Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

Việc làm và chính sách tạo việc làm ở Hải Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 109 trang )

Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Bùi Thanh Thủy
Việc làm và chính sách tạo việc làm ở Hải Dương hiện nay
Chuyên ngành : Kinh tế chính trị
Mã số : 60 31 01
Luận văn thạc sĩ kinh tế
Ngời hớng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Quang Lâm
Hà Nội - 2005
1
Danh mục các chữ viết tắt
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
DNNN : Doanh nghiệp nhà nớc
HĐND : Hội đồng nhân dân
HTX : Hợp tác xã
LLLĐ : Lực lợng lao động
UBND : Uỷ ban nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
2
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, vấn đề việc làm đã trở thành một trong những vấn đề có tính
toàn cầu, là mối quan tâm lớn của toàn nhân loại cũng như của mỗi quốc gia,
trong đó có Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đang phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, vấn đề việc làm cho người lao động, chính sách tạo
việc làm và chống thất nghiệp là một trong những tiêu chí bảo đảm định hướng
XHCN, góp phần bảo đảm an toàn, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định: "Giải quyết việc làm là yếu tố quyết
định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành
mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân
dân" [10, tr.216].


Hải Dương là một trong 8 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ,
nằm ở vị trí có nhiều hướng tác động mang tính liên vùng; do đó, có vai trò quan
trọng làm cầu nối Thủ đô Hà Nội với thành phố cảng Hải Phòng, thành phố du
lịch Hạ Long; cung cấp sản phẩm hàng hóa quan trọng và là địa bàn tham gia
vào quá trình trung chuyển hàng hóa giữa hệ thống cảng biển và các thành phố,
các tỉnh trong vùng và cả nước. Chính vì vậy, Hải Dương vừa đóng vai trò là
một trong những động lực phát triển, vừa phải đối mặt với các thách thức trong
cạnh tranh khai thác và phát triển các ngành hàng có cùng lợi thế. Trong triển
vọng, Hải Dương sẽ phải trở thành trọng điểm thu hút đầu tư phát triển công
nghiệp, du lịch thương mại, giải quyết việc làm để giảm áp lực cho các thành
phố lớn và trở thành một trong các đô thị lớn trong vùng.
Với vị trí địa lý thuận lợi, những năm gần đây, các khu công nghiệp ở Hải
Dương phát triển rất mạnh, thu hút lực lượng lao động các địa phương về Hải
Dương làm việc, góp phần giải quyết việc làm ở Hải Dương. Tuy nhiên, kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội ở Hải Dương còn thấp kém, kinh tế phát triển không
đồng đều giữa các vùng, chất lượng lao động còn thấp, tỷ lệ thất nghiệp còn cao,
3
cung- cầu về lao động mất cân đối, dẫn đến bức xúc ngày càng lớn về việc làm ở
Hải Dương hiện nay.
Nhằm đánh giá chung đúng thực trạng việc làm và việc thực thi chính
sách tạo việc làm để từ đó đưa ra những giải pháp giải quyết việc làm ở Hải
Dương, tác giả luận văn đã chọn đề tài: "Việc làm và chính sách tạo việc làm ở
Hải Dương hiện nay".
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, có một số tác giả đã đề cập đến các khía cạnh
mà đề tài nghiên cứu quan tâm. Trong số đó có:
- PTS. Nguyễn Hữu Dũng, PTS. Trần Hữu Trung (chủ biên): "Về Chính
sách giải quyết việc làm ở Việt Nam" Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1997. Các
tác giả đã trình bày tổng quát về phương pháp luận và phương pháp tiếp cận
chính sách việc làm; làm rõ thực trạng vấn đề việc làm ở Việt Nam hiện nay. Từ

