Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Đầu tư phát triển ngành giáo dục bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước ở Việt Nam từ năm 2001 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.53 KB, 22 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Bước vào Thế kỷ 21 ngành Giáo dục Việt Nam đã trải qua hơn 15 năm đổi mới
và thu được những thành quả quan trọng về mở rộng quy mô, đa dạng hóa các hình
thức giáo dục và nâng cấp cơ sở vật chất cho nhà trường, trình độ dân trí được nâng
cao, chất lượng giáo dục có những chuyển biến bước đầu. Đảng và nhà nước ta luôn coi
giáo dục là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục là nền tảng, nguồn nhân lực chất
lượng cao là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững. Giáo dục là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, xây dựng xã hội học
tập, tạo điều kiện cho mọi người, ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ được học tập thường
xuyên, Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục.Trước đây, khi
còn trong chế độ bao cấp, ngành giáo dục nước ta chủ yếu chịu sự quản lý và đầu tư của
nhà nước, từ sau Đại hội VIII Đảng và Nhà nước khuyến khích mở cửa trong đầu tư
giáo dục, xã hội hóa giáo dục nhằm đáp ứng yêu cầu đầu tư của ngành, giảm gánh nặng
đầu tư cho nhà nước, nâng cao hiệu quả trong đầu tư. Để đánh giá được tầm quan trọng
và hiệu quả của vốn ngân sách nhà nước đầu tư phát triển ngành giáo dục trong thời
gian qua, và vai trò của vốn NSNN cho giáo dục trong thời gian tới, đề tài được nghiên
cứu trong chuyên đề tốt nghiệp đó là: “Đầu tư phát triển ngành giáo dục bằng
nguồn vốn ngân sách nhà nước ở Việt Nam từ năm 2001 đến nay”. Nội dung chính
của đề tài bao gồm 3 phần chính:
Chương 1: Những vấn đề chung về đầu tư phát triển ngành giáo dục bằng
nguồn vốn ngân sách nhà nước. Nội dung chính của chương nhằm tìm hiểu những
vấn đề chung nhất về đầu tư phát triển ngành giáo dục, vai trò của đầu tư phát triển
ngành giáo dục, vị trí nguồn vốn ngân sách nhà nước trong đầu tư phát triển ngành giáo
dục.
Chương 2: Đánh giá tình hình đầu tư phát triển ngành giáo dục bằng
nguồn vốn ngân sách nhà nước năm 2001 đến năm 2008. Nội dung chính của
chương xây dựng hình ảnh tổng quan về hiên trạng ngành giáo dục Việt Nam qua đó
đánh giá tình hình đầu tư phát triển ngành giáo dục từ nguồn vốn ngân sách nhà nước từ
năm 2001 đến nay.


Chuyên để thực tập tốt nghiệp
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường và nâng cao hiệu quả đầu
tư phát triển ngành giáo dục bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước trong thời gian
tới. Nội dung chính của chương đề cập đến chiến lược đầu tư phát triển ngành giáo dục
đến năm 2020 của Đảng và nhà nước, trên cơ sở đó cùng với tình hình đầu tư phát triển
ngành giáo dục đã đề cập đến ở chương 2, xây dựng nên một số giải pháp nhằm tăng
cường và nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển ngành giáo dục bằng nguồn vốn ngân sách
nhà nước trong thời gian tới.
Chuyên để thực tập tốt nghiệp
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGÀNH
GIÁO DỤC BẰNG NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1. Những vấn đề lý luận chung về đầu tư phát triển ngành giáo dục bằng nguồn
vốn ngân sách nhà nước
1.1.1. Khái niệm và vai trò của đầu tư phát triển ngành giáo dục
1.1.1.1. Khái niệm đầu tư phát triển ngành giáo dục
Đầu tư phát triển ngành giáo dục là hoạt động sử dụng các nguồn lực vật chất,
nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng sửa chữa nhà cửa kiến trúc hạ tầng mua sắm
trang thiết bị, đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên
gắn liền với hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ
sở hạ tầng của ngành Giáo dục đang tồn tại và tạo và nâng cao chất lượng đào tạo của
ngành giáo dục.
