Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay tại Tổng công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (536.93 KB, 65 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày càng mạnh
mẽ và Việt Nam không nằm ngoài xu thế đó. Trong bối cảnh như vậy, cạnh tranh trong
lĩnh vực tài chính diễn ra ngày càng gay gắt hơn. Các TCTD ngoài các Ngân hàng thương
mại ra còn có sự hiện diện của các tổ chức tài chính phi ngân hàng như Công ty tài chính,
Công ty cho thuê tài chính, Công ty Bảo hiểm… đã làm đa dạng hơn nữa cho thị trường tài
chính tiền tệ.
Đối với các TCTD, tín dụng có thể được nói là hoạt động quan trọng nhất, chiếm tỷ
trọng lớn nhất trong tổng Tài sản. Đây cũng là hoạt động đem lại thu nhập lớn nhất và đem
lại rủi ro cao nhất cho các TCTD. Khi rủi ro xảy ra, thu nhập của TCTD sẽ bị giảm sút,
ảnh hưởng đến khả năng thanh toán, giảm uy tín của TCTD. Chính vì vậy, các TCTD phải
có một quá trình thẩm định khách hàng trước khi ra quyết định cấp tín dụng, trong đó phân
tích tín dụng là khâu không thể thiếu. Trong bối cảnh hiện nay, phân tích tín dụng càng
phải được thực hiện một cách nghiêm túc, theo một quy trình thống nhất trong toàn hệ
thống của TCTD. Thẩm định tài chính doanh nghiệp của khách hàng là một khâu quan
trọng trong việc ra quyết định có cấp tín dụng hay không cho khách hành.
Muốn tồn tại và phát triển được trong môi trường cạnh tranh khốc liệt như vậy. Công
ty phải nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh của mình. Một trong những biện pháp
quan trọng, đó chính là nâng cao chất lượng thẩm định trong hoạt động tín dụng, và cụ thể
là nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay là vấn đề
cần thiết trong Tổng công ty tài chính cổ phần Dầu Khí.
Xuất phát từ thực tiễn tại Tổng công ty tài chính cổ phần Dầu khí, qua sự tìm hiểu hoạt
động tín dụng nói chung và hoạt động cho vay nói riêng tại Công ty, em đã chọn đề tài:
“Nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay tại
Tổng công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí”.
Chuyên đề tốt nghiệp gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về Phân tích tài chính Doanh nghiệp trong hoạt động cho
vay của công ty tài chính
Chương 2: Thực trạng công tác Phân tích tài chính Doanh nghiệp trong hoạt động cho vay
tại PVFC
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện hoạt động Phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt


động cho vay tại PVFC
Chương 1: Những vấn đề chung về Phân tích tài chính doanh nghiệp trong
hoạt động cho vay của công ty tài chính
1.1. Khái quát về hoạt động cho vay của công ty tài chính
1.1.1 Khái niệm về công ty tài chính
Có rất nhiều các định chế tài chính khác nhau cùng tồn tại và phát triển trong nền
kinh tế và có xu hướng ngày càng đa dạng hơn trong tương lai. Sự phát triển của một đất
nước không thể nằm ngoài sự phát triển của thị trường tài chính, trong đó không thể thiếu
được sự tồn tại của các trung gian tài chính, đó là các Ngân hàng thương mại, Công ty
chứng khoán, Công ty tài chính, Công ty Bảo hiểm, Quỹ đầu tư… Thị trường chứng
khoán Việt Nam chưa thực sự phát triển, tín dụng Ngân hàng vẫn là nguồn vốn chiếm tỷ
trọng lớn trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp.
Ngoài các NHTM, các tổ chức tài chính phi Ngân hàng có chức năng quan trọng là khơi
nguồn vốn từ những người cho vay tới những người đi vay giống như Ngân hàng. Hơn
nữa, quá trình đổi mới tài chính khiến các tổ chức tài chính phi Ngân hàng cũng quan
trọng không kém gì các Ngân hàn mà ngày càng cạnh tranh ác liệt hơn với các Ngân hàng
thông qua việc cung cấp các dịch vụ tương tự Ngân hàng.
Tại Việt Nam, theo Điều 2, Nghị định của Chính phủ số 81/2008/NĐ – CP ngày
29/07/2008 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 28/2008/NĐ – CP ngày
04/10/2002 về tổ chức và hoạt động của Công ty Tài chính, Công ty Tài chính được định
nghĩa như sau:
“Công ty tài chính là loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng, với chức năng sử
dụng vốn tự có, vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho vay, đầu tư; cung ứng các
dịch vụ tư vấn về tài chính, tiền tệ và thực hiện một số dịch vụ khác theo quy định của
pháp luật, nhưng không được làm dịch vụ thanh toán, không được nhận tiền gửi dưới một
năm
Công ty Tài chính bao gồm loại hình Công ty Tài chính tổng hợp được thực hiện tất
cả các chức năng, nghiệp vụ theo quy định và Công ty Tài chính chuyên ngành hoạt động
chủ yếu trên một số lĩnh vực: tín dụng tiêu dùng, phát hành thẻ tín dụng và hoạt động khác
theo quy định của pháp luật, Nghị định này và hướng dẫn của NHNN Việt Nam”.

Các hình thức Công ty Tài chính được thành lập và hoạt động ở Việt Nam theo Nghị
định 81/2008/NĐ – CP là:
- Công ty Tài chính trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên trở lên
- Công ty Tài chính trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên
- Công ty Tài chính cổ phần
1.1.2 Hoạt động cho vay của Công ty Tài chính
1.1.2.1 Khái niệm hoạt động cho vay
Theo điều 3, quyết định số 1627/2001/QĐ – NHNN ngày 31/12/2001 của Thống độc
NHNN Việt Nam về việc ban hành Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách
hàng: “ Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó các tổ chức tín dụng giao cho
khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo
thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”.
Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận vốn
vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thỏa thuận trong hợp đồng tín
dụng giữa các tổ chức tín dụng và khách hàng. TCTD cho khách hàng vay phải đảm bảo
đầy đủ các nguyên tắc:
- Khách hàng phải cam kết hoàn trả gốc và lãi với thời gian xác định
- Khách hàng phải cam kết sử dụng khoản tiền vay theo mục đích đã thỏa thuận với
TCTD, không trái với quy định của pháp luật.
- TCTD tài trợ dựa trên phương án (hoặc dự án) có hiệu quả.
1.1.2.2 Phân loại hoạt động cho vay của công ty tài chính
Các hình thức cho vay ngày càng đa dạng và phong phú nhằm phù hợp với nhu cầu và thị
hiếu của khách hàng. Dựa vào các tiêu thức khác nhau thì có các loại hình cho vay khác
nhau.
a) Phân loại theo thời gian
- Cho vay ngắn hạn: thời hạn dưới 12 tháng trở xuống, nhằm tài trợ cho nhu cầu sử
dụng vốn lưu động hay nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của Nhà nước, doanh nghiệp, hộ
sản xuất kinh doanh.
- Cho vay trung hạn: thời hạn vay từ 12 tháng đến 60 tháng, nhằm tài trợ cho nhu cầu
vốn thường xuyên của doanh nghiệp, như tài trợ cho TSCĐ…

