số chi vượt quá tổng số thu thì Nhà nước sẽ phải vay nợ ngắn hạn để bù đắp.
Điều này sẽ tạo gánh nặng cho NSNN nếu những năm sau không có nguồn thu mới để bù đắp thâm
hụt và hoàn trả tiền vay. Và nếu tình trạng bội chi lớn và kéo dài, Nhà nước phải phá giá tiền tệ và
nhờ đó “chiếm” số lãi do phá giá mang lại và trang trải được hết hay một phần nào đó của số nợ thì
điều này cũng sẽ gây ra mức lạm phát nguy hại cho nền kinh tế;
(2) Nếu tổng số thu vượt quá tổng số chi thì sẽ gây hại cho đất nước trên cả hai phương
diện kinh tế và chính trị. Về phương diện kinh tế, khi thu lớn hơn chi và giả sử không mang ra chi
tiêu mà để dành, số tiền này không sinh lời, nền kinh tế sẽ mất một phần lợi tức, một số sản phẩm
Đề án LTTCTT _ Bội chi Ngân sách Nhà nước ở Việt Nam
10
Lê Quỳnh Anh – Ngân hàng K20 (Hệ 4 + 1)
tạo ra không bán được, một số doanh nghiệp thu hẹp hoặc ngừng hoạt động, nền kinh tế có thể bị
đình trệ. Về phương diện chính trị, khi số thu lớn hơn số chi, xu hướng là số thu trội sẽ bị chi tiêu
hết, mà nhiều khi còn dẫn tới đà chi vượt quá số thu, nếu không thì cũng dễ dẫn đến tâm lý quản lý
NSNN một cách dễ dãi, gây ra sự lãng phí và bất bình của xã hội đối với Nhà nước.
 Lý thuyết về ngân sách chu kỳ
Ở thế kỷ 19, NSNN chiếm một tỷ trọng rất nhỏ so với tổng sản phẩm trong nước. Vì vậy
mối quan hệ giữa NSNN và chu kỳ nền kinh tế còn chưa chặt chẽ và lý thuyết thăng bằng ngân
sách tỏ ra thích ứng với thời kỳ này.
Tuy nhiên, từ đầu thế kỷ 19 tới nay, thông thường nền kinh tế thị trường trải qua một chuỗi
các chu kỳ gồm có một thời kỳ thịnh vượng và một thời kỳ suy thoái. Trong mỗi thời kỳ của chu
kỳ kinh tế, thu, chi ngân sách rất khác nhau, dẫn đến việc thực thi ngân sách thăng bằng triệt để có
thể đi ngược lại với những đòi hỏi của chu kỳ kinh tế. Từ đó nảy sinh ra lý thuyết: Sự thăng bằng
của ngân sách sẽ không duy trì trong khuôn khổ một năm mà sẽ duy trì trong khuôn khổ của một
chu kỳ kinh tế.
Thực hiện lý thuyết này, các nhà kinh tế đưa ra các phương pháp sau đây:
(1) Tạo lập một quỹ dự trữ trong giai đoạn thịnh vượng, nhằm đề phòng những năm thiếu
hụt của thời kỳ suy thoái, nhưng phải tránh hai điều: Không để tiền nằm yên không vận động;

Chính phủ có thể sử dụng số tiền của quỹ này để trả dần cho các chủ nợ của mình nhưng nên tránh
trả quá nhiều một lúc cho dân chúng (sẽ gây biến động về giá cả).
(2) Trong giai đoạn kinh tế suy thoái không tìm cách thăng bằng ngân sách mà trái lại, cố ý
tạo ra một tình trạng mất thăng bằng, nghĩa là chi tiêu nhiều hơn. Tình trạng này khơi mào, châm
ngòi cho sự phục hồi kinh tế. Khi nền kinh tế đã thịnh vượng, sự không thăng bằng của ngân sách
năm cũ sẽ được đền bù bằng những khoản thu trội của ngân sách các năm thịnh vượng.
Chỉ từ ngày các Nhà nước can thiệp mạnh vào nền kinh tế, nhất là từ sau Chiến tranh thế
giới thứ II, chu kỳ kinh tế mất đi tính đều đặn thì lý thuyết này mới không còn mang tính thời sự
nữa.
 Lý thuyết về ngân sách cố ý thiếu hụt
Các lý thuyết trước đây đã chỉ ra, muốn thăng bằng ngân sách trong giai đoạn suy thoái thì
hoặc giảm chi hoặc tăng thu. Tuy nhiên, hai phương pháp này chỉ tác động tới nền kinh tế như cái
“máy hãm”, khiến cho nền kinh tế đã trì trệ lại càng trì trệ hơn. Để tránh ảnh hưởng kìm hãm đó,
người ta đã hy sinh thăng bằng ngân sách, chi tiêu ra nhiều hơn để gây và khơi mào cho sự phục
hồi kinh tế. Lý thuyết này được mô tả như là: Đem đối lập sự mất thăng bằng kinh tế bởi một sự
bất thăng bằng tài chính được hưởng.
Có thể nói, tác động xấu và nguy hại nhất của chính sách này là nạn lạm phát. Bởi vì muốn
có tiền để tài trợ cho những chương trình trong giai đoạn kinh tế suy thoái, Nhà nước có thể phải in
thêm giấy bạc. Mặc dù thực thi lý thuyết này có thể gây hiểm họa cho nền kinh tế nhưng sự thúc
đẩy những hoạt động kinh tế đang đình trệ sẽ làm giảm nhẹ gánh nặng của ngân sách. Việc mở
mang những hoạt động kinh tế sẽ tạo thêm nhiều việc làm, do vậy ngân sách sẽ bớt được những
khoản chi chuyển nhượng. Hơn nữa, trong nền kinh tế đang phát triển, đánh thuế lũy tiến sẽ thu hút
phần lớn hơn những khoản lợi tức cao. Ngân sách bơm tiền ra, có ảnh hưởng đối với nền kinh tế
như một động cơ phụ. Khi nền kinh tế đã phục hồi thì Chính phủ phải để cho nó tự vận hành và có
thể để cho động cơ phụ này nghỉ hoạt động.
Lý thuyết này đã được nhiều nước thực nghiệm như Anh, Đức, Pháp…và mang lại những
kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng có thể thi hành được chính sách ngân
Đề án LTTCTT _ Bội chi Ngân sách Nhà nước ở Việt Nam
11
Lê Quỳnh Anh – Ngân hàng K20 (Hệ 4 + 1)

