Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản của công ty cổ phần Đầu tư và Tư vấn tài chính dầu khí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (708.41 KB, 64 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
MỤC LỤC
Tạ Duy Linh Lớp : TCDN k21-VB2
Chuyên đề tốt nghiệp
Danh mục chữ viết tắt
TSNH : Tài sản ngắn hạn
TSDH : Tài sản dài hạn
TSCĐ : Tài sản cố định
DN : Doanh nghiệp
Tạ Duy Linh Lớp : TCDN k21-VB2
Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Một doanh nghiệp tồn tại và phát triển vì nhiều mục tiêu khác nhau, song
mục tiêu bao trùm nhất là tối đa hoá giá trị tài sản cho các chủ sở hữu.
Để thực hiện mục tiêu tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu, vấn đề sử
dụng tài sản trở thành một trong những nội dung quan trọng trong quản trị tài
chính. Sử dụng tài sản một cách hiệu quả giúp cho quá trình sản xuất kinh
doanh tiến hành bình thường với hiệu quả kinh tế cao nhất, từ đó nâng cao
năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp và làm tăng giá trị tài sản của chủ sở
hữu.
Trong thời kỳ nền kinh tế hội nhập như hiện nay, các doanh nghiệp
muốn tồn tại và phát triển bền vững cần phải có chiến lược và bước đi thích
hợp. Trước tình hình đó, vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản càng được
đặc biệt quan tâm.
Công ty cổ phần đầu tư và tư vấn tài chính dầu khí trực thuộc Tổng công
ty Tài chính dầu khí Việt Nam, hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực đầu tư tư
vấn tài chính,quản lý và kinh doanh bất động sản, khai thác khoáng sản.
Trong những năm qua, công ty đã quan tâm đến vấn đề hiệu quả sử dụng tài
sản và đã đạt được những thành công nhất định. Nhờ đó, khả năng cạnh tranh
cũng như uy tín của công ty ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, do nhiều


nguyên nhân khách quan và chủ quan, hiệu quả sử dụng tài sản vẫn còn thấp
so với mục tiêu. Thực tế đó ảnh hưởng tiêu cực tới hiệu quả hoạt động của
công ty. Trước yêu cầu đổi mới, để có thể đứng vững và phát triển trong môi
trường cạnh tranh gay gắt, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản là một trong
những vấn đề hết sức cấp thiết đối với công ty.
Từ thực tế đó, đề tài: “Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản của công ty
cổ phần Đầu tư và Tư vấn tài chính dầu khí” đã được lựa chọn nghiên
cứu.
Tạ Duy Linh Lớp : TCDN k21-VB2
3
Chuyên đề tốt nghiệp
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả sử dụng tài sản
của doanh nghiệp.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hiệu quả sử dụng tài sản tại công ty cổ
phần Đầu tư và Tư vấn Tài chính Dầu khí.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản tại công ty cổ
phần Đầu tư và Tư vấn Tài chính Dầu khí
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hiệu quả sử dụng tài sản hữu hình, tài sản thực
của doanh nghiệp.
- Phạm vi nghiên cứu: Hiệu quả sử dụng tài sản của công ty cổ phần Đầu
tư và Tư vấn Tài chính Dầu khí.
4. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp được sử dụng trong quá trình viết luận
văn: Phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,
phương pháp điều tra nghiên cứu, phương pháp chọn mẫu.
5. Kết cấu chuyên đề.
Đề tài: “Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản tại Công ty cổ phần đầu tư và

tư vấn tài chính dầu khí”
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1: Các vấn đề cơ bản về hiệu quả sử dụng tài sản của doanh
nghiệp.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả sử dụng tài sản tại Công ty cổ phần Đầu
tư và Tư vấn Tài chính Dầu khí.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản tại Công ty cổ
phần Đầu tư và Tư vấn Tài chính Dầu khí.
Danh mục chữ viết tắt
Tạ Duy Linh Lớp : TCDN k21-VB2
4
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG I
CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN CỦA
DOANH NGHIỆP
1.Khái quát về doanh nghiệp.
1.1.Khái niệm.
Việc xem xét và nghiên cứu khái niệm doanh nghiệp phải đứng trên
nhiều góc độ khác nhau.
Quan điểm nhà tổ chức: doanh nghiệp là một tổng thể các phương tiện,
máy móc thiết bị và con người được tổ chức lại nhằm đạt một mục đích.
Quan điểm lợi nhuận: doanh nghiệp là một tổ chức sản xuất, thông qua
đó, trong khuôn khổ một tài sản nhất định, người ta kết hợp nhiều yếu tố sản
xuất khác nhau, nhằm tạo ra những sản phẩm và dịch vụ để bán trên thị
trường và thu khoản chênh lệch giữa giá thành và giá bán sản phẩm.
Quan điểm chức năng: doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất kinh doanh
nhằm thực hiện một, một số, hoặc tất cả các công đoạn trong quá trình đầu tư
từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện các dịch vụ nhằm mục đích
sinh lợi.