- Cho vay dài hạn: thời hạn vay từ 60 tháng trở lên, có các hình thức như cho vay dự
án, cho vay hợp vốn.
b) Phân loại theo mức độ tín nhiệm với khách hàng
- Cho vay có bảo đảm: Là loại cho vay dựa vào các tài sản để bảo đảm cho các khoản
vay như tài sản thế chấp, cầm cố… Tài sản đảm bảo khoản tín dụng cho phép TCTD có
được nguồn thu nợ thứ hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất không
có hoặc không đủ.
- Cho vay không có bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc
bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của khách hàng vay vốn để quyết định cho
vay.
c) Phân loại theo phương thức cho vay
- Cho vay thấu chi: Là việc khách hàng được phép chi vượt số tiền có trên tài khoản
thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới
hạn này gọi là hạn mức thấu chi. Hình thức ngắn hạn, linh hoạt, phần lớn không có tài sản
đảm bảo, áp dụng đối với khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và có kỳ thu
nhập ngắn.
- Cho vay trực tiếp từng lần: Thường là khách hàng không có nhu cầu vay thường
xuyên, chỉ có nhu cầu thời vụ hoặc mở rộng sản xuất đặc biệt.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: Công ty tài chính và khách hàng xác định , thỏa
thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định.
- Cho vay trả góp: Là hình thức tín dụng, theo đó TCTD cho phép khách hàng trả gốc
làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng
đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho TSCĐ hoặc hàng lâu bền.
- Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa.
Doanh nghiệp khi mua hàng có thể bị thiếu vốn, TCTD có thể cho vay để mua hàng và thu
nợ khi doanh nghiệp bán được hàng. Hình thức này thường được áp dụng đối với doanh
nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan
hệ vay trả thường xuyên với TCTD
- Cho vay gián tiếp: Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian.
Thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tác, cách

xa TCTD.
1.1.2.3 Quản lý chất lượng cho vay
Rủi ro là điều không thể tránh khỏi đối với bất kỳ loại hình kinh doanh nào, chỉ có
nhiều hay ít. Tính chất, mô hình, hệ thống kinh doanh càng phức tạp, càng nhiều mối quan
hệ thì càng xảy ra nhiều loại rủi ro và rủi ro càng lớn. Rủi ro lớn thường xảy ra ở lĩnh vực
tín dụng. Khi đã xảy ra rủi ro thì việc quản lý tín dụng, xử lý tín dụng là vô cùng phức tạp,
khó khăn, làm hao tống thời gian, chi phí, nhân lực mà quan trọng nhất là mất khách hàng,
mất vốn, mất uy tín, làm giảm hiệu quả kinh doanh và nếu rủi ro lớn thì dẫn đến phá sản
đối với ngân hàng. Vì vậy, an toàn tín dụng là vấn đề luôn được đặt lên hàng đầu, do đó
cần phải thường xuyên phân tích, đánh giá trong suốt quá trình từ khi quyết định cho vay
đến khi thu hổi hết nợ gốc và lãi.
Những người cho vay thường là các TCTD và doanh nghiệp khác. Mối quan tâm chủ
yếu của họ là việc nhận biết nhu cầu vay và khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Vì vậy, họ
đặc biệt quan tâm tới các tài sản có tính thanh khoản cao, từ đó đánh giá khả năng trả nợ
của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, sự an toàn của các khoản cho vay cũng là một yếu tố được
người cho vay cân nhắc khi quyết định cho vay. Do đó, họ cũng rất quan tâm đến vốn chủ
sở hữu vì đây là sự đảm bảo cho các khoản vay trong trường hợp doanh nghiệp gặp rủi ro.
Phân tích báo cáo tài chính giúp những người cho vay đánh giá được khả năng sinh lãi,
khả năng trả nợ của doanh nghiệp và mức độ đảm bảo an toàn của khoản cho vay, trên cơ
sở đó người cho vay đưa ra quyết định có cho vay hay không, cho vay bao nhiêu là đủ, lãi
suất bao nhiêu là hợp lý
1.2. Phân tích tài chính Doanh nghiệp trong hoạt động cho vay
1.2.1 Những vấn đề cơ bản về phân tích tài chính
1.2.1.1 Khái niệm
Phân tích tài chính: là sử dụng một tập hợp các khái niệm, phương pháp và các công cụ
cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác nhằm đánh giá tình hình tài
chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp đó.
Phân tích tài chính là một nội dung phân tích quan trọng nhất trong hoạt động phân tích
tín dụng của công ty tài chính, bên cạnh phân tích phi tài chính. Phân tích tài chính là phân

tích hiện trạng tài chính và các dự báo về tài chính trong tương lai của khách hàng. Nó
giúp người sử dụng thông tin từ các góc độ khác nhau, vừa đánh giá toàn diện, tổng hợp,
khái quát lại vừa xem xét một cách chi tiết hoạt động tài chính doanh nghiệp. Trên cơ sở
đó, những người sử dụng thông tin có thể nhận biết, phán đoán, dự báo và đưa ra quyết
định tài chính, quyết định tài trợ và đầu tư có hiệu quả.
1.2.1.2 Mục đích của phân tích tài chính
Phân tích tài chính bao gồm việc đánh giá các điều kiện tài chính của doanh nghiệp
trong quá khứ, ở hiện tại và trong tương lai. Mục tiêu của phân tích tài chính nhằm nhận
dạng những biểu hiện không lành mạnh trong vấn đề tài chính có thể ảnh hưởng đến tương
lai phát triển của doanh nghiệp. Trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp thuộc các
lĩnh vực kinh doanh khác nhau, các loại hình sở hữu khác nhau… Vì vậy, có nhiều đối
tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Những nhà phân tích tài chính ở
những cương vị khác nhau sẽ hướng tới các mục tiêu khác nhau.
Đối với nhà quản trị: Nhà quản trị phân tích tài chính nhằm đánh giá hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, xác định điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp. Đó là cơ sở để
định hướng cho các quyết định Ban Tổng giám đốc, Giám đốc tài chính… Để kiểm soát
hoạt động của doanh nghiệp.
Đối với nhà đầu tư: Nhà đầu tư cần thiết tình hình thu nhập của chủ sở hữu. Họ quan
tâm tới phân tích tài chính để nhận biết khả năng sinh lãi, các yếu tố rủi ro, khả năng thanh
toán… của nghiệp. Đó là một trong những căn cứ quan trọng giúp họ đưa ra quyết định có
nên bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp hay không?
Đối với người cho vay: Họ phân tích tài chính để nhận biết khả năng vay và trả nợ của
khách hàng.
Ngoài ra phân tích tài chính cũng rất cần thiết đối với những người hưởng lương
trong doanh nghiệp, đối với cán bộ thuế… Dù họ công tác ở các lĩnh vực khác nhau nhưng
họ đều muốn hiểu biết về hoạt động của doanh nghiệp để thực hiện tốt hơn công việc của
mình.
1.2.1.3 Quy trình của phân tích tài chính
Để tiến hành phân tích tài chính của doanh nghiệp thì nhà phân tích phải thực hiện các
bước sau:

- Thu thập thông tin: Nhà phân tích tài chính sử dụng mọi nguồn thông tin có khả năng
lý giải và thuyết minh thực trạng hoạt động tài chính doanh nghiệp, phục vụ cho quá trình
dự đoán tài chính. Nó bao gồm những thông tin nội bộ cho đến những thông tin thu thập
được từ bên ngoài, trong đó các thông tin chủ yếu được phản ánh tập trung trong báo cáo
tài chính là những nguồn tin đặc biệt quan trọng. Vì vậy phân tích tài chính trên thực tế
chủ yếu là phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp.
- Xử lý thông tin: Giai đoạn tiếp theo của quá trình phân tích là xử lý các thông tin đã
thu thập được. Từ đây các nhà phân tích ở những vị trí khác nhau sẽ có những phương
pháp xử lý thông tin khác nhau nhằm đạt được mục đích nghiên cứu đặt ra. Vì vậy, xử lý
thông tin là quá trình sắp xếp các thông tin theo những mục tiêu nhất định nhằm tính toán,
so sánh, giải thích, đánh giá… để phục vụ cho việc dự đoán và ra các quyết định.
- Dự đoán và quyết định: Thu thập và xử lý thông tin là những tiền đề và điền kiện cần
thiết để những người sử dụng thông tin dự đoán nhu cầu và ra các quyết định tài chính. Vì
vậy, có thể nói mục tiêu của phân tích tài chính là đưa ra các quyết định tài chính.
1.2.2 Thông tin được sử dụng trong phân tích tài chính Doanh nghiệp
Trong phân tích tài chính, nhà phân tích phải thu thập, sử dụng mọi nguồn thông tin:
Từ những thông tin nội bộ doanh nghiệp đến những thông tin bên ngoài doanh nghiệp, từ
thông tin số lượng đến thông tin giá trị. Những thông tin đó đều giúp cho nhà phân tích có
thể đưa ra được những nhận xét, kết luận tinh tế và thích đáng.
Trong những thông tin bên ngoài, cần lưu ý thu thập những thông tin chung về nền
kinh tế, thông tin về ngành kinh doanh và các thông tin về pháp lý đối với doanh nghiệp.
1.2.2.1 Thông tin từ các báo cáo tài chính của doanh nghiệp
Tuy nhiên, để đánh giá một cách cơ bản tình hình tài chính của doanh nghiệp, có thể sử
dụng thông tin kế toán trong nội bộ doanh nghiệp như là một nguồn thông tin quan trọng
bậc nhất. Thông tin kế toán được phản ánh khá đầy đủ trong các báo cáo kế toán. Phân tích
tài chính được thực hiện trên cơ sở các báo cáo tài chính – được hình thành thông qua việc
xử lý các báo báo kế toán chủ yếu: Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh, Báo
cáo lưu chuyển tiền tệ và Thuyết minh báo cáo tài chính.
a) Bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính của một

doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó (thường là ngày cuối tháng, cuối quý
hoặc cuối năm), cho biết tổng giá trị tài sản, tổng nguồn vốn của doanh nghiệp tại thời
điểm lập.
* Phần Tài Sản: Phản ánh toàn bộ giá trị tài sản hiện có đến thời điểm lập báo cáo
thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp. Các khoản mục tài sản được sắp xếp
theo thự tự tính thanh khoản giảm dần và được chia làm hai mục chính là tài sản dài hạn
và tài sản ngắn hạn.
Về mặt kinh tế: Số liệu bên Tài sản phản ánh quy mô và kết cấu các loại vốn, tài sản
của doanh nghiệp đến thời điểm báo cáo đang tồn tại dưới các hình thức như tiền mặt, tiền
gửi ngân hàng, đầu tư ngăn hạn… Căn cứ vào số liệu các chỉ tiêu bên tài sản chúng ta có
thể đánh giá một cách tổng quát quy mô tài sản, tính chất sử dụng và trình độ sử dụng vốn
của một doanh nghiệp.
Về mặt pháp lý: Số liệu bên tài sản thể hiện số vốn đang thuộc quyền quản lý và sử
dụng của doanh nghiệp.
* Phần Nguồn vốn: Phản ánh nguồn hình thành các loại tài sản, vốn sản xuất kinh doanh
đến thời điểm báo cáo, bao gồm các khoản mục được sắp xếp theo nguyên tắc phù hợp với
kỳ hạn bên tài sản và được chia làm hai nhóm chính là nợ phải trả và vốn chủ sở hữu.
Về mặt kinh tế: Số liệu bên Nguồn vốn thể hiện cơ cấu các nguồn vốn được đầu tư và
huy động vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Căn cứ vào các chỉ tiêu này
có thể đánh giá khái quát khả năng và mức độ chủ động về tài chính của doanh nghiệp.
Về mặt pháp lý: Số liệu bên Nguồn vốn thể hiện trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp
đối với chủ sở hữu vốn đầu tư, đối với ngân hàng và các bên cho vay vốn, góp vốn…
Bảng cân đối kế toán còn cho biết được cơ cấu đầu tư tài sản, các chính sách tài trợ của
doanh nghiệp. Dựa vào bảng cân đối kế toán nhà phân tích tài chính có thể nhận biết được
loại hình doanh nghiệp, quy mô, mức độ tự chủ tài chính của doanh nghiệp. Bảng cân đối
kế toán là tài liệu quan trọng bậc nhất giúp cho các nhà phân tích đánh giá được khả năng
cân đối vốn, khả năng cân bằng tài chính, khả năng thanh toán doanh nghiệp. Tuy nhiên,
BCĐKT chỉ phản ánh giá trị sổ sách và các số liệu trong quá khú ma mục tiêu phân tích tài
chính là hướng tới tương lai.
Cụ thể theo Chuẩn mực số 21 về trình bày báo cáo tài chính của Việt Nam, bảng cân