1.1.1.2. Vai trò của đầu tư phát triển ngành giáo dục
Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định mục tiêu tổng quát của
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001 đến 2010 là : “Đưa đất nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của
nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp

theo hướng hiện đại hóa”. Để thực hiện được nghị quyết mà Đảng và Nhà nước đã đề
ra cần tiếp tục đầu tư cơ sở hạ tầng xã hội cho giáo dục, đầu tư giáo dục đào tạo ra
những con người có đạo đức, tri thức, tay nghề. Để tạo ra được những bước nhảy vọt
đó giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ có vai trò quyết định bởi ngành giáo dục giữ
vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế
1.1.1.2.1. Góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình hoàn thiện hạ tầng xã hội, hạ tầng sản
xuất, thượng tầng kiến trúc của đất nước, một cách hoàn chỉnh và phục vụ tốt nhất cho
đời sống của con người. Hạ tầng xã hội là các công trình công cộng, được xây dựng để
phục vụ, nâng cao đời sống của cộng đồng, hạ tầng sản xuất là hệ thống các máy móc
thiết bị phục vụ cho quá trình sản xuất, tạo ra sản phẩm của đất nước, kiến trúc thượng
Chuyên để thực tập tốt nghiệp
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tầng là toàn bộ quan điểm chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật,…
cùng với đó là những thể chế tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn
thể,… được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định. Mục tiêu công nghiệp hóa –
hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện
đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, đời sống tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giầu,
nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Như vậy, công nghiệp hóa không phải là chỉ
phát triển nền công nghiệp, mà là phát triển mọi lĩnh vực từ sản xuất vật chất và dịch vụ
của nền kinh tế, cho đến các khâu trang thiết bị, phương pháp quản lý, tác phong lao
động, kỹ năng sản xuất. Để làm được điều này, cần phải có đội ngũ nguồn nhân lực
được qua đào tạo tỷ mỉ bài bản, trau chuốt từ đạo đức đến những kỹ năng nghề nghiệp.
Lao động là một yếu tố đầu vào của sản xuất. Trước đây, chúng ta chỉ quan niệm lao
động là yếu tố vật chất đầu vào giống như yếu tố vốn và được xác định bằng số lượng
nguồn lao động mỗi quốc gia (có thể ước tính bằng đầu người hay thời gian lao động).
Những mô hình tăng trưởng kinh tế hiện đại gần đây đã nhấn mạnh đến yếu tố phi vật

chất của lao động gọi là vốn nhân lực đó là nguồn nhân lực chất lượng cao, các lao động
có kỹ năng sản xuất, lao động có thể vận hành được máy móc thiết bị phức tạp, những
lao động có sáng kiến và phương pháp mới trong hoạt động kinh tế. Việc hiểu yếu tố lao
động theo yếu tố lao động theo hai nội dung có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong phân
tích lợi thế và và vai trò quan trọng của nhân tố này trong tăng trưởng kinh tế của các
nước đang phát triển. Hiện nay, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam nói riêng và các nước
đang phát triển nói chung được đóng góp nhiều bởi quy mô, số lượng lao động, yếu tố
vốn nhân lực còn có vị trí chưa cao do trình độ và chất lượng lao động ở các nước đang
phát triển còn thấp. Ngành giáo dục phát triển, đào tạo ra những thế hệ con người có đạo
đức, có trình độ sẽ thúc đẩy cho quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa diễn ra nhanh và
đúng hướng. Con người được đào tạo, có khả năng tiếp thu thành tựu khoa học kỹ thuật,
từ đó ứng dụng vào thực tiễn điều kiện ở Việt Nam, và phát huy được cơ sở vật chất đầu
tư, nếu đơn thuần chỉ đầu tư đổi mới trang thiết bị với những máy móc hiện đại nhưng
lực lượng lao động không có khả năng sử dụng, thì việc đầu tư đó không hiệu quả và
cũng không được coi là quá trình công nghiệp hóa.