Quan điểm lý thuyết hệ thống: doanh nghiệp là một bộ phận hợp thành
trong hệ thống kinh tế, mỗi đơn vị trong hệ thống đó phải chịu sự tác động
tương hỗ lẫn nhau, phải tuân thủ những điều kiện hoạt động mà nhà nước đặt
ra cho hệ thống kinh tế đó nhằm phục vụ cho mục đích tiêu dùng của xã hội.
Theo quan điểm của thị trường doanh nghiệp được định nghĩa là :
Doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất kinh doanh được tổ chức, nhằm
tạo ra sản phẩm và dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trên thị trường, thông
qua đó để tối đa hóa lợi nhuận trên cơ sở tôn trọng luật pháp của nhà nước
Tạ Duy Linh Lớp : TCDN k21-VB2
5
Chuyên đề tốt nghiệp
và quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng.
Theo quan điểm pháp lý doanh nghiệp được định nghĩa là :
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở
giao dịch ổn định được đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm
mục đích thực hiên các hoạt động kinh doanh.
Vậy doanh nghiệp là một tổ chức khác với các tổ chức khác đó là :
-Mang chức năng sản xuất kinh doanh
-Hoạt động vì lợi nhuận
-Có tư cách pháp nhân
-Có nghĩa vụ đóng thuế với Nhà nước
Đây là khái niệm chung nhất về doanh nghiệp. Tuy nhiên để có thể hiểu
rõ về từng loại hình doanh nghiệp và đặc điểm của nó ta đề tài sẽ trình bày rõ
hơn ở phần sau.
1.2.Phân loại;
Việc phân lọai doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng trong việc quản lý
và sử dụng tài sản của doanh nghiệp.
*Theo quy mô doanh nghiệp :
Ở nước ta quy mô doanh nghiệp được chia thành hai loại đó là doanh
nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Theo Nghị định 90/2001/CP-NĐ, ngày 23/11/2001 :
-Doanh nghiệp lớn : Là doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ,lao động từ 300
người trở lên.
-Doanh nghiệp vừa và nhỏ: Là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đă
đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn không quá 10 tỷ đồng
hoặc số lao động trung bình hằng năm không quá 300 người.
Tạ Duy Linh Lớp : TCDN k21-VB2
6
Chuyên đề tốt nghiệp
*Theo hình thức tổ chức :
Ở các nước phát triển có nền kinh tế thị trường thường có nhiều loại
hình tổ chức của doanh nghiệp:doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công
ty cổ phần và doanh nghiệp nhà nước. Về mặt số lượng các công ty tư nhân
chiếm phần lớn số lượng các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên về
mặt doanh số hoạt động các công ty cổ phần tuy có số lương ít nhưng lại là
những doanh nghiệp lớn, chiếm 80-85% tổng doanh số hoạt động của tất cả
các loại doanh nghiệp. Còn các công ty tư nnhaan và công ty hợp danh chỉ
chiếm 15-20%.
Ở nước ta kể từ khi chuyển sang nền kinh ế thị trường XHCN doanh
nghiệp được phân chia theo 6 hình thức đó là.
- Doanh nghiệp Nhà nước;
Là doanh nghệp thuộc quyền sỏ hữu toàn dân do Nhà nước đại diện nắm
quyền sở hữu nhằm phục vụ cho những mục tiêu chung của xã hội. Trong nền
kinh tế thị trường chính phủ thường đầu tư thành lập những doanh nghiệp
Nhà nước trong những ngành chậm thu hồi vốn, khó thu vốn từ khu vực tư
nhân. Hay chính phủ cũng có thể đầu tư vào những ngành dễ có thể mang lại
sự độc quyền cho các chủ đầu tư nhằm đảm bảo cho sự phát triển bình thường
của nền kinh tế, chống lại sự độc quyền. Mặt khác các doanh nghiệp Nhà
nước cũng là những doanh nghiệp kinh tế mũi nhọn của Nhà nước, được Nhà
nước lập ra và quản lý với mục đích đảm bảo chiến lược phát triển quốc gia,

kích thích nền kinh tế trong nước phát triển theo mục tiêu lâu dài.
- Doanh nghiệp tư nhân;
Là hình thức tổ chức kinh doanh lâu đời và đơn giản nhất do một cá
nhân làm chủ sở hữu. Đặc trưng nổi bật của doanh nghiệp này là người chủ
của nó phải chịu trách nhiệm toàn diện với hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp cả về mặt tài chính cũng như là tài sản của doanh nghiệp. Nếu doanh
Tạ Duy Linh Lớp : TCDN k21-VB2
7
Chuyên đề tốt nghiệp
nghiệp gặp khó khăn về mặt tài chính các chủ nợ có quyền yêu cầu người chủ
của nó phải thanh toán công nợ bằng toàn bộ tài sản của doanh nghiệp cùng
tài sản riêng nếu còn thiếu.
Loại hình doanh nghiệp này gặp phải một số những hạn chế như người
chủ phải chịu trách nhiệm vô hạn với các nghĩa vụ của doanh nghiệp, quy mô
của doanh nghiệp bị hạn chế vì phụ thuộc vào khả năng tài chính của người
chủ sở hữu và sự phụ thuộc của doanh nghiệp vào người chủ của nó.
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài;
Là doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam, do các nhà đầu tư nước
ngoài đầu tư một phần hoặc toàn bộ vốn nhằm thực hiện mục tiêu là tìm kiếm
lợi nhuận. Loại hình doanh nghiệp này có tư cách pháp nhân, mang quốc tịch
Việt Nam, tổ chức và hoạt động theo quy chế của công ty TNHH và tuân theo
quy định của pháp luật Việt Nam.
Phần vốn góp của bên nước ngoài vào vốn pháp định không hạn chế mức
tối đa nhưng tối thiểu phải đạt 30% của vốn pháp định. Vốn có thể được góp
bởi nhiều hình thức (tiền Việt, tiền nước ngoài, vốn hiện vật, giá trị quyền sở
hữu công nghiệp, quyền sử dụng đất,…). Việc chuyển nhượng phần vốn của
các bên được ưu tiên cho chuyển nhượng cho các bên trong liên doanh trước
và việc phân chia lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp được thực hiện theo
điều lệ doanh nghiệp liên doanh.
- Công ty cổ phần;

Công ty cổ phần là một thực thể pháp lý tồn tại độc lập tách khỏi các
chủ sở hữu của nó. Công ty có thể có tài sản huy động kinh phí, thiết lập các
nghĩa vụ bằng hợp đồngvà tiến hành nhiều công việc khác với tên riêng của
nó. Các chủ sở hữu có thẻ chuyển giao quyền sở hữu tài sản của công ty cho
người khác mà không làm gián đoạn hoạt động sản xuất của công ty trừ một
số trường hợp đặc biệt. Chủ sỏ hữu công ty chịu trách nhiệm hữu hạn với
Tạ Duy Linh Lớp : TCDN k21-VB2
8
Chuyên đề tốt nghiệp
phần vốn góp của mình. Trong công ty cổ phần tài sản được chia đều cho mỗi
cổ phần và thành viên nào nắm giữ nhiều cổ phần nhất thì có nhiều quyền hạn
tham gia vào hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
Có 3 loại công ty cổ phần đó là :
+ Công ty cổ phần nội bộ : Là công ty chỉ phát hành cổ phiếu cho các
thành viên sáng lập và người quen thuộc với công ty.
+ Công ty cổ phần đại chúng : Phát hành cổ phiếu rộng rãi ra công chúng
tuy nhiên quy mô phát hành tùy thuộc vào từng công ty và từng quốc gia.
+ Công ty cổ phần đại chúng : Là công ty đăng ký tên cổ phần của nó
vao danh sách chứng khoán được mua bán và giao dịch tại Sở giao dịch
chứng khoán.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn.
Là loại hình doanh nghiệp có từ hai thành viên trở nên và các chủ sở
hữu chỉ chịu trách nhiệm trong phần vốn góp của họ đã đầu tư vào công ty.
Vốn đầu tư mà họ góp vào sẽ trở thành tài sản chung của doanh nghiệp và
việc chuyển nhượng phần vốn góp này khắt khe hơn so với công ty cổ phần
đó là phải được sự đồng ý và thỏa thuận giữa các thành viên trong công ty.
- Công ty hợp danh;
Thuộc sở hữu của từ hai người trở lên (công ty có ít nhất hai thành viên
hợp danh, ngoài ra có thể có thành viên tham gia góp vốn.). Loại hình này bao
gồm hai loại:

+ General partnership: mọi chủ sở hữu đều chịu trách nhiệm vô hạn.
+ Limited partnership: có một số chủ sở hữu chỉ chịu trách nhiệm giới hạn ở
số vốn
Thành viên hợp danh là các cá nhân có trình độ chuyên môn, uy tín
nghề nghiệp và chịu trách nhiệm vô hạn về các nghĩa vụ của công ty. Các
Tạ Duy Linh Lớp : TCDN k21-VB2
9
Chuyên đề tốt nghiệp
thành viên tham gia góp vốn chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên phần vốn đã
góp của mình vào công ty.
Công ty hợp danh không được phép phát hành bất kỳ loại chứng khoán
nào để huy động vốn.
Thành viên hợp danh có quyền quản lý công ty, nhân danh công ty tiến
hành các hoạt động kinh doanh, liên đới chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của
công ty. Thành viên góp vốn không có quyền tham gia quản lý và hoạt động
nhân danh công ty nhưng vẫn có quyền được phân chia lợi nhuận theo tỷ lệ
quy định ghi trong điều lệ hoạt động của công ty.
1.3. Các hoạt động chủ yếu.
2. Hiệu quả sử dụng tài sản của DN.
2.1. Tài sản của DN.
2.1.1. Khái niệm.
Vốn và tài sản có mối quan hệ mật thiết với nhau, vốn của DN là giá trị
tài sản của DN được biểu hiện bằng tiền, còn tài sản là biểu hiện bên ngoài
của vốn. Khi xây dựng và phân tích các chỉ tiêu về tình hình sử dụng tài sản
như tốc độ luân chuyển hàng tồn kho, hiệu suất sử dụng TSCĐ… không thể
sử dụng đơn vị đo lường tài sản là cái, chiếc, tấn, m… mà phải sử dụng đơn vị
đo lường tài sản là giá trị. Vì vậy tuy mục tiêu là quản lý tài sản nhưng chủ
yếu phải thông qua quản lý vốn.
2.1.2. Phân loại:
Tuỳ thuộc vào mục đích quản lý có nhiều cách phân loại tài sản - vốn.

Căn cứ vào đặc điểm luân chuyển và công dụng của tài sản có 3 nhóm tài sản
cơ bản là TSCĐ, TSLĐ và tài sản đầu tư tài chính, ngoài ra còn có 1 số tài sản
khác. Ứng với các loại tài sản này có các loại vốn là vốn cố định, vốn lưu
động, vốn đầu tư tài chính và vốn khác. Các phân loại này giúp đưa ra các
biện pháp quản lý tài sản - vốn phù hợp với đặc điểm và công dụng của tài
Tạ Duy Linh Lớp : TCDN k21-VB2
10
Chuyên đề tốt nghiệp
sản.
Căn cứ vào thời hạn đầu tư có tài sản đầu tư ngắn hạn và dài hạn. Các phân
loại này giúp bố trí nguồn vốn đầu tư có thời hạn phù hợp.
Khi lập Bảng tổng kết tài sản người ta kết hợp cả 2 cách phân loại này.
Đề tài sẽ tìm hiểu các hạng mục tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp theo
danh mục biểu mẫu báo cáo Ban hành theo QĐ số 15/2006/QĐ-BTC ngày
20/03/2006 của Bộ trưởng BTC, tài sản được chia thành TSNH và TSDH.
Trong bảng CĐKT này, các hạn mục đựoc sắp xếp theo tính thanh khoản
giảm dần .
[Bảng CĐKT là một báo cáo tài chính phản ánh tổng quát tình hình tài
sản của doanh nghiệp và nguồn vốn tài trợ cho doanh nghiệp đó tại một thời
điểm cụ thể, thường là cuối 1 quý hay một năm tài chính.
Báo cáo tài chính là những báo cáo được dựa theo phương thức kế toán,
tổng hợp số liệu từ các sổ sách kế toán, theo các chỉ tiêu tài chính phát sinh tạI
những thời điểm hoặc thời kỳ nhất định.
Các báo cáo tài chính phản ánh một cách hệ thống tình hình tài sản,
nguồn vốn của đơn vị trong những thời điểm, kết quả hoạt động kinh doanh
và tình hình sử dụng vốn trong những thời kỳ nhất định.
2.1.2.1 Tài sản ngắn hạn;
TSNH là tài sản chỉ tham gia 1 chu kỳ sản xuất kinh doanh như nguyên
vật liệu đến chu kỳ sản xuất kinh doanh sau lại phải dùng TSNH mới. Do
đặc điểm này nên toàn bộ giá trị của TSNH được chuyển dịch một lần vào sản

phẩm và được bù đắp toàn bộ khi sản phẩm được tiêu thụ.
TSNH (trừ dụng cụ lao động) qua quá trình sản xuất hợp thành thực thể của
sản phẩm nên mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh luôn thay đổi hình thái
biểu hiện theo 1 vòng khép kín như sau :
Xét về mặt giá trị thì DN thu được một số tiền lớn hơn tiền mua nguyên
Tạ Duy Linh Lớp : TCDN k21-VB2
11
Chuyên đề tốt nghiệp
vật liệu do chi phí nhân công, chi phí khấu hao, lãi kinh doanh cũng được
tính vào giá trị sản phẩm tiêu thụ.
Để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục thì luôn cần
dự trữ TSNH ở tất cả các khâu trong quá trình sản xuất: dự trữ nguyên vật
liệu, dự trữ bán thành phẩm, thành phẩm, dự trữ tài sản dưới dạng các khoản
phải thu, dự trữ tiền. Như vậy tại mỗi thời điểm, TSNH của doanh nghiệp
luôn tồn tại dưới các hình thái ở trên. Với DN thương mại, vòng luân chuyển
của tài sản ngắn hạn đơn giản hơn, tồn tại dưới dạng tiền, hàng hoá và các
khoản phải thu. Việc quản lý loại tài sản này sẽ có ảnh hưởng quyết định tới
doanh thu và khả năng sinh lời của công ty.
Cụ thể, chúng ta sẽ tìm hiểu các khoản mục nằm trong phần tài sản của
bảng CĐKT.
a) Tiền và các khoản tương đương tiền tồn tại dưới 3 hình thức:
Tiền mặt tại quỹ hình thành do DN sử dụng phương thức thanh toán bằng
tiền mặt.
Tiền gửi ngân hàng là tiền gửi không kỳ hạn tại các tài khoản thanh
toán ở ngân hàng dùng cho mục đích thanh toán không dùng tiền mặt.
Tiền đang chuyển: Quá trình chuyển tiền cần có thời gian nhất định chờ làm
thủ tục nên tồn tại hình thức này. Chẳng hạn DN đã làm thủ tục chuyển một
khoản tiền từ tài khoản thanh toán tại ngân hàng để trả cho đơn vị khác nhưng
chưa nhận được giấy báo nợ hay bản sao kê của ngân hàng nên vẫn coi là tiền
của DN.