đối kế toán phải bao gồm các khoản mục chủ yếu sau đây :
b) Báo cáo kết quả kinh doanh
Báo cáo kết quả kinh doanh cho biết sự dịch chuyển của tiền trong quá trình sản xuất –
kinh doanh của doanh nghiệp và cho phép dự tính khả năng hoạt động của doanh nghiệp
trong tương lai. Báo cáo kết quả kinh doanh cũng giúp nhà phân tích so sánh doanh thu với
số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hóa, dịch vụ, so sánh tổng chi phí phát sinh với số tiền
thực xuất quỹ để vận hành doanh nghiệp. Trên cơ sở doanh thu và chi phí, có thể xác định
được kết quả kinh doanh: Lãi hay lỗ trong năm.
Báo cáo kết quả kinh doanh là báo cáo tài chính tổng hợp về tình hình và kết quả kinh
doanh, phản ánh thu nhập từ hoạt động của công ty qua một thời kỳ kinh doanh.
BCKQKD cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử dụng vốn của
công ty, đồng thời cho biết tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước về thuế và các
khoản phải nộp ngân sách khác.
Theo chuẩn mực 21, các khoản mục chủ yếu trong Báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh bao gồm:
c) Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một bộ phận của Báo cáo tài chính, phản ánh dòng tiền
vào và ra trong từng thời kỳ của doanh nghiệp (thường là ngắn hạn). Nó cung cấp thông
tin giúp người sử dụng đánh giá các thay đổi trong tài sản thuần, cơ cấu tài chính, khả
năng chuyển đổi của tài sản thành tiền, khả năng thanh toán và khả năng của doanh nghiệp
trong việc tạo ra các luồng tiền trong quá trình hoạt động. Trên cơ sở dòng tiền nhập quỹ
và dòng tiền xuất quỹ, nhà phân tích thực hiện cân đối ngân quỹ với số dư ngân quỹ dự
phòng tối thiểu cho doanh nghiệp nhằm mục tiêu đảm bảo chi trả.
Các dòng tiền vào, ra trong Báo cáo lưu chuyển tiền tệ thường được chia thành 3
nhóm theo 3 loại hoạt động:
+ Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh
Dòng tiền phát sinh từ hoạt động kinh doanh là luồng tiền có liên quan đến các hoạt
động tạo ra doanh thu chủ yếu của doanh nghiệp (gồm: Tiền thu được từ việc bán hàng,
cung cấp dịch vụ; từ doanh thu khác; Tiền chi trả cho người cung cấp hàng hoá và dịch vụ;
Tiền chi trả lãi vay ).

Các dòng tiền này cung cấp thông tin cơ bản để đánh giá khả năng tạo tiền của doanh
nghiệp từ các hoạt động kinh doanh để trang trải các khoản nợ, duy trì các hoạt động, trả
cổ tức và tiến hành các hoạt động đầu tư mới mà không cần đến các nguồn tài chính bên
ngoài. Thông tin về các dòng tiền từ hoạt động kinh doanh, khi được sử dụng kết hợp với
các thông tin khác, sẽ giúp người sử dụng dự đoán được dòng tiền từ hoạt động kinh doanh
trong tương lai.
+ Dòng tiền từ hoạt động đầu tư
Dòng tiền phát sinh từ hoạt động đầu tư là luồng tiền có liên quan đến việc mua sắm,
xây dựng, nhượng bán, thanh lý tài sản dài hạn và các khoản đầu tư khác không thuộc các
khoản tương đương tiền (gồm: Tiền chi để mua sắm, xây dựng TSCĐ; Tiền thu từ việc
thanh lý, nhượng bán TSCĐ; Tiền chi đầu tư góp vốn vào đơn vị khác, trừ trường hợp tiền
chi mua cổ phiếu vì mục đích thương mại; Tiền thu hồi đầu tư góp vốn vào đơn vị khác,
trừ trường hợp tiền thu từ bán lại cổ phiếu đã mua vì mục đích thương mại )
+ Dòng tiền từ hoạt động tài chính
Dòng tiền phát sinh từ hoạt động tài chính là dòng tiền có liên quan đến việc thay đổi
về quy mô và kết cấu của vốn chủ sở hữu và vốn vay của doanh nghiệp. Các dòng tiền chủ
yếu từ hoạt động tài chính gồm: Tiền thu từ phát hành cổ phiếu, nhận vốn góp của chủ sở
hữu; Tiền chi trả vốn góp của chủ sở hữu, mua lại cổ phiếu của chính doanh nghiệp đã
phát hành; Tiền thu từ các khoản đi vay ngắn hạn, dài hạn; Tiền chi trả các khoản nợ gốc
đã vay; Tiền chi trả nợ thuê tài chính; Cổ tức, lợi nhuận đã trả cho chủ sở hữu.
d) Thuyết minh báo cáo tài chính
Thuyết minh báo cáo tài chính là báo cáo tài chính trình bày những thông tin trọng yếu
mà các báo cáo tài chính khác chưa thể hiện được. Thuyết minh báo cáo tài chính mô tả
mang tính tường thuật và phân tích chi tiết các thông tin đã được trình bày trong Bảng cân
đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cũng như các thông
thin cần thiết khác theo yêu cầu của các chuẩn mực kế toán như: Đặc điểm hoạt động của
doanh nghiệp, kỳ kế toán và đơn vị tiền tệ sử dụng khi trình bày báo cáo tài chính, những
tuyên bố về chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán mà doanh nghiệp áp dụng khi xử lý
thông tin hình thành nên báo cáo tài chính, các chính sách kế toán mà doanh nghiệp áp
dụng… Thuyết minh báo cáo tài chính cũng có thể trình bày những thông tin khác cung

cấp cho các đối tượng sử dụng khi doanh nghiệp xét thấy cần thiết cho việc trình bày trung
thực và hợp lý các báo cáo tài chính. Thuyết minh báo cáo tài chính cung cấp những thông
tin hữu ích cho các đối tượng sử dụng để phaant ích đưa ra những ý kiến đánh giá khách
quan và phù hợp.
Tóm lại, để phân tích tình hình tài chính của một doanh nghiệp, các nhà phân tích cần
phải đọc và hiểu được các báo cáo tài chính, qua đó họ nhận biết được và tập trung vào các
chỉ tiêu tài chính liên quan trực tiếp tới mục tiêu phân tích của họ.
1.2.2.2 Nguồn thông tin từ bên ngoài
Sử dụng các báo cáo tài chính của doanh nghiệp đóng một vai trò quan trọng trong quá
trình phân tích tài chính doanh nghiệp. Tuy nhiên ngoài thông tin từ các báo cáo tài chính,
ngân hàng còn căn cứ vào các nguồn thông tin từ bên ngoài. Những thông tin tác động trực
tiếp tới tình hình sản xuất kinh doanh, từ đó giúp nhà phân tích hiểu rõ hơn về nguyên
nhân cũng như dự báo bề tình hình chung của doanh nghiệp trong tương lai. Có hai nhóm
thông tin chính:
* Thông tin chung: Đó là những thông tin liên quan đến nền kinh tế, môi trường kinh
doanh, chính sách thuế…
* Thông tin về ngành: Đó là những thông tin liên quan đến ngành để từ đó xác định vị
trí của doanh nghiệp trong ngành cũng như cơ cấu ngành, các sản phẩm, công nghệ, thị
phần…
Rõ ràng với những thông tin từ bên ngoài doanh nghiệp sẽ cho cán bộ tín dụng thấy
được thực trạng cũng như triển vọng của ngành mà doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, vị
trí, uy tín của doanh nghiệp. Đó là những thông tin có thể được cung cấp từ bạn hàng của
doanh nghiệp, từ khách hàng của ngân hàng hay từ các ngân hàng khác…
1.2.3 Phương pháp sử dụng trong phân tích tài chính
Phương pháp phân tích tài chính bao gồm hệ thống các công cụ và biện pháp nhằm tiếp
cận, nghiên cứu các sự kiện, các mối quan hệ bên trong và bên ngoài, các luồng dịch
chuyển và biến đổi tình hình hoạt động tài chính của doanh nghiệp… nhằm đánh giá toàn
diện thực trạng hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Về mặt lý thuyết có nhiều phương
pháp phân tích tài chính nhưng trong thực tế thì chủ yếu sử dụng các phương pháp:
phương pháp so sánh, phương pháp tỷ số và phương pháp Dupont