Chuyên để thực tập tốt nghiệp
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.1.1.2.2. Góp phần phát triển và nâng cao trình độ công nghệ của
đất nước
Công nghệ kỹ thuật được quan niệm là nhân tố tác động ngày càng mạnh mẽ
đến tăng trưởng trong điều kiện kinh tế hiện đại. Yếu tố kỹ thuật cần được hiểu theo
đầy đủ hai dạng: thứ nhất, đó là những thành tựu kiến thức, tức là nẵm bắt kiến thức
khoa học, nghiên cứu đưa ra những nguyên lý , thử nghiệm về cải tiến sản phẩm , quy
trình công nghệ hay thiết bị kỹ thuật; thứ hai, là sự áp dụng phổ biến các kết quả nghiên
cứu, thử nghiệm vào thực tế nhằm nâng cao trình độ phát triển chung của sản xuất. Yếu
tố công nghệ khi được xét trên khía cạnh toàn diện như trên công nghệ được xem như là
“chiếc đũa thần tăng them sự giàu có của cải xã hội”. Nguồn nhân lực đóng vai trò rất
quan trọng trong quá trình phát triển của công nghệ kỹ thuật, nguồn nhân lực được đào
tạo, trang bị đầy đủ kiến thức cần thiết để tiếp cận với công nghệ hiện đại của thế giới

và có điều chỉnh phù hợp với nền sản xuất trong nước, tạo điều kiện nâng cao và phát
triển nền công nghệ trong nước. Hệ thống giáo dục đồng bộ, hoàn thiện sẽ tạo ra nguồn
nhân lực chất lượng cao.
1.1.1.2.3. Góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Mục tiêu của giáo dục là tạo ra con người có đạo đức, tri thức và kỹ năng; đào
tạo là là hình thức dậy dỗ nhằm tạo ra con người thành thạo kỹ năng nghề nghiệp. Giáo
dục cũng đồng thời cung cấp kỹ năng để con người xây dựng cuộc sống hạnh phúc, văn
minh, nhưng vẫn giữ gìn được văn hóa truyền thống của dân tộc. Nền giáo dục nước ta
cũng đang tìm ra những biện pháp để đạt được những mục tiêu trên. Nước ta có lịch sử
lâu đời, đạo đức con người Việt Nam được hình thành từ sự đấu tranh sinh tồn với thiên
nhiên, tạo nên sức mạnh cộng đồng yêu thương bảo vệ nhâu mà còn tiếp thu được nhiều
nguồn tư tưởng và đạo đức của loài người trong đó có thể kể đến: Phật giáo dậy cho
con người có lòng từ bi, vị tha, yêu thương mọi sinh linh…, Nho giáo dậy cách cư xử
mối quan hệ giữa người với người, quan hệ với cha mẹ, với cộng đồng quốc gia và các
mối quan hệ xung quanh khác, hình thành nên hệ thống đạo đức “lễ, nghĩa, liêm, sỉ,
nhân, trí, tín, dũng”…, Thiên Chúa giáo và đạo Tin lành dậy lòng bắc ái, yêu tự do…,
tư tưởng của Karl Marx dậy sự bình đẳng, yêu thương, bênh vực quyền lợi của những
người ít của cải trong xã hội, đứng về phía quyền lợi người nghèo khó... Trong các
Chuyên để thực tập tốt nghiệp
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
luồng tư tưởng và đạo đức của loài người quy tụ đến Việt Nam đã được con người Việt
Nam tiếp thu và chọn lọc, hình thành nên đạo đức tư tưởng văn hóa Việt Nam. Hơn 30
năm kể từ ngày độc lập, Việt Nam đã có những tiến bộ vượt bậc trong phát triển kinh
tế, nâng cao đời sống của nhân dân, cùng với quá trình hội nhập kinh tế thế giới không
chỉ là hội nhập về kinh tế mà còn cả về mặt văn hóa. Vì vậy, giáo dục đào tạo sẽ mang
tính định hướng cho lớp trẻ có được những nhận thức đúng đắn, hiểu biết về những nét
văn hóa mạng tính truyền thống của dân tộc, để tự bản thân có được nhận thức và hình
thành những lối sống hiện đại nhưng vẫn duy trì được nét văn hóa của người Việt Nam.