sách cố ý thiếu hụt bởi có những giới hạn nhất định cho việc áp dụng. Theo Keynes thì tình trạng
thất nghiệp là dấu hiệu cho biết lúc nào nên thi hành hoặc chấm dứt chính sách. Theo kinh nghiệm
của Anh và một số nước thì khi nào tỷ lệ thất nghiệp lớn hơn 3%, Nhà nước có thể thực thi chính
sách cố ý thiếu hụt, còn khi tỷ lệ này thấp hơn hoặc bằng 3% thì Nhà nước phải cố gắng gây lại
mức thăng bằng của Ngân sách bởi khi nền kinh tế có mức thất nghiệp thấp thì sự gia tăng chi tiêu
sẽ không hiệu quả mà sẽ gây lãng phí.
Thuyết về ngân sách cố ý thiếu hụt không thể thay thế vĩnh viễn cho thuyết ngân sách
thăng bằng nghĩa là mẫu mực cần hướng tới của mọi Nhà nước vẫn là một ngân sách thăng bằng.
Lý thuyết này chỉ là một ngoại lệ của lý thuyết ngân sách thăng bằng. Sự thiếu hụt này phải có giới
hạn của nó, không được vĩnh viễn và phải được theo dõi chặt chẽ. Nó có thể thúc đẩy một nền kinh
tế ra khỏi tình trạng đình trệ song khi nền kinh tế đã bắt đầu chuyển động thì Nhà nước phải giảm
dần những chi phí đầu tư, dần dần tăng thu để làm cho ngân sách về lại trạng thái thăng bằng.
1.3. Lý luận về Bội chi NSNN
1.3.1. Khái niệm và các chỉ tiêu phản ánh Bội chi NSNN
 Khái niệm
Bội chi NSNN (còn gọi là Thâm hụt NSNN hay Thiếu hụt NSNN) là tình trạng khi tổng chi
tiêu của NSNN vượt quá các khoản thu không mang tính hoàn trả (thu trong cân đối) của NSNN.
 Các chỉ tiêu phản ánh
 Mức bội chi ngân sách:
• Cách tính giản đơn: Khi Thu trong cân đối ngân sách < (Chi thường xuyên + Chi
đầu tư phát triển) thì dẫn đến tình trạng bội chi ngân sách. Khi đó, mức độ bội chi ngân sách sẽ
được tính bằng:
• Cách tính theo thông lệ quốc tế:
Xét trên phương diện lý luận, số thu trong công thức tính bội chi NSNN hàng năm không
thể bao gồm các khoản vay nợ, bởi vì chúng đi kèm với trách nhiệm hoàn trả. Viện trợ không hoàn
lại hàng năm từ các chính phủ và tổ chức quốc tế có tác dụng làm giảm bội chi ngân sách nhưng
lại là những khoản thu không có kế hoạch trước, không ổn định và việc dự kiến chúng có thể tác
động tiêu cực đến dự toán NSNN dẫn đến phải điều chỉnh lớn trong tương lai; do đó cũng chỉ nên
coi các nguồn viện trợ là khoản thu để bù đắp bội chi NSNN.
Việc thu hồi hàng năm tiền nợ Nhà nước đã cho vay cũng không được tính là một khoản

thu của NSNN nên số chi hàng năm cũng không thể bao gồm toàn bộ doanh số cho vay của Nhà
nước mà chỉ gồm số cho vay ròng là chênh lệch giữa số cho vay ra và số đã thu hồi nợ trong năm.
Bảng 1.1. Ngân sách nhà nước hàng năm
Thu Chi
A. Thu thường xuyên (thuế, phí, lệ phí).
B. Thu về vốn (bán tài sản nhà nước).
D. Chi thường xuyên.
E. Chi đầu tư.
Đề án LTTCTT _ Bội chi Ngân sách Nhà nước ở Việt Nam
12
Số bội chi ngân sách = Chi thường xuyên – Thu trong cân đối + Chi đầu tư phát triển
Lê Quỳnh Anh – Ngân hàng K20 (Hệ 4 + 1)
C. Bù đắp bội chi:
- Viện trợ.
- Lấy từ nguồn dự trữ.
- Vay thuần (= vay mới – trả nợ gốc).
F. Cho vay thuần
(= cho vay mới – thu nợ gốc).
A + B + C = D + E + F
Công thức tính bội chi NSNN của một năm sẽ như sau:
 Tỷ lệ bội chi ngân sách:
• Theo GDP
• Theo Tổng thu ngân sách
Các chỉ tiêu đo lường tuyệt đối và tương đối về bội chi NSNN trên đây cần phải được xem
xét kết hợp với cơ cấu thu, chi của NSNN, có như vậy mới thấy được tác động của bội chi NSNN
đối với nền kinh tế.
1.3.2. Nguyên nhân của Bội chi NSNN
 Nguyên nhân khách quan
 Chu kỳ sản xuất kinh doanh: Đây là nguyên nhân khách quan cơ bản nhất gây nên
bội chi NSNN. Khủng hoảng làm cho thu nhập của Nhà nước co lại, nhưng nhu cầu chi lại tăng

lên, để giải quyết những khó khăn mới về kinh tế và xã hội. Điều đó làm cho mức bội chi NSNN
tăng lên. Ở giai đoạn kinh tế phồn thịnh, thu của Nhà nước sẽ tăng lên, trong khi chi không phải
tăng tương ứng. Điều đó làm giảm mức bội chi NSNN. Mức bội chi do tác động của chu kỳ kinh
doanh gây ra được gọi là bội chi chu kỳ.
 Thiên tai, chiến tranh, khủng hoảng chính trị: Gây thiệt hại cho hoạt động sản xuất
kinh doanh  thu giảm, tăng chi để khắc phục hậu quả thiên tai, để tiêu dùng cho chiến tranh hay
cho vận động chính trị.
 Nguyên nhân chủ quan
 Chính sách cơ cấu thu chi của Nhà nước: Đây là nguyên nhân chủ quan cơ bản nhất
gây nên bội chi NSNN. Khi Nhà nước thực hiện chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu dùng
sẽ làm tăng mức bội chi NSNN. Ngược lại, thực hiện chính sách giảm đầu tư và tiêu dùng của Nhà
nước thì mức bội chi NSNN sẽ giảm bớt. Mức bội chi do tác động của chính sách cơ cấu thu chi
gây ra được gọi là bội chi cơ cấu.
 Những nguyên nhân chủ quan khác:
Đề án LTTCTT _ Bội chi Ngân sách Nhà nước ở Việt Nam
13
Bội chi NSNN = Tổng chi – Tổng thu = (D + E + F) – (A + B) = C
Tỷ lệ bội chi ngân sách theo GDP = Mức bội chi ngân sách/GDP x 100%.
Tỷ lệ bội chi ngân sách theo Tổng thu ngân sách = Mức bội chi ngân sách/Tổng thu
ngân sách (theo dự toán) x 100%
Lê Quỳnh Anh – Ngân hàng K20 (Hệ 4 + 1)
• Xây dựng dự toán thiếu tính khoa học, khả thi: Như lạc quan về nguồn thu khiến
thu thấp hơn thực tế và thiếu kinh nghiệm trong xác định các khoản chi, không lường hết các
khoản chi, sự tăng giá, dự phòng không đủ cho các phát sinh khiến NSNN rơi vào tình trạng bội
chi.
• Sự yếu kém trong quản lý và điều hành ngân sách: Dẫn đến không kiểm soát
được thu, chi NSNN, làm lãng phí chi tiêu và thất thoát nguồn thu gây ra thâm hụt ngân sách.
1.3.3. Các biện pháp xử lý bội chi NSNN
Khi xảy bội chi NSNN thì trước hết Nhà nước cần tìm kiếm các nguồn để bù đắp bội chi.
Việc nguồn nào được sử dụng để bù đắp sẽ quyết định chiều hướng và mức độ tác động của Bội