1.2.3.1 phương pháp so sánh
So sánh là một phương pháp nhằm nghiên cứu sự biến động và xác định mức độ biến
động của chỉ tiêu phân tích. Để áp dụng phương pháp so sánh và phân tích, trước hết phải
xác định số gốc để so sánh. Gốc được chọn so sánh là gốc về thời gian và không gian. Kỳ
phân tích được chọn là kỳ thực hiện hoặc kỳ kế hoạch.
* Điều kiện để so sánh:
- Phải đảm bảo thống nhất về nội dung kinh tế các chỉ tiêu
- Phải đảm bảo thống nhất phương pháp tính các chỉ tiêu
- Phải đảm bảo thống nhất về đơn vị tính các chỉ tiêu
Nội dung so sánh bao gồm:
- So sánh giữa số thực tế kỳ phân tích với số thực tế của kỳ kinh doanh trước nhằm xác
định rõ xu hướng thay đổi về tình hình hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Đánh giá tốc
độ tăng trưởng hay giảm đi của các hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
- So sánh giữa số thực tế kỳ phân tích với số kỳ kế hoạch nhằm xác định mức phấn đấu
hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch trong mọi mặt của hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
- So sánh giữa số liệu của doanh nghiệp với số liệu của trung bình ngành nhằm đánh
giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tốt hay xấu, khả quan hay
không khả quan.
* Hình thức so sánh được thể hiện:
- So sánh ngang: Là việc so sánh, đối chiếu tình hình biến động cả về số tuyệt đối và số
tương đối trên từng chỉ tiêu, trên từng BCTC. Thực chất của việc phân tích này là phân
tích sự biến động về quy mô của từng khoản mục, để từ đó xác định được mức độ biến
động về quy mô và mức độ ảnh hưởng của từng chỉ tiêu nhân tố dến từng chỉ tiêu phân
tích.
- So sánh dọc: Là việc sử dụng các tỷ lệ, các hệ số thể hiện mối tương quan giữa các chỉ
tiêu. Thực chất của việc so sánh dọc là phân tích sự biến động về cơ cấu hay những quan
hệ tỷ lệ giữa các chỉ tiêu trong hệ thống BCTC của doanh nghiệp.
- So sánh xác định xu hướng và tính chất liên hệ giữa các chỉ tiêu: Là việc xem xét trong
mối quan hệ với các chỉ tiêu phản ánh quy mô chung để phản ánh rõ hơn xu hướng phát
triển của các hiện tượng kinh tế - tài chính của doanh nghiệp.

1.2.3.2 Phương pháp tỷ số
Đây là phương pháp truyền thống được áp dụng phổ biến trong phân tích tài chính, nó
sử dụng các tỷ số để phân tích. Các tỷ số đơn được thiết lập bởi chỉ tiêu này so với chỉ tiêu
khác. Đây là phương pháp có tính thực hiện cao với các điều kiện áp dụng ngày càng được
bổ sung và hoàn thiện giúp nhà phân tích có thể khai thác hiệu quả các số liệu từ BCTC.
Trong phân tích tài chính, các tỷ số được phân thành các nhóm tỷ số đặc trưng, phản ánh
những nội dung cơ bản theo mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Đó là nhóm: tỷ số về
khả năng thanh toán, tỷ số về khả năng hoạt động, tỷ số về khả năng cân đối vốn, tỷ số về
khả năng sinh lời. Với mỗi nhóm tỷ số lại có những tỷ số riêng lẻ và mỗi đối tượng phân
tích lại chú trọng vào nhóm tỷ số phù hợp với mục đích phân tích của mình.
Về nguyên tắc, phương pháp tỷ số cần xác định được các ngưỡng, các tỷ số tham chiếu,
vì vậy để đánh giá tình trạng tài chính của một doanh nghiệp thì các nhà phân tích so sánh
tỷ số của doanh nghiệp với tỷ số tham chiếu.
1.2.3.3 Phương pháp Dupont
Trong phân tích tài chính, người ta vận dụng mô hình Dupont để phân tích mối liên hệ
giữa các chỉ tiêu tài chính. Nhờ sự phân tích mối liên kết giữa các chỉ tiêu mà các nhà phân
tích sẽ nhận biết được nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tốt, xấu trong hoạt động của
doanh nghiệp. Đồng thời, phương pháp này còn được dùng để xác định xu hướng hoạt
động của doanh nghiệp trong một thời kỳ, từ đó phát hiện ra những khó khăn mà doanh
nghiệp sẽ gặp phải.
* Doanh lợi Vốn chủ sở hữu
Lợi nhuận sau thuế
ROE =
Vốn chủ sở hữu
LNST Doanh thu Tài sản
= * *
Doanh thu Tài sản VCSH
= PM * AU * EM
- PM: Thu nhập cận biên
Đây là chỉ tiêu nói lên hiệu quả của việc quản lý chi phí và chính sách quản lý giá cả của

doanh nghiệp. PM tăng chứng tở chính sách giá và khả năng quản lý chi phí tốt.
- AU: Hiệu suất sử dụng tài sản
Chỉ tiêu này thể hiện hiệu suất sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Để đánh giá chính
sách đầu tư của doanh nghiệp thì nhà phân tích thường sử dụng chỉ tiêu này để xem xét
việc phân bổ các tài sản khác như thế nào.
- EM: Hệ số nhân vốn
Chỉ tiêu là thước đo trực tiếp về khả năng huy động, đánh giá mức độ sử dụng đòn
bẩy tài chính của doanh nghiệp.
Từ trên ta thấy, các nhà quản trị có 3 chỉ tiêu để quản lý ROE đó là tỷ suất lợi nhuận
biên, hiệu suất sử dụng tài sản và đòn bẩy tài chính
* Doanh lợi tài sản
LNST LNST Doanh thu
ROA = = *
Tài sản Doanh thu Tài sản
= PM * AU
Từ trên cho ta thấy, ROA chịu tác động khả năng tăng doanh thu và công tác quản lý tài
sản.
1.2.4 Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.4.1 Phân tích cơ cấu của các báo cáo tài chính
Báo cáo phân tích cơ cấu là một bảng bao gồm tỷ trọng của những khoản mục của báo
cáo tài chính trong đó tất cả các khoản mục của bảng cân đối kế toán được so sánh với
tổng giá trị tài sản và tất cả các khoản mục của báo cáo kết quả kinh doanh được so sánh
với doanh thu. Các tỷ lệ trong báo cáo phân tích rất hữu ích trong việc so sánh nhanh quy
mô giữa hai doanh nghiệp khác nhau và kiểm tra các xu hướng trong nội bộ một công ty.
Ví dụ cho Bảng cân đối kế toán:
a) Cơ cấu tài sản
Để đánh giá trình độ sử dụng vốn của DN, các nhà phân tích nghiên cứu về bố trí cơ
cấu TS. Tỷ số này sẽ trả lời câu hỏi: trong một đồng vốn mà DN có sử dụng, có bao nhiêu
đầu tư vào TSNH, có bao nhiêu đầu tư vào TSDH. Tùy theo từng loại hình kinh doanh mà
tỷ số này ở mức độ cao thấp khác nhau. Nhưng bố trí cơ cấu TS càng hợp lý bao nhiêu, thì

