Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản tại Công ty cổ phần cơ khí ô tô 3-2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (594.02 KB, 67 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm
MỤC LỤC
DANH M C B NG BI UỤ Ả Ể 2
L I M UỜ ỞĐẦ 3
T i tr theo h p ngà ợ ợ đồ 23
K t qu t c.ế ảđạ đượ 52
Nguyễn Thị Quý Lớp: Tài chính B – K39
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH M C B NG BI UỤ Ả Ể 2
L I M UỜ ỞĐẦ 3
T i tr theo h p ngà ợ ợ đồ 23
S 1 : T ch c b máy qu n lý c a Công tyơđồ ổ ứ ộ ả ủ 39
K t qu t c.ế ảđạ đượ 52
Nguyễn Thị Quý Lớp: Tài chính B – K39
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

LỜI MỞ ĐẦU
Có thể nói rằng TSCĐ là vô cùng quan trọng, nó là một trong ba yếu tố cơ
bản của quá trình sản xuất xã hội. Trong điều kiện hiện nay, dưới sự cạnh tranh
gay gắt của nền kinh tế thị trường, để tồn tại và phát triển được thì doanh nghiệp
luôn phải tìm tòi cho mình những bước đi vững chắc hơn. Khi khoa học kỹ thuật
ngày càng phát triển thì việc đổi mới TSCĐ ngày càng đóng vai trò quan trọng
hơn bởi vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao động và nó cũng quyết định
đến sự thành công hay thất bại đối với mỗi doanh nghiệp.
Sử dụng tài sản có hiệu quả đem lại ý nghĩa hết sức quan trọng trong
quá trình tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng nhằm mang lại lợi
nhuận cao cho doanh nghiệp, trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc tài chính và
chấp hành đúng pháp luật của nhà nước. Nó còn là ®iều kiện tiên quyết để
doanh nghiệp khẳng định chỗ đứng vững chắc của mình trên thị trường.
Trong thời gian thực tập tại Công ty cổ phần Cơ khí ô tô 3-2 được sự


giúp đỡ của thầy giáo hướng dẫn Trần Đăng Khâm và ban lãnh đạo Công ty,
em đã từng bước làm quen với thực tế, đồng thời từ tình hình thực tiễn làm
sáng tỏ những vấn đề lý luận đã học. Qua đó thấy được tầm quan trọng và
tính bức xúc của vấn đề tổ chức và quản lý sử dụng tài sản trong các doanh
nghiệp nói chung và Công ty cổ phần cơ khí ô tô 3-2 nói riêng. Với mong
muốn được góp phần vào việc hoàn thiện công tác tổ chức và nâng cao hiệu
quả sử dụng tài sản của công ty, em đã chọn đề tài:
"Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản tại Công ty cổ phần
cơ khí ô tô 3-2”
Do thiếu kinh nghiệm thực tế và kiến thức còn hạn chế nên bài viết
chắc chắn còn thiếu sót, rất mong được sự góp ý kiến của các thầy cô và các
bạn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Trần Đăng khâm cùng toàn thể
các cô chú phòng Tài chính - Kế toán đã hết lòng giúp đỡ và chỉ bảo cho em
trong suốt thời gian thực tập để em có thể hoàn thành tốt bài viết này.
Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương :
Nguyễn Thị Quý Lớp: Tài chính B – K39
3
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

CHƯƠNG I: Hiệu quả sử dụng Tài sản của Doanh nghiệp.
CHƯƠNG II: Thực trạng hiệu quả sử dụng Tài sản tại Công ty Cổ phần cơ
khí ô tô 3-2
CHƯƠNG III: Những giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng Tài sản tại Công ty Cổ phần cơ khí ô tô 3-2
Nguyễn Thị Quý Lớp: Tài chính B – K39
4
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

Chương 1:

HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. TÀI SẢN CỦA DOANH NGHIỆP
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của tài sản
Tài sản là toàn bộ tiềm lực kinh tế của đơn vị, biểu thị cho những lợi
ích mà đơn vị thu được trong tương lai hoặc những tiềm năng phục vụ cho
hoạt động kinh doanh của đơn vị. Nói cách khác, Tài sản là tất cả những thứ
hữu hình hoặc vô hình gắn với lợi ích trong tương lai của đơn vị thoả mãn
những điều kiện sau:
- Thuộc quyền sở hữu hoặc quyền kiểm soát lâu dài của đơn vị.
- Có giá trị thực sự đối với đơn vị.
- Có giá phí xác định.
1.1.2 Phân loại Tài sản
Tài sản doanh nghiệp được phân làm hai loại: Tài sản lưu động và Tài
sản cố định.
* Tài sản lưu động là những Tài sản ngắn hạn và thường xuyên luân
chuyển trong quá trình kinh doanh.
Tài sản lưu động được thể hiện ở các bộ phận tiền mặt, các chứng
khoán thanh khoản cao, các khoản phải thu và dự trữ tồn kho.Tài sản lưu
động thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị Tài sản đối với các doanh
nghiệp sản xuất, kinh doanh. Do đó khi nói đến nâng cao hiệu quả sử dụng
Tài sản lưu động là phải nói đến phương thức rút ngắn chu kỳ vận động của
tiền mặt, đẩy nhanh tiến độ các khoản phải thu cũng như quyết định đúng lúc
số lượng tiền, thời điểm dự trữ tiền mặt trong doanh nghiệp…
Khi tham gia luân chuyển tài sản có thể phân thành ba loại: Tài sản lưu
động sản xuất, tài sản lưu động lưu thông và tài sản lưu động tài chính.
- Tài sản lưu động sản xuất: gồm những tài sản dự trữ cho quá trình sản
xuất (nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ đang dự trữ trong kho) và tài
Nguyễn Thị Quý Lớp: Tài chính B – K39
5
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm


sản trong sản xuất (giá trị sản phẩm dở dang).
- Tài sản lưu động lưu thông: bao gồm tài sản dự trữ cho quá trình lưu
thông (thành phẩm, hàng hoá dự trữ trong kho, hay hàng gửi bán).
- Tài sản lưu động tài chính: là các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn với
mục đích kiếm lời (đầu tư liên doanh, đầu tư chứng khoán )
Tiếp theo, tài sản lưu động còn có thể phân theo mức độ khả năng.
Theo cách phân loại này, người ta dựa vào khả năng huy động cho việc thanh
toán để chia các loại tài sản lưu động thành các loại sau:
•Tiền là tài sản của đơn vị, nó tồn tại trực tiếp dưới hình thái giá trị.
Thuộc về tiền của đơn vị bao gồm tiến mặt, tiền gửi ngân hàng (hoặc kho
bạc), tiền đang chuyển, kế cả tiền việt nam, ngoại tệ, vàng bạc, đá quý.
• Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn là những khoản đầu tư vốn nhằm
mục đích kiếm lời có thời hạn thu hồi trong vòng một năm, hay một chu kỳ
kinh doanh. Thuộc đầu tư tài chính ngắn hạn gồm các khoản đầu tư cổ phiếu,
trái phiếu, góp vốn đầu tư, cho vay ngắn hạn
• Các khoản phải thu là số tài sản của đơn vị nhưng đang bị các tổ chức,
tập thể hay cá nhân khác chiếm dụng mà đơn vị có trách nhiệm phải thu hồi.
Thuộc các khoản phải thu ngắn hạn bao gồm khoản phải thu ở người mua,
tiền đặt trước cho người bán, khoản nộp thừa cho ngân sách, các khoản phải
thu nội bộ
• Hàng tồn kho là tài sản lưu động tồn tại dưới hình thái vật chất có thể
cân, đong, đo, đếm được. Hàng tồn kho có thể do đơn vị tự sản xuất hay mua
ngoài. Thuộc về hàng tồn kho bao gồm vật liệu, dụng cụ, hàng mua đang đi
trên đường, thành phẩm, hàng hoá, sản phẩm dở dang
• Tài sản lưu động khác là những tài sản lưu động còn lại ngoài những
loại đã kể trên như các khoản tạm ứng cho công nhân viên chức, các khoản
chi phí trả trước, các khoản tiền ký quỹ, ký cược ngắn hạn
Bên cạnh đó, căn cứ vào mục đích sử dụng tài sản trong doanh nghiệp,
tài sản lưu động còn có thể phân loại thành tài sản lưu động trong kinh doanh

(là tài sản sử dụng vào mục đích kinh doanh) và tài sản lưu động ngoài kinh
Nguyễn Thị Quý Lớp: Tài chính B – K39
6
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

doanh (là tài sản dùng vào mục đích khác ngoài kinh doanh).
Các loại tài sản ngoài kinh doanh có đặc điểm chung là không tham gia
vào quá trình kinh doanh của đơn vị. Do vậy về nguyên tắc các khoản chi phí
về thuộc loại này không thuộc chi phí cho kinh doanh và không tính vào giá
thành.
* Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu mà nó có đặc điểm
cơ bản là tham gia vào nhiều chu ký sản xuất, hình thái vật chất không thay
đổi từ chu kỳ sản xuất đầu tiên cho đến khi bị sa thải khỏi quá trình sản xuất.
Nói một cách khác tài sản cố định là những tư liệu lao động có giá trị lớn và
có thời gian sử dụng lâu dài.
Tài sản cố định ở hình thái biểu hiện có thể phân làm hai loại: Tài sản
cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình.
Tài sản cố định hữu hình:
Tài sản cố định hữu hình là các tài sản cố định nay được chia thành:
Loại 1: Nhà cửa, vật kiến trúc: là TSCĐ được hình thành sau quá trình
thi công xây dựng : như nhà cửa, vật kiến trúc hàng rào, bể tháp nước, các
công trình cơ sở hạ tầng như đường xá, cầu cống đường sắt, cầu tầu.v.v. . .
phục vụ cho hạch toán sản xuất kinh doanh
SLoại 2: Máy móc, thiết bị: Dây truyền công nghệ, máy móc chuyên
dùng, thiết bị công tác.
Loại 3: Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn, các phương tiện vận
tải, hệ thống điện .v.v. . .
Loại 4: Thiết bị dụng cụ quản lý: máy vi tính, thiết bị điện tử dụng cụ
đo lường.
Loại 5: Vườn cây lâu năm, xúc vật làm việc và cho sản phẩm.

- TSCĐ vô hình:
Tài sản cố định vô hình là những TSCĐ không có hình thái vật chất nhưng
xác định được giá trị thoả mãn các tiêu cuẩn của tài sản cố đinh vô hình .
Loại 1: Quyền sử dụng đất : Là giá trị của quền sử dụng một mặt bằng
diện tích (mặt đất,mặt nước,mặt biển ) nhất định thuộc vốn nhà nước cấp cho
Nguyễn Thị Quý Lớp: Tài chính B – K39
7
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

doanh nghiệp sử dụng vào kinh doanh trong thời gian qui định
Loại 2: Chi phí thành lập và chuẩn bị sản xuất: Là các chi phí phát sinh
lúc doanh nghiệp mới thành lập như chi phí công tác nghiên cứu thăm dò lập
dự án đầu tư,chi phí cho sử dụng vốn ban đầu, chi phí cho đi lại, hội họp, khai
trương, quảng cáo v.v Các chi phí này chấm dứt khi doanh nghiệp đi vao
hoạt động chính thức
Loại 3: Bằng phát minh sáng chế: Giá trị của nó là các chi phí doanh
nghiệp phải trả để mua bản quyền bằng phát minh của các nhà nghiên cứu,
hoặc phải trả cho các công trình nghiên cưú thử nghiệm được nhà nước cấp
bằng phát minh sáng chế.
Loại 4: Chi phí nghiên cứu phát triển: Là các chi phí vê thực hiện các
công trình quy mô lớn về nghiên cứu, lập kế hoạch dự án dài hạn để đầu tư
nhằm đem lại lợi ích cho doanh nghiệp .
Phương pháp phân loại theo hình thái vật chất sẽ giúp cho các nhà
quản lý có một nhãn quan tổng thể về cơ cấu đầu tư của doanh nghiệp. Là
căn cứ quan trọng để xây dựng các quyết định đầu tư cho phù hợp với tình
hình thực tế, từ đó có biện pháp quản lý vốn, tài sản và tính toán khấu hao
hợp lý hơn nữa.
• Phân loại TSCĐ theo quyền sở hữu: TSCĐ được phân thành TSCĐ tự
có và TSCĐ thuê ngoài.
- TSCĐ tự có: là những TSCĐ được xây dựng, mua sắm, hình thành

từ các nguồn vốn ngân sách cấp, nguồn vốn vay, nguồn vốn liên doanh, các
quỹ của doanh nghiệp… và TSCĐ doanh nghiệp được biếu tặng. Đây là
những TSCĐ thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp và được phản ánh trên
bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp.
- TSCĐ đi thuê: Do yêu cầu sử dụng mà doanh nghiệp cần có một
số TSCĐ, hoặc là khi xét thấy việc đi thuê TSCĐ có lợi thế hơn trong việc
giảm bớt chi phí kinh doanh hoặc chi phí cần thiết trong khoảng thời gian
nhất định, mà không đủ khả năng tài chính hoặc không cần thiết phải mua,
doanh nghiệp sẽ đi thuê TSCĐ dưới hai hình thức thuê tài chính và thuê
ngoài hoạt động .
Nguyễn Thị Quý Lớp: Tài chính B – K39
8
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

+ Thuê tài chính: Là các TSCĐ đi thuê mà bên tcho thuê có sự chuyển
giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản cho bên đi
thuê.Dấu hiệu của hợp đồng thuê tài chính:
Bên cho thuê chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho bên đi thuê khi hết
thời hạn cho thuê.
Tại thời điểm khởi hành thuê tài sản bên thuê có quyền lựa chọn mua
lại tài sản thuê với giá ước tính thấp hơn giá trị hợp lý vào cuối thời hạn thuê.
Thời hạn cho thuê theo hợp đồng chiếm phần lớn thời gian sử dụng
kinh tế của tài sản cho dù không có sự chuyển giao quyền sở hữu.
Tại thời điểm khởi đầu thuê tài sản giá trị hiện tại của khoản thanh toán
tiền thuê tối thiểu chiếm phần lớn giá trị hợp lý của tài sản thuê
Tài sản thuê thuộc loại chuyên dùng mà chỉ có bên thuê có khả năng
sử dụng không cần có sự thay đổi sửa chữa lớn.
- TSCĐ thuê hoạt động: Là TSCĐ thuê nhưng không thoả mãn bất cứ
điều khoản nào của hợp đồng thuê tài chính. Bên đi thuê có quyền quản lý và
sử dụng trong thời gian hợp đồng và phải hoàn trả khi kết thúc hợp đồng .

