Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

Mở rộng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Đông Đô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.89 KB, 79 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, năng suất sản xuất cao đã
tạo ra lượng hàng hóa phong phú và đa dạng, đời sống của người dân ngày càng
nâng cao, tiến đến cuộc sống thoải mái hơn về vật chất lẫn tinh thần. Ngoài những
nhu cầu thiết yếu như ở, ăn, mặc thì nhu cầu cuộc sống được nâng cao hơn, như nhà
đẹp tiện nghi, xe cộ hiện đại, du lịch, du học nước ngoài…Tuy nhiên, với mức thu
nhập như hiện nay, phần lớn người tiêu dùng không thể chi trả cho tất cả các nhu
cầu mua sắm cùng lúc, đặc biệt là những vật dụng đắt tiền, dẫn đến nhu cầu vay
mượn để tiêu dùng tăng lên. Điều này đã tạo ra thị trường cho vay tiêu dùng đối với
các NHTM ngày càng có tính cạnh tranh cao, đây là một hướng đi không mới ở các
nước phát triển nhưng lại khá mới mẻ ở Việt Nam bởi người dân nước ta vẫn có
thói quen suy nghĩ rằng ngân hàng là nơi phục vụ cho các doanh nghiệp, là một
kênh đầu tư tiền nhàn rỗi. Cho nên, thị trường cho vay tiêu dùng còn khá sơ khai và
chưa được nhiều ngân hàng khai thác.
Xuất phát từ thực tiễn đó, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi
nhánh Đông Đô đã bước đầu triển khai loại hình cho vay tiêu dùng đối với khách
hàng cá nhân và hộ gia đình, tuy nhiên phạm vi cho vay tiêu dùng còn hẹp, chưa
đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng và làm giảm khả năng cạnh tranh với
các ngân hàng bạn. Từ những lý do trên, tôi đã chọn đề tài “Mở rộng cho vay
tiêu dùng tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Đông Đô ” làm
đề tài nghiên cứu cho chuyên đề thực tập của mình.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trực tiếp là mở rộng cho vay tiêu dùng của ngân hàng
thương mại.
Phạm vi nghiên cứu là mở rộng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam chi nhánh Đông Đô trong thời gian từ năm 2009- 2011
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về cho vay tiêu dùng. Trên cơ sở đó phân
tích, đánh giá thực trạng mở rộng cho vay tiêu dùng của Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam chi nhánh Đông Đô. Đánh giá những kết quả, những tồn tại và tìm


1
ra nguyên nhân của những tồn tại đó. Đồng thời nêu ra một số giải pháp nhằm mở
rộng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh
Đông Đô
4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp được sử dụng trong chuyên đề thực tập bao gồm: phương
pháp duy vật biện chứng, phương pháp logic, phương pháp duy vật lịch sử, tổng
hợp, phương pháp so sánh kết hợp với bảng biểu và đồ thị để phân tích, đánh giá.
5. Kết cấu của đề tài
Chương I/ Tổng quan về cho vay tiêu dùng của NHTM
Chương II/ Thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam chi nhánh Đông Đô
Chương III/ Giải pháp và kiến nghị mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Đông Đô
Mong rằng, một số lý luận cũng như thực tiễn về hoạt động cho vay tiêu
dùng trong bài viết có thể phần nào giúp cho các Ngân hàng thương mại mở rộng
hơn nữa lĩnh vực cho vay tiêu dùng, đồng thời giúp cho người tiêu dùng có thể hình
dung một cách tổng quát về nghiệp vụ này của Ngân hàng thương mại và có hướng
sử dụng nó như một công cụ hỗ trợ cho cuộc sống của mình.
Trong quá trình hoàn thiện đề tài, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn
nhiệt tình của thầy giáo Th.S Đặng Ngọc Biên cùng với sự chỉ bảo tận tình của các
anh chị trong phòng Quan hệ khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam chi nhánh Đông Đô đã giúp em hoàn thành chuyên đề này.
2
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Những hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
1.1.1 Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về Ngân hàng thương mại, ở các nước có

nền tài chính tự do hoá thì Ngân hàng thương mại được quan niệm là một doanh
nghiệp đặc biệt tiến hành hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với mục tiêu
chủ yếu là lợi nhuận. Còn ở một số nước khác lại cho rằng Ngân hàng thương mại
là một tổ chức hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi dựa trên nguyên
tắc hoàn trả, cho vay, chiết khấu.
Luật tổ chức tín dụng do Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua ngày 16/06/2010, Điều 4 có viết: “Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp
thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. Tổ chức tín dụng bao
gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín
dụng nhân dân”.[8]
Tuy nhiên để có một quan niệm chính xác nhất về Ngân hàng thương mại thì
nên dựa vào những loại hình dịch vụ mà các Ngân hàng thương mại cung cấp, do đó
người ta có quan niệm: “Ngân hàng thương mại là một tổ chức tài chính cung cấp
một danh mục tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh
toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế ”. [1]
Như vậy, Ngân hàng thương mại là một trong những tổ chức tài chính quan
trọng nhất trong nền kinh tế.
- Hoạt động của Ngân hàng thương mại bao gồm: nghiệp vụ nợ (huy động
vốn), nghiệp vụ có (cung cấp tín dụng) và nghiệp vụ trung gian( dịch vụ thanh toán,
đại lý, tư vấn ). Ba loại nghiệp vụ trên có mối liên hệ mật thiết với nhau, chúng
thúc đẩy nhau cùng phát triển để từ đó tạo nên uy tín cho Ngân hàng.
3
- Từ hình thức đầu tiên là Ngân hàng thợ vàng ở thế kỷ 15, đến nay Ngân hàng
thương mại đã trở thành Ngân hàng hiện đại với các chức năng và dịch vụ đa dạng,
và được coi là bách hoá tài chính.
- Ngân hàng thương mại được tổ chức dưới các hình thức:
+ Ngân hàng thương mại quốc doanh, Ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân
hàng thương mại 100% vốn nước ngoài, Ngân hàng thương mại liên doanh, Ngân
hàng thương mại tư nhân.

+ Ngân hàng bán buôn và Ngân hàng bán lẻ, trong đó Ngân hàng bán buôn là
Ngân hàng chủ yếu cung cấp các dịch vụ cho các Ngân hàng, các công ty tài chính,
Nhà nước, các doanh nghiệp lớn. Còn Ngân hàng bán lẻ là Ngân hàng chủ yếu cung
cấp các dịch vụ trực tiếp cho hộ gia đình, các cá nhân, các doanh nghiệp nhỏ - với
các khoản tín dụng nhỏ. Với xu thế phát triển hiện nay, rất ít Ngân hàng chỉ có bán
buôn hoặc chỉ có bán lẻ mà chủ yếu là kết hợp cả hai.
1.1.1.2 Hoạt động của NHTM
- Hoạt động huy động vốn
Các Ngân hàng cũng giống như bất kỳ một doanh nghiệp nào trong nền kinh tế
để duy trì hoạt động và phát triền cần vốn. Riêng đối với NHTM, vốn lại càng là
nhân tố quan trọng không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Nguồn vốn của Ngân hàng gồm có vốn tiền gửi, vốn tiền vay, vốn chủ sử hữu và
vốn uỷ thác đầu tư. Để thực hiện hoạt động này Ngân hàng nhận tiền gửi, phát hành
các giấy nợ hoặc cổ phiếu với cam kết sẽ hoàn trả khách hàng đúng hẹn kèm theo
một khoản tiền gọi là tiền lãi. Việc huy động được càng nhiều vốn, sẽ càng tạo điều
kiện cho Ngân hàng mở rộng kinh doanh do đó các Ngân hàng luôn tìm kiếm các
nguồn vốn với chi phí thấp và ổn định,đa dạng hoá các hình thức và lãi suất tiền
gửi, giấy nợ nhằm thu hút được nhiều vốn trong nền kinh tế. Các NHTM thực hiện
kinh doanh loại “hàng hóa đặc biệt” – tiền tệ trên thị trường tiền tệ (thị trường vốn
ngắn hạn), thị trường chứng khoán (thị trường vốn dài hạn)
Vì vậy, ngoài vốn ban đầu khi thành lập theo quy định của pháp luật, các ngân hàng
phải thường xuyên tìm mọi biện pháp tăng trưởng vốn trong quá trình hoạt động
kinh doanh. Ngân hàng có thể huy động vốn từ các nguồn sau :
4
● Tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác.
Đây là nguồn tài chính chủ yếu dùng để tài trợ cho các khoản vay, đầu tư của
ngân hàng đảm bảo cho sự phát triển vững mạnh của ngân hàng. Tiền gửi là nguồn
vốn huy động quan trọng chiếm một tỷ lệ khá lớn trong tổng nguồn vốn của ngân
hàng. Để có được nguồn tiền gửi lớn và chất lượng đòi hỏi các ngân hàng phải
không ngừng đưa ra các sản phẩm mới, đa dạng để thu hút khách hàng như: tiền gửi

thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm trả lãi trước,
trả lãi sau hay trả lãi định kỳ…
● Nguồn tiền vay.
Các NHTM có thể huy động nguồn tiền vay bằng cách vay Ngân hàng nhà
nước, vay các tổ chức tín dụng khác, vay trên thị trường vốn…
Trong cơ cấu vốn của các NHTM thì nguồn tiền vay thường chiếm tỷ trọng
thấp hơn nguồn tiền gửi. Các khoản đi vay thường có thời hạn và quy mô xác định
nên tạo thành nguồn tiền ổn định cho ngân hàng.
● Vốn chủ sở hữu.
Các NHTM có thể huy động vốn bằng cách phát hành giấy tờ có giá như: cổ
phiếu, trái phiếu, các chứng chỉ tiền gửi, chứng chỉ nợ để huy động vốn từ tổ chức
và cá nhân trong và ngoài nước. Hiện nay, việc huy động theo cách này trở thành
phổ biến tại các ngân hàng nói riêng và cả các doanh nghiệp khác
● Nguồn vốn khác.
Ngân hàng thương mại thực hiện các dịch vụ như: ủy thác cho vay, ủy thác
đầu tư, ủy thác giải ngân và các dịch vụ khác. Những hoạt động này cũng góp phần
huy động vốn cho NHTM. Tuy nhiên nguồn vốn này không thường xuyên và chiếm
tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng.
- Hoạt động sử dụng vốn
Đây là hoạt động Ngân hàng sử dụng nguồn vốn huy động được để đầu tư
hoặc cấp tín dụng. Hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của
Ngân hàng và là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận cho Ngân hàng. Bên cạnh hoạt
động tín dụng Ngân hàng cũng mở rộng danh mục tài sản bằng cách đầu tư vào các
giấy tờ có giá như trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty Các hoạt động đầu tư và
5
tín dụng mang lại phần lớn lợi nhuận cho Ngân hàng nhưng lại chứa đựng nhiều rủi
ro nên các Ngân hàng thường rất thận trọng khi thực hiện hoạt động này.
+ Hoạt động ngân quỹ
Hoạt động này phản ánh các khoản dự trữ của ngân hàng nhằm đảm bảo an
toàn trong thanh toán và thực hiện quy định về dự trữ bắt buộc do NHNN đề ra. Do

một trong những chức năng của ngân hàng thương mại là nhận tiền gửi của khách
hàng với trách nhiệm hoàn trả. Khoản dự trữ này do NHNN quy định theo một tỷ lệ
nhất định trên tổng tiền gửi. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc này thay đổi theo từng thời kỳ ,
nhằm thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia.
Những khoản này bao gồm: tiền mặt tại quỹ, tiền gửi tại NHNN, các chứng
khoán có tính thanh khoản cao…
+ Hoạt động tín dụng
Đây là nghiệp vụ cơ bản hàng đầu của các NHTM, là nghiệp vụ trong đó:
Ngân hàng thỏa thuận với khách hàng để KH sử dụng một khoản tiền nhất định vào
mục đích và thời gian thỏa thuận nhất định với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.
+ Hoạt động đầu tư
Đầu tư là hình thức bỏ vốn nhằm thực hiện và thu được một kết quả nhất định
về KT-XH. Đầu tư của ngân hàng có thể được phân chia thành 2 nhóm lớn: đầu tư
tài chính và đầu tư trực tiếp.
Đầu tư tài chính: các NHTM dùng vốn của mình để mua các loại chứng khoán
khác nhau có độ rủi ro thấp, năng lực thị trường cao. Hoạt động này mang lại thu
nhập cho ngân hàng, nâng cao khả năng thanh khoản, các Ngân hàng thương mại có
thể mua chứng khoán ngắn hạn của Chính phủ, nó vừa tăng thu nhập cho ngân
hàng, vừa góp phần cân bằng thu chi ngân sách thường xuyên. NHTM còn được
phép mua cổ phiếu, trái phiếu của các doanh nghiệp tham gia vào việc thành lập,
quản lý các doanh nghiệp. Tuy nhiên Ngân hàng thương mại chỉ được đầu tư chứng
khoán có giới hạn không được để hoạt động này lấn át hoạt động cho vay.
Đầu tư trực tiếp: là hình thức ngân hàng bỏ vốn đầu tư trực tiếp quản lý và sử
dụng phần vốn của mình, để tạo ra lợi nhuận. Các hình thức đầu tư này có thể là
hùn vốn để liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp khác hay mua cổ phần của các
công ty, đơn vị kinh tế… Hiệu quả hoạt động đầu tư của Ngân hàng thương mại thể
6
hiện ở tỷ lệ sinh lời của các khoản đầu tư, sự tăng giá các chứng khoán và sự an
toàn của các khoản đầu tư đó.
- Hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính, và hoạt động khác

Đây là hoạt động của ngân hàng thực hiện các dịch vụ cho khách hàng thông
qua đó nhận được các khoản thu dưới hình thức hoa hồng. Nền kinh tế càng phát
triển thì dịch vụ này càng mở rộng, có thể kể các hoạt động ra ở đây như là hoạt
động bảo quản vật có giá, cung cấp các khoản giao dịch, thực hiện thanh toán, quản
lý ngân quỹ, tài trợ các hoạt động của Chính phủ, cho thuê thiết bị trung và dài hạn,
cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn,cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán,
bảo hiểm, dịch vụ đại lý Các hoạt động này mang lại nguồn thu nhập cho Ngân
hàng thông qua viêc thu phí và chứa đựng ít rủi ro. Do vậy các NH hiện đại ngày
nay đang mở rộng hoạt động dịch vụ này nhằm tăng nguồn thu giảm bớt rủi ro
1.1.2. Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Khái niệm
Cho vay là hoạt động mang tính truyền thống và là chức năng kinh tế hàng đầu
của các Ngân hàng giúp Ngân hàng thực hiện việc chuyển tiết kiệm thành đầu tư.
Ngân hàng thương mại có thể cho các tổ chức, cá nhân vay ngắn hạn nhằm đáp ứng
nhu cầu vốn cho sản suất kinh doanh, đời sống và cũng có thể cho các tổ chức, cá
nhân vay trung và dài hạn nhằm thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản suất kinh
doanh
Nhiều người vẫn đồng nghĩa hoạt động cho vay và hoạt động tín dụng của
Ngân hàng là một nhưng thực ra không phải vậy. Tín dụng rộng hơn cho vay nó bao
gồm cho vay và các hoạt động khác như chiết khấu thương phiếu, cho thuê tài
chính Có thể hiểu rằng: Cho vay là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá)
giữa bên cho vay (Ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá
nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản
cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có
trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên đi vay khi đến hạn thanh
toán.[1]
Đối với hầu hết các Ngân hàng, khoản mục cho vay chiếm quá nửa giá trị tổng
tài sản và tạo ra từ 1/2 đến 1/3 thu nhập của Ngân hàng. Đồng thời, rủi ro trong các
7
hoạt động Ngân hàng có xu hướng tập trung vào danh mục các khoản cho vay. Vậy