Tài sản bằng tiền có thể tồn tại dưới dạng nội tệ, ngoại tệ, vàng, bạc,
kim khí quý, đá quý.
Chỉ tiêu này phản ánh toàn bộ số tiền hiện có của DN tại thời điểm báo
cáo, qua đó giúp cho việc đánh giá khả năng thanh toán nhanh của doanh
nghiệp và có kế hoạch trả nợ kịp thời, đồng thời có kế hoạch đầu tư tài chính
Tạ Duy Linh Lớp : TCDN k21-VB2
12
Chuyên đề tốt nghiệp
vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi để tránh ứ đọng vốn.
b) Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn.
Nhóm này chủ yếu các tài sản có khả năng chuyển đổi cao, nghĩa là dễ
bán, dễ chuyển đổi thành tiền khi cần thiết. Thời hạn đầu tư của loại tài sản
này dưới 1 năm hoặc trong một chu kỳ kinh doanh.
Việc đầu tư vào các công cụ tài chính dài hạn như cổ phiếu, trái phiếu
là đầu tư tài chính dài hạn, bởi vì nếu đầu tư vào loại chứng khoán nói trên
nhưng lại chỉ là đầu cơ, chỉ giữ trong ngắn hạn thì phần đầu tư ấy được xem
xét là khoản đầu tư tài chính ngắn hạn.
Do đầu tư vào những danh mục có tính rủi ro cho nên để phòng ngừa
tổn thất có thể xảy ra trong thời gian công ty nắm giữ loại tài sản tài chính đó,
công ty tiến hành trích lập dự phòng giảm giá đầu tư ngắn hạn. Lượng dự
phòng này được tính toán trên cơ sở chênh lệch giữa giá mua và giá mà DN
dự tính sẽ có thể bán ra được khi xảy ra sự giảm sút giá của loại tài sản ấy.
Những khoản dự phòng giảm giá được ghi dưới hình thức ghi trong ngoặc
đơn hoặc ghi bằng số âm.
b) Các khoản phải thu ngắn hạn gồm có:
Phải thu của khách hàng: là tiền bán hàng hoá, dịch vụ chưa thu được,
nhưng đã được khách hàng chấp nhận thanh toán và tính vào doanh thu bán
hàng trong kỳ, kể cả trường hợp cấp tín dụng thương mại ngắn và dài hạn.
Trả trước cho người bán: chỉ tiêu này phản ánh số tiền đã trả trước cho
người bán mà chưa nhận được sản phẩm tại thời điểm báo cáo. Thường DN

ứng trước trong 2 trường hợp:
o Cần ổn định nguồn nguyên vật liệu, hàng hoá.
o DNđặt mua máy móc, thiết bị sản xuất kinh doanh. Số tiền trả trước để
đảm bảo thực hiện hợp đồng của bên mua.
Phải thu nội bộ ngắn hạn: xét từ góc độ hạch toán kinh tế có 2 dạng DN
Tạ Duy Linh Lớp : TCDN k21-VB2
13
Chuyên đề tốt nghiệp
là DN độc lập và doanh nghiệp liên hợp gồm tổng công ty, tập đoàn, liên hiệp
(gọi chung là tổng công ty). Trừ các DN nhỏ, mỗi DN này đều có 2 bộ phận là
đơn vị (hay DN) cấp trên và đơn vị (hay DN) cấp dưới. Đơn vị cấp dưới còn
gọi là đơn vị thành viên gồm các đơn vị trực thuộc hoặc phụ thuộc có tổ chức
kế toán riêng. Đơn vị cấp trên và các đơn vị cấp dưới gọi là các đơn vị nội bộ
trong DN độc lập, tổng công ty. Các khoản phải thu nội bộ hình thành do cấp
dưới có nghĩa vụ nộp lên cấp trên hoặc cấp trên phải cấp cho cấp dưới hoặc
do các đơn vị nội bộ đã thu hộ chi hộ cho nhau hoặc giữa các đơn vị cấp dưới
với nhau về bán hàng nội bộ. Các khoản phải thu nội bộ thường là: Đơn vị
cấp dưới phải thu về số lỗ hoạt động sản xuất kinh doanh đã được cấp trên
chấp nhận cấp bù, phải thu bổ sung các quỹ từ cấp trên (ở đơn vị phụ thuộc
như viện nghiên cứu), đơn vị cấp trên phải thu của các đơn vị cấp dưới để lập
các quỹ là quỹ quản lý của cấp trên (chỉ có ở cấp trên và được tính vào chi phí
của doanh nghiệp cấp dưới), quỹ phát triển kinh doanh dự trữ, khen thưởng,
phúc lợi, thu một phần lãi kinh doanh và thu hồi vốn kinh doanh đã giao.
• Các khoản phải thu theo tiến độ kế hoạch hợp đồng xây dựng.
• Các khoản phải thu khác như: các khoản phải thu về bồi thường vật
chất, đền bù vi phạm hợp đồng đã có quyết định bồi thường; các khoản phải
thu về lãi đầu tư tài chính; thu chuyển quyền sở hữu trí tuệ; các khoản nợ
vắng chủ (công ty nợ công ty khác nhưng có thể công ty ấy không đòi nợ
hoặc có thể trước khi công ty ấy bị thanh lý, giải thể đã “quên” không quyết
toán với công ty