Cách phân loại này giúp ta thấy rõ cơ cấu TSCĐ của doanh nghiệp góp
phần cho việc quản lý TSCĐ của doanh nghiệp nhưng chưa phản ánh rõ tình
hình sử dụng TSCĐ của doanh nghiệp.
• Phân loại theo nguồn hình thành TSCĐ : Theo cách phân loại này
TSCĐ bao gồm: TSCĐ được mua sắm đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước cấp,
bằng nguồn vốn liên doanh, bằng nguồn vốn tự bổ sung của đơn vị.
• Phân loại theo công dụng và tình hình sử dụng: TSCĐ bao gồm.
- TSCĐ dùng trong sản xuất kinh doanh: Đây là TSCĐ đang thực tế
sử dụng trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Những TSCĐ
này bắt buộc phải trích khấu hao tính vào chi phí sản xuất kinh doanh.
- TSCĐ hành chính sự nghiệp: là TSCĐ của các đơn vị hành chính sự
nghiệp( như đoàn thể quần chúng, tổ chức y tế, văn hoá, thể thao. . .)
- TSCĐ phúc lợi: là những TSCĐ của đơn vị dùng cho nhu cầu phúc
lợi công cộng như nhà văn hoá, nhà trẻ, câu lạc bộ, nhà nghĩ mát . . .
Nguyễn Thị Quý Lớp: Tài chính B – K39
9
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

- TSCĐ chờ xử lý: Bao gồm những TSCĐ không cần dùng, chưa cần
dùng vì thừa so với nhu cầu sử dụng hoặc vì không thích hợp với sự đổi mới
qui trình công nghệ, bị hư hỏng chờ thanh lý, TSCĐ tranh chấp chờ giải
quyết. Những TSCĐ này cần xử lý nhanh chóng để thu hồi vốn sử dụng cho
việc đầu tư đổi mới TSCĐ.
Cách phân loại này giúp nhà quản lý phân bổ TSCĐ hợp lý giúp nhà
quản lý và sử dụng, phát huy tối đa tính năng của mỗi loại TSCĐ đồng thời
kịp thời xử lý các TSCĐ chờ thanh lý giúp thu hồi vốn nhanh hơn để quay
vòng vốn một cách có hiệu quả.
Mỗi cách phân loại trên đây cho phép đánh giá xem xét kết cấu TSCĐ
của doanh nghiệp theo những tiêu thức khác nhau. Điều này giúp nhà quản lý
xem xét sự biến động của TSCĐ hiện có của doanh nghiệp từ đó nhận thức rõ

về hiện trạng TSCĐ hiện có của doanh nghiệp và có thông tin chính xác để trả
lời câu hỏi: kết cấu TSCĐ của doanh nghiệp có hợp lý không? Phương hướng
đầu tư trọng điểm quản lý TSCĐ của doanh nghiệp là gì? Dựa vào qui mô sản
xuất của mình, khă năng thu hút vốn đầu tư cũng như khả năng tiêu thụ sản
phẩm trên thị trường, trình độ ứng dụng khoa học kỹ thuật . . . Để đưa ra
phương hướng đầu tư TSCĐ và lựa chọn dự án đầu tư có lợi nhất, phù hợp
nhất cho doanh nghiệp theo từng thời kỳ khác nhau. Vì vậy, phân loại TSCĐ
góp phần quan trọng trong việc quản lý TSCĐ cũng như việc tổ chức hạch
toán TSCĐ làm sao để nhanh chóng, chính xác, kịp thời cho nhà quản lý
nhằm cải tiến TSCĐ theo kịp nhịp độ phát triển không ngừng của khoa học kỹ
thuật, của nền kinh tế đất nước, cũng như toàn cầu giúp doanh nghiệp luôn
giữ thế chủ động nhạy bén và phát triển một cách vững chắc.
1.2. HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN CỦA DOANH NGHIỆP
1.2.1. Khái niệm hiệu quả sử dụng Tài sản
Mục tiêu của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là tối đa hoá lợi
nhận, do vậy việc sử dụng tài sản một cách có hiệu quả tức là kinh doanh đạt
tỷ suất lợi nhuận cao.
Hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp là phạm trù kinh tế phản
ánh trình độ khai thác, sử dụng tài sản vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của
doanh nghiệp nhằm mục tiêu sinh lời tối đa. Tính hiệu quả trong sử dụng tài
Nguyễn Thị Quý Lớp: Tài chính B – K39
10
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

sản của doanh nghiệp thể hiện trên hai giác độ:
Trong năng lực tài sản của mình: doanh nghiệp sử dụng tài sản hợp lý để
kiếm lời cao nhất.
- Ngoài khả năng của mình: Doanh nghiệp phải năng động tìm nguồn
tài trợ, tăng số tài sản hiện có để mở rộng sản xuất kinh doanh cả về chất và
lượng, đảm bảo được các mục tiêu mà doanh nghiệp đề ra.

1.2.1.1. Quản lý tài sản lưu động :
a) Quản lý dự trữ, tồn kho:
Trong quá trình luân chuyển của vốn lưu động phục phụ cho sản xuất
kinh doanh thì việc tồn tại vật tư hàng hoá trự trữ, tồn kho là những bước đệm
cần thiết cho quá trình hoạt động bình thường của doanh nghiệp. Hàng hoá
tồn kho có ba loại: Vật tư phục phụ cho quá trình sản xuất, kinh doanh; Đối
với các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường không thể tiến hành sản xuất
đến đâu mua hàng đến đó mà cần phải có Vật tư. Vật tư dự trữ không trực tiếp
tạo ra lợi nhuận nhưng nó có vai trò rất lớn để cho quá trình sản xuất kinh
doanh được tiến hành bình thường. Có các cách thực hiện quản lý dự trữ theo
các phương pháp khác nhau
+ Quản lý theo phương pháp cổ điển hay mô hình đặt hàng hiệu quả
nhất Mô hình được dựa trên giả định là những lần cung cấp hàng hoá là bằng
nhau. Khi doanh nghiệp tiến hành dự trữ hàng dự trữ hàng hoá sẽ kéo theo
hàng loạt các chi phí như chi phí bốc xếp hàng hoá, chi phí bảo quản, chi phí
đặt hàng, chi phí bảo hiểm…nhưng tựu chung lại có hai loại chi phí chính
Chi phí lưu kho (chi phí tồn dự trữ ):
Đây là chi phí liên quan đến việc tồn trữ hàng hoá, loại này bao gồm:
+ Chi phí hoạt động, như chi phí bốc xếp hàng hoá, chi phí bảo hiểm
hàng hoá, chi phí do giảm giá trị hàng hoá, chi phí hao hụt mất mát, chi phí
bảo quản…
+ Chi phí tài chính bao gồm chi phí sử dụng vốn như trả lãi tiền vay,
chi phí về thuế, khấu hao…
Nếu gọi mỗi lần cung ứng hàng hoá là Q thì dự trữ cung ứng trung bình
sẽ là Q /2
Nguyễn Thị Quý Lớp: Tài chính B – K39
11
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