thực ra Ngân hàng đã thực hiện những khoản cho vay nào?
1.1.2.2. Phân loại hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
Có rất nhiều tiêu thức khác nhau để Ngân hàng phân loại cho vay như: theo
đối tượng cho vay, theo thời gian, theo tài sản đảm bảo, theo phương thức cho vay,
theo nguồn cho vay Cụ thể như: [1]
- Theo đối tượng tham gia vào quy trình cho vay:
+ Cho vay trực tiếp: là loại hình cho vay mà Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho
người có nhu cầu,đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ cho Ngân hàng.
+ Cho vay gián tiếp: là hình thức cho vay qua các tổ chức trung gian. Tổ chức
trung gian ở đây có thể là các tổ,hội, đội nhóm như nhóm sản suất, hội nông dân,
hội phụ nữ hoặc các công ty bán lẻ. Đối với các công ty bán lẻ, Ngân hàng sẽ mua
lại các khế ước hoặc các chứng từ nợ phát sinh, còn trong thời hạn thanh toán.
- Theo mức độ tín nhiệm khách hàng:
+ Cho vay có bảo đảm: là loại hình cấp tín dụng dựa trên các bảo đảm như
thế chấp hay cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Đối với các khách
hàng không có uy tín cao đối với Ngân hàng, nên khi vay vốn đòi hỏi phải có đảm
bảo. Sự đảm bảo này là căn cứ pháp lý để Ngân hàng có thêm nguồn thu thứ hai, bổ
xung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
+ Cho vay không có đảm bảo: là loại hình cho vay không có tài sản thế chấp.
cầm cố hoặc sự đảm bảo của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của
bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh,
có khả năng tài chính lành mạnh, quản trị có hiệu quả thì Ngân hàng có thể cấp tín
dụng dựa vào uy tín bản thân khách hàng, mà không cần một nguồn thu nợ thứ hai
bổ sung.
- Theo mục đích sử dụng vốn:
+ Cho vay nhằm mục đích sản suất kinh doanh: Ngân hàng cho các tổ chức,
doanh nghiệp hay các công ty vay để kinh doanh dịch vụ hay thực hiện các dự án
đầu tư, các phương án sản suất.
8
+ Cho vay tiêu dùng: Ngân hàng cho các cá nhân hay hộ gia đình vay để đáp

ứng nhu cầu mua sắm hàng tiêu dùng lâu bền như nhà cửa, phương tiện vận
chuyển
Cho vay tiêu dùng là một trong những dịch vụ Ngân hàng mới phát triển gần
đây nhưng mà đã tỏ rõ được ưu thế của nó so với các khoản cho vay khác của Ngân
hàng. Phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng đã trở thành xu hướng tất yếu để các
Ngân hàng nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường tài chính.
- Theo thời hạn tín dụng
+ Cho vay ngắn hạn: Loại cho vay này có thời hạn đến 12 tháng và được sử
dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu
ngắn hạn của cá nhân.
+ Cho vay trung hạn: Có thời hạn trên 12 tháng đến 5 năm. Tín dụng trung
hạn dùng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, mở rộng
sản xuất…
+ Cho vay dài hạn: Có thời hạn trên 5 năm và thời hạn tối đa có thể lên đến 20
– 30 năm, cá biệt lên tới 40 năm. Tín dụng dài hạn dùng để đáp ứng các nhu cầu dài
hạn như xây dựng nhà ở, phương tiện vận tải có quy mô lớn.
1.2 Hoạt động cho vay tiêu dùng của Ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của cho vay tiêu dùng
1.2.1.1. Khái niệm về cho vay tiêu dùng
Hoạt dộng cho vay tiêu dùng là quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng(người cho
vay) và các cá nhân, người tiêu dùng(người đi vay) nhằm tài trợ cho các phương án
phục vụ đời sống, tiêu dùng các sản phẩm hàng hoá dịch vụ khi người tiêu dùng
chưa có khả năng thanh toán trên nguyên tắc người tiêu dùng sẽ hoàn trả cả gốc lẫn
lãi tại một thời điểm xác định trong tương lai.
Nắm bắt được yêu cầu đó của xã hội, các ngân hàng thương mại nhanh chóng
triển khai cung cấp loại hình cho vay mới– cho vay tiêu dùng. Ta có thể hiểu: “Cho
vay tiêu dùng là hình thức cấp tín dụng, trong đó ngân hàng thỏa thuận để khách
hàng là cá nhân hay hộ gia đình sử dụng một khoản tiền với mục đích tiêu dùng
theo nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian nhất định.”[5]
9

1.2.1.2. Đặc điểm của cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng nằm trong danh mục các khoản cho vay của ngân hàng nên
nhìn chung nó mang đầy đủ các đặc điểm của hoạt động cho vay nói chung. Tuy
nhiên, song song với những đặc điểm chung đó, cho vay tiêu dùng còn có những
đặc điểm riêng:[5]
- Quy mô của từng món vay thường nhỏ nhưng số lượng các món vay lại lớn
Các khách hàng thường tìm đến Ngân hàng nhằm mục đích vay tiêu dùng
thông thường có nhu cầu vay vốn không lớn,thậm chí còn khá nhỏ. Điều này là do
giá của hàng hoá dịch vụ tiêu dùng không quá đắt đỏ, hoặc khách hàng vay vốn đã
có được sự tích luỹ từ trước đối với các tài sản có trị lớn. Chính điều này đã dẫn đến
giá trị món vay tiêu dùng thường rất nhỏ, phân tán nên chi phí quản lý cao. Tuy vậy,
trên thực tế tổng quy mô vay tiêu dùng của Ngân hàng lại rất lớn, đó là vì tuy mỗi
món vay tiêu dùng có quy mô nhỏ, nhưng do đây là nhu cầu vay vốn khá phổ biến,
đa dạng và thường xuyên đối với mọi tầng lớp dân cư nên số lượng khách hàng tìm
đến Ngân hàng vay vốn là rất đông, khiến cho tổng quy mô vay tiêu dùng lại trở nên
khá lớn.
- Các khoản cho vay tiêu dùng có chi phí cao
Cho vay tiêu dùng là một trong những khoản mục cho vay có chi phí cao nhất
trong danh mục cho vay của ngân hàng. Xuất phát từ thực tế là các khoản vay tiêu
dùng có quy mô nhỏ, số lượng nhiều nên chi phí cho khoản vay như lập hồ sơ, thẩm
định là lớn và tất cả các quy trình này là không thể rút ngắn. Mặt khác do khách
hàng đến vay vì mục đích tiêu dùng thường là cá nhân, thời gian vay không dài nên
công tác thu thập thông tin là khó khăn, không rõ ràng, khó đảm bảo tính chính xác.
Vì vậy, việc ra quyết định cho vay cũng như thanh tra, kiểm tra, giám sát và thu nợ
gây tốn kém nhiều chi phí của ngân hàng.
Ngoài ra, một nguyên nhân khác khiến cho chi phí của các khoản vay này cao
là cho vay tiêu dùng chưa được đông đảo người dân biết đến, gần đây mới được các
ngân hàng chú trọng nhiều hơn. Cho nên, ngân hàng phải tiến hành các chương
trình quảng cáo giới thiệu sản phẩm dịch vụ cũng như hình ảnh của ngân hàng. Các
hoạt động này cũng góp phần làm cho chi phí của các khoản cho vay tiêu dùng tăng