đó khuyến nghị định hướng một số chính sách cụ thể về việc làm trong công
cuộc CNH, HĐH.
- TS. Nguyễn Bá Ngọc, KS. Trần Văn Hoan (chủ biên), "Toàn cầu hoá:
cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam", Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội
2002. Các tác giả đã trình bày tổng quan tác động của toàn cầu hoá đến lao động
và các vấn đề xã hội của Việt Nam, những xu hướng vận động của nguồn nhân
lực, lao động và việc làm Việt Nam dưới tác động của toàn cầu hoá kinh tế,
phân tích những cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam trong bối cảnh
toàn cầu hóa kinh tế. Từ đó đề ra các giải pháp đối với lao động Việt Nam trong
bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế.
- Thạc sĩ Nguyễn Thị Lan Hương: "Thị trường lao động Việt Nam: Định
hướng và phát triển", Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội, 2002. Tác giả đi từ việc
phân tích các luận cứ cơ bản định hướng phát triển thị trường lao động Việt
Nam, sự hình thành và phát triển của thị trường lao động Việt Nam. Từ đó đề
xuất các giải pháp định hướng phát triển thị trường lao động Việt Nam giai đoạn
2001- 2010.
4
- Các bài viết "Lao động việc làm thời kỳ 1991- 2000 và phương hướng
giai đoạn 2001- 2010" của TS. Lê Duy Đồng, Tạp chí Lao động và xã hội, số
III- 2001; "WTO và vấn đề tạo việc làm cho người lao động" của TS. Đinh
Trọng Thịnh, Tạp chí Kinh tế và phát triển, 6/2005. Trong đó các tác giả đi sâu
vào các vấn đề như: Kết quả giải quyết việc làm, những mặt yếu kém và bất cập,
phương hướng giải quyết việc làm, đặc biệt là trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế...
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu vấn đề tạo
việc làm ở Hải Dương dưới góc độ kinh tế chính trị.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
+ Mục đích:
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về lao động việc làm, quan niệm
về việc làm và những nhân tố ảnh hưởng đến tạo việc làm, luận văn phân tích

thực trạng tạo việc làm ở Hải Dương, chỉ ra xu hướng tạo việc làm ở Hải Dương
hiện nay. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp chủ yếu để tạo việc làm ở Hải
Dương trong thời gian tới.
+ Nhiệm vụ:
- Làm rõ quan niệm về việc làm, chính sách tạo việc làm, những nhân tố
cơ bản ảnh hưởng đến tạo việc làm.
-Tập trung phân tích thực trạng: Số lượng, cơ cấu, chất lượng lao động ở
Hải Dương, thực trạng tạo việc làm ở Hải Dương hiện nay.
-Bước đầu nêu ra những giải pháp để tạo việc làm ở Hải Dương.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn đề cập tới vấn đề tạo việc làm cho toàn bộ lực lượng lao động
do Trung ương cũng như do tỉnh quản lý đang sinh sống và làm việc trên địa bàn
tỉnh Hải Dương. Tuy nhiên, có chú trọng bàn đến nhiều hơn vấn đề tạo việc làm
cho lao động do tỉnh trực tiếp quản lý.
- Bối cảnh lịch sử và thực tiễn chính mà luận văn khai thác là Hải Dương
thời kỳ đổi mới, cụ thể là từ 1996 đến nay.
5
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Luận văn trình bày dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam, những
chủ trương, chính sách của Nhà nước về việc làm. Đồng thời, luận văn có sử
dụng kết quả nghiên cứu của một số công trình khoa học đã được công bố có
liên quan đến đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp kết
hợp logic với lịch sử, phương pháp trừu tượng hoá khoa học. Ngoài ra, luận văn
còn sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, điều tra xã hội học.
6. Những kết quả đạt được của luận văn
- Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận chung về việc làm, chính sách tạo