Q lượng hàng cung ứng

Q/2
Thời gian
Gọi C
1
là chi phí lưu kho đơn vị hàng hoá thì tổng chi phí lưu kho của
doanh nghiệp sẽ là:
C
1
x Q/2
Tổng chi phí lưu kho sẽ tăng nếu số lượng hàng hoá mỗi lần cung ứng tăng
Chi phí đặt hàng (chi phí hợp đồng )
Chi phí đặt hàng bao gồm chi phí quản lý giao dịch và vận chuyển hàng
hoá. chi phí đặt hàng cho mỗi lần đặt hàng thường ổn định không phụ thuộc
vào số lượng hàng hoá được mua.
Nếu gọi D là toàn bộ số lượng hàng hoá cần sử dụng trong một đơn vị
thời gian (năm, quý, tháng) thì số lượng lần cung ứng hàng hoá sẽ là D/Q.Gọi
C
2
là chi phí mỗi lần đặt hàng thì tổng chi phí đặt hàng sẽ là:
C
2
x D/Q
Tổng chi phí đặt hàng tăng nếu số lượng mỗi kần cung ứng giảm
Gọi TC là tổng chi phí tồn trữ hàng hoá, sẽ có:
TC = C
1
x Q/2 + C
2
x D/Q
Công thức trên được biểu hiện trên đồ thị sau:

Chi phí
Chi phí lưu kho C
1
x Q/2
Chi phí đặt hàng C
1
x D/Q
Lượng hàng cung ứng
Nguyễn Thị Quý Lớp: Tài chính B – K39
Dù tr÷ trung b×nh
12
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

Qua đồ thị trên ta thấy khối lượng hàng hoá cung ứng mỗi lần là Q
*
thì
tổng chi phí dự trữ là thấp nhất. Ta có thể tìm Q
*
bằng cách lấy vi phân TC
theo Q ta có:
2DC
2
Q
*
=
C
1
* Điểm đặt hàng mới
Về lý thuyết thì người ta có thể giả định khi nào lượng hàng kỳ trước
hết mới nhập kho lượng hàng mới. Trong thực tế thì không không có doanh

nghiệp nào để đến khi nguyên vật liệu hết rồi mới đặt hàng. Nhưng đặt hàng
quá sớm sẽ tăng lượng vật tư tồn kho do vậy các doanh nghiệp cần phải xác
định thời điểm đặt hàng mới.
Và đây là một cách để xác định điểm đặt hàng mới: thời điểm đặt hàng
mới được xác định bằng số lượng vật tư sử dụng mỗi ngày nhân với độ dài
của thời gian giao hàng
* Lượng dự trữ an toàn: trong cơ cấu tài sản trong doanh nghiệp bao
gồm tài sản cố định, tài sản lưu động thường xuyên, tài sản lưu động tạm thời
.Do vậy vật tư sử dụng mỗi ngày không phải là số cố định mà chúng biến đổi
không ngừng, đặc biệt là đối với những doanh nghiệp sản xuất mang tính thời
vụ hoặc sản xuất những hàng hoá mang tính nhạy cảm với thị trường. Do đó
để đảm bảo cho tính ổn định của sản xuất doanh nghiệp phải duy trì một
lượng hàng tồn kho dự trữ an toàn. Lượng dự trữ an toàn này tuỳ thuộc vào
tình hình cụ thể của doanh nghiệp .
Lượng dự trữ an toàn là lượng hàng hoá thêm vào lượng dự trữ tại thời
điểm đặt hàng.
b) Quản lý tiền mặt và các chứng khoán thanh khoản cao:
Tiền mặt được hiểu là tiền tồn quỹ, tiền trên tài khoản thanh toán của
doanh nghiệp ở ngân hàng. Nó được sử dụng để trả lương, mua nguyên vật
liệu mua tài sản cố định, trả tiền thuế, trả nợ …
Tiền mặt bản thân nó không sinh lãi, do vậy việc tối thiểu hoá lượng
Nguyễn Thị Quý Lớp: Tài chính B – K39
13
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

tiền mặt phải giữ là mục tiêu quan trọng nhất. Tuy nhiên trong kinh doanh giữ
tiền mặt cũng là một vấn đề cần thiết vì những lý do sau:
+ Đảm bảo giao dịch kinh doanh hàng ngày những giao dịch này
thường là những khoản thanh toán cho khách hàng, và thu tiền từ khách hàng
tạo nên số dư giao dịch

+ Bù đắp cho ngân hàng về việc ngân hàng cung cấp các dịch vụ cho
doanh nghiệp. Số dư tiền mặt loại này gọi là số dư bù đắp
+ Đáp ứng nhu cầu dự phòng trong trường hợp biến động không lường
trước được của các luồng tiền vào và ra. Loại tiền này tạo nên số dư dự phòng .
+ Hưởng lợi thế trong thương lượng mua hàng
Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, việc gửi tiền mặt là cần
thiết, nhưng việc giữ đủ tiền mặt trong hoạt động kinh doanh cũng có những
lợi thế của nó:
- Khi mua hàng hoá dịch vụ nếu có đủ tiền mặt, công ty có thể được
hưởng lợi thế chiết khấu.
- Giữ đủ tiền mặt duy trì tốt các chỉ số thanh toán ngắn hạn giúp doanh
nghiệp có thể mua hàng với những điều kiện thuận lợi và được hưởng mức tín
dụng rộng rãi
- Giữ đủ tiền mặt giúp doanh nghiệp tận dụng được những cơ hội thuận
lợi trong kinh doanh do chủ động trong các hoạt động thanh toán chi trả
- Khi có đủ tiền mặt giúp doanh nghiệp đáp ứng được nhu cầu trong
trường hợp khẩn cấp như đình công, hoả hoạn, chiến dịch Markerting của đối
thủ cạnh tranh, vượt qua khó khăn do yếu tố thời vụ hay do chu kỳ kinh doanh .
- Quản lý tiền mặt:
Quản lý tiền mặt đề cập đến việc quản lý tiền giấy và tiền gửi ngân
hàng. Sự quản lý này liên quan chặt chẽ đến việc quản lý các tài sản ngắn hạn
với tiền mặt như các loại chứng khoán có khả năng thanh khoản cao. Trong
quản trị tài chính người ta sử dụng chứng khoán có khả năng thanh khoản cao
để duy trì tiền mặt ở mức độ mong muốn. Ta có thể thấy điều này qua sơ đồ
luân chuyển sau:
Nguyễn Thị Quý Lớp: Tài chính B – K39
14
Chuyờn tt nghip GVHD: PGS.TS. Trn ng Khõm