thêm.
10
- Lãi suất cho vay tiêu dùng còn khá cao so với lãi suất cho vay thương mại
Thông thường, các khoản cho vay tiêu dùng được định giá rất cao. Lý do chính
được đưa ra để lí giải cho việc áp dụng mức lãi suất cao với các khoản cho vay tiêu
dùng là các khoản cho vay tiêu dùng có chi phí lớn nhất, rủi ro cao nhất trong danh
mục cho vay của ngân hàng. Hơn nữa, quy mô của từng hợp đồng vay thường nhỏ,
chi phí tổ chức cho vay cao cũng là một yếu tố làm lãi suất các khoản cho vay tiêu
dùng cao.
- Nhu cầu đối với các khoản vay tiêu dùng của khách hàng hầu như ít co
giãn với lãi suất
Khi vay tiền, người tiêu dùng thường quan tâm đến khoản tiền mà họ phải trả
hàng tháng hơn là lãi suất(mặc dù rõ ràng chính lãi suất ghi trên hợp đồng ảnh
hưởng đến quy mô số tiền phải trả). Sở dĩ như vậy là vì khi có nhu cầu, người tiêu
dùng cân nhắc đến việc thu nhập của mình có thể trang trải được khoản vay hay
không? Nếu được họ sẽ vay tiền ngân hàng để phục vụ cho nhu cầu của mình.
Chính vì lý do đó mà khách hàng kém nhạy cảm với lãi suất.
- Nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế
Thật vậy, số lượng các khoản cho vay tiêu dùng phụ thuộc chủ yếu vào nhu
cầu tiêu dùng của dân cư, cầu có khả năng thanh toán của họ, do đó nó có tính nhạy
cảm theo chu kỳ. Cho vay tiêu dùng sẽ tăng lên trong thời kỳ kinh tế phát triển - khi
mà người dân có mức thu nhập tương đối cao và ổn định, tình hình kinh tế xã hội
đầy lạc quan. Và ngược lại, trong thời kỳ nền kinh tế rơi vào suy thoái, rất nhiều cá
nhân và hộ gia đình sẽ cảm thấy không mấy tin tưởng vào tương lai và nhất là khi
họ thấy thu nhập của họ giảm xuống và xu hướng thất nghiệp ngày càng tăng thì
việc vay mượn Ngân hàng sẽ được hạn chế, đặc biệt là việc vay mượn dành cho chi
tiêu.
- Các khoản cho vay tiêu dùng có độ rủi ro cao
Loại hình cho vay tiêu dùng luôn chứa đựng những nguy cơ rủi ro khá lớn, cao
hơn loại hình cho vay tài trợ sản xuất kinh doanh dưới cả ba góc độ:

+ Thứ nhất: Luôn tồn tại nhóm khách hàng chây ì, lừa đảo.
+ Thứ hai: Các rủi ro khách quan như suy thoái kinh tế, mất mùa, thất nghiệp,
bệnh tật, tâm lý tiêu dùng của dân cư, mức độ ổn định xã hội
11
+ Thứ ba: Các rủi ro chủ quan như là tình trạng công việc hay sức khoẻ của
khách hàng, diễn biến tâm lý của khách hàng ảnh hưởng đến tài chính, khả năng
trả nợ của cá nhân và hộ gia đình. Hoặc là do sự ảnh hưởng của các tổ chức trung
gian (đơn vị, tổ chức có cán bộ công nhân viên vay vốn, các đơn vị chủ quản ), đặc
biệt là hình thức cho vay tiêu dùng không có tài sản bảo đảm cũng mang lại rủi ro
rất nhiều đối với loại hình cho vay này.
Tóm lại, khả năng trả nợ sẽ thay đổi nhanh chóng khi khách hàng thay đổi
điều kiện làm việc hoặc sức khoẻ, khả năng bù đắp từ các nguồn khác trong trường
hợp có rủi ro hầu như không có.
1.2.2 Vai trò của cho vay tiêu dùng
1.2.2.1 Vai trò của cho vay tiêu dùng đối với khách hàng.
Cho vay tiêu dùng là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của
người tiêu dùng. Do vậy, khách hàng của cho vay tiêu dùng cũng chính là người
tiêu dùng và đặc biệt là những người có thu nhập trung bình. Nhờ những khoản cho
vay tiêu dùng, họ có thể mua sắm những hàng hoá cần thiết có giá trị cao, thoả mãn
nhu cầu tiêu dùng và cải thiện cuộc sống ngay cả khi khả năng tài chính hiện tại của
họ chưa cho phép.
Trong thực tế, ta thấy rằng có nhiều nhu cầu mang tính tự nhiên, thiết yếu, có
ý nghĩa quan trọng trong cuộc sống đối với các cá nhân và hộ gia đình. Những nhu
cầu này không sớm thì muộn người tiêu dùng cũng phải thoả mãn. Ví dụ như nhu
cầu về mua sắm, sửa chữa nhà cửa, mua các đồ dùng tiện nghi sinh hoạt, mua sắm
các phương tiện như xe máy, ô tô, du lịch, học hành
Tuy rằng những nhu cầu thiết yếu nhưng của cải thì được tích luỹ theo thời
gian, do vậy khả năng tài chính thường bị giới hạn. Vì vậy, mà làm nảy sinh sự thật
là người ta thường mua sắm nhà cửa, tiện nghi sinh hoạt khi lớn tuổi. Khi lợi ích
cảm thụ được từ sự hưởng thụ đều có xu hướng giảm xuống. Và do đó, người tiêu

dùng sẽ tìm cách để phối hợp khéo léo giữa việc thoả mãn các nhu cầu là yếu tố thời
gian và khả năng thanh toán của hiện tại và tương lai. Điều này có nghĩa là người
tiêu dùng sẽ tìm cách để hưởng thụ trước số tiền sẽ có trong tương lai. Nếu phân
tích theo khía cạnh tài chính, việc mượn tiền trước của Ngân hàng để tiêu dùng
12
khiến chúng ta phải trả lãi thực chất cũng chỉ là cách quy đổi luồng tiền ta sẽ có tại
một thời điểm nào đó trong tương lai về thời điểm hiện tại.
Chính những nguyên nhân trên, việc Ngân hàng thực hiện và mở rộng hoạt
động cho vay tiêu dùng sẽ đem đến cho người tiêu dùng những lợi ích tốt nhất.
Người tiêu dùng là những người được hưởng trực tiếp và đều nhất những lợi ích do
hình thức cho vay tiêu dùng mang lại.
Mặt khác nếu người tiêu dùng quá lạm dụng vay tiêu dùng thì cũng có thể mang
lại những kết quả tiêu cực. Họ có thể chi vượt quá số tiền cho phép, khả năng tích
lũy và tiết kiệm trong tương lai giảm và có thể mất khả năng chi trả và gặp nhiều
khó khăn trong cuộc sống, và điều này cũng có thể làm thu nhập của ngân hàng
giảm sút.
1.2.2.2 Vai trò của cho vay tiêu dùng đối với Ngân hàng
- Tạo điều kiện đa dạng hoá hoạt động kinh doanh, nhờ vậy nâng cao thu
nhập, phân tán rủi ro.
Vai trò của các Ngân hàng thương mại đối với xã hội ngày càng được khẳng
định hơn qua sự phát triển ngày càng hoàn thiện của hệ thống Ngân hàng nói chung
và của Ngân hàng thương mại nói riêng. Không vì thế mà các Ngân hàng có thể
thoát khỏi sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực
tiền tệ khác. Ngày càng có nhiều tổ chức muốn cung cấp các dịch vụ mà Ngân hàng
đã và đang cung cấp. Và ngay cả giữa các Ngân hàng với nhau sự cạnh tranh giành
giật thị trường và khách hàng ngày càng khốc liệt hơn. Chính vì vậy, muốn tồn tại
và phát triển các Ngân hàng phải không ngừng đổi mới, tìm tòi và đưa ra những
dịch vụ mới ngày càng có nhiều tiện ích cho khách hàng, từ đó nâng cao thu nhập
cho Ngân hàng. Thực tế đã chứng minh, có những Ngân hàng lớn trên thế giới đã
thu về những khoản lợi nhuận kếch xù từ việc cung cấp các khoản cho vay tiêu