hiệu quả sử dụng vốn càng tối đa bấy nhiêu. Bố trí cơ cấu TS lệch làm mất cân đối giữa
TSNH và TSDH dẫn đến thừa hay thiếu một loại TS nào đấy.
Tỷ trọng của từng
bộ phận tài sản chiếm
= Giá trị của từng bộ phận tài sản x 100%
trong tổng tài sản
Tổng số tài sản
Việc phân tích cơ cấu TS chỉ căn cứ vào sự thay đổi tăng hay giảm về giá trị mà đánh
giá tốt hay xấu thì vẫn chưa đủ mà còn phải căn cứ vào tỷ trọng của TS đó trong tổng TS.
Lượng giá trị TS của một loại TS cuối kỳ so với đầu năm mà tăng nhưng các TS khác có
thể: cũng tăng nhưng với tốc độ nhanh hơn thì xét về tổng thể tỷ trọng TS đó lại giảm
xuống. Hoặc ngược lại, thì tỷ trọng của TS đó lại tăng lên. Việc lập bảng cơ cấu TS cho
phép ta phân tích được sự biến động của từng khoản mục TS cả về số tương đối và số
tuyệt đối trong tổng TS hiện có của DN.
b) C ơ cấu nguồn vốn
Phân tích theo nguồn hình thành NV cho biết quy mô, nội dung, tính chất kinh tế của
nguồn vốn mà DN đang sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Kết cấu
nguồn vốn phải phản ánh trách nhiệm về vật chất và pháp lý của DN. Sau khi phân tích cơ
cấu TS, cơ cấu NV cho phép chúng ta có kết luận sau:
- Việc phân bổ vốn như vậy đã hợp lý chưa? Tình hình đầu tư như thế nào? Khả năng
huy động của DN ra sao?
- Nguồn vốn chủ sở hữu so với nợ phải trả đã hợp lý chưa? DN cần khắc phục gì trong
thời gian tới? Tuy vậy, để đánh giá tình hình TC của DN như thế còn chưa đủ, để có kết
luận chi tiết, chính xác hơn ta cần đi phân tích tiếp nhóm chỉ tiêu sau đây
1.2.4.2 Phân tích các nhóm tỷ số tài chính
a) Nhóm tỷ số khả năng thanh toán
Đây là nhóm chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn
hạn của doanh nghiệp.
* Hệ số thanh toán hiện hành
Tài sản ngắn hạn

Hệ số thanh toán hiện hành =
Nợ ngắn hạn
Tài sản ngắn hạn thông thường bao gồm tiền, các chứng khoán ngắn hạn dễ chuyển
nhượng, các khoản phải thu và dự trữ; còn nợ ngắn hạn thường bao gồm các khoản vay
ngắn hạn các TCTD, các khoản phải trả nhà cung cấp, các khoản phải trả, phải nộp khác…
Cả tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn đều có thời hạn nhất định là dưới một năm. Tỷ số khả
năng thanh toán hiện hành là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp, nó
cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có
thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn của các khoản nợ đó.
Hệ số thanh toán ngắn hạn càng lớn chứng tỏ khả năng thanh toán của doanh
nghiệp càng tốt, song khả năng sinh lời của doanh nghiệp càng kém do doanh nghiệp phải
đánh đổi giữa khả năng thanh toán với khả năng sinh lời nhằm tránh rủi ro phá sản doanh
nghiệp. Đồng thời, nếu doanh nghiệp duy trì tỷ lệ này quá cao thì sẽ được đánh giá là
không quản lý hợp lý các tài sản hiện có. Nếu doanh nghiệp duy trì tỷ lệ này quá thấp thì
nó trở thành nguyên nhân cho các lo âu vì các vấn đề rắc rối về dòng tiền mặt chắc chắn sẽ
xuất hiện. Vì vậy doanh nghiệp phải duy trì khả năng thanh toán ngắn hạn phù hợp với đặc
điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, của ngành. Điều này dẫn tới các nhà phân
tích phải so sánh với tỷ lệ trung bình ngành cũng như toàn bộ thị trường để có kết luận
chính xác.
* Khả năng thanh toán nhanh
TSLĐ - HTK
Hệ số thanh toán nhanh =
Nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu Khả năng thanh toán nhanh tương tự như chỉ tiêu Khả năng thanh toán ngắn
hạn nhưng đã loại bỏ đi những tài sản có tính thanh khoản kém nhất trong danh mục, bao
gồm hàng tồn kho và các tài sản ngắn hạn khác. Chỉ tiêu này cho biết: doanh nghiệp có thể
nhanh chóng huy động nguồn trả nợ tới mức độ nào, một đồng Nợ ngắn hạn có thể được
đảm bảo thanh toán một cách nhanh chóng từ bao nhiêu đồng tài sản có tính thanh khoản
cao.
* Khả năng thanh toán tức thời

Tiền
Hệ số thanh toán tức thời =
Nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu này loại bỏ nốt khoản mục tài sản có tính thanh khoản kém hơn tiền, đó là các
khoản phải thu, dạng tài sản chỉ mức độ có khả năng thu được lợi ích kinh tế trong tương
lai. Khả năng thanh toán tức thời cho biết mức độ thanh toán các khoản nợ ngay lập tức
bằng tiền mặt hoặc các khoản tương đương tiền. Đây là nguồn trả nợ có tính thanh khoản
cao nhất và đảm bảo chắc chắn việc trả nợ là khả thi.
* Khả năng thanh toán lãi vay
Chỉ tiêu này được tính theo tỷ số giữa hai khoản mục không nằm trên Bảng cân đối kế
toán mà trên Báo cáo kết quả kinh doanh.
EBIT
Khả năng thanh toán lãi vay =
Lãi vay
Trong đó:
EBIT là thu nhập trước thuế, lãi vay. Tỷ số này cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo
khả năng trả lãi hàng năm như thế nào. Việc không trả được các khoản nợ này sẽ thể hiện
khả năng doanh nghiệp có nguy cơ bị phá sản.
b) Nhóm tỷ số về năng lực hoạt động
Nhóm tỉ lệ này cho chúng ta đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Vốn
của doanh nghiệp được dùng để đầu tư cho các loại tài sản khác nhau như TSCĐ, TSLĐ…
Do đó, các nhà phân tích không chỉ quan tâm tới việc đo lường hiệu quả sử dụng tổng tài
sản mà còn chú trọng tới hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành tổng tài sản của
doanh nghiệp. Chỉ tiêu doanh thu được sử dụng chủ yếu trong tính toán các tỷ số này để
xem xét khả năng hoạt động của doanh nghiệp.
* Hiệu suất sử dụng tổng tài sản:
Hiệu suất sử dụng Doanh thu
tổng tài sản =
Tổng tài sản ròng bình quân
(Tổng tài sản ròng = tổng tài sản - khấu hao tài sản cố định)

Tỉ lệ này cho biết bình quân mỗi đồng tài sản tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. Tỉ
lệ này khoảng trên dưới 1 đối với những ngành nghề đòi hỏi nhiều vốn và khoảng trên 10
đối với những công ty hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ.
* Hiệu suất sử dụng TSCD ròng
Hiệu suất sử dụng Doanh thu
tài sản cố định ròng =
Tài sản cố định ròng bình quân
Nếu so sánh với các công ty trong ngành hay toàn bộ nền kinh tế nói chung, tỉ lệ
này của công ty thấp hơn rất nhiều thì điều đó có nghĩa là vốn của công ty này đã ứ đọng
quá nhiều trong TSCD và ngược lại thì công ty đang sử dụng sử dụng các TSCD đã khấu
hao hoàn toàn, lạc hậu cũ kĩ.