T s trờn v mụ hỡnh qun lý d tr EOQ cho chỳng ta mt cỏch nhỡn

tng quỏt trong tin mt bi vỡ cng nh cỏc ti sn khỏc tin mt cng l mt
loi hng hoỏ nhng õy l hng hoỏ c bit - mt ti sn cú tớnh lng nht
Trong kinh doanh, doanh nghip cn mt lng tin mt v phi dựng
nú thanh toỏn cho cỏc hoỏ n mt cỏch u n. Khi lng tin ny ht
doanh nghip cn phi bỏn cỏc chng khoỏn cú tớnh thanh khon cao li cú
lng tin nh ban u. Chi phớ cho vic gi tin mt õy chớnh l chi phớ
c hi, l lói sut m doanh nghip b mt i. Chi phớ t hng chớnh l chi phớ
cho vic bỏn cỏc chng khoỏn. Khi ú ỏp dng mụ hỡnh EOQ ta cú th xỏc
nh c lng tin mt M* d tr ti u l:
2 x M
n
x C
b
M
*
=
i
Trong ú:
M*: Tng mc tin mt gii ngõn hng nm
C
b
: Chi phớ cho mt ln bỏn chng khoỏn thanh khon
I : Lói sut
Trong thc tin hot ng kinh doanh ca cỏc doanh nghip rt him
Nguyn Th Quý Lp: Ti chớnh B K39
Các chứng khoán
thanh khoản cao
Đầu t tạm thời bằn cách
mua chứng khoán
Bán chứng khoán thanh

khoản cao để bổ xung
tiền mặt
Dòng thu
tiền mặt
Tiền mặt Dòng chi
tiền mặt
15
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

khi mà lượng tiền vào, ra của doanh nghiệp lại đều đặn và dự kiến trước được,
từ đó tác động đến mức dự trữ cũng không thể đều đặn như việc tính toán
trên. Bằng việc nghiên cứu và phân tích thực tiễn, các nhà kinh tế học đã đưa
ra mức tiền mặt dự kiến dao động trong một khoảng. Nếu lượng tiền ở giới
hạn dưới thì doanh nghiệp phải bán chứng khoán để có lượng tiền mặt ở mức
dự kiến, ngược lại ở giới hạn trên doanh nghiệp nghiệp sử dụng số tiền vượt
quá giới hạn mua chứng khoán để đưa lượng tiền mặt về mức dự kiến .
Khoảng giao động của tiền mặt phụ thuộc vào ba yếu tố cơ bản sau:
- Sự giao động của thu chi ngân quỹ hàng ngày lớn hay nhỏ. Sự giao
động này được thể hiện ở phương sai của thu chi ngân quỹ. Phương sai của
thu chi ngân quỹ là tổng các bình phương (độ chênh lệch) của thu chi ngân
quỹ thực tế càng có xu hướng khác biệt nhiều so với thu chi bình quân. Khi
đó doanh nghiệp cũng sẽ quy định các khoản dao động tiền mặt cao
- Chi phí cố định của việc mua bán chứng khoán. Khi chi phí này lớn
người ta cũng muốn giữ tiền mặt nhiều hơn và khi đó khoảng dao động của
tiền mặt cũng lớn hơn
- Lãi suất càng cao thì doanh nghiệp sẽ giữ lại ít tiền mặt hơn và do
vậy khoảng giao động sẽ giảm xuống tiền mặt
Ta có công thức sau:
3 C
b

x V
b 1/3
d = 3 x
4 i
c) Quản lý các khoản phải thu:
Trong kinh tế thị trường việc mua bán chịu là một việc không thể
thiếu . Tín dụng thương mại có thể làm cho doanh nghiệp trở nên giầu có
nhưng cũng có thể đem đến những rủi ro cho doanh nghiệp . Chính sách tín
dụng thương mại có các mặt tác động tới doanh nghiệp là:
* Tác động của doanh thu: Qua việc bán chịu cho khách hàng, doanh
nghiệp sẽ bị chậm trễ trong thu tiền trong khi người mua lại được lợi. Tuy
Nguyễn Thị Quý Lớp: Tài chính B – K39
16
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

nhiên, nếu cấp tín dụng thương mại cho khách hành, doanh nghiệp sẽ bán
được hàng với giá cao hơn, đồng thời có thể bán được nhiều hàng hơn. Như
vậy tổng doanh thu của doanh nghiệp cũng sẽ tăng lên
* Tác động của chi phí: khi doanh nghiệp cung cấp tín dụng thương
mại cho khách hàng thì doanh nghiệp phải chịu một khoản cho phí cho việc
này. Tuy nhiên, dù có thể thu tiền ngay sau khi bán hàng thì doanh nghiệp
cũng phải chịu những chi phí đó (vì doanh nghiệp phải bán hàng theo giá thấp
hơn). Do đó bán hàng theo phương thức nào thì doanh nghiệp cũng phải cân
nhắc kỹ lưỡng.
* Tác động của chi phí nợ nần: Khi cung cấp tín dụng thương mại cho
khách hàng, doanh nghiệp phải sắp xếp các khoản phải thu. Do đó, doanh
nghiệp phải xem xét tới chi phí vay ngắn hạn trước khi quyết định có cấp tín
dụng thương mại cho khách hàng hay không
* Xác suất không trả tiền của người mua: Khách hàng có thể sẽ không
thanh toán được hoặc mất đi khả năng thanh toán cho doanh nghiệp. Điều này

tất nhiên sẽ không xảy ra nếu doanh nghiệp bán hàng theo phương thức thu
tiền ngay
* Chiết khấu tiền mặt: Khi doanh nghiệp áp dụng chiết khấu thì sẽ
khuyến khích các khách hàng sớm thanh toán để hưởng chiết khấu. Để tận
dụng ưu thế và hạn chế các rủi ro của tín dụng thương mại thì các doanh
nghiệp phải nắm rõ tình hình tài chính của khách hàng. Việc này có thể được
tiến hành thông qua các nguồn sau:
Báo cáo tài chính: doanh nghiệp có thể yêu cầu được cung cấp thông
tin tài chính như: bảng cân đối kế toán, báo cáo thu nhập Để từ đó phân tích
các tỷ lệ tài chính làm cơ sở cho việc cung cấp tín dụng thương mại.
Các ngân hàng: Do ngân hàng có quan hệ tín dụng thương mại với
nhiều doanh nghiệp khác nhau nên bản thân ngân hàng cũng nhận được các
thông tin về tình trạng tín dụng của các doanh nghiệp dựa vào thông tin của
ngân hàng cung cấp, doanh nghiệp cũng có thể phần nào biết được tình trạng
kinh tế của khách hàng.
Lịch sử thanh toán của doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp khác:
Nguyễn Thị Quý Lớp: Tài chính B – K39
17
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