dùng. Ngoài ra, nếu xét riêng từng khoản tín dụng tiêu dùng thì ta thấy cho vay tiêu
dùng có rủi ro lớn. Nhưng vì mỗi khoản tín dụng tiêu dùng có giá trị tương đối nhỏ,
đặc biệt, lại có nhiều sản phẩm tín dụng tiêu dùng nên xét trên toàn cục của các
khoản cho vay tiêu dùng thì rủi ro cũng không còn là một vấn đề lớn. Trên thực tế,
các khoản cho vay tiêu dùng thường có lợi nhuận cao do mức lãi suất tính trên các
13
khoản cho vay tiêu dùng cao. Vì vậy, các Ngân hàng thương mại cũng có thể kỳ
vọng tăng lợi nhuận thu được từ các khoản cho vay tiêu dùng.
- Giúp mở rộng quan hệ với khách hàng, từ đó làm tăng khả năng huy động
các loại tiền gửi cho Ngân hàng.
Thị trường cho vay tiêu dùng là một lĩnh vực mới được phát hiện, chỉ đến sau
chiến tranh thế giới lần thứ hai, hoạt động cho vay tiêu dùng mới được phát triển,
lớn mạnh.
Hoạt động này giúp Ngân hàng mở rộng quan hệ với khách hàng ,từ đó giúp
Ngân hàng có những thuận lợi trong hoạt động huy động vốn, đặc biệt là huy động
vốn từ dân cư. Hơn nữa tính lan truyền trong dân cư là rất cao, nên các Ngân hàng
có thể thông qua các khoản cho vay tiêu dùng mà quảng cáo về mình, từ đó thu hút
các khách hàng đến với các dịch vụ khác của Ngân hàng. Trong khi đó các khoản
tín dụng tiêu dùng tuy là những khoản tín dụng nhỏ nhưng nhu cầu về chúng lại rất
lớn nên nếu khai thác được thị trường này thì các Ngân hàng có thể sử dụng được
một số lượng vốn lớn. Hơn nữa, dân cư là khách hàng tiềm năng lớn của Ngân
hàng, Ngân hàng muốn phát triển bền vững thì nên dựa vào đối tượng khách hàng
này.
Trong khi cấp các khoản tín dụng tiêu dùng thì các Ngân hàng cũng góp phần
đẩy mạnh tiêu dùng, và từ đó tạo điều kiện cho sản xuất phát triển và các ngân hàng
có thêm những khoản cho vay mới phục vụ cho các nhà sản xuất. Sản xuất phát
triển lại cung cấp ra thị trường những sản phẩm mới, làm nảy nở nhu cầu tiêu dùng.
Quá trình này được lặp đi lặp lại không ngừng làm cho thị trường tiêu dùng ngày
càng phát triển.
1.2.2.3. Vai trò của cho vay tiêu dùng đối với nền kinh tế

Cho vay tiêu dùng có tác dụng rất tốt cho việc kích cầu, tạo điều kiện thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Trên thực tế, nhu cầu là vô hạn song “nhu cầu có khả năng
thanh toán” mới đáng quan tâm. Cho vay tiêu dùng giúp người tiêu dùng được
hưởng các tiện ích trước khi tích luỹ đủ tiền và nó rất cần thiết cho những trường
hợp khi cá nhân có các chi tiêu có tính cấp bách như nhu cầu chi tiêu cho gia đình
và y tế. Chính vì vậy, cho vay tiêu dùng là đòn bẩy hữu hiệu để tránh kích cầu tiêu
dùng. Để thoả mãn được nhu cầu đó, các nhà sản xuất sẽ gia tăng sản xuất, mở rộng
14
quy mô sản xuất, mở rộng thị trường, tạo ra nhiều công ăn việc làm. Đồng thời, tạo
ra sự cạnh tranh giữa các hãng sản xuất, các nhà kinh doanh về sản phẩm mẫu mã,
chủng loại và các nhà sản xuất sẽ tìm cách để có thể đáp ứng mọi thị hiếu người tiêu
dùng. Một mặt thúc đẩy sản xuất phát triển, một mặt người tiêu dùng có nhiều sự
lựa chọn hơn qua đó tạo sự năng động cho nền kinh tế. Các nhà sản xuất muốn tồn
tại thì cũng phải không ngừng cải tiến, tự hoàn thiện mình, làm cho nền sản xuất
ngày càng phát triển và phồn thịnh.
1.2.3 Phân loại các khoản vay tiêu dùng
1.2.3.1. Căn cứ vào mục đích vay
- Cho vay tiêu dùng cư trú
Cho vay tiêu dùng cư trú là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu mua
sắm, xây dựng hoặc cải tạo nhà ở của các khách hàng là cá nhân, hộ gia đình.
- Cho vay tiêu dùng phi cư trú
Cho vay tiêu dùng phi cư trú là các khoản cho vay phục vụ nhu cầu cải thiện
đời sống như mua sắm xe cộ, đồ dùng gia đình, chi phí học hành, giải trí và du
lịch Đặc điểm của những khoản vay này thường có quy mô nhỏ, thời gian ngắn do
đó mà mức độ rủi ro đối với ngân hàng là thấp hơn những khoản cho vay tiêu dùng
cư trú.
1.2.3.2. Căn cứ vào phương thức hoàn trả
• Cho vay tiêu dùng trả góp
Đây là hình thức cho vay tiêu dùng trong đó người đi vay trả nợ( gồm cả số
tiền gốc lẫn lãi) cho Ngân hàng theo nhiều lần theo những kỳ hạn nhất định trong

thời hạn cho vay. Phương thức này được áp dụng cho các khoản vay có giá trị lớn
hoặc thu nhập từng định kì của người đi vay không đủ khả năng thanh toán hết một
lần số nợ vay. Đối với loại cho vay tiêu dùng này, các Ngân hàng thường chú ý tới
các vấn đề cơ bản sau:
+ Loại tài sản được tài trợ: thiện chí trả nợ của người đi vay sẽ tốt hơn nếu
tài sản hình thành từ tiền vay đáp ứng nhu cầu thiết yếu, lâu dài trong tương lai như:
nhà ở, xe cộ… Cho nên, ngân hàng thường muốn tài trợ cho nhu cầu mua sắm
những tài sản có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài.
15
+ Số tiền trả trước: khách hàng phải trả một phần tiền, phần còn lại ngân
hàng sẽ cho vay và số tiền ngân hàng cho vay khoảng 60%- 70% giá trị hàng hóa,
dịch vụ. Trong trường hợp khách hàng không trả nợ, ngân hàng buộc phải phát mại
tài sản để thu nợ.
+ Chi phí tài trợ là chi phí mà người đi vay phải trả cho ngân hàng cho việc
sử dụng vốn vay. Chi phí tài trợ chủ yếu bao gồm lãi vay, các chi phí khác liên
quan.
• Cho vay tiêu dùng phi trả góp
Cho vay tiêu dùng phi trả góp còn gọi là cho vay trả một lần là các khoản
vay ngắn hạn của cá nhân và hộ gia đình để đáp ứng nhu cầu tiền mặt tức thời, được
thanh toán một lần khi khoản vay đáo hạn. Thường thì các khoản cho vay tiêu dùng
phi trả góp chỉ được cấp cho các khoản vay có quy mô nhỏ với thời hạn không dài.
• Cho vay tiêu dùng tuần hoàn
Cho vay tiêu dùng tuần hoàn là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó ngân
hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành loại séc được phép
thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai. Theo phương thức này thì trong thời hạn cho
vay được thoả thuận trước, căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập từng kỳ khách
hàng được ngân hàng cho phép thực hiện việc vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần
hoàn, theo một hạn mức cho vay xác định.
Lãi trả mỗi thời kỳ đối với khoản vay này có thể được tính trên số dư nợ đã
được điều chỉnh, số dư nợ ở đây được tính là số dư nợ cuối cùng của mỗi kỳ hạn sau