* Hiệu suất sử dụng vốn chủ sử hữu
Hiệu suất sử dụng Doanh thu thuần
vốn chủ sở hữu =
Vốn chủ sở hữu bình quân
Vốn chủ sở hữu ở đây bao gồm cả vốn góp của cố phiếu ưu đãi và cố phiếu
thường, thặng dư vốn và tổng lợi nhuận để lại.
* Vòng quay hàng tồn kho
Doanh thu thuần
Vòng quay hàng tồn kho =
Hàng tồn kho bình quân
Là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, nó đo lường số lần vốn đầu tư vào hàng tồn kho có hiệu quả hay không.
Nếu vòng quay hàng tồn kho nhỏ cho thấy vốn của doanh nghiệp đang bị ứ đọng. Tuy
nhiên nếu vòng quay hàng tồn kho quá cao thì rất dễ dẫn đến tình trạng thiếu hụt hàng,
phân phối hàng chậm, điều này có khi lại gây ra tác động ngược lại đối với quá trình tiêu
thu sản phẩm của doanh nghiệp.
* Kỳ thu tiền bình quân
Các khoản phải thu * 360

Kỳ thu tiền bình quân =
Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá khả năng thu tiền trong thanh toán trên cơ sở
các khoản phải thu và doanh thu bình quân hàng ngày. Các khoản phải thu lớn hay nhỏ
phụ thuộc vào chính sách tín dụng thương mại của doanh nghiệp và các khoản trả trước.
Kỳ thu tiền bình quân mà cao chứng tỏ doanh nghiệp đang bị chiếm dụng vốn trong thanh
toán, khả năng thu hồi vốn chậm.
c) Nhóm tỉ lệ về khả năng sinh lời

* Tỉ suất lợi nhuận gộp
Tổng lợi nhuận
Tỉ suất lợi nhuận gộp =
Doanh thu bán hàng
Lợi nhuận gộp được đo bằng doanh thu bán hàng thuần trừ đi gía vốn hàng bán.
* Tỉ suất lợi nhuận hoạt động biên
Tỉ suất lợi nhuận Lợi nhuận hoạt động
biên =
Doanh thu bán hàng thuần
Chỉ tiêu này cho biết, trong một đồng doanh thu tạo ra có bao nhiêu đồng lợi nhuận
sau thuế và giúp nhà phân tích đánh giá khả năng tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận và khả
năng tiết kiệm chi phí của doanh nghiệp. Cơ cấu sản phẩm và phương thức tiêu thụ có ảnh
hưởng đến tỷ suất lợi nhuận biên. Tỉ suất lợi nhuận biên của mỗi ngành khác nhau, với
mỗi ngành ở các giai đoạn tăng trưởng khác nhau cũng khác nhau.
* Hiệu suất sinh lời của tài sản (ROA)
Thu nhập sau thuế
ROA =
Giá trị tổng tài sản
. ROA là tỉ lệ chỉ ra mối quan hệ giữa lợi nhuận thu về của công ty với tất cả lượng tài
sản tham gia vào sản xuất kinh doanh, hay tổng vốn của doanh nghiệp(Nợ, vốn cổ phần ưu
đãi và cổ phần thưởng). Đây là một chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng

sinh lợi của một đồng vốn đầu tư.
* Doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE)
Lợi nhuận ròng
ROE =
Vốn chủ sở hữu bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu và được các nhà đầu tư
đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Tăng mức doanh lợi
vốn chủ sở hữu là một mục tiêu quan trọng nhất trong hoạt động quản lý tài chính doanh
nghiệp.
1.2.4.3 Phân tích các yếu tố phi tài chính
Các chỉ tiêu phi tài chính chủ yếu là những chỉ tiêu định tính khó chuyển thành định
lượng, nhưng cũng là các yếu tố tạo nên điểm mạnh, hoặc điểm yếu của doanh nghiệp, ảnh
hưởng đến tình hình kinh doanh của doanh nghiệp cũng như khả năng xoay sở tình thế của
doanh nghiệp. Hay nói một cách khác, các chỉ tiêu phi tài chính này ảnh hưởng đến khả
năng trả nợ của khách hàng. Các chỉ tiêu khi phân tích các yếu tố phi tài chính có thể được
phân loại như sau:
* Thẩm định khách hàng vay vốn
Cán bộ tín dụng tìm hiểu và phân tích khách hàng về năng lực pháp lý, năng lực điều
hành, năng lực quản lý sản xuất kinh doanh, mô hình tổ chức, bố trí lao động trong doanh
nghiệp, tìm hiểu những thông tin chung về lịch sử ra đời và phát triển doanh nghiệp,
những thay đổi về vốn góp, cơ chế quản lý, những thay đổi trong sản phẩm và công
nghệ… loại hình kinh doanh cùng các khía cạnh chính trị, xã hội đằng sau các hoạt dộng
kinh doanh. Các thông tin đó sẽ được dùng để xem xét khả năng hoạt dộng hiện tại cũng
như tính cạnh tranh của công ty trong tương lai.
* Các điều kiện về kinh tế
Các kết quả phân tích trên cho thấy một phần quá khứ và hiện tại của doanh nghiệp.
Điều mà người cho vay quan tâm hơn là khả năng tài chính trong tương lai của khách
hàng, có thể là trong mấy tháng hoặc mấy năm. Do tác động của các điều kiện kinh tế thời
hạn càng dài, dự đoán càng khó chính xác. Thiên tai, các thay đổi bất thường trong đời
sống chính trị, kinh tế, …cũng ảnh hưởng tới khách hàng. Tổn thất của khách hàng sẽ dẫn