Doanh nghiệp cũng cần phải biết rằng trong quá khứ khách hàng có trả tiền
đúng hạn hay không? bao nhiêu lầnkhách hàng gây rắc rối trong việc trả tiền?
dây cũng là căn cứ quan trọng để đi đến quyết định có nên bán chịu cho khách
hàng hay không.
Từ việc xem xét, nghiên cứu thông tin từ các nguồn trên, doanh nghiệp
tiến hành đánh giá khả năng trả tiền của khách hàng để dưa ra chính sách,
quyết định đúng đắn đối với từng loại khách hàng.
1.2.1.2. Quản lý tài sản cố định:
a/ Quản lý khấu hao TSCĐ
Bất cứ một TSCĐ nào khi bắt đầu một chu kỳ sống cũng bị “hao

mòn”. Hao mòn TSCĐ là sự giảm dần về mặt giá trị và giá trị sử dụng do
chúng được đưa và sử dụng hoặc do tác động của các yếu tố tự nhiên gây ra.
Có hai loại hao mòn là hao mòn vô hình và hao mòn hữu hình. Hao mòn vô
hình là TSCĐ là sự giảm dần thuần tuý về giá trị của TS do có những TS CĐ
cùng loại nhưng được sản xuất ra với giá rẻ hơn hoặc hiện đại hơn. Hao mòn
hữu hình là sự hao mòn về vật chất tức là sự tổn thất về chất lượng tính năng
chất lượng của TSCĐ. Thực chất tính kinh tế của hao mòn hữu hình là giá trị
của TSCĐ dần dần giảm đi cùng với việc chuyển dần giá trị của nó vào giá trị
sản phẩm được sản xuất ra. Trường hợp TSCĐ không được sử dụng, hao mòn
hữu hình được biểu hiện ở chỗ TSCĐ bị mất dần thuộc tính do ảnh hưởng của
điều kiện tự nhiên, do quá trình xảy ra ở bên trong nguyên liệu cấu thành
TSCĐ đó
Trong quá trình sử dụng và bảo quản, một bộ phận giá trị của TSCĐ
tương ứng với mức hao mòn được chuyển dần vào giá thành sản phẩm gọi là
phần khấu hao TSCĐ. Bộ phân giá trị này là một yếu tố của chi phí sản xuất
và cấu thành trong giá thành sản phẩm biểu hiện dưới hình thái tiền gọi là chi
phí khấu hao TSCĐ. Sau khi sản phẩm hàng hoá được tiêu thụ, số tiền khấu
hao được tính lãi và tích luỹ thành quỹ khấu hao TSCĐ. Quỹ khấu hao thông
thường được dùng để sửa chữa hoặc tái đầu tư TSCĐ. Tuy nhiên, các doanh
nghiệp có thể sử dụng linh hoạt quỹ khấu hao được tích luỹ hàng năm như
một nguồn tài chính bổ xung cho các mục đích đầu tư phục phụ sản xuất kinh
Nguyễn Thị Quý Lớp: Tài chính B – K39
18
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

doanh để thu lợi hoặc nhờ nguồn vốn này doanh nghiệp có thể đầu tư đổi mới
TSCĐ trong những năm sau hiện đại hơn, quy mô lớn hơn.
Xuất phát từ nội dung kinh tế của tiền khấu hao cũng như quỹ khấu hao
đòi hỏi việc tính khấu hao phải tính chính xác, kịp thời nghĩa là tiền khấu hao
phải được trích phù hợp với mức độ hao mòn hữu hình và vô hình của TSCĐ.

Mức độ chính xác của trích việc khấu hao có ảnh hưởng trực tiếp đến việc bảo
toàn và phát triển TSCĐ. Nếu tổng số tiền trích khấu hao cơ bản thấp hơn giá
trị mua sắm ban đầu của TSCĐ thì VCĐ của doanh nghiệp không được bảo
toàn mà bị thâm hụt. Do vậy việc lựa chọn các phương pháp tính khấu hao
thích hợp còn là biện pháp hữu hiệu để chống hao mòn vô hình của TSCĐ.
Từ những vấn đề trên đặt ra nhiệm vụ cho những người quản lý là phải
chọn được phương pháp tính khấu hao và thời điểm sử dụng để phản ánh đúng
mức độ hao mòn hữu hình đồng thời ngăn ngừa hiện tượng mất giá do hao
mòn vô hình gây ra. Về nguyên tắc, việc tính khấu hao TSCĐ phải phù hợp với
mức độ hao mòn của TSCĐ và đảm bảo thu hồi đầy đủ giá trị vốn đầu tư ban
đầu. Điều này không chỉ đảm bảo tính chính xác của giá thành sản phẩm, hạn
chế ảnh hưởng của hao mòn vô hình mà còn góp phần bảo toàn được vốn cố
định. Trong thực tiễn sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp phải biết xử lý một
cách linh hoạt mối quan hệ giữa yêu cầu tính đúng, tính đủ chi phí khấu hao ở
đầu vào giá trị bán sản phẩm ở đầu ra phù hợp với yêu cầu hoạch toán kinh
doanh theo cơ chế thị trường. Biện pháp quan trọng nhất để các doanh nghiệp
có thể tính đúng, tính đủ chi phí khấu hao vào giá thành sản phẩm là không
ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng các TSCĐ trong doanh nghiệp.
Khi xác định mức khấu hao với một TSCĐ nhà quản lý cần xem xét
các yếu tố sau:
+ Tình hình tiêu thụ sản phẩm do TSCĐ đó chế tạo ra trên thị trường
+ Hao mòn vô hình của TSCĐ
+ Nguồn vốn đầu tư cho TSCĐ
+ Ảnh hưởng của thuế đối với việc trích khấu hao
+ Quy định của nhà nước trong việc trích khấu hao TSCĐ
Trước khi xác định mức khấu hao hàng năm cần xác định thời gian sử
Nguyễn Thị Quý Lớp: Tài chính B – K39
19
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm


dụng của TSCĐ Tức là doanh nghiệp phải tuân theo những tiêu chuẩn dưới
đây để xác định thời gian sử dụng của TSCĐ:
+ Tuổi thọ kỹ thuật và TS theo thiết kế .
+ Hiện trạng TSCĐ (TSCĐ đã qua sử dụng bao lâu, thế hệ TSCĐ, tình
trạng thực tế của TSCĐ)
+ Mục đích và hiệu quả sử dụng ước tính của TSCĐ.
Có hai phương pháp tính khấu hao của TSCĐ như sau:
Phương pháp I: Phương pháp khấu hao tuyến tính (phương pháp tính
khấu hao bình quân).
Theo phương pháp này số liệu khấu hao hàng năm được tính
theo công thức:
NG
M
k
=
T
Trong đó:
M
k
: Mức khấu hao cố định hàng năm
T : Thời gian sử dụng định mức cả đời TSCĐ
NG : Nguyên giá TSCĐ
Thời gian T được xác định bằng cách căn cứ vào những chỉ số kỹ thuật
bình quân để ước tính thời gian sử dụng bình quân gọi là tuổi thọ của TSCĐ .
Thời gian sử dụng TSCĐ có thể chọn:
+ Tuổi thọ kỹ thuật là khoảng thời gian có thể sử dụng TSCĐ được tính
theo các thông số về mặt kỹ thuật khi chế tạo chúng.
+ Còn tuổi thọ kinh tế được xác định căn cứ vào thời gian mà TSCĐ
còn sử dụng có hiệu quả nhằm loại trừ những ảnh hưởng bất lợi của hao mòn
vô hình. Thường tuổi thọ kinh tế luôn nhỏ hơn tuổi thọ kỹ thuật của TSCĐ.