Việc giáo dục cho từng cá nhân trong xã hội có được nhận thức, lối sống tốt là điều

kiện để Việt Nam có thể “hòa nhập nhưng không hòa tan”.
1.1.1.2.4. Góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp
Nguồn nhân lực là một trong những tài sản quý giá nhất của doanh nghiệp. Đây
là một loại tài sản vô hình, không thể xác định được đặc điểm vật chất của chính nó
nhưng lại có giá trị lớn và có khả năng sinh ra lợi nhuận. Nó là thước đo hiệu quả kinh
doanh, sức cạnh tranh và khả năng phát triển của doanh nghiệp trước mắt và trong
tương lai. Các loại tài sản hữu hình nói chung, việc sử dụng tài sản đồng nghĩa với việc
làm cho giá trị tài sản giảm đi, tuy nhiên, đối với tài sản trí tuệ, phạm vi và đối tượng sử
dụng của tài sản càng rộng thì giá trị tài sản càng lớn. Ngày nay, bằng việc xây dựng,
phát triển và sở hữu các tài sản trí tuệ có chất lượng tốt, uy tín và vị trí của doanh
nghiệp luôn được củng cố và mở rộng; khả năng cạnh tranh và thị phần của doanh
nghiệp được nâng cao. Chất lượng nguồn nhân lực không chỉ là tài sản mà còn là nguồn
vốn của doanh nghiệp. Vốn trí tuệ tiềm ẩn trong mỗi con người, sau khi được đào tạo
qua trường lớp thì những kỹ năng kiến thức của con người sẽ càng ngày càng hoàn
thiện hơn. Nếu như hệ thống giáo dục ngay từ khi còn là học sinh phổ thông biết được
vai trò cũng như tầm quan trọng của vốn trí tuệ nhằm định hướng cho học sinh phát huy
khả năng tư duy, sáng tạo, năng lực tiềm ẩn trong chính bản thân mình, trở thành một
đội ngũ nhân lực là tài sản cũng là nguồn vốn quý giá nhất của doanh nghiệp.
1.1.2. Đặc điểm và vị trí của nguồn vốn ngân sách nhà nước trong đầu tư phát
triển ngành giáo dục
Chuyên để thực tập tốt nghiệp
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.1.2.1. Đặc điểm của nguồn vốn ngân sách nhà nước trong đầu tư phát triển
ngành giáo dục
Nguồn vốn ngân sách nhà nước, đây chính là nguồn chi của ngân sách nhà nước
cho đầu tư, là nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội
của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thường được dùng cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực
cần sự tham gia của nhà nước, chi cho công tác lập và thực hiện các dự án quy hoạch

tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông
thôn. Trong những năm gần đây, cùng với sự tăng trưởng nói chung của nền kinh tế,
quy mô tổng thu ngân sách nhà nước không ngừng gia tăng nhờ mở rộng nhiều nguồn
thu khác nhau (huy động qua thuế, phí, tài nguyên, bán hay cho thuê tài sản thuộc sở
hữu nhà nước..). Đi cùng với sự mở rộng quy mô ngân sách, mức chi cho đầu tư phát
triển từ ngân sách nhà nước cũng gia tăng đáng kể, đặc biệt phần ngân sách giành cho
ngành Y tế và Giáo dục đào tạo. Ngành giáo dục là một ngành mang tính chất khá đặc
thù, không giống như các ngành đầu tư vào phát triển sản xuất khác. Việc bỏ vốn đầu tư
vào Giáo dục đào tạo, không thể đo đếm hiệu quả bằng các chỉ tiêu kinh tế như doanh
thu, lợi nhuận; hiệu quả của hoạt động đầu tư phải sau một thời gian dài mới thấy được
hiệu quả. Chính vì vậy, đặc điểm đầu tiên của nguồn vốn ngân sách nhà nước trong đầu
tư phát triển ngành giáo dục đó là thành quả của hoạt động đầu tư phát triển không thể
lượng hóa bằng các con số về lợi nhuận một cách cụ thể, mà chỉ được nhận thấy qua
các chỉ tiêu về số trường lớp được xây dựng mới, tỷ lệ trẻ lên lớp, số học sinh giỏi trong
năm học, số giải đạt được trong các kỳ thi học sinh giỏi toàn quốc và quốc tế, tỷ lệ gia
tăng về quy mô học sinh, sinh viên hàng năm…
Nguồn vốn ngân sách nhà nước là nguồn vốn chủ yếu của quá trình đầu tư phát
triển ngành giáo dục, các nguồn vốn khác chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng vốn đầu tư
phát triển ngành giáo dục. Quan điểm “giáo dục là quốc sách hàng đầu” của Đảng và
Nhà nước chưa được nhân thức một cách đầy đủ, giáo dục vẫn được xem là công việc
riêng của ngành giáo dục, chưa tạo ra một sự liên kết, phối hợp đồng bộ giữa các ngành,
các cấp và các nguồn lực trong xã hội, để phát triển sự nghiệp giáo dục một cách đúng
mức.