khi khách hàng đã thanh toán nợ cho ngân hàng. Tùy nhiên, lãi trả mỗi thời kỳ đối
với khoản vay này có thể được tính trên số dư nợ gốc trước khi điều chỉnh. Đây là
số dư nợ cuối kỳ có trước khi khoản nợ được thanh toán.
1.2.3.3. Căn cứ vào nguồn gốc của khoản nợ
- Cho vay tiêu dùng gián tiếp
Cho vay tiêu dùng gián tiếp là hình thức cho vay trong đó ngân hàng mua
các khoản nợ phát sinh do những công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hóa, hay dịch vụ
cho người tiêu dùng.
16
Sơ đồ 1: Sơ đồ cho vay tiêu dùng gián tiếp
(1) Ngân hàng và công ty bán lẻ ký với nhau hợp đồng mua bán nợ. Trong
hợp đồng này, ngân hàng sẽ đưa ra các điều kiện về đối tượng khách hàng được bán
chịu, số tiền bán chịu tối đa, loại tài sản bán chịu.
(2) Công ty bán lẻ và người tiêu dùng ký kết với nhau hợp đồng mua bán
chịu hàng hóa. Thông thường người tiêu dùng phải trả trước một phần giá trị tài sản.
(3) Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng.
(4) Công ty bán lẻ bán bộ chứng từ bán chịu hàng hóa cho ngân hàng.
(5) Ngân hàng thanh toán tiền cho công ty bán lẻ đã ký hợp đồng.
(6) Người tiêu dùng thanh toán tiền trả góp cho ngân hàng.
Cho vay tiêu dùng gián tiếp có một số ưu điểm sau:
+ Cho phép ngân hàng có thể dễ dàng tăng doanh số cho vay tiêu dùng.
+ Cho phép ngân hàng tiết kiệm được một khoản chi phí trong cho vay vì
ngân hàng chỉ phải ký hợp đồng với chính công ty bán lẻ mà thôi.
+ Là nguồn gốc của việc mở rộng quan hệ với khách hàng và các hoạt động
ngân hàng khác.
+ Trong trường hợp có quan hệ với những công ty bán lẻ tốt, cho vay tiêu
dùng gián tiếp an toàn hơn cho vay tiêu dùng trực tiếp vì khi mà ngân hàng ký hợp
đồng với công ty bán lẻ, cùng các điều kiện ràng buộc thì trong trường hợp người
tiêu dùng không thanh toán cho ngân hàng, ngân hàng có quyền truy đòi nhà cung
cấp về khoản nợ trên.

Bên cạnh một số ưu điểm trên, cho vay tiêu dùng gián tiếp còn có một số
nhược điểm sau:
17
(2)
(1)
(5)
(3)
(4)
Ngân hàng
Công ty bán lẻ
Người tiêu dùng
(6)
+ Ngân hàng không tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng đã được bán chịu
do đó không thể nắm được tình hình thực tế của khách hàng mà ngân hàng tài trợ.
+ Thiếu sự kiểm soát của ngân hàng khi công ty bán lẻ thực hiện việc bán
chịu hàng hóa.
+ Kĩ thuật nghiệp vụ cho vay tiêu dùng gián tiếp có tính phức tạp cao.
Do những nhược điểm kể trên nên có rất nhiều ngân hàng không mặn mà với
cho vay tiêu dùng gián tiếp. Còn những ngân hàng nào tham gia vào hoạt động này,
thì đều có các cơ chế kiểm soát tín dụng rất chặt chẽ.
- Cho vay tiêu dùng trực tiếp
Cho vay tiêu dùng trực tiếp là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó ngân
hàng trực tiếp tiếp xúc và cho khách hàng vay cũng như trực tiếp thu nợ từ người
này.
Sơ đồ 2: Sơ đồ cho vay tiêu dùng trực tiếp
(1) Ngân hàng và người tiêu dùng ký kết hợp đồng vay với nhau
(2) Người tiêu dùng trả trước một phần số tiền mua tài sản cho công ty bán lẻ
(3) Ngân hàng thanh toán số tiền mua tài sản vẫn còn thiếu cho công ty bán lẻ
(4) Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng
(5) Người tiêu dùng thanh toán tiền vay cho ngân hàng

So với cho vay tiêu dùng gián tiếp, cho vay tiêu dùng trực tiếp có một số ưu
điểm sau:
+ Cho vay tiêu dùng trực tiếp có ưu điểm là linh hoạt hơn cho vay tiêu dùng
gián tiếp.
18
(2)
(3)
(5)
(4)
(1)
Ngân hàng Công ty bán lẻ
Người tiêu dùng
+ Trong cho vay tiêu dùng trực tiếp, ngân hàng có thể tận dụng được trình độ
kiến thức và năng lực của nhân viên tín dụng. Những người này thường được đào
tạo chuyên môn và có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực cho vay nên các quyết định
cho vay trực tiếp của ngân hàng, thường có chất lượng cao hơn so với trường hợp
chúng được quyết định bởi những công ty bán lẻ hoặc nhân viên tín dụng của các
công ty bán lẻ.
+ Khi khách hàng có quan hệ trực tiếp với ngân hàng, có rất nhiều lợi thế có
thể phát sinh, có nhiều khả năng khách hàng sẽ sử dụng các sản phẩm, dịch vụ khác
của ngân hàng và như vậy quyền lợi của cả ngân hàng, khách hàng đều được thỏa
mãn trên cơ sở thỏa thuận trực tiếp giữa hai bên.
Bên cạnh đó, việc tiếp xúc trực tiếp với khách hàng cũng tạo điều kiện cho
ngân hàng có thể xử lý, giải quyết linh hoạt những vướng mắc của khách hàng. Việc
khách hàng tiếp xúc trực tiếp với ngân hàng cũng giúp cho quan hệ giữa khách
hàng, ngân hàng gần gũi hơn, quảng bá được hình ảnh của ngân hàng đến với nhiều
người hơn
Tuy nhiên, với hình thức này, ngân hàng phải tiếp xúc với từng khách hàng
nhỏ lẻ do vậy chi phí sẽ cao thời gian để ngân hàng tăng quy mô khách hàng là
chậm và ngân hàng sẽ là người duy nhất gánh chịu rủi ro.

1.2.3.4 Căn cứ vào thời hạn cho vay
Thời hạn cho vay là thời hạn mà trong đó ngân hàng cam kết cấp cho khách
hàng một khoản cho vay thường được xác định cụ thể ngày, tháng hoặc năm và ghi
trong hợp đồng cho vay. Hay thời hạn cho vay còn được hiểu là thời hạn được tính
từ lúc đồng vốn đầu tiên của ngân hàng, được phát ra cho đến lúc đồng vốn và lãi
cuối cùng phải thu về. Căn cứ theo thời gian, cho vay được phân thành 3 loại:[1]
- Cho vay tiêu dùng ngắn hạn: là hình thức cấp tín dụng có thời hạn từ 12 tháng
trở xuống được sử dụng để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của các cá nhân hoặc
để bổ sung vào tài sản lưu động của các doanh nghiệp, bởi vì tài sản lưu động thường
có vòng quay trên một vòng thấp hơn một năm. Do vậy, trong một năm doanh nghiệp
có thể hoàn trả được số tiền vay ở ngân hàng.
- Cho vay tiêu dùng trung hạn: là hình thức cấp tín dụng từ 1 năm đến 5 năm.
Hình thức cho vay này được sử dụng chủ yếu để đầu tư sửa chữa, đổi mới thiết bị,
19
phương tiện sản xuất, phương tiện vận tải…. các trang thiết bị nhanh hao mòn hay
xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh từ 1 năm
đến 5 năm.
- Cho vay tiêu dùng dài hạn: là hình thức cấp tín dụng trên 5 năm. Mục đích
của hình thức cho vay này nhằm đáp ứng nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà xưởng,
mua sắm máy móc thiết bị công nghiệp nặng, xây dựng cầu đường… những công
trình lớn, thu hồi vốn lâu từ 5 năm đến 10 năm có khi lên đến 20 năm.
Tất nhiên cùng với độ dài của thời gian, việc thu hồi vốn đối với các dự án
có thời hạn dài gặp nhiều khó khăn hơn do ở thời điểm hiện tại doanh nghiệp khó có
thể tính được hết khó khăn sẽ gặp trong tương lai. Cho nên mức độ rủi ro của các
khoản cho vay có thời hạn lớn đối với ngân hàng sẽ tăng lên. Điều này một phần lý
giải tại sao lãi suất các khoản cho vay dài hạn thường cao hơn các khoản cho vay
ngắn hạn và đòi hỏi có thế chấp.
Phân loại các khoản cho vay theo thời hạn có ý nghĩa quan trọng đối với
ngân hàng thương mại. Nó phản ánh khả năng hoàn trả, độ rủi ro cũng như ảnh
hưởng trực tiếp, đến tính an toàn và sinh lợi của một ngân hàng thương mại.