Như vậy nếu tính khấu hao theo tuổi thọ kinh tế thì mức khấu hao sẽ lớn hơn
mức khấu hao theo thời gian sử dụng về mặt kỹ thuật.
Nguyễn Thị Quý Lớp: Tài chính B – K39
20
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

Phương pháp II: phương pháp này tính khấu hao giảm dần:
phương pháp này, mức khấu hao hàng năm sẽ giảm dần theo thời gian
sử dụng TSCĐ. Do vậy, trong những năm đầu sử dụng TSCĐ, mức khấu hao
thường rất lớn và giảm dần trong những năm tiếp theo. Phương pháp này đẩy
mạnh tốc độ thu hồi vốn, hạn chế được tốc độ hao mòn vô hình
theo phương pháp này có hai cách tính:
• Cách I: tính mức khấu hao giảm dần theo giá trị còn lại của TSCĐ
theo
cách này, mức khấu hao hàng năm sẽ chịu sự chi phối bởi ba yếu tố:
+ Tỷ lệ khấu hao TSCĐ
+ Giá trị còn lại của TSCĐ
+ Hệ số phát sinh tỷ lệ với tuổi thọ kỹ thuật của TSCĐ. Nếu tuổi thọ kỹ
thuật càng lớn, hệ số càng lớn. Hệ số này thường do các chuyên gia kỹ thuật
công nghệ hoậc các chuyên gia kinh tế tài chính đưa ra
Công thức tính:
0
1
1
NG
NG
T
k
t
−=

Điều kiện t >1
Trong đó:
T
k
: tỷ lệ khấu hao năm
NG
t
: Giá trị còn lại của TSCĐ ở cuối năm t
NG
0
: Nguyên giá của TSCĐ
T : Năm tính khấu hao
• Cách II: tính mức khấu hao giảm dần theo tỷ trọng số năm còn sử dụng
TSCĐ. Theo cách này, tỷ lệ khấu hao hàng năm được tính bằng cách lấy số
năm còn sử dụng của TS chia cho tổng các dẫy số năm.
2(T – t + 1)
T
kt
=
t +1
Nguyễn Thị Quý Lớp: Tài chính B – K39
21
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

Trong đó:
T
kt
: Tỷ lệ khấu hao
T : Thời gian sử dụng TS (tuổi thọ kỹ thuậtt)
T : Năm tính khấu hao

Trên thực tế, việc tính mức khấu hao theo phương pháp mức khấu hao
giảm dần không phải doanh nghiệp nào cũng áp dụng được hoặc thời điểm
nào cũng làm được mà còn phụ thuộc vào chính sách kinh tế của quốc gia cho
phép thực hiện hay không và khả năng của một doanh nghiệp có thể áp dụng
được hay không. Ngày nay, một số nước đang cho phép tính khấu hao theo
phương pháp này nhằm tăng nhanh mức khấu hao TSCĐ để có thể đầu tư đổi
mới máy móc thiết bị có công nghệ kỹ thuật tiến tiến.
Các nhân tố ảnh hưởng thì có nhiều, nhưng ta chỉ nêu ra ở đây một số
nhân tố chính:
- Ngành nghề kinh doanh (có ngành nghề kinh doanh thiên về sử
dụng TSCĐ, có ngành nghề kinh doanh TSL Đ)
- khả năng kinh doanh, vấn đề về nội lực bản thân của chính doanh
nghiệp đó.(phụ thuộc vào đặc điểm của nền kinh tế.)
1.2.1.3. Quản lý các nguồn tài trợ trong doanh nghiệp
A/ nguồn tài trợ ngắn hạn
Nguồn tài trợ ngắn hạn là những khoản tiền mà công ty phải trả trong
vòng một năm kể từ ngày nhận tài trợ. Nguồn tài trợ này bao gồm những
khoản tín dụng thương mại mà công ty nhận được từ các nhà cung cấp khi
mua các loại hàng hoá dưới hình thức mua chịu, mua bằng tiền ký quỹ. Ngoài
ra nó còn bao gồm tiền đặt cọc của khách hàng để mua hàng hoá hay dịch vụ
theo hợp đồng và các khoản tiền vay ngắn hạn do các ngân hàng, công ty tài
chính, công ty mua nợ, công ty bảo hiểm tài trợ, đồng thời nó cũng bao gồm
các khoản tài trợ tích luỹ gồm có các khoản nợ tiền lương của công nhân mà
công ty chưa trả, nợ tiền thuế nhưng chưa trả cho chính phủ và lợi tức trả cho
cổ đông nhưng chưa trả cho cổ đông. Các nguồn tài trợ ngắn hạn có thể được
chia thành ba nhóm chính: nguồn tài trợ ngắn hạn không do vay mượn, nguồn
Nguyễn Thị Quý Lớp: Tài chính B – K39
22
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm


tài trợ ngắn hạn không có đảm bảo và nguồn tài trợ ngắn hạn có đảm bảo
a/ Nguồn tài trợ ngắn hạn không do vay mượn:
Một công ty có thể dựa vào nguồn tài trợ tín dụng mở rộng do mua
hàng của các nhà cung cấp dựa trên “ tài khoản mở ” như là một nguồn tài trợ
ngắn hạn. Hình thức tín dụng này được gọi là hình thức “tín dụng thương
mại” và hoàn toàn khác so với các hình thức tín dụng ngắn hạn khác vì nó
không phải do các chế định tài chính tài trợ.
Khi công ty quyết định sử dụng nguồn tài trợ này phải luôn nghĩ tới hậu
quả lâu dài của tín dụng thương mại. Bởi nếu công ty trì hoãn các hoá đơn
mua hàng, thường dẫn tới hậu quả là các nhà cung cấp sẽ không sẵn sàng
cung cấp hàng hoá của họ, hoặc nếu tiếp tục sẽ cung cấp với giá cao hơn.
Tuy nhiên, có một yếu tố mà các công ty có ý định sử dụng thương mại
sẽ thu được nguồn lợi là phần chiết khấu (nếu có) dành cho nó. Sở dĩ có
khoản chiết khấu này là do các nhà cung cấp nhận thấy người sử dụng tín
dụng thương mại phải chịu phí tổn rất cao, nên họ sử dụng chiết khấu nhằm
hấp dẫn khách mua hàng :
b/ Nguồn tài trợ ngắn hạn không có đảm bảo
Bên cạnh nguồn tài trợ ngắn hạn của các nhà cung cấp, công ty có thể dựa vào
các chế định tài chính để nhận được những khoản tiền vay ngắn hạn không có
đảm bảo, nhưng những khoản này là do các ngân hàng tài trợ cho công ty mà
không đòi hỏi bất cứ sự đảm bảo nào, các hình thức cho vay ngắn hạn không
có đảm bảo
Tài trợ theo hợp đồng
Theo hình thức thoả thuận này, khi công ty nhận được đơn đặt hàng của
một khách hàng, họ có thể tiếp xúc với một ngân hàng và yêu cầu cho vay
một khoản tiền để tài trợ cho hợp đồng. Thí dụ: một công ty vừa nhận được
một hợp đồng do một công ty lớn có tình hình tài chính lành mạnh đặt hàng,
công ty đề nghị ngân hàng cho vay một khoản tiền theo thể thức cấp tài trợ
theo hợp đòng để mua nguyên liệu và thanh toán những khoản chi phí khác
nhằm hoàn thành hợp đồng. Ngân hàng thường rất sẵn sàng chấp nhận tài trợ