Chuyên để thực tập tốt nghiệp
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nguồn vốn ngân sách nhà nước giành cho đầu tư phát triển giáo dục đào tạo
ngày càng có xu hướng gia tăng, điều này đã thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối
với sự nghiệp Giáo dục và đào tạo, sự đáp ứng kịp thời với nhu cầu cần phải đầu tư
mới, đầu tư mở rộng, nâng cao chất lượng đào tạo của ngành giáo dục trong thời kỳ

mới.
1.1.2.2.Vị ví của nguồn vốn ngân sách nhà nước trong đầu tư phát triển
ngành giáo dục
Ngân sách nhà nước là nguồn tài chính chủ yếu yế của ngành giáo dục. Nhà
nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục trong tương quan với các ngành khác. Trong văn kiện
Đại hội IX của Đảng đã tiếp tục khẳng định trên cơ sở nắm vững hai nhiệm vụ chiến
lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc; trong thời gian từ nay đến năm
2010 đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại. Để đi tắt đón đầu từ một đất nước kém phát triển thì
vai trò của giáo dục đào tạo lại càng có tính chất quyết định. Giáo dục đào tạo phải đi
trước một bước, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài để thực hiện
thành công các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Ở nước ta, quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa được tiến hành trong điều kiện tồn tại nhiều hình thức sử hữu,
nhiều thành phần kinh tế, vận hành theo cơ chế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa.
Sản xuất hàng hóa phát triển làm cho thị trường lao động được mở rộng, nhu cầu học
tập tăng lên; mặt khác, cũng thay đổi quan niệm về giá trị, ảnh hưởng đến việc lựa chọn
ngành nghề, động cơ học tập, các quan hệ trong nhà trường và ngoài xã hội. Tự do cạnh
tranh làm phân hóa giàu nghèo, làm tăng thêm sự cách biệt về cơ hội học tập giữa các
tầng lớp dân cư. Xã hội tạo điều kiện cho giáo dục phát triển, đồng thời cũng đòi hỏi
giáo dục phục vụ đắc lực cho xã hội, kịp thời điều chỉnh cơ cấu và quy mô, nâng cao
trình độ đào tạo đáp ứng các nhu cầu đa dạng thực tiễn, tăng hiệu quả giáo dục, nhạy
bén và thích ứng nhanh với những buến động của nhu cầu nhân lực. Giáo dục đào tạo
giúp định hướng quan niệm về giá trị, bồi dưỡng phẩm chất, nhân cách mới, năng lực
mới và đảm bảo công bằng về cơ hội học tập ở mọi cấp bậc học và trình độ đào tạo cho
mọi tầng lớp nhân dân. Với tầm quan trọng như trên, vì vậy, tỷ lệ ngân sách giành cho
giáo dục đào tạo ngày cang được nâng cao từ 15% năm 2000 lên 18 % năm 2005 và sẽ
Chuyên để thực tập tốt nghiệp
8

×