• Dự phòng các khoản phải thu khó đòi: là khoản dự kiến bị tổn thất của
các khoản phải thu sẽ xảy ra trong kỳ kinh doanh tiếp theo do con nợ không
có khả năng thanh toán. Trong thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh có
những khoản thu mà người nợ khó có khả năng trả do bị thiệt hại lớn về tài
sản. Các khoản tiền nợ của những người này gọi là các khoản phải thu khó
Tạ Duy Linh Lớp : TCDN k21-VB2
14
Chuyên đề tốt nghiệp
đòi. Để đề phòng những tổn thất do các khoản phải thu khó đòi có thể xảy ra
gây đột biến về kết quả kinh doanh trong kỳ hạch toán tiếp theo và tạo điều
kiện cho việc bảo toàn vốn thì cuối niên độ kế toán DN phải dự kiến số nợ có
khả năng khó đòi, tính trước vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ hạch
toán. Số tính trước này được gọi là dự phòng các khoản phải thu khó đòi.
Việc lập dự phòng nhằm phản ánh đúng giá trị thực tế thuần tuý các khoản
phải thu của DN để đưa ra một hình ảnh trung thực về tài sản của DN khi lập
báo cáo tài sản. Giá trị của các khoản phải thu được xác định trên báo cáo
tổng kết tài sản là giá trị toàn bộ các khoản phải thu sau khi đã trừ đi dự
phòng phải thu khó đòi tại thời điểm báo cáo. Về nguyên tắc, căn cứ lập dự
phòng là phải có bằng chứng đáng tin cậy về các khoản nợ phải thu khó đòi
như là đã làm thủ tục đòi nợ nhiều lần nhưng vẫn không có kết quả. Nếu sau
đó, việc đòi nợ kéo dài trong nhiều năm mà vẫn không thu được thì DN xoá
nợ phải thu khó đòi trên sổ kế toán và chuyển ra theo dõi riêng ngoài bảng
dưới dạng nợ khó đòi đã xử lý và ghi giảm vốn kinh doanh. Nhưng nếu thu
được thì ghi vào kết quả kinh doanh trong kỳ.
c) Hàng tồn kho được chia thành 3 loại:
* Hàng tồn kho;
Tài sản ngắn hạn nằm trong quá trình dự trữ (chuẩn bị) sản xuất, gồm :
o Hàng mua đang đi trên đường là hàng hoá DN đã thanh toán hoặc đã
chấp nhận thanh toán nhưng chưa nhập kho.
o Nguyên vật liệu tồn kho (đã nhập kho).

o Dụng cụ trong kho: Loại tài sản không thể dùng đến đâu mua sắm đến
đó mà phải luôn có một số lượng dự trữ để đảm bảo quá trình sản xuất được
liên tục.
Các chỉ tiêu này trong bảng tổng kết tài sản thể hiện giá trị các tài sản đó
tại thời điểm báo cáo. Giá trị hàng mua đang đi trên đường tính theo giá mua.
Tạ Duy Linh Lớp : TCDN k21-VB2
15
Chuyên đề tốt nghiệp
Nhưng giá trị nguyên vật liệu, dụng cụ tính theo giá trị thực tế. Giá trị thực tế
gồm giá mua theo hoá đơn cộng với các chi phí phát sinh trong quá trình mua
hàng như:
◊ Thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt hàng nhập khẩu (nếu có), chi
phí vận chuyển, bảo hiểm hàng hoá vận chuyển, thuê kho bãi khi các chi phí
này chưa tính vào giá mua.
◊ Chi phí thu mua (nếu có).
Việc tính theo giá trị thực tế tạo điều kiện cho việc hạch toán chi phí
thuận lợi. Trong lĩnh vực tài chính khái niệm giá mua, giá trị được hiểu là
tổng giá chứ không phải là giá đơn vị hàng hoá, hay đơn giá, giá cả.
Tài sản ngắn hạn đang trong quá trình trực tiếp sản xuất: Tồn tại dưới
dạng chi phí sản xuất kinh doanh dở dang hay còn gọi là bán thành phẩm. Có
loại tài sản này là do quy trình công nghệ sản xuất không thể cho ra thành
phẩm ngay được. Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang không chỉ bao gồm giá
trị nguyên vật liệu được sử dụng vào sản xuất kinh doanh mà còn bao gồm cả
chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung (chi phí phục vụ sản xuất
kinh doanh phát sinh trong quá trình chế tạo sản phẩm như chi phí nhân viên
phân xưởng, khấu hao tài sản cố định của phân xưởng )
Tài sản ngắn hạn nằm trong quá trình dự trữ tiêu thụ, gồm:
o Thành phẩm tồn kho là thành phẩm do doanh nghiệp chế tạo còn chưa
tiêu thụ. Loại tài sản này chỉ có ở doanh nghiệp sản xuất. Giá trị thành phẩm
tồn kho được đánh giá theo giá thành công xưởng, bao gồm các loại chi phí

chi phí sản xuất kinh doanh dở dang chuyển vào thành phẩm.
o Hàng hoá tồn kho là hàng hóa còn tồn trong kho hàng, quầy bán hàng
ở các doanh nghiệp thương mại. Giá trị hàng hoá tồn kho tính theo giá thực tế.
o Hàng gửi đi bán là thành phẩm, hàng hoá đang gửi đi bán dưới dạng ký
gửi, đại lý hoặc dịch vụ đã hoàn thành nhưng chưa được chấp nhận thanh
Tạ Duy Linh Lớp : TCDN k21-VB2
16
Chuyên đề tốt nghiệp
toán. Những tài sản này vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp nên chưa
được tính vào doanh thu bán hàng trong kỳ hay chưa được tính vào các khoản
phải thu trong kỳ.
* Dự phòng giảm giá hàng tồn kho:
Là khoản giảm giá nguyên vật liệu, thành phẩm, hàng hoá tồn kho dự
kiến sẽ xảy ra trong kỳ kinh doanh tiếp theo. Chủ yếu xảy ra đối với thành
phẩm, hàng hoá và hàng gửi đi bán. Khi thấy hàng tồn kho bị giảm giá liên
tục cần lập ngay dự phòng giảm giá.
Trong doanh nghiệp có 3 loại tài sản có khả năng bị giảm giá trị thực tế
so với giá trị ghi trên sổ sách nên cần phải lập dự phòng, đó là dự phòng phải
thu khó đòi, dự phòng giảm giá hàng tồn kho và dự phòng giảm giá đầu tư tài
chính. Ý nghĩa của việc lập dự phòng giảm giá giống như dự phòng phải thu
khó đòi.
Chỉ tiêu hàng tồn kho là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh giá trị các loại hàng
tồn kho dự trữ cho quá trình sản xuất kinh doanh, sau khi đã trừ dự phòng
giảm giá hàng tồn kho tại thời điểm báo cáo.
Trên bảng tổng kết tài sản, các tài sản ngắn hạn thường được sắp xếp
theo tính lỏng. Tính lỏng (tính thanh khoản) của tài sản là khả năng nó có thể
chuyển sang tiền mặt nhanh đến mức nào mà không chịu nhiều phí tổn (mất
giá của tài sản). Như vậy có 2 tiêu chuẩn để đánh giá mức độ lỏng của từng
tài sản là: Thời gian chuyển thành tiền nhanh hay chậm và độ rủi ro mất giá
của tài sản. Tài sản của doanh nghiệp có tính lỏng được xắp xếp theo mức độ