1.2.4 Đặc điểm khách hàng vay tiêu dùng
Do cho vay tiêu dùng là một hướng cho vay cụ thể của Ngân hàng bán lẻ nên
cách phân loại khách hàng cá nhân cũng tương tự như cách phân loại khách hàng cá
nhân, theo nhóm thu nhập của Ngân hàng bán lẻ. Cụ thể là khách hàng cá nhân của cho
vay tiêu dùng cũng được chia làm ba nhóm như sau:[5]
- Nhóm I: Những cá nhân có thu nhập cao.
Những người này thường cần đến tín dụng với tư cách là những khoản phụ trợ
linh hoạt, trợ giúp thêm khả năng thanh toán, đặc biệt khi tiền của họ đã bị trói chặt
vào những khoản đầu tư dài hạn. Mặc dù sự vay mượn nhằm mục đích tiêu dùng chỉ
thể hiện một tỷ trọng nhỏ, trong tổng tài sản mà họ đang sở hữu, song họ lại thường
xuyên cần chi tiêu trong mục đích tiêu dùng với những món tiền lớn. Và chính vì lý
do này mà các Ngân hàng tỏ ra đặc biệt quan tâm đến nhóm khách hàng đi vay này.
20
- Nhóm II: Những cá nhân có thu nhập trung bình.
Nhu cầu về tín dụng của nhóm này có xu hướng tăng trưởng ngày càng mạnh.
Việc mong muốn chi tiêu ngay lập tức các nguồn tài chính trong tương lai hoặc việc
không thể điều tiết nhu cầu của mình, mà chạy theo những chi tiêu có tính chất phô
trương dẫn đến quá khả năng thu nhập là những nguyên nhân có thể làm nảy sinh
các nhu cầu về tín dụng của nhóm khách hàng này.
- Nhóm III: Nhóm cá nhân có thu nhập thấp.
Nhu cầu về tín dụng của nhóm người này thường rất hạn chế do thu nhập của
họ thường không đủ để thoả mãn những nhu cầu chi tiêu đa dạng của họ. Tuy nhiên,
những người này cũng có các mong muốn, chi tiêu không khác mấy so với những
người có thu nhập cao hơn. Vì vậy, nếu có những chính sách và biện pháp phù hợp
cũng có thể hình thành được các món tín dụng hợp lý đến nhóm khách hàng này.
Nói chung, nhu cầu về tiêu dùng của hai nhóm đầu là rất cao, thường chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng mức cầu tiêu dùng của cá nhân. Vì lẽ đó, nhu cầu cho vay tiêu
dùng chủ yếu đến từ những người có thu nhập trung bình, thu nhập cao, nhưng
không vì thế mà các nhà quản trị Ngân hàng, các nhà kinh doanh lại bỏ ngỏ nhu cầu
tín dụng tiêu dùng của nhóm khách hàng có thu nhập thấp mà phải có những chính

sách và sản phẩm phù hợp để phục vụ mọi nhu cầu của mọi nhóm đối tượng khách
hàng.
1.2.5 Sự cần thiết của mở rộng cho vay tiêu dùng tại các Ngân hàng thương mại
1.2.5.1 Quan niệm về mở rộng cho vay tiêu dùng
Mở rộng cho vay tiêu dùng được xác định trên cơ sở việc thực hiện đa dạng
hóa đối tượng khách hàng, đa dạng hóa các hình thức cho vay tiêu dùng, tăng giá trị
các khoản vay tiêu dùng… trong một thời gian nhấtđịnh. Mức tăng trưởng cho vay
được tính bằng số tương đối hay số tuyệt đối của số lượng cho vay kỳ sau so với kỳ
trước. Số tương đối thể hiện tốc độ tăng trưởng nhanh hay chậm, số tuyệt đối thể
hiện quy mô tăng trưởng cho vay.
Nói cách khác, mở rộng cho vay tiêu dùng là gia tăng về dư nợ , gia tăng về
doanh số, gia tăng thị phần,tạo ra sự tăng trưởng về mặt quy mô, khối lượng, số
lượng sản phẩm cho vay tiêu dùng. Nói đến mở rộng cho vay tiêu dùng là nói đến
sự tăng trưởng theo chiều rộng của các khoản tín dụng tiêu dùng. [5]
21
Mở rộng cho vay tiêu dùng thể hiện ở các khía cạnh:
- Đối với người tiêu dùng : mở rộng cho vay tiêu dùng là thỏa mãn ngày càng
nhiều các nhu cầu vay vốn hợp lý của khách hàng, đa dạng hóa các sản phẩm, cho
vay tiêu dùng cũng như các dịch vụ đi kèm.
- Đối với ngân hàng : cho vay tiêu dùng phải luôn được coi trọng, quan tâm mở
rộng và chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ hoạt động cho vay của ngân hàng thương
mại
1.2.5.2 Tầm quan trọng của mở rộng cho vay tiêu dùng tại các Ngân hàng thương
mại
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, tình hình cạnh tranh trên
thị trường tài chính nước ta ngày càng trở lên gay gắt khi hàng loạt các ngân hàng
mới thành lập và liên tục tuyên bố nâng cao vốn điều lệ, mở rộng thị phần của mình.
Trong tình trạng thị phần cho vay trung, dài hạn gần như đã bão hòa do ảnh hưởng
của cuộc suy thoái kinh tế, kèm theo đó là chính sách thả nổi tiền tệ với việc cho
phép các NHTM cho vay trung và dài hạn theo lãi suất thỏa thuận làm lãi suất trên