chi NSNN đến kinh tế vĩ mô bởi mỗi cách bù đắp bội chi đều làm ảnh hưởng đến cân đối kinh tế vĩ
mô.
(1) Nhà nước phát hành thêm tiền. Việc xử lý bội chi NSNN có thể thông qua việc nhà
nước phát hành thêm tiền và đưa ra lưu thông. Tuy nhiên, giải pháp này sẽ gây ra lạm phát nếu nhà
nước phát hành thêm quá nhiều tiền để bù đắp bội chi NSNN. Đặc biệt, khi nguyên nhân bội chi
NSNN là do thiếu hụt các nguồn vốn đối ứng để đầu tư cho phát triển gây “tăng trưởng nóng” và
không cân đối với khả năng tài chính của quốc gia.
(2) Vay nợ cả trong và ngoài nước. Để bù đắp thâm hụt NSNN, nhà nước có thể vay nợ
nước ngoài và trong nước. Việc vay nợ nước ngoài quá nhiều sẽ kéo theo vấn đề phụ thuộc nước
ngoài cả về chính trị lẫn kinh tế và làm giảm dự trữ ngoại hối quá nhiều khi trả nợ, làm cạn dự trữ
quốc gia sẽ dẫn đến khủng hoảng tỷ giá. Vay nợ trong nước sẽ làm tăng lãi suất, và cái vòng nợ -
trả lãi - bội chi sẽ làm tăng mạnh các khoản nợ công chúng và kéo theo gánh nặng chi trả của
NSNN cho các thời kỳ sau.
(3) Tăng các khoản thu, đặc biệt là thuế. Việc tăng các khoản thu, đặc biệt là thuế có thể sẽ
bù đắp sự thâm hụt NSNN và giảm bội chi NSNN. Tuy nhiên, đây không phải là giải pháp cơ bản
để xử lý bội chi NSNN, bởi vì nếu tăng thuế không hợp lý sẽ dẫn đến làm giá cả hàng hóa tăng gây
ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống nhân dân, nghiêm trọng hơn sẽ triệt tiêu động lực của các
doanh nghiệp trong các ngành sản xuất kinh doanh và làm mất đi khả năng cạnh tranh của nền kinh
tế đối với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Bên cạnh việc tìm kiếm những nguồn bù đắp bội chi ở trên thì Nhà nước còn cần thực hiện
một giải pháp trước mắt nữa là cắt giảm chi tiêu và giải pháp lâu dài là xây dựng chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội đảm bảo cân đối thu - chi.
(4) Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công và chi thường xuyên từ NSNN. Đây là một
giải pháp tuy mang tính tình thế, nhưng vô cùng quan trọng với mỗi quốc gia khi xảy ra bội chi
NSNN và xuất hiện lạm phát. Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công có nghĩa là chỉ đầu tư vào
những dự án mang tính chủ đạo, hiệu quả nhằm tạo ra những đột phá cho sự phát triển kinh tế – xã
hội, đặc biệt những dự án chưa hoặc không hiệu quả thì phải cắt giảm, thậm chí không đầu tư. Mặt
khác, bên cạnh việc triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công, những khoản chi thường xuyên của
các cơ quan nhà nước cũng phải cắt giảm nếu những khoản chi này không hiệu quả và chưa thực
sự cần thiết.

(5) Tăng cường vai trò quản lý nhà nước nhằm xây dựng chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội lâu dài, cân đối cung - cầu, thu – chi, góp phần bình ổn giá cả, ổn định chính sách vĩ
mô và nâng cao hiệu quả hoạt động trong các khâu của nền kinh tế. Để thực hiện vai trò của
mình, nhà nước sử dụng một hệ thống chính sách và công cụ quản lý vĩ mô để điều khiển, tác động
vào đời sống kinh tế – xã hội, nhằm giải quyết các mối quan hệ trong nền kinh tế cũng như đời
sống xã hội, nhất là mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, giữa tăng trưởng
Đề án LTTCTT _ Bội chi Ngân sách Nhà nước ở Việt Nam
14
Lê Quỳnh Anh – Ngân hàng K20 (Hệ 4 + 1)
kinh tế với giữ gìn môi trường v.v Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, khi lạm phát là một vấn nạn
của các nước trên thế giới, vấn đề tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với quản lý NSNN nói
chung và xử lý bội chi NSNN nói riêng có ý nghĩa vô cùng cấp thiết.
Đề án LTTCTT _ Bội chi Ngân sách Nhà nước ở Việt Nam
15
Lê Quỳnh Anh – Ngân hàng K20 (Hệ 4 + 1)
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CHO BỘI CHI
NSNN Ở VIỆT NAM
2.1. Những quy định hiện hành về NSNN và cân đối NSNN ở Việt
Nam
 NSNN
Theo điều 1 của Luật NSNN được Quốc hội khóa XI nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
thông qua tại kỳ hợp thứ hai, năm 2002 thì “NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”.
 Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định NSNN
Là Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam.
 Năm Ngân sách
Là khoảng thời gian trong đó dự toán thu, chi ngân sách được Quốc hội quyết định có hiệu
lực thi hành.
Việc quy định thời điểm bắt đầu và kết thúc của năm ngân sách là hoàn toàn do nhà nước

từng quốc gia quyết định, tùy thuộc vào tập quán kinh doanh, canh tác, vào điều kiện lịch sử – kinh
tế – xã hội riêng biệt của từng nước. Ở Việt Nam năm ngân sách được quy định trùng với năm
dương lịch, tính từ 01/01 đến 31/12 hàng năm.
 Hệ thống mục lục NSNN
Là một bảng phân loại các khoản thu, chi ngân sách theo những tiêu thức, phương pháp
nhất định nhằm phục vụ cho công tác hạch toán, kế toán, quyết toán cũng như kiểm soát và phân
tích các hoạt động tài chính của Nhà nước được thống nhất, dễ tính toán, thống kê và theo dõi.
Hệ thống mục lục ngân sách hiện tại của Việt nam được thiết kế dựa trên 3 cách phân loại:
(1) theo tổ chức thể hiện qua chương; (2) theo ngành kinh tế quốc dân thể hiện qua loại, khoản và
(3) theo nội dung kinh tế thể hiện qua nhóm, tiểu nhóm, mục, tiểu mục.
Phân loại theo hệ thống tổ chức hành chính thì NSNN Việt Nam bao gồm 4 chương:
 Chương 1 _ Hạch toán thu chi của Ngân sách Trung ương
 Chương 2, 3, 4 _ Hạch toán thu chi của Ngân sách địa phương các cấp. Ngân sách địa
phương bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân, bao gồm:
• Cấp tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là ngân sách cấp tỉnh) thuộc
Chương 2;
• Cấp huyện/quận/thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (gọi chung là ngân sách cấp
huyện) thuộc Chương 3;
• Cấp xã, phương, thị trấn (gọi chung là ngân sách cấp xã) thuộc Chương 4.
 Chu trình Ngân sách
Đề án LTTCTT _ Bội chi Ngân sách Nhà nước ở Việt Nam
16
Lê Quỳnh Anh – Ngân hàng K20 (Hệ 4 + 1)
Là quy trình ngân sách dùng để chỉ toàn bộ hoạt động của một ngân sách kể từ khi bắt đầu
hình thành cho tới khi kết thúc chuyển sang ngân sách mới. Một chu trình ngân sách gồm 3 khâu
nối tiếp nhau là (1) lập, phê duyệt và phân bổ dự toán ngân sách; (2) thực hiện/ chấp hành ngân
sách; (3) quyết toán ngân sách.
Ở Việt Nam, một chu trình ngân sách cho năm (n+1) được kéo dài từ tháng 5 năm n đến
tháng 6 năm (n+3), trong đó:

(1) Giai đoạn lập, duyệt và phân bổ dự toán là từ tháng 5 năm n đến tháng 12 năm n;
(2) Giai đoạn triển khai, thực hiện là từ tháng 1 năm (n+1) đến tháng 12 năm (n+1);
(3) Giai đoạn quyết toán là từ tháng 1 năm (n+2) đến tháng 6 năm (n+3).
 Phân cấp quản lý NSNN
Là quá trình nhà nước Trung ương phân giao nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm nhất định
cho chính quyền địa phương trong hoạt động quản lý ngân sách.
Nội dung của phân cấp quản lý NSNN chính là việc giải quyết các mối quan hệ giữa chính
quyền nhà nước Trung ương và các cấp chính quyền nhà nước Địa phương trong việc xử lý các
vấn đề liên quan đến hoạt động của NSNN bao gồm 3 nội dung sau:
 Về chế độ, chính sách:
Về cơ bản, Nhà nước Trung ương vẫn giữ vai trò quyết định các loại thu như thuế, phí, lệ
phí, vay nợ và các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu thực hiện thống nhất trong cả nước.
Ngoài các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ
trưởng Bộ Tài chính ban hành, đối với một số nhiệm vụ chi có tính chất đặc thù ở địa phương thì
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được quyết định chế độ chi ngân sách, phù hợp với đặc điểm thực tế ở
địa phương. Riêng những chế độ chi có tính chất tiền lương, tiền công, phụ cấp, trước khi quyết
định phải có ý kiến của các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh báo cáo Bộ tài
chính việc ban hành các chế độ chi ngân sách ở địa phương để tổng hợp và giám sát việc thực hiện.
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định một số chế độ thu phí gắn với quản lý đất đai, tài
nguyên thiên nhiên, gắn với chức năng quản lý hành chính nhà nước của chính quyền địa phương
và các khoản đóng góp của nhân dân theo quy định của pháp luật (Nghị định 57/2002/NĐ-CP).
 Về nguồn thu, nhiệm vụ chi
Trong Luật ngân sách quy định cụ thể nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách Trung ương
và ngân sách địa phương được ổn định từ 3 đến 5 năm. Bao gồm các khoản thu mà từng cấp được
hưởng 100%; các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) cũng như nhiệm vụ chi của từng
cấp trên cơ sở quán triệt các nguyên tắc phân cấp. Việc đẩy mạnh phân cấp quản lý ngân sách
trong điều kiện tự nhiên, xã hội và trình độ quản lý ở các vùng, miền khác nhau là động lực quan
trọng để khơi dậy các khả năng của địa phương, xử lý kịp thời các nhiệm vụ của Nhà nước trên
phạm vi từng địa phương.
• Ngân sách Trung ương:

 Hưởng 100% các khoản thu tập trung quan trọng không gắn trực tiếp với công
tác quản lý của địa phương hoặc không đủ căn cứ chính xác để phân chia như: (1) Thuế XNK; (2)
Thuế GTGT, TTĐB hàng nhập khẩu; (3) Các khoản thuế và thu khác từ dầu, khí; (4) Viện trợ
không hoàn lại cho Chính phủ Việt Nam; (5) Thuế TNDN của các đơn vị hạch toán toàn ngành…
 Các khoản thu điều tiết giữa Trung ương và Địa phương: (1) Thuế TNDN của
đơn vị hạch toán không toàn ngành; (2) Thuế GTGT hàng nội địa; (3) Thuế TTĐB hàng nội địa;
Đề án LTTCTT _ Bội chi Ngân sách Nhà nước ở Việt Nam
17
Lê Quỳnh Anh – Ngân hàng K20 (Hệ 4 + 1)
(4) Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao; (5) Phí xăng dầu. Ngân sách Trung ương sẽ giữ
lại phần còn dư từ các khoản thu điều tiết này sau khi đã phân bổ cho địa phương theo tỷ lệ điều
tiết.
 Chi cho các hoạt động có tính chất bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ chiến lược,
quan trọng của quốc gia gồm: (1) Chi đầu tư phát triển: Chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội không có khả năng thu hồi vốn; Đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các
tổ chức kinh tế, các tổ chức tài chính của Nhà nước; Chi bổ sung dự trữ nhà nước; (2) Chi thường
xuyên: Chi quốc phòng, an ninh, chi giáo dục, y tế; Chi cho hoạt động của các cơ quan trung ương
của Nhà nước, Đảng cộng sản Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội; Chi bảo đảm xã hội như
trợ giá, thực hiện các chương trình quốc gia, hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã hội, trợ cấp cho các đối tượng
chính sách; (3) Chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền do Chính phủ vay; (4) Chi viện trợ; (5) Chi cho
vay theo quy định của pháp luật; (6) Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính của trung ương; (7) Chi bổ
sung cho ngân sách địa phương.
• Ngân sách địa phương:
 Được phân cấp nguồn thu để đảm bảo chủ động thực hiện những nhiệm vụ được
giao, gắn trực tiếp với công tác quản lý tại địa phương như: (1) Thuế nhà, đất; (2) Thuế chuyển
quyền sử dụng đất; (3) Thuế tài nguyên; (4) Thuế môn bài; (5) Lệ phí trước bạ; (6) Thuế sử dụng
đất nông nghiệp; (7) Viện trợ không hoàn lại trực tiếp cho địa phương; (8) Các khoản phí, lệ phí,
thu từ các hoạt động sự nghiệp và các khoản thu khác nộp vào ngân sách địa phương theo quy định
của pháp luật…là những khoản thu 100% của ngân sách cấp địa phương. Đảm bảo nguồn lực cho
chính quyền cơ sở cũng được Luật NSNN hết sức quan tâm. Luật NSNN quy định các nguồn thu

về nhà đất phải phân cấp không dưới 70% cho ngân sách xã, đối với lệ phí trước bạ thì phải phân
cấp không dưới 50% cho ngân sách các thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
 Được hưởng một phần từ các khoản thu điều tiết giữa Trung ương và Địa
phương ở trên theo tỷ lệ điều tiết bằng:
(1) (tổng chi của địa phương – tổng thu 100% của địa phương)/ Tổng thu điều
tiết giữa Trung ương và Địa phương  Áp dụng nếu tử số của phân số này
nhỏ hơn mẫu số.
(2) 100%  Áp dụng nếu tử số > hoặc = mẫu số.
 Ngân sách cấp trên thực hiện nhiệm vụ bổ sung ngân sách cho ngân sách cấp
dưới dưới hai hình thức: Bổ sung cân đối (chuyển giao không điều kiện) và Bổ sung có mục tiêu
(chuyển giao có điều kiện). Đây chính là nguồn thu bổ sung của ngân sách địa phương khi các
nguồn thu 100% và thu điều tiết không đủ để bù đắp cho các khoản chi.
 Một nguồn thu khác của ngân sách địa phương là thu từ huy động vốn để đầu
tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh được quy định theo
những điều kiện nghiệm ngặt: Công trình phải có trong kế hoạch đầu tư 5 năm thuộc nguồn ngân
sách cấp tỉnh bảo đảm đã được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phê duyệt; dự kiến nguồn bảo đảm trả
nợ của ngân sách cấp tỉnh; mức dư nợ từ nguồn vốn huy động không vượt quá 30% vốn đầu tư xây
dựng cơ bản trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh…
 Chi chủ yếu gắn liền với nhiệm vụ quản lý kinh tế - xã hội, quốc phòng, an
ninh do địa phương trực tiếp quản lý. Bao gồm: (1) Chi đầu tư phát triển: Đầu tư xây dựng các
công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội do địa phương quản lý; Đầu tư và hỗ trợ cho các doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tài chính của Nhà nước theo quy định của pháp luật; (2)
Chi thường xuyên: Chi cho các hoạt động sự nghiệp kinh tế, giáo dục và đào tạo, y tế, xã hội, văn
hoá thông tin văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, môi trường, các hoạt
Đề án LTTCTT _ Bội chi Ngân sách Nhà nước ở Việt Nam
18
Lê Quỳnh Anh – Ngân hàng K20 (Hệ 4 + 1)
động sự nghiệp khác do địa phương quản lý; Quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội (phần
giao cho địa phương); Hoạt động của các cơ quan nhà nước, cơ quan Đảng cộng sản Việt Nam và
các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương; Hỗ trợ cho các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp,

tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở địa phương theo quy định của pháp luật; Thực hiện
các chính sách xã hội đối với các đối tượng do địa phương quản lý; Chương trình quốc gia do
Chính phủ giao cho địa phương quản lý; Trợ giá theo chính sách của Nhà nước; Các khoản chi
khác theo quy định của pháp luật; (3) Chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền huy động cho đầu tư quy
định tại khoản 3 Điều 8 của Luật này; (4)Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính của cấp tỉnh; (5) Chi bổ
sung cho ngân sách cấp dưới.
 Về quản lý chu trình NSNN
Mặc dù, ngân sách Việt Nam vẫn nằm trong tình trạng ngân sách lồng ghép giữa các cấp
chính quyền trong chu trình ngân sách nhưng quyền hạn, trách nhiệm Hội đồng nhân dân các cấp
trong việc quyết định dự toán ngân sách, phân bổ ngân sách và phê chuẩn quyết toán ngân sách đã
được tăng lên đáng kể.
Ngoài các quyền có tính chất truyền thống như: Quyết định dự toán ngân sách địa phương;
phân bổ ngân sách địa phương; phân bổ dự toán chi ngân sách cho sở, ban, ngành theo từng lĩnh
vực cụ thể, quyết định số bổ sung từ ngân sách cấp mình cho từng ngân sách cấp dưới, trực tiếp
phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương thì Hội đồng nhân dân cấp tỉnh còn có nhiệm vụ:
Quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân sách ở địa phương; Quyết
định tỷ lệ % phân chia giữa ngân sách các cấp chính quyền địa phương đối với phần ngân sách địa
phương được hưởng từ các khoản thu phân chia giữa ngân sách Trung ương với ngân sách Địa
phương và các khoản thu có phân chia giữa các cấp ngân sách ở Địa phương.
Ngoài ra, việc tổ chức lập ngân sách ở các địa phương được phân cấp cho ủy ban nhân dân
các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định cụ thể cho từng cấp ở địa phương. Thảo luận về
dự toán với cơ quan tài chính chỉ thực hiện vào năm đầu của thời kỳ ổn định ngân sách, các năm
tiếp theo chỉ tiến hành khi địa phương có đề nghị.
 Cân đối NSNN
Trong chính sách ngân sách, Việt Nam hướng tới một NSNN “cân bằng thu, chi” (thu
không bao gồm các khoản vay nợ và chỉ tính vào thu NSNN các khoản viện trợ không hoàn lại;
còn các khoản viện trợ có hoàn lại thực chất là các khoản vay ưu đãi không được tính vào thu
NSNN).
Về cách xác định bội chi NSNN, theo điều 4, Nghị định số 60/2003/NĐ-CP quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành luật NSNN thì Bội chi NSNN là bội chi ngân sách Trung ương được

xác định bằng chênh lệch thiếu giữa tổng số chi ngân sách Trung ương và tổng số thu ngân sách
Trung ương của năm ngân sách. Ngân sách Địa phương được cân đối với tổng số chi không vượt
quá tổng số thu theo quy định tại nguyên tắc thứ 3 dưới đây.
Các nguyên tắc thực hiện cân đối NSNN theo điều 8 Luật NSNN 2002 gồm:
- NSNN được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số
chi thường xuyên và góp phần tích luỹ ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển; trường hợp còn bội
chi, thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách.
- Bội chi NSNN được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và ngoài nước. Vay bù đắp bội
chi NSNN phải bảo đảm nguyên tắc không sử dụng cho tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích
phát triển và bảo đảm bố trí ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn.
Đề án LTTCTT _ Bội chi Ngân sách Nhà nước ở Việt Nam
19
Lê Quỳnh Anh – Ngân hàng K20 (Hệ 4 + 1)
- Về nguyên tắc, ngân sách địa phương được cân đối với tổng số chi không vượt quá tổng
số thu; trường hợp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nhu cầu đầu tư xây dựng công trình
kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh bảo đảm, thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch
5 năm đã được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định, nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân
sách cấp tỉnh năm dự toán, thì được phép huy động vốn trong nước và phải cân đối ngân sách cấp
tỉnh hàng năm để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Mức dư nợ từ nguồn vốn huy động không vượt
quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh.
2.2. Thực trạng thu, chi NSNN ở Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010
2.2.1. Thực trạng thu cân đối NSNN giai đoạn 2006 – 2010
 Thực trạng thu cân đối NSNN từng năm
 Thu cân đối NSNN năm 2006
Nhiệm vụ NSNN năm 2006 được thực hiện trong điều kiện có nhiều thuận lợi: nền kinh tế
đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế đạt nhiều kết quả quan trọng Bên cạnh đó, phát sinh nhiều khó khăn,
thách thức: thời tiết diễn biến không thuận lợi, gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp và đời
sống của nhân dân; dịch cúm gia cầm chưa thể khống chế triệt để vẫn có nguy cơ tái dịch cao, dịch
lở mồm long móng gia súc bùng phát và diễn biến khó lường; giá xăng dầu và một số nguyên liệu

quan trọng trên thị trường thế giới biến động lớn, tạo áp lực tăng giá nguyên liệu đầu vào trong
nước, tác động xấu đến hiệu quả sản xuất - kinh doanh và khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
Thu trong cân đối NSNN năm 2006, ước cả năm đạt 264.260 tỷ đồng, vượt 11,1% so với dự
toán, tăng 21,7% so với thực hiện năm 2005, chủ yếu do yếu tố tăng thu từ dầu thô do tăng giá
bán; thu nội địa và thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu đều đạt và vượt dự toán, một mặt do
phát triển sản xuất - kinh doanh, mặt khác do yếu tố và điều chỉnh thuế suất thuế nhập khẩu xăng
Đề án LTTCTT _ Bội chi Ngân sách Nhà nước ở Việt Nam
20
Các bộ phận của Tổng thu NSNN theo cách tính của Việt Nam, bao gồm:
I. Thu cân đối NSNN, tùy theo tiêu chí phân loại có thể bao gồm:
 Phân theo phạm vi và lĩnh vực, thu cân đối NSNN (dùng trong báo cáo trong
nước)
(1) Thu nội địa
(2) Thu từ dầu thô
(3) Thu từ cân đối ngân sách từ hoạt động XNK
(4) Thu viện trợ không hoàn lại
 Phân theo nguồn thu, thu cân đối NSNN (còn gọi là “Tổng thu và viện trợ”)
(dùng trong báo cáo quốc tế)
(1) Thu từ thuế và phí
(2) Thu về vốn
(3) Thu viện trợ không hoàn lại
II. Thu kết chuyển từ năm trước
Dưới đây trình bày số liệu ước thực hiện lần 2 của Thu cân đối NSNN theo cách phân loại 1
cho năm 2006 – 2009 và theo cách phân loại 2 cho năm 2010.
Lê Quỳnh Anh – Ngân hàng K20 (Hệ 4 + 1)
và tăng cường quản lý thu, chống thất thu, nợ đọng thuế Tỷ lệ động viên vào NSNN đạt 23,0%
GDP, trong đó thuế, phí đạt 21,2% GDP (chiếm 92,35% tổng thu cân đối), đạt mức động viên
theo Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010 (kể cả yếu tố
tăng thu dầu thô do tăng giá, thì tỷ lệ động viên NSNN năm 2006 đạt 27% GDP). Về cơ cấu, thu
nội địa chiếm 52,1% tổng thu cân đối NSNN; thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu chiếm