giảm dần như sau: Tiền, đầu tư tài chính ngắn hạn (chủ yếu là các giầy tờ có
giá), các khoản phải thu (trong đó có các thương phiếu) và hàng tồn kho.
Việc nghiên cứu tính lỏng của tài sản giúp cho nhà quản lý bố trí cơ cấu tài
sản có tính lỏng 1 cách hợp lý để đáp ứng yêu cầu trả nợ kịp thời và nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn thông qua việc không cần dự trữ tài sản bằng tiền nhiều
Tạ Duy Linh Lớp : TCDN k21-VB2
17
Chuyên đề tốt nghiệp
mà dự trữ 1 phần dưới dạng đầu tư tài chính ngắn hạn nhất là các chứng
khoán và dưới dạng thương phiếu. Người cho vay cũng quan tâm đến tính
lỏng của tài sản để quy định và đánh giá khả năng chi trả của doanh nghiệp.
d) Tài sản ngắn hạn khác
Ngoài các loại tài sản ngắn hạn luôn luôn tồn tại kể trên, tuỳ doanh
nghiệp và tuỳ từng thời kỳ có thể có các loại tài sản lưu động khác, những tài
sản này thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp nhưng không thể chuyển
nhượng được. Tài sản ngắn hạn có các dạng dạng là:
* Chi phí trả trước ngắn hạn:
Tạm ứng cho người lao động: Là khoản tiền hoặc vật tư do doanh
nghiệp giao cho người lao động để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh
hoặc giải quyết công việc nào đó được phê duyệt.
Chi phí trả trước (chi phí đợi phân bổ): Là chi phí thực tế đã phát sinh
có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của nhiều kỳ hạch toán nên
chưa thể tính hết vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ phát sinh mà được
tính cho cả hai hay nhiều kỳ tiếp theo như chi phí mua các loại bảo hiểm, các
loại lệ phí trả một lần trong năm, chi phí sửa chữa lớn tài sản cố định Chỉ
tiêu này trong bảng tổng kết tài sản phản ánh số tiền đã thanh toán cho một số
khoản chi phí nhưng đến cuối kỳ hạch toán chưa được tính vào chi phí sản
xuất kinh doanh của kỳ báo cáo.
Các khoản cầm cố, ký cược, ký quỹ ngắn hạn: Các tài sản đem cầm cố,
ký cược, ký quỹ vẫn thuộc tài sản doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp không

có quyền sử dụng và cũng không giữ tài sản này vì vậy cần tách ra khỏi khối
tài sản doanh nghiệp đang giữ để đánh giá đúng khả năng thanh toán của
doanh nghiệp và theo dõi thu hồi. Các loại tài sản đem cầm cố, ký cược, ký
quỹ ngắn hạn có tính thanh khoản cao, nếu để chung với các tài sản cùng loại
đang thuộc quyền sử dụng của doanh nghiệp thì không thể đánh giá đúng khả
Tạ Duy Linh Lớp : TCDN k21-VB2
18
Chuyên đề tốt nghiệp
năng chi trả của doanh nghiệp.
Người cho vay yêu cầu doanh nghiệp giao cho họ cầm giữ tài sản là
vàng, bạc, đá quý, các giấy tờ có giá và vật có giá trị khác để đảm bảo trả nợ.
Còn những tài sản cầm cố, thế chấp bằng giấy tờ sở hữu như nhà xưởng, máy
móc thiết bị, phương tiện vận tải thì doanh nghiệp không thể chuyển
nhượng cho người khác nên vẫn được sử dụng và không cần tách riêng thành
một loại tài sản.
Ký cược là việc bên thuê, mượn tài sản là động sản giao cho bên cho
thuê một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý, giấy tờ có giá hoặc các vật có
giá trị khác nhằm ràng buộc người đi thuê sử dụng tốt tài sản và hoàn trả tài
sản thuê đúng thời hạn. Tiền đặt cược do bên có tài sản cho thuê quy định, có
thể bằng hoặc lớn hơn trị giá của tài sản cho thuê. Ví dụ, cửa hàng đặt cược
tiền vỏ chai với nhà máy bia.
Ký quỹ là việc bên có nghĩa vụ giao một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá
quý hoặc các giấy tờ có giá cho bên nhận ký quỹ giữ hoặc gửi tiền vào tài
khoản phong toả tại một ngân hàng để đảm bảo thực hiện hợp đồng trong
quan hệ mua bán, đại lý bán hàng, đấu thầu, mở thư tín dụng Tiền ký quỹ
thông thường do người bán hàng hoá, dịch vụ yêu cầu. Khác với hợp đồng
vay, thuê, mượn tài sản, trong các hợp đồng cần ký quỹ các bên không giao
tài sản cho nhau nên tiền ký quỹ không cao so với giá trị hợp đồng, thường 5 -
7%. Riêng mở thư tín dụng mang tính chất vay nợ nên có thể phải ký quỹ
100% nếu ngân hàng không tin tưởng vào người mở L/C.

Chỉ tiêu các khoản cầm cố, ký cược, ký quỹ ngắn hạn phản ánh giá trị tài
sản còn đang cầm cố, ký cược, ký quỹ ngắn hạn. Trường hợp đặt cọc giống
như ký quỹ, chỉ khác là tài sản đặt cọc không gửi ngân hàng mà giao cho bên
kia cầm giữ, thường chỉ áp dụng trong các hợp đồng dân sự.
* Thuế GTGT được khấu trừ
Tạ Duy Linh Lớp : TCDN k21-VB2
19
Chuyên đề tốt nghiệp
Đối với công ty xuất khẩu chịu mức thuế suất 0% thì thuế đầu vào được
theo dõi riêng.
* Thuế và các khoản phải thu của Nhà nước.
* Tài sản ngắn hạn khác
Các loại tài sản ngắn hạn kể trên (trừ loại tài sản ngắn hạn khác) là
những mắt xích trong vòng tuần hoàn của tài sản ngắn hạn nên thường khi
hạng mục tài sản ngắn hạn này tăng kéo theo tài sản ngắn hạn khác giảm. Sự
biến động của mỗi loại tài sản được doanh nghiệp theo dõi bằng cách mở cho
nó một tài khoản. Chẳng hạn khi thu được tiền của khách hàng bằng chuyển
khoản thì khoản phải thu cụ thể là phải thu của khách hàng giảm, đồng thời
tài sản dạng tiền và cụ thể là tiền gửi ngân hàng tăng lên; khi hàng mua được
nhập kho thì tài sản là hàng mua đang đi trên đường giảm, đồng thời nguyên
vật liệu tồn kho tăng; xuất tiền mua nguyên vật liệu thì tài sản là tiền giảm,
hàng mua đang đi trên đường tăng.
Cách phân loại tài sản ngắn hạn như trên có ý nghĩa trong việc xác định
cơ cấu dự trữ các tài sản ngắn hạn (kể cả dự trữ bằng tiền và dưới các khoản
phải thu) hợp lý để đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra liên
tục, đồng thời không để tài sản ngắn hạn dự trữ quá mức gây lãng phí vốn và
giúp đưa ra biện pháp quản lý phù hợp với từng loại. Chẳng hạn thành phẩm ứ
đọng nhiều do tiêu thụ chậm, doanh nghiệp cần đưa ra biện pháp như hạ giá,
khuyến mại với khoản phải thu thì đôn đốc khách hàng trả nợ kịp thời.
Vốn lưu động thường xuyên cần thiết