đến tổn thất cho người cho vay. Do vậy, phân tích các điều kiện kinh tế cũng là một nội
dung cần quan tâm khi tiến hành phân tích tài chính khách hàng. Đây cũng là những điều
kiện cần thiết để biết liệu công ty có thể đứng vững trước những thay đổi bên ngoài cũng
như việc mở rộng khả năng hoạt động hay không.
1.2.4.4 Kết luận về tình hình tài chính doanh nghiệp
Sau khi tiến hành phân tích đánh giá các chỉ số, nhà phân tích sẽ đưa ra kết luận về tình
hình tài chính doanh nghiệp. Dựa trên các kết quả tính toán được, nhà phân tích sẽ so sánh
với trung bình ngành, xem xét biến động và cả dựa vào kinh nghiệm để kết luận tình hình
tài chính của doanh nghiệp hiện tại đã tốt hay chưa, điểm nào tốt, điểm nào yếu. Sau đó
cùng với việc thẩm định dự án vay vốn, xem xét các điều kiện về bảo đảm, ngân hàng sẽ ra
quyết định có cho doanh nghiệp vay hay không và có thể cho vay bao nhiêu.
1.2.5 Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp trong
hoạt động cho vay
1.2.5.1 Nhân tố khách quan
a) Yếu tố từ nền kinh tế
Phân tích tài chính doanh nghiệp sử dụng nhiều nguồn thông tin gồm cả nguồn thông
tin bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Vì thế nguồn thông tin càng đầy đủ và phong phú
càng mang lại hiệu quả cao hơn cho hoạt động phân tích tài chính.
Nếu hệ thống thông tin trong nền kinh tế phát triển, nhà phân tích có thể dễ dàng lấy
được các nguồn thông tin về ngành, lĩnh vực doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế
hện tại như thế nào để tìm hiểu rõ được xu thế vận động chung của ngành, sự vận động của
doanh nghiệp có phù hợp với xu hướng đó hay không… Bên cạnh đó nhà phân tích cũng
có thể tìm được các nguồn thông tin khác nhau về doanh nghiệp một cách dễ dàng giúp
quá trình phân tích tài chính nhanh chóng hơn.
Và ngược lại, nếu các cơ sở dữ liệu của nền kinh tế ít ỏi, không đầy đủ, thiếu cập nập
hay khó tiếp cận sẽ gây khó khăn cho nhà phân tích trong việc tìm kiếm thoogn tin phục
vụ cho phân tích, hoạt động phân tích sẽ kéo dài và không mang lại hiệu quả cao. Điều đó
có thể gây rủi ro cho ngân hàng khi cho vay với những doanh nghiệp có tình hình tài chính
không tốt nhưng do sự sai lệc của thông tin khiến người cho vay vẫn có kết luận là doanh
nghiệp có tình hình tài chính tốt.

Nếu các nguồn thông tin làm cơ sở cho việc phân tích được thu thập đầy đủ, chính xác,
kịp thời, các cán bộ làm công tác tín dụng có thể dễ dàng tiếp cận với những nguồn thoogn
tin này giúp cho hoạt động phân tích được diễn ra nhanh chóng, thuận lợi.
b) Quy mô và lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp
Khi phân tích tài chính doanh nghiệp, nhà phân tích phải tìm hiểu tất cả những vấn đề
về lĩnh vực, quy mô doanh nghiệp… Nếu là các doanh nghiệp lớn hoạt động đa ngành, đa
lĩnh vực sẽ khiến nhà phân tích phải nhìn nhận từ nhiều khía cạnh để bao quát được hết
những lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp đó. Hơn nữa, nhà phân tích còn phải xem xét
so sánh với những hệ thống chỉ tiêu khác nhau do mỗi lĩnh vực có những đặc trưng khác
nhau, tỷ số trung bình nghành khác nhau. Đây là việc rất khó khăn và dễ khiến kết quả
phân tích thiếu chính xác.
Nếu doanh nghiệp chỉ hoạt động ở một lĩnh vực hoặc tập trung chủ yếu ở một lĩnh vực
thì việc xem xét tình hình hoạt động, xu thế phát triển sẽ dễ dàng hơn, do đó hoạt động
phân tích tài chính sẽ diễn ra nhanh chóng hơn và mang lại hiệu quả cao hơn.
Cùng với đó, thường những doanh nghiệp lớn có trình độ quản lý tốt hơn, có hệ thống
sổ sách kế toán đầy đủ hơn, các báo cáo tài chính được lập rõ ràng sẽ giúp nhà phân tích dễ
dàng lấy được số liệu phục vụ quá trình phân tích. Ngược lại, các doanh nghiệp nhỏ
thường có hệ thống sổ sách không hoàn chỉnh, thường không có thuyết minh báo cáo tài
chính và báo cáo lưu chuyển tiền tệ, các khoản mục thường chưa chính xác gây khó khăn
cho việc thu thập thông tin phân tích từ đó làm giảm hiệu quả phân tích tài chính.
1.2.5.2 Nhân tố chủ quan
a) Chất lượng đội ngũ cán bộ phân tích
Hiện nay, người làm công tác phân tích tài chính trong cho vay chính là những cán bọ
tín dụng của tổ chức tín dụng. Đội ngũ này đóng vai trò rất quan trọng vì họ là người thu
thập số liêu, xem xét số liệu và cũng là người phân tích số liệu đó. Chính vì vậy trình độ
chuyên môn cũng như đạo đức nghệ nghiệp của đội ngũ cán bộ tín dụng cũng ảnh hưởng
rất lớn đến chất lượng hoạt động phân tích doanh nghiệp.
Khi các tổ chức tín dụng có đội ngũ cán bộ được đào tạo kỹ lưỡng về phân tich tài
chính doanh ngiệp, am hiểu hoạt động phân tích thì hoạt động phân tích tài chính doanh
nghiệp sẽ được thực hiện một cách nhanh chóng và chính xác, chắc chắn kết quả mang lại

sẽ rất cao, tổ chức tín dụng có thể tin tưởng vào những kết quả phân tích đó để quyết định
cho vay. Kết quả phân tích càng phản ánh đúng được thực trạng tài chính của doanh
nghiệp thì quyết định cho vay của tổ chức tín dụng dựa trên những thông tin ấy càng hợp
lý, đảm bảo an toàn vốn cũng như giảm thiểu được rủi ro cho ngân hàng và ngược lại.
Nếu đội ngũ cán bộ phân tích tài chính của ngân hàng không có chuyên môn nghiệp vụ
tốt cũng như kinh nghiệm sẽ gặp nhiều khó khăn trong hoạt động phân tích do nó yêu cầu
các nhân viên phải có cái nhìn tổng hợp trên nhiều phương diện và cũng dựa nhiều vào
kinh nghiệm để đưa ra nhận xét.
Mặt khác, nếu như các cán bộ tín dụng không chuyên tâm với công việc, không tìm
hiểu một cách chính xác, chi tiết về doanh ngiệp mình phân tích sẽ dễ đưa ra những kết
luận không đúng về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Điều này sẽ gây rủi ro cho tổ
chức tín dụng khi cho vay với những doanh nghiệp không đảm bảo về mặt tài chính.
b) Sự trợ giúp của công nghệ thông tin
Công nghệ thông tin luôn là sự trợ giúp hữu hiệu giúp con người xử lý công việc nhanh
chóng và hiệu quả hơn. Trong quá trình phân tích tài chính doanh nghiệp các cán bộ làm
công tác phân tích cũng thường xuyên sử dụng sự trợ giúp này cho công việc của mình.
Từ khi thu thập thông tin đến khi tiến hành phân tích nếu có sự trợ giúp của công nghệ
thông tin trong khâu lưu trữ dữ liệu, các chương trình tính toán sẽ giúp cho hoạt động phân
tích tài chính được tiến hành thông suốt và nhanh chóng. Khi sự trợ giúp này kém hiệu quả

×