16,2%, thu từ dầu thô chiếm 30,3%. Cơ cấu thu đã chuyển dịch dần theo hướng tích cực hơn, tăng
dần tỷ trọng thu từ nội bộ nền kinh tế.
 Thu cân đối NSNN năm 2007
Dự toán NSNN năm 2007 được triển khai thực hiện trong điều kiện có nhiều thuận lợi:
năng lực nội tại của nền kinh tế đã có bước phát triển mới; sự ổn định về chính trị, cùng với những
đổi mới quan trọng về tổ chức bộ máy nhà nước sau cuộc bầu cử Quốc hội khoá XII; quan hệ hợp
tác kinh tế quốc tế ngày càng được mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế
trong nước. Bên cạnh đó, năm 2007 cũng phát sinh nhiều khó khăn, thách thức: thiên tai (hạn
hán, lũ lụt, bão ) xảy ra trên phạm vi rộng, gây thiệt hại lớn về tính mạng và tài sản của nhân dân;
dịch cúm gia cầm, dịch lở mồm long móng ở gia súc, dịch tai xanh ở lợn bùng phát ở nhiều địa
phương; giá thế giới của một số nguyên nhiên liệu đầu vào quan trọng của nền kinh tế (xăng dầu,
sắt thép ) biến động phức tạp, giá cả hàng hoá tiêu dùng trong nước tăng cao so với những năm
trước, tác động tiêu cực nhiều mặt đến sản xuất và đời sống xã hội
Dự toán thu trong cân đối NSNN Quốc hội quyết định 281.900 tỷ đồng; cả năm ước đạt
287.900 tỷ đồng, tăng 8,95% so với thực hiện năm 2006. Đánh giá chung, nhiệm vụ thu NSNN
năm 2007 đã đạt được những kết quả quan trọng sau:
• Một là: Hoàn thành vượt mức dự toán thu ngân sách Quốc hội đã quyết định
(vượt 2,1%), đạt tỷ lệ động viên so GDP là 25,2%, riêng thuế và phí là 23,4% GDP (nếu loại trừ
yếu tố tăng giá dầu thô thì đạt 22,4% và 20,6% so với GDP). Trong điều kiện dự toán năm 2007
được xây dựng ở mức cao (tăng 18,5% so với dự toán NSNN năm 2006), quá trình điều hành phát
sinh nhiều khó khăn ảnh hưởng trực tiếp đến số thu ngân sách, như: sản lượng dầu thô thanh toán
giảm lớn so với dự toán, thực hiện điều chỉnh giảm thuế để bình ổn giá cả thị trường thì kết quả
thu như vậy là tích cực. Cơ cấu thu NSNN tiếp tục được cải thiện, tỷ trọng thu nội địa trong tổng
thu cân đối NSNN tăng từ 52,1% năm 2006 lên 55,4% năm 2007 (bình quân giai đoạn 2001-2005
là 52,4%), tỷ trọng thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu tăng từ 16,2% lên 19,6% (bình quân
giai đoạn 2001-2005 là 20,3%), tỷ trọng thu từ dầu thô giảm từ 30,3% xuống còn 23,8% (bình
quân giai đoạn 2001-2005 là 25,7%).
• Hai là: Những tác động tới thu NSNN sau một năm gia nhập WTO về cơ bản
nằm trong phạm vi đã dự kiến; trong một số lĩnh vực, ảnh hưởng tích cực của quá trình hội nhập
lớn hơn những ảnh hưởng tiêu cực. Các doanh nghiệp trong nước đã tích cực hơn trong đổi mới

quản lý, nâng cao chất lượng sản phẩm; kim ngạch xuất nhập khẩu tăng nhanh, thị trường xuất
khẩu tiếp tục được mở rộng; nguồn vốn đầu tư phát triển ưu đãi (ODA) và đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) đạt mức cao nhất từ trước đến nay , qua đó tạo thêm cơ sở tăng nguồn lực cho phát
triển và nguồn thu cho NSNN, mà kết quả là cả thu thuế nội địa và thu từ hoạt động xuất nhập
khẩu năm 2007 đều hoàn thành vượt mức dự toán NSNN đã được Quốc hội quyết định.
• Ba là: Công tác quản lý và xử lý nợ đọng thuế đã có bước chuyển rất cơ bản so
với những năm trước. Cơ quan Thuế và Hải quan đã thực hiện rà soát, phân loại các khoản nợ
đọng thuế của từng đối tượng nộp thuế để có biện pháp xử lý phù hợp, như: hướng dẫn doanh
nghiệp làm thủ tục để xử lý kịp thời đối với các khoản nợ thuế của đối tượng được xem xét miễn,
giảm, xoá nợ thuế theo quy định; yêu cầu các doanh nghiệp chây ì, chậm nộp phải lập kế hoạch trả
nợ thuế, nếu vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật; chuyển cơ quan công an xử lý đối
Đề án LTTCTT _ Bội chi Ngân sách Nhà nước ở Việt Nam
21
Lê Quỳnh Anh – Ngân hàng K20 (Hệ 4 + 1)
với các doanh nghiệp đã bỏ trốn, mất địa chỉ mà sau khi cơ quan chức năng đã làm thủ tục xác
minh vẫn không tìm được doanh nghiệp
 Thu cân đối NSNN năm 2008
Dự toán NSNN năm 2008 được triển khai thực hiện trong điều kiện kinh tế-xã hội nước ta
phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhất là khủng hoảng tài chính toàn cầu, lạm phát
tăng cao, thiên tai, dịch bệnh liên tiếp xảy ra trong nước. Tuy nhiên, Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã
kịp thời đề ra 8 nhóm giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh
xã hội và tăng trưởng bền vững; đồng thời chỉ đạo quyết liệt các cấp, các ngành, các địa phương
thực hiện nghiêm và đồng bộ các nhóm giải pháp đó. Nhờ đó, lạm phát đã được kiềm chế; xuất
khẩu ổn định; nhập siêu chuyển biến tích cực; thu hút đầu tư nước ngoài phát triển tốt; sản xuất
nông nghiệp đạt kết quả cao; đời sống dân cư ổn định. Tuy nhiên, những kết quả đạt được trong
năm qua chưa thật vững chắc, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm; cân đối vĩ mô chưa hợp lý; đời
sống dân cư chưa được cải thiện nhiều, giá cả tăng và đứng ở mức cao nên đời sống bộ phận dân
cư thu nhập thấp, vùng sâu, vùng xa, vùng thiên tai đang gặp nhiều khó khăn. Nền kinh tế nước ta
đang phát triển theo hướng mở, do đó dễ bị tác động trong điều kiện khủng hoảng tài chính thế
giới chưa kết thúc tại thời điểm đó.

Dự toán thu cân đối NSNN năm 2008 là 323.000 tỷ đồng, cả năm ước đạt 399.000 tỷ đồng,
vượt 23,5% (76.000 tỷ đồng) so dự toán, tăng 38,59% so với thực hiện năm 2007, đạt tỷ lệ động
viên 26,8% GDP, trong đó từ thuế và phí đạt 24,9% GDP; loại trừ yếu tố tăng thu do tăng giá dầu
thô thì đạt tỷ lệ động viên 23,5% GDP (thuế và phí đạt 21,6% GDP). Về cơ cấu, thu nội địa chiếm
51,4% tổng thu cân đối NSNN; thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu chiếm 22,80%, thu từ
dầu thô chiếm 24,56%.
Mặc dù điều kiện kinh tế- xã hội gặp nhiều khó khăn nhưng thu NSNN năm này vẫn đạt
được những kết quả khả quan như vậy là nhờ Chính phủ đã tập trung chỉ đạo tăng cường công tác
quản lý thu NSNN năm 2008 với các nội dung như:
• Chống thất thu và gian lận thuế, phấn đấu hoàn thành vượt mức nhiệm vụ thu
NSNN năm 2008 để tăng nguồn thực hiện các chính sách an sinh xã hội.
• Chính sách thu cũng được điều chỉnh phù hợp với cam kết trong WTO, đồng
thời phục vụ mục tiêu kiểm soát nhập khẩu, giảm nhập siêu và ổn định kinh tế vĩ mô. Năm 2008
là năm thứ hai thực hiện các cam kết trong WTO về cắt giảm hàng rào thuế quan, theo đó ngay từ
đầu năm đã tiếp tục giảm thuế đối với khoảng 1.700 mặt hàng thuộc 26 ngành hàng khác nhau, với
mức giảm thuế từ 1 - 6% (chủ yếu là 2 - 3%).
• Trong quá trình điều hành, nhằm giảm mức nhập siêu, Chính phủ đã điều chỉnh
tăng mức thuế suất thuế nhập khẩu bằng mức trần tối đa theo cam kết trong WTO của năm
2008 đối với các hàng hoá tiêu dùng không khuyến khích nhập khẩu (ô tô nguyên chiếc, linh kiện
và phụ tùng ô tô; một số mặt hàng điện tử, điện lạnh, ); điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu đối với
một số nhóm mặt hàng thiết thực phục vụ sản xuất (clinke, một số mặt hàng nguyên liệu sản xuất
thức ăn chăn nuôi, giấy in báo…) để góp phần bình ổn giá; điều chỉnh tăng thuế suất thuế xuất
khẩu đối với hàng hoá là tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản (dầu thô, than đá, quặng kim loại…);
điều chỉnh tăng lệ phí trước bạ đối với ôtô con nguyên chiếc dưới 10 chỗ ngồi; thực hiện biện pháp
kéo dài, giãn thời hạn nộp thuế và giảm thuế đối với các đơn vị sản xuất - kinh doanh hoạt động
chế biến hàng xuất khẩu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vượt qua khó khăn do giá đầu vào
tăng cao, duy trì và phát triển sản xuất, xuất khẩu.
Đề án LTTCTT _ Bội chi Ngân sách Nhà nước ở Việt Nam
22
Lê Quỳnh Anh – Ngân hàng K20 (Hệ 4 + 1)