Để sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục, doanh nghiệp luôn có 1 lượng
tài sản ngắn hạn dự trữ thường xuyên, trước đây được gọi là vốn lưu động
thường xuyên. Vốn lưu động đầu tư vào tài sản lưu động dự trữ thường xuyên
gọi là vốn lưu động thường xuyên cần thiết.
Khối lượng vốn lưu động thường xuyên cần thiết được tổng hợp từ 3
Tạ Duy Linh Lớp : TCDN k21-VB2
20
Chuyên đề tốt nghiệp
loại vốn lưu động thường xuyên cần thiết trong các khâu dự trữ sản xuất, tiêu
thụ và dự trữ trong thanh toán. Nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến khối lượng vốn
lưu động thường xuyên cần thiết là quy mô sản xuất kinh doanh, công nghệ
chế biến, chu kỳ cung cấp nguyên vật liệu, chu kỳ cung cấp thành phẩm, hàng
hoá
Vốn này cần được đầu tư từ nguồn vốn dài hạn, từ nguồn vốn tự có, vay
dài hạn ngân hàng hoặc từ nguồn vốn tín dụng thương mại thường xuyên của
người cung cấp. Nếu dùng nguồn vốn vay ngắn hạn dễ dẫn đến tình trạng bị
động. Hậu quả là gây chậm trễ thanh toán làm mất uy tín doanh nghiệp, thiếu
nguyên vật liệu cho sản xuất, thiếu hàng bán, có khi bỏ lỡ cơ hội kinh doanh
Với tài sản lưu động không thường xuyên cần thiết, thường có nhiều ở các
doanh nghiệp hoạt động thời vụ thì chỉ cần nguồn vốn đầu tư ngắn hạn là vay
ngắn hạn ngân hàng hoặc bạn hàng. Doanh nghiệp sẽ bị đọng vốn khi hết thời
vụ.
Qua phân tích trên, có thể thấy xác định vốn lưu động thường xuyên cần thiết
và lựa chọn nguồn vốn đầu tư phù hợp là biện pháp nâng cao hiệu quả sử
dụng tài sản cố định].
2.1.2.2. Tài sản dài hạn
TSDH là tài sản tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh như máy
móc thiết bị, nhà xưởng Như vậy giá trị tài sản dài hạn được luân chuyển
dần dần từng phần vào giá trị sản phẩm của mỗi chu kỳ kinh doanh và được
bù đắp dưới dạng trích khấu hao từ doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Trong quá

trình đó, mặc dầu TSDH bị hao mòn, song chúng vẫn giữ nguyên (cố định)
hình thái vật chất ban đầu. Chỉ khi nào chúng bị hư hỏng không sử dụng được
hoặc xét thấy không có lợi về mặt kinh tế thì khi đó mới phải thay thế đổi
mới. Do đó thời gian sử dụng tài sản loại này dài, thậm chí vài chục năm đối
với nhà xưởng xây dựng kiên cố. Trong phần tài sản dài hạn gồm có các
Tạ Duy Linh Lớp : TCDN k21-VB2
21
Chuyên đề tốt nghiệp
khoản mục:
2.1.2.2.1. Các khoản phải thu dài hạn;
2.1.2.2.2. Tài sản cố định;
Do đặc điểm nêu trên của tài sản dài hạn mà cùng 1 tài sản nhưng ở
trường hợp này được coi là tài sản cố định, ở trường hợp khác lại được coi là
tài sản lưu động.Đặc điểm của tài sản cố định là tham gia vào nhiều chu kỳ
sản xuất kinh doanh nên quản lý tài sản cố định về mặt tài chính, kế toán là rất
phức tạp. Để giảm nhẹ công việc quản lý, trong thực tế người ta phân chia tư
liệu lao động thành ra nhưng loại khác nhau căn cứ vào các tiêu chí riêng của
mỗi quốc gia.
Theo quyết định số 206/2003/QĐ-BTC ngày 12/12/2003 của Bộ trưởng
Bộ Tài Chính, quy định về tiêu chuẩn nhận biết một tài sản được coi là tài sản
cố định hữu hình khi đồng thời thoả mãn 4 điều kiện sau :
1. Phải chắc chắn mang lại lợi ích trong tương lai từ việc sử dụng tài sản
đó
2. Nguyên giá phải được xác định một cách đáng tin cậy
3. Thời gian sử dụng tối thiểu phải từ một năm trở lên
4. Phải có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên
Tài sản cố đinh là những tư liệu lao động chủ yếu, có giá trị lớn và thời
gian sử dụng lâu, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh mà vẫn giữ
nguyên được hình thái vật chất ban đầu, đồng thời giá trị của chúng được
chuyển dịch từng phần vào giá trị của sản phẩm trong các chu kỳ sản xuất