việc làm.
- Đánh giá đúng thực trạng tạo việc làm ở Hải Dương, trên cơ sở đó đề
xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm tạo việc làm, thu hút lao động ở Hải
Dương hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn cung cấp những vấn đề lý luận và thực tiễn về tạo việc làm ở
Hải Dương để phục vụ công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
- Góp phần cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho các cơ quan, ban
ngành trong tỉnh tham khảo trong quá trình hoạch định các chính sách nhằm tạo
việc làm trên địa bàn tỉnh.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết.
6
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VIỆC LÀM VÀ CHÍNH
SÁCH TẠO VIỆC LÀM
1.1. Những vấn đề lý luận chung về lao động, việc làm và chính sách tạo
việc làm
1.1.1. Quan niệm về việc làm và những khái niệm liên quan
Lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm tạo ra
các sản phẩm phục vụ các nhu cầu của đời sống con người. Do đó nó là hoạt
động cơ bản nhất của con người, là tiêu thức để phân biệt hoạt động của con
người với hoạt động theo bản năng của con vật. Lao động không những tạo ra
của cải mà còn cải tạo bản thân con người, phát triển con người cả về mặt thể
lực và trí lực. Các Mác khẳng định:
Lao động trước hết là quá trình diễn ra sự tác động giữa con người với
con người và giữa con người với tự nhiên, một quá trình trong đó, bằng sự hoạt
động của chính mình, con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi
chất giữa họ và tự nhiên. Trong khi tác động vào tự nhiên ở bên ngoài thông qua
sự vận động đó và làm thay đổi tự nhiên, con người cũng đồng thời làm thay đổi

bản tính của chính nó [24, tr. 230].
Với ý nghĩa đó, lao động là quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi người trong
mỗi quốc gia. Để thực hiện quyền và nghĩa vụ đó, người lao động cần có việc
làm hợp pháp, do đó việc làm là điều kiện để quá trình lao động được diễn ra và
cũng là cơ sở để người lao động có thu nhập, đảm bảo ổn định đời sống của bản
thân con người và của toàn xã hội.
1.1.1.1. Các quan niệm khác nhau về việc làm
Việc làm là một phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế, xã hội
và nhân khẩu, là một trong những vấn đề chủ yếu nhất của toàn bộ đời sống xã
hội. Khái niệm việc làm và khái niệm lao động không giống nhau, nhưng có liên
quan chặt chẽ với nhau. Việc làm thể hiện mối quan hệ của con người với những
chỗ làm việc cụ thể, là những giới hạn xã hội cần thiết trong đó lao động diễn ra,
đồng thời nó là điều kiện cần thiết để thoả mãn nhu cầu xã hội về lao động, là
nội dung chính của hoạt động con người. Về góc độ kinh tế, việc làm thể hiện
7
mối tương quan giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, giữa yếu tố con người và
yếu tố vật chất trong quá trình sản xuất.
Đối với mỗi cá nhân, gia đình và mỗi chính phủ trong từng quốc gia, việc
làm là vấn đề quan trọng được quan tâm hàng đầu. Quan niệm về việc làm
không cố định mà nó được xét trên nền tảng của một chế độ chính trị, gắn với
trình độ phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội của mỗi quốc gia, mỗi thời
đại. Khi trình độ phát triển mọi mặt, đặc biệt là định hướng chính trị của một
quốc gia thay đổi, quan niệm việc làm cũng biến đổi. John Maynad Keynes
(1883 - 1946) nhà kinh tế học nổi tiếng của nước Anh - đã viết: "Một nền kinh tế
tiền tệ, như chúng ta sẽ thấy về thực chất là nền kinh tế trong đó những quan
điểm luôn thay đổi về tương lai, có khả năng ảnh hưởng tới số lượng việc làm
chứ không chỉ định hướng việc làm mà thôi".
Theo Ghi- Hân- Tơ nhà kinh tế thuộc Viện Hải quan Luân Đôn thì: Việc
làm theo nghĩa rộng là toàn bộ các hoạt động kinh tế của một xã hội nghĩa là tất
cả những gì quan hệ đến cách kiếm sống của con người, kể cả quan hệ xã hội và