• Tiếp tục rà soát, bãi bỏ một số khoản phí, lệ phí và các khoản đóng góp của nhân
dân không còn phù hợp, giảm đóng góp của nhân dân trong điều kiện giá cả tăng, đời sống nhân
dân gặp nhiều khó khăn.
• Công tác cải cách thủ tục hành chính thuế theo quy định của Luật Quản lý thuế
được chú trọng; mở rộng thực hiện phương thức doanh nghiệp tự tính, tự khai và tự nộp thuế
Các cơ quan quản lý thu cũng đã triển khai thực hiện đồng bộ, có hiệu quả nhiều nhóm giải pháp
để tăng cường chất lượng công tác quản lý thu, chống thất thu NSNN và xử lý nợ đọng thuế, như:
đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục để nâng cao sự hiểu biết và sự tự giác thực hiện nghĩa vụ thuế;
đẩy mạnh kiểm tra, thanh tra phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp kê khai không đúng,
không đủ số thuế phải nộp để truy thu tiền thuế cho NSNN.
Bên cạnh các kết quả tích cực nêu trên, công tác thu ngân sách năm 2008 còn những khó
khăn, tồn tại như thu NSNN tăng, nhưng chưa vững chắc, chủ yếu là do giá dầu thô và thuế xuất
nhập khẩu. Thu NSNN những tháng cuối năm có chiều hướng giảm do sản xuất - kinh doanh gặp
khó khăn.
 Thu cân đối NSNN năm 2009
Dự toán NSNN năm 2009 được triển khai thực hiện trong điều kiện có nhiều khó khăn,
thách thức lớn đối với nền kinh tế nước ta. Khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã
tác động trực tiếp đến kinh tế trong nước, làm cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu
giảm sút, ảnh hưởng đến việc làm và đời sống nhân dân. Trong bối cảnh đó, Chính phủ đã đề ra
những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm
an sinh xã hội. Cùng với sự nỗ lực của các ngành, các cấp, cộng đồng doanh nghiệp và toàn thể
nhân dân; các chính sách và giải pháp kích thích kinh tế đề ra đã được thực hiện khẩn trương, đồng
bộ và phát huy hiệu quả, giúp thực hiện thành công mục tiêu ngăn chặn suy giảm kinh tế. Từ quý
II/2009, tình hình kinh tế đã có chuyển biến tích cực, tăng trưởng quý sau cao hơn quý trước, nâng
mức tăng trưởng GDP cả năm đạt 5,32%, góp phần duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an
sinh xã hội. Cùng với sự khởi sắc của tình hình sản xuất, kinh doanh và xuất nhập khẩu, nhiệm vụ
NSNN năm 2009 đạt kết quả khả quan.
Thu NSNN năm 2009 ước đạt 442.340 tỷ đồng, vượt 13,4% so với dự toán; mức động viên
thuế và phí đạt 23%GDP. Cụ thể về cơ cấu: Thu nội địa ước thực hiện đạt 269.656 tỷ đồng, chiếm
60,96% tổng thu trong cân đối, vượt 15,7% so với dự toán, riêng thu tiền sử dụng đất đạt 36.274 tỷ

đồng; thu từ dầu thô ước đạt 60.500 tỷ đồng, bằng 95% so với dự toán, chiếm 13,68% tổng thu
NSNN; thu cân đối NSNN từ hoạt động xuất nhập khẩu ước đạt 105.664 tỷ đồng, tăng 18,5% so
với dự toán; chiếm 23,89% tổng thu.
Thu NSNN năm 2009 đạt kết quả tích cực là nhờ các nguyên nhân chủ yếu sau:
• Một là: Do tình hình kinh tế đất nước và hoạt động sản xuất - kinh doanh của
các doanh nghiệp từ quý II/2009 đã có chuyển biến tích cực. Nếu như GDP quý I tăng 3,14%,
hoạt động sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, số thu nội địa sụt giảm
mạnh; thì từ quý II/2009 đà hồi phục của nền kinh tế đã rõ nét hơn (GDP quý II tăng 4,41%, quý
III tăng 5,98%, quý IV tăng 6,99%). Nhờ vậy, số thu nội địa hàng tháng cũng từng bước đạt khá
hơn. Riêng trong quý IV/2009, số thu bình quân mỗi tháng tăng gần 18% so với mức thu bình quân
trong 9 tháng đầu năm. Bên cạnh đó, nhờ biện pháp kích cầu đầu tư và tiêu dùng thông qua giảm
thuế và lệ phí trước bạ, các hoạt động mua bán ô tô, xe máy, giao dịch bất động sản trong những
tháng cuối năm 2009 gia tăng (chỉ tính riêng xe ô tô, mức tiêu thụ bình quân tháng trong quý
IV/2009 bằng 1,5 lần mức tiêu thụ bình quân 9 tháng đầu năm), cũng tạo điều kiện cho thu NSNN
tăng thêm.
Đề án LTTCTT _ Bội chi Ngân sách Nhà nước ở Việt Nam
23
Lê Quỳnh Anh – Ngân hàng K20 (Hệ 4 + 1)
• Hai là: Các địa phương đã chỉ đạo khai thác các nguồn thu có khả năng; tập
trung đẩy nhanh việc đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án trong những tháng cuối năm
2009, khi thị trường bất động sản phục hồi, qua đó góp phần đưa số thu tiền sử dụng đất năm 2009
đạt mức cao nhất trong những năm gần đây. Đồng thời, các địa phương cũng đã tăng cường công
tác quản lý thu, đôn đốc xử lý nợ đọng thuế.
• Ba là: Số thu từ hoạt động xuất nhập khẩu những tháng cuối năm 2009 được cải
thiện đáng kể do kim ngạch xuất nhập khẩu gia tăng mạnh (do cả yếu tố tăng sản lượng và giá).
Cụ thể: Kim ngạch xuất, nhập khẩu quý IV/2009 tăng mạnh, với tổng giá trị đạt gần 37 tỷ USD,
bằng 30,7% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả năm và tăng gần 23,1% so với tổng kim ngạch
nhập khẩu bình quân 3 quý đầu năm. Bên cạnh đó, công tác đấu tranh chống buôn lậu, gian lận
thương mại đã được thực hiện quyết liệt, góp phần tăng thu cho NSNN.
 Thu cân đối NSNN năm 2010