theo thể thức này, nhất là khi khoản tiền mà họ cho vay được sử dụng cho một
Nguyễn Thị Quý Lớp: Tài chính B – K39
23
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

hợp đồng ký kết giữa công ty mượn tiền với một công ty lớn đáng tin cậy.
Theo những điều kiện của tài trợ theo hợp đồng, khoản tiền cho vay phải
được thu hồi càng sớm càng tốt từ những khoản tiền được thanh toán nhận
được từ hợp đồng.Tuy nhiên nếu trong khi đang thực hiện hợp đồng mà công
ty ký tiếp một hợp đồng khác, ngân hàng sẽ có thể xem xét và chấp thuận cho
vay một khoản tiền khác dựa trên giao dịch thứ hai
Hình thức tài trợ hợp đồng thường rất hay được áp dụng vào các doanh
nghiệp nhỏ, nhất là các nhà thầu.
Tỷ lệ lãi suất của các khoản vay không có bảo đảm thường thay đổi tuỳ
theo từng công ty và tuỳ theo từng ngân hàng, tuỳ vào vị thế tín dụng của
công ty đi vay. Một công ty có uy tín tín dụng cao sẽ phải trả lãi suất vay với
tỷ lệ thấp hơn công ty không có danh tiếng.
c/ Tài trợ ngắn hạn có bảo đảm
Một công ty không dễ gì nhận được nguồn tài trợ ngắn hạn của ngân hàng
hay các nguồn khác khi, không có boả đảm vì nó mang lại nhiều rủi ro cho
người cho vay. Tuy nhiên nếu doanh nghiệp cung cấp đủ sự đảm bảo đối với
khoản tiền vay theo yêu cầu, thì họ dễ dàng nhận được khoản tín dụng cần thiết.
Việc đảm bảo an toàn nhằm đảm bảo sự thanh toán tiền vốn gốc và lãi của
khoản vay là hình thức thế chấp . Tài sản thế chấp nhằm bảo đảm cho các khoản
vay ngắn hạn thường bao gồm khoản phải thu, giấy hẹn nợ, các loại hàng hoá,
các loại chứng khoán. Chúng có thể là các loại cổ phần, những giấy tờ có khả
năng chuyển đổi nhanh. Những khoản ký quỹ định kỳ, quyền sở hữu máy móc,
thiết bị , hoặc sự bảo lãnh của cá nhân các cổ đong chính của doanh nghiệp.
Những khoản vay ngắn hạn được thế chấp bằng những khoản phải thu
như các loại thương phiếu, hối phiếu được gọi là vay có thế chấp bằng các

khoản phải thu. Đồng thời công ty cũng có thể đem bán các loại chứng từ này
thay vì đem chúng đi thế chấp vay tiền
Việc bán những khoản phải thu này chi một ngân hàng, một công ty tài
chính hay một công ty mua nợ để gia tăng nguồn vốn ngắn hạn được gọi là
“mua nợ”. Còn các khoản nợ vay được do do đảm bảo bằng hàng hoá, tài sản
được gọi là “vay có thế chấp bằng hàng hoá ”
Nguyễn Thị Quý Lớp: Tài chính B – K39
24
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS.TS. Trần Đăng Khâm

+ Vay có thế chấp bằng các khoản phải thu
Một công ty muốn nhận được một khoản vay ngắn hạn có thể tiếp xúc
với ngân hàng hay công ty tài chính và đề nghị sử dụng các hoá đơn thu tiền
làm vật đảm bảo cho khoản vay. Nếu ngân hàng quan tâm và đồng ý tài trợ
cho công ty, họ sẽ đánh giá chất lượng của các loại hoá đơn thu tiền được
dùng làm vật thế chấp và sau đó, xác định khoản cho vay tương xứng với giá
trị của khoản phải thu. Giá trị của khoản cho tuỳ thuộc vào mức độ rủi ro và
có thể giao động trong khoảng 20% đến 90% giá trị danh nghĩa của khoản
phải thu.
Một khi giá trị đã được xác định, công ty đi vay sẽ gửi ngân hàng một
bản liệt kê danh sách các khoản phải thu, cùng thời hạn trả và tổng số tiền.
Sau đó công ty sẽ yêu cầu ngân hàng cho một cam kết bằng văn bản để
chuyển tất cả các khoản phải thu sang phần thanh toán và bù trừ cân đối công
nợ. Thông thương, một khi doanh nghiệp đã được ngân hàng tài trợ tin cậy,
ngân hàng có thể tiếp tục cho vay trên cơ sở nhận cầm cố những khoản phải
thu mới như những giao dịch xảy ra trước đó
+ Mua nợ
Các định chế tài chính có thể mua những khoản phải thu và đây cũng là một
phương pháp để tăng gia nguồn tín dụng ngắn hạn của Doanh nghiệp . Các tổ
chức mua nợ thường là một ngân hàng, một công ty tài chính, hay công ty

mua nợ. Sau khi việc mua bán hoàn tất, bên mua nợ sẽ có trách nhiệm thu hồi
các khoản nợ theo các chứng từ đã mua và chịu mọi rủi ro khi gặp những món
nợ khó đòi (mua nợ phải được áp dụng cả trong nước và nước ngoài ).
Bên cạnh việc có nguồn tài chính như mong muốn, mua nợ còn cho
phép một doanh nghiệp chấp thuận bán chịu cho khách hàng mà không chịu
nhiều rủi ro. Bởi công ty mua nợ sẽ phải kiểm tra vị thế tài chính của khách
hàng trước khi quyết định mua chứng từ bán hàng của doanh nghiệp. Tuy
nhiên nó cũng là một hình thức tài trợ nên chi phí sử dụng vốn theo hình thức
mua nợ khá cao, bởi nó bao gồm nhiều loại chi phí như chi phí kiểm tra tư
cách tín dụng của khách hàng, hay những rủi ro không thu hồi được nợ.
+ Vay thế chấp bằng hàng hoá
Nguyễn Thị Quý Lớp: Tài chính B – K39
25

×