thị trường tăng cao gây khó khăn cho các doanh nghiệp vay vốn. Lúc này thị trường
cho vay tiêu dùng chính là cứu cánh cho các ngân hàng. Tuy dư nợ cho vay tiêu
dùng còn chiếm một tỷ trọng nhỏ, trong tổng dư nợ của hoạt động cho vay, song
đây là một lĩnh vực đầy tiềm năng mà các ngân hàng còn chưa khai thác hết và
trong tương lai đây sẽ là loại hình tín dụng đóng vai trò quan trọng trong ngân hàng.
Trong những năm gần đây, ngành ngân hàng đang trong quá trình đổi mới
mạnh mẽ cả về chất và lượng. Việc không ngừng mở rộng phạm vi hoạt động cũng
như đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng là rất cần thiết trong điều
kiện nền kinh tế thị trường cạnh tranh như hiện nay. Nếu một ngân hàng cứ duy trì
quy mô ban đầu, không tích cực hoàn thiện, đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ của
mình thì rất khó có thể tồn tại lâu dài. Hơn nữa, ngành ngân hàng đang ngày càng
phải đối mặt với nhiều sự cạnh tranh. Chính vì vậy, để tăng tính cạnh tranh thì các
NHTM cần phải đặc biệt quan tâm đến việc phát triển mở rộng cho vay tiêu dùng
một cách toàn diện cả, về chiều rộng lẫn chiều sâu. Nắm bắt được những nhu cầu
ngày càng cao đó, các ngân hàng đã và đang đưa ra các sản phẩm, dịch vụ cho vay
tiêu dùng nhằm thỏa mãn tốt nhất những nhu cầu vô cùng phong phú và đa dạng.
22
Một lý do nữa khiến cho việc mở rộng cho vay tiêu dùng là cần thiết, đó là
hoạt động cho vay tiêu dùng luôn, chứa đựng nhiều rủi ro. Và việc mở rộng cho vay
tiêu dùng góp phần đa dạng hóa danh mục cho vay của ngân hàng, từ đó giúp đa
dạng hóa rủi ro. Nếu ngân hàng chỉ tập trung vào một số nghiệp vụ thì nguy cơ rủi
ro rất cao và lợi nhuận của ngân hàng, có thể bị ảnh hưởng khi doanh thu từ các
nghiệp vụ kinh doanh đó chịu những ảnh hưởng mạnh từ thị trường. Ngoài ra, việc
mở rộng cho vay tiêu dùng còn giúp ngân hàng có thêm nguồn thu khác từ phía các
khách hàng là cá nhân ngoài nguồn thu từ khách hàng là các doanh nghiệp.
Muốn mở rộng sản xuất thì tất yếu phải mở rộng tiêu dùng bằng việc khuyến
khích tiêu dùng, cho vay tiêu dùng giúp cho, Nhà nước đạt được những mục tiêu về
kinh tế- xã hội nhất định như tăng mức sống cho người dân, tăng GDP, thúc đẩy
quá trình sản xuất kinh doanh phát triển; giảm tỳ lệ thất nghiệp…
Vậy, cùng với xu thế phát triển của nền kinh tế, sự đòi hỏi ngày càng cao và

phong phú của người dân, sự cạnh tranh mang tính sinh tồn thì việc mở rộng cho
vay tiêu dùng đối với các ngân hàng là một tất yếu khách quan của nền kinh tế.
1.2.5.3 Các chỉ tiêu phản ánh mở rộng cho vay tiêu dùng
o Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng doanh số cho vay tiêu dùng
Doanh số cho vay là tổng số tiền mà ngân hàng cho vay trong một thời kỳ nhất
định, thường được tính theo năm tài chính. Đây là chỉ tiêu mang tính thời kỳ nên nó
phản ánh một cách khái quát nhất về sự mở rộng hoạt động cho vay của ngân hàng.
- Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng doanh số cho vay tiêu dùng tuyệt đối

 Công thức tính:
 Ý nghĩa:
Chỉ tiêu này cho biết doanh số cho vay tiêu dùng năm t so với năm trước đó về
số tuyệt đối là bao nhiêu. Chỉ tiêu này được tính bằng hiệu số giữa tổng doanh số
cho vay tiêu dùng năm tài chính với doanh số cho vay tiêu dùng năm trước.
 Đánh giá:
Chỉ tiêu này đánh giá mức tăng tuyệt đối là bao nhiêu so với năm trước đó.
Chỉ tiêu càng cao thì càng chứng tỏ Ngân hàng mở rộng doanh số càng tốt và ngược
lại nếu âm thì Ngân hàng đang thu hẹp quy mô của doanh số cho vay tiêu dùng
- Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng doanh số cho vay tiêu dùng tương đối

23
Giá trị tăng trưởng
doanh số tuyệt đối
Tổng doanh số
CVTD năm t
=
Tổng doanh số
CVTD năm (t-1)
-
 Công thức tính:

- Chỉ tiê
 Ý nghĩa:
Chỉ tiêu này cho biết tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay tiêu dùng của năm
t so với năm trước. Chỉ tiêu này được tính bằng thương số giữa giá trị tăng trưởng
doanh số cho vay tiêu dùng tuyệt đối với tổng doanh số cho vay tiêu dùng năm
trước đó.
 Đánh giá:
Chỉ tiêu càng cao thì giá trị tăng trưởng doanh số tuyệt đối càng lớn và khi
đó thì Ngân hàng đang mở rộng doanh số tiêu dùng của mình và ngược lại
- Chỉ tiêu phản ánh tỷ trọng cho vay tiêu dùng
 Công thức tính:
 Ý nghĩa:
Chỉ tiêu này cho biết mức đóng góp doanh số cho vay của cho vay tiêu dùng.
Mức đóng góp này qua các năm tăng lên cho thấy cho vay tiêu dùng ngày càng
chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Chỉ tiêu này được
tính bằng tỉ lệ % giữa tổng doanh số cho vay tiêu dùng với tổng doanh số cho vay
của toàn ngân hàng.
o Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng dư nợ cho vay tiêu dùng
Dư nợ cho vay tiêu dùng phản ánh số tiền mà khách hàng đang nợ ngân hàng
tại một thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối quý hay cuối năm tài chính.
Chỉ tiêu này mang tính thời điểm, nó thường được sử dụng kết hợp với chỉ tiêu
doanh số cho vay tiêu dùng nhằm phản ánh thực trạng mở rộng cho vay tiêu dùng
của ngân hàng tại thời điểm nghiên cứu.
- Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng dư nợ tuyệt đối
 Công thức tính:
24
Giá trị tăng trưởng
doanh số tương đối
=
Giá trị tăng trưởng doanh số tuyệt đối

Tổng doanh số CVTD năm (t-1)
x 100%
Tỷ trọng doanh
số CVTD
=
Tổng doanh số CVTD
Tổng doanh số CV
x 100%
Giá trị tăng trưởng
dư nợ tuyệt đối
Tổng dư nợ
CVTD năm t
Tổng dư nợ
CVTD năm (t-1)
=
-
 Ý nghĩa:
Chỉ tiêu này cho biết dư nợ năm t tăng (giảm) so với năm (t-1) về số tuyệt đối
là bao nhiêu. Chỉ tiêu này được tính bằng hiệu số giữa tổng mức dư nợ cho vay tiêu
dùng năm t với tổng dư nợ cho vay tiêu dùng năm (t-1).
 Đánh giá:
Chỉ tiêu này tăng lên cho thấy số tiền ngân hàng cho khách hàng vay tiêu
dùng tăng lên.
- Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng tương đối
 Công thức tính:
 Ý nghĩa:
Chỉ tiêu này cho biết tốc độ tăng (giảm) dư nợ cho vay tiêu dùng năm t so với
năm (t-1). Chỉ tiêu này tăng chứng tỏ khách hàng vay NH để tiêu dùng ngày càng
nhiều. Nó được tính bằng tỉ lệ % giữa giá trị tăng trưởng tuyệt đối với tổng dư nợ
cho vay tiêu dùng năm (t-1).

 Đánh giá:
- Chỉ ti ê u phản ánh t ỷ trọng cho vay tiêu dùng
 Công thức tính:
 Ý nghĩa:
Chỉ tiêu này cho biết dư nợ cho vay tiêu dùng chiếm tỉ lệ bao nhiêu trong tổng
dư nợ từ hoạt động cho vay của ngân hàng. Chỉ tiêu này được tính bằng tỉ lệ % giữa
tổng dư nợ cho vay tiêu dùng với tổng dư nợ cho vay chung của toàn ngân hàng.
 Đánh giá:
Tỷ trọng này càng cao chứng tỏ CVTD chiếm vị trí ngày càng quan trọng
trong hoạt động cho vay của ngân hàng.
o Chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng số lượng khách hàng
 Công thức tính:
25
Giá trị tăng
trưởng tương đối
=
Giá trị tăng trưởng dư nợ tuyệt
iđố
Tổng dư nợ CVTD năm (t-1)
x 100%
Tỷ trọng
=
Tổng dư nợ CVTD
Tổng dư nợ từ hoạt động CV
x 100%

×