Nhiệm vụ NSNN năm 2010 được thực hiện trong bối cảnh đất nước phải đối mặt với nhiều
khó khăn, thách thức do tác động bất lợi từ cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu
và thiên tai, dịch bệnh. Nhưng, với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, các ngành, các cấp, của
nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp, phần lớn các chỉ tiêu mà Quốc hội đề ra đã đạt được. Trong
khi sản xuất kinh doanh còn nhiều khó khăn, cán cân thương mại thâm hụt lớn, bội chi ngân sách
năm trước ở mức cao nhất trong những năm gần đây và những tác động phụ của gói kích thích
kinh tế năm 2009 làm cho việc bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô là một thách thức lớn, song nhờ
những biện pháp điều hành linh hoạt, phù hợp nên tình hình đã có bước cải thiện.
Về dự toán thu NSNN, dự toán thu cân đối ngân sách nhà nước năm 2010 là 461.500 tỷ
đồng, tăng 18,1% so ước thực hiện năm 2009, đạt mức động viên thu 23,9% GDP, trong đó từ
thuế và phí đạt 22,4% GDP. Trong tổng dự toán thu cân đối NSNN, dự toán thu cân đối NSTW là
302.472 tỷ đồng, tăng 40.331 tỷ đồng; dự toán thu cân đối NSĐP là 159.028 tỷ đồng, tăng 32.269
tỷ đồng so dự toán năm 2009. Về cơ cấu thu năm 2010, dự toán thu nội địa chiếm 63,9% tổng thu
ngân sách nhà nước, thu dầu thô chiếm 14,4%, thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu chiếm
20,7% tổng thu ngân sách nhà nước. Cụ thể:
Dự toán thu nội địa (không kể dầu thô): 294.700 tỷ đồng, tăng 23% so với ước thực hiện
2009; không kể thu tiền sử dụng đất thì tăng 25,4%. Về quy mô, dự toán năm 2010 có 13 địa
phương thu nội địa đạt trên 3.000 tỷ đồng, trong đó 9 địa phương thu trên 5.000 tỷ đồng, tăng 03
địa phương so với ước thực hiện năm 2009 (Quảng Ngãi, Hải Phòng và Quảng Ninh); 26 địa
phương thu đạt từ 1.000 - 3.000 tỷ đồng, tăng 4 địa phương so với ước thực hiện năm 2009 (Phú
Thọ, Hoà Bình, Nam Định và Vĩnh Long); chỉ còn 10 địa phương thu dưới 500 tỷ đồng, giảm 2 địa
phương (Lạng Sơn, Yên Bái) so với ước thực hiện năm 2009.
Dự toán thu dầu thô: 66.300 tỷ đồng, tăng 14,3% so với ước thực hiện 2009 trên cơ sở:
Thu từ dầu thô 61.100 tỷ đồng, với sản lượng dự kiến đạt 14,41 triệu tấn, giảm 01 triệu tấn so với
sản lượng ước thực hiện năm 2009; giá bình quân dự kiến đạt khoảng 68 USD/thùng.
Thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu: Dự toán thu được xây dựng trên cơ sở dự kiến
kim ngạch xuất khẩu năm 2010 đạt khoảng 60 tỷ USD, tăng 6,2%, kim ngạch nhập khẩu đạt
khoảng 73,6 tỷ USD, tăng 9% so với ước thực hiện 2009. Năm 2010 dự kiến thực hiện cắt giảm
khoảng 2.000 dòng thuế để thực hiện các cam kết quốc tế, làm giảm thu NSNN khoảng trên 3.000
tỷ đồng; đồng thời tiếp tục sử dụng linh hoạt công cụ thuế để hạn chế nhập siêu (nhất là các mặt

hàng tiêu dùng không thiết yếu), hạn chế xuất khẩu nguyên liệu thô. Dự toán thu năm 2010 cũng
đã tính tới yếu tố đẩy mạnh công tác xử lý, thu hồi nợ đọng, cải cách hành chính, thủ tục hải quan
và công tác kiểm tra sau thông quan, tăng cường đấu tranh chống buôn lậu, chống gian lận thương
mại và trốn thuế. Trên cơ sở đó, dự toán thu từ hoạt động xuất nhập khẩu năm 2010 là 131.500 tỷ
Đề án LTTCTT _ Bội chi Ngân sách Nhà nước ở Việt Nam
24
Lê Quỳnh Anh – Ngân hàng K20 (Hệ 4 + 1)
đồng, tăng 6,9% so với ước thực hiện năm 2009, trong đó thu từ thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ
đặc biệt hàng nhập khẩu là 66.500 tỷ đồng, tăng 2,3%; dự toán thu từ thuế giá trị gia tăng hàng
nhập khẩu là 65.000 tỷ đồng, tăng 12% so với ước thực hiện năm 2009. Sau khi trừ đi số chi hoàn
thuế theo chế độ năm 2010 dự kiến là 36.000 tỷ đồng, thì dự toán thu cân đối NSNN từ hoạt động
xuất nhập khẩu năm 2010 là 95.500 tỷ đồng, tăng 9,8% so với ước thực hiện năm 2009.
(4) Thu viện trợ không hoàn lại: 5.000 tỷ đồng, bằng dự toán năm 2009.
Về số liệu ước thực hiện (lần 2) thu NSNN, ngày 26/04/2011, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã
trình Chính phủ Báo cáo ước thực hiện NSNN 2010 lần hai, theo đó, tổng thu cân đối NSNN năm
2010 ước đạt 559.170 tỷ đồng, vượt 21,2% (tương đương 97.670 tỷ đồng) so dự toán, tăng thêm
31.070 tỷ đồng. Trong đó, mức động viên thuế và phí là 510.478 tỷ đồng, đạt 26,16%GDP, chiếm
91,29% tổng thu cân đối. Ngoại trừ số thu từ dầu thô vượt dự toán 4,3% (2.870 tỷ đồng), nhưng
giảm so với số đã báo cáo Quốc hội 1.630 tỷ đồng; còn lại các khoản thu đều tăng so với số đã báo
cáo Quốc hội ở lần ước thực hiện thứ nhất. Thường trực Ủy ban Tài chính - Ngân sách cho rằng,
số thu vượt 21,2% dự toán, một mặt phản ánh kết quả tích cực của sản xuất phát triển, kim ngạch
xuất nhập khẩu tăng Tuy nhiên, thu vượt dự toán quá lớn (21,2%) là vấn đề cần được xem xét,
phân tích kỹ hơn. Điều này có thể cho thấy chất lượng công tác lập dự toán chưa cao, chưa sát thực
tế. Đây cũng là tồn tại diễn ra trong nhiều năm nhưng chậm được khắc phục ở nhiều bộ, địa
phương.
 Tổng kết thu cân đối NSNN giai đoạn 2006 – 2010
Biểu 2.1. Tổng thu cân đối NSNN giai đoạn 2006 - 2010
Nguồn: Báo cáo NSNN các năm 2006, 2007, 2008, 2009 & Số liệu ước thực hiện NSNN
năm 2010 (lần 2) của Bộ Tài chính
 Về giá trị, thu cân đối NSNN 3 năm 2006 - 2008 ước đạt 67,4% chỉ tiêu 5 năm. Tốc

độ tăng thu cân đối bình quân (đã loại trừ yếu tố tăng giá dầu) là 23,08% vượt gấp đôi chỉ tiêu
đề ra cho 5 năm là 10,8%/năm. Quy mô thu cân đối NSNN năm 2008 tăng 75% so với năm 2005,
Đề án LTTCTT _ Bội chi Ngân sách Nhà nước ở Việt Nam
25

×