kinh doanh.
Trong thực tế khái niệm tài sản cố định hẹp hơn trong lý thuyết, những
tài sản tuy tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh, nhưng thiếu 1
trong 4 điều kiện trên được coi là công cụ, dụng cụ lao động (gọi tắt là dụng
Tạ Duy Linh Lớp : TCDN k21-VB2
22
Chuyên đề tốt nghiệp
cụ lao động) và thuộc nhóm TSNH. Tuy nhiên trong thực tế còn quy định
những tài sản không thoả mãn đồng thời 4 điều kiện trên, nhưng khi chúng
tập hợp theo từng tổ hợp sử dụng đồng bộ mà thoả mãn được 2 điều kiện trên
thì tổ hợp này cũng được coi là tài sản cố định như các phương tiện bàn ghế,
quạt, điện thoại trong 1 phòng làm việc.
Căn cứ vào hình thái biểu hiện và tính chất sở hữu, có thể chia TSCĐ
thành 3 loại:
a) Tài sản cố định hữu hình là tài sản cố định có hình thái vật chất, được
chia thành các nhóm như sau:
Đất: chỉ tiêu này trên bảng tổng kết tài sản phản ánh trị giá đất (gồm cả
mặt nước, mặt biển) hình thành do việc phải bỏ chi phí để mua, đền bù, san
lấp, cải tạo nhằm mục đích có được mặt bằng kinh doanh.
• Máy móc, thiết bị.
• Phương tiện vận tải, truyền dẫn thông tin, điện, nước, băng truyền tải
vật tư, hàng hoá.
• Thiết bị, dụng cụ quản lý như máy tính, quạt, thiết bị kiểm tra chất
lượng
• Cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm.
• Tài sản cố định hữu hình khác.
Tài sản cố định hữu hình còn có thể phân loại thành:
• Tài sản cố định đang dùng cho sản xuất kinh doanh.
• Tài sản cố định chờ đưa vào sử dụng như công trình xây dựng đã
nghiệm thu chờ đưa vào sử dụng. Tài sản cố định nằm chờ do thiếu nguyên

liệu hoặc sản phẩm khó tiêu thụ.
• Tài sản cố định không cần dùng, chờ thanh lý, chuyển nhượng hoặc
cho thuê.
Tạ Duy Linh Lớp : TCDN k21-VB2
23
Chuyên đề tốt nghiệp
Cách phân loại này giúp nhà quản lý biết được 1 cách tổng quát tình hình
tài sản cố định đang được dùng cho sản xuất kinh doanh, còn tiềm tàng hoặc ứ
đọng để đưa ra các biện pháp khai thác.
b) Tài sản cố định vô hình : Xuất phát từ yêu cầu hạch toán chi phí, hạch
toán kinh doanh mà tài sản cố định còn bao gồm tài sản không có hình thái
vật chất như chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí bằng phát minh sáng
chế Phần vốn đã bỏ ra này gọi chung là tài sản cố định vô hình. Như vậy tài
sản cố định vô hình là tài sản cố định nhưng không có hình thái vật chất, thể
hiện 1 lượng giá trị đã được đầu tư chi trả nhằm có được các lợi ích hoặc các
nguồn có tính kinh tế mà giá trị của chúng xuất phát từ các đặc quyền hoặc
quyền của doanh nghiệp. Khoản chi phí nào không đồng thời thoả mãn 2 điều
kiện để được coi là tài sản cố định thì được hạch toán thẳng hoặc được phân
bổ dần vào chi phí kinh doanh.
Tài sản cố định vô hình được chia thành các nhóm như sau:
• Quyền sử dụng đất (chỉ áp dụng ở Việt nam): Giá trị quyền sử dụng đất
là giá trị quyền sử dụng 1 diện tích đất trong 1 thời gian nhất định, thuộc
nguồn vốn nhà nước cấp cho doanh nghiệp nhà nước. Đây là tài sản cố định
vô hình duy nhất không phải do đầu tư chi trả mà doanh nghiệp nhà nước có
được. Thường Nhà nước giao quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp nhà
nước hoạt động công ích và yêu cầu tính khấu hao vào chi phí, còn các doanh
nghiệp khác phải thuê đất.
• Bằng phát minh sáng chế: Giá trị bằng phát minh sáng chế được xác
định bằng chi phí doanh nghiệp phải trả cho các công trình nghiên cứu, sản
xuất thử được nhà nước cấp bằng phát minh sáng chế hoặc doanh nghiệp mua

lại bản quyền phát minh sáng chế từ người sở hữu chúng.
• Chi phí nghiên cứu, phát triển: để chế thử sản phẩm mới, cải tiến công
nghệ tăng sức cạnh tranh. Đối với những doanh nghiệp lớn đây là công việc
Tạ Duy Linh Lớp : TCDN k21-VB2
24
Chuyên đề tốt nghiệp
thường xuyên, bởi vì họ có vốn đầu tư và chịu được rủi ro nếu không thành
công.
• Chi phí lợi thế kinh doanh (thương mại): Xuất hiện khi mua lại 1 doanh
nghiệp khác. Ngoài số tiền trả bằng giá trị thực tế của các tài sản hữu hình,
doanh nghiệp phải trả thêm 1 số tiền bởi sự thuận lợi của vị trí địa lý, danh
tiếng của doanh nghiệp (uy tín mặt hàng, sự tín nhiệm đối với bạn hàng)
• Tài sản cố định vô hình khác, thường có các dạng cơ bản sau:
o Độc quyền nhãn hiệu và tên hiệu: Là chi phí phải trả cho việc mua loại
nhãn hiệu, tên hiệu nào đó đã được đăng ký độc quyền.
o Quyền đặc nhượng: Là chi phí doanh nghiệp phải trả để có được đặc
quyền thực hiện khai thác các nghiệp vụ quan trọng hoặc sản xuất độc quyền
1 loại sản phẩm theo các hợp đồng đặc nhượng ký kết với nước ngoài hoặc 1
đơn vị nhượng quyền.
o Bản quyền tác giả: Là chi phí tiền thù lao trả cho tác giả, người được
Nhà nước cho độc quyền phát hành và bán tác phẩm của mình.
Khoản đầu tư chi trả kể trên được coi là tài sản và là tài sản cố định bởi vì:
Thứ nhất: Tất cả những gì doanh nghiệp phải bỏ tiền ra để có được đều là tài
sản của doanh nghiệp. Theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh thì mọi chi phí
(vốn) bỏ ra cho hoạt động kinh doanh phải được bù đắp, tái tạo bằng cách tính
vào chi phí sản phẩm và qua đó phản ánh đúng số lượng lợi nhuận thu được.
Thứ hai: Những khoản chi phí trên là không nhỏ, nếu tính hết vào 1 chu kỳ
kinh doanh hoặc trong thời gian ngắn sẽ làm cho doanh nghiệp bị lỗ, như vậy
mục đích thu hồi vốn đầu tư tài sản cố định vô hình không thực hiện đựơc,
đồng thời không phản ánh đúng kết quả kinh doanh vì tài sản cố định vô hình

phát huy tác dụng trong thời gian dài.
Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải
quan tâm đến đầu tư tài sản cố định vô hình vì hầu hết chúng có tác dụng
Tạ Duy Linh Lớp : TCDN k21-VB2
25

×