các tiêu chuẩn hành vi tạo thành khuôn khổ của quá trình kinh tế.
Theo quan niệm này, tất cả các hoạt động, hành vi mang lại nguồn thu
nhập để đảm bảo cuộc sống cho mọi người đều gọi là việc làm. Như vậy đã
đồng nhất việc làm hợp pháp và bất hợp pháp. Trong điều kiện nền kinh tế thị
trường hiện nay không thể chấp nhận được quan niệm này, bởi khi các quan hệ
thị trường ngày càng phát sinh cả những mặt tích cực và tiêu cực, nhiều nguồn
thu nhập không chính đáng đang làm gia tăng các tệ nạn xã hội, kìm hãm sự
tăng trưởng, phát triển của nền kinh tế đất nước.
Tiến sỹ Sônhin và phó tiến sỹ Grin- xốp người Nga quan niệm: Việc làm
là sự tham gia của người có khả năng lao động vào một hoạt động xã hội có ích
trong công việc nội trợ, hay trong kinh tế phụ của các nông trang viên.
Quan niệm này cho rằng tất cả những người có công việc ổn định trong
guồng máy hoạt động kinh tế - xã hội, kể cả những người làm công việc nội trợ,
làm kinh tế phụ của nông trang viên, người đi học đều gọi là có việc làm. Quan
8
niệm này có ưu điểm là xác định lao động của người nội trợ và người làm kinh
tế phụ đều là việc làm, vì nó góp phần tạo ra thu nhập để trực tiếp hoặc gián tiếp
nuôi sống bản thân. Nhưng quan niệm này chưa chính xác khi cho rằng những
người đi học là có việc làm. Bởi vì những người đi học, ngay cả học sinh, sinh
viên các trường chuyên nghiệp đều chưa có khả năng tạo ra thu nhập để nuôi
sống bản thân, các khoản chi tiêu của họ đều phụ thuộc vào thu nhập của người
khác, của xã hội. Đa số những người đi học trong độ tuổi lao động nhưng không
thuộc lực lượng lao động (học sinh phổ thông trung học, học sinh các trường
chuyên nghiệp). Sở dĩ có quan niệm như trên vì trong cơ chế kế hoạch hoá tập
trung của mô hình CNXH trước đây, học sinh, sinh viên, các trường chuyên
nghiệp đều được coi là người có việc làm vì sau khi ra trường họ đều được phân
công công tác, không có thất nghiệp.
Giăng - Mu - Li, Phó cố vấn kinh tế của văn phòng lao động quốc tế lại
cho rằng: Việc làm có thể được định nghĩa như một tình trạng trong đó có sự trả
công bằng tiền hoặc hiện vật, do có một sự tham gia tích cực có tính chất cá

nhân và trực tiếp vào nỗ lực sản xuất.
Quan niệm này phát triển hơn, khái quát hơn hai quan niệm trên. Tuy
nhiên, nếu chỉ có những hoạt động được trả công bằng tiền hoặc hiện vật mới
được coi là việc làm thì chưa thoả đáng. Những người nằm trong lực lượng lao
động nhưng làm công việc nội trợ, bản thân họ không nhận được tiền công, tiền
lương bằng tiền hay hiện vật từ xã hội, từ người sử dụng lao động mà chỉ nhận
được sự phân phối lại trực tiếp thu nhập từ các thành viên trong gia đình. Họ
không trực tiếp mà gián tiếp tạo ra thu nhập trực tiếp, họ nhận được thu nhập
gián tiếp thông qua điều tiết thu nhập từ các thành viên trong gia đình có việc
làm hưởng tiền lương trong xã hội. Vậy, họ là những người có việc làm, đảm
nhận một chức năng trong guồng máy chỉ đạo xã hội - nghề nội trợ.
Vậy quan niệm việc làm như thế nào là hợp lý?
Trong thực tiễn của đời sống kinh tế - xã hội, có việc làm được coi là hợp
pháp, chính đáng song cũng có việc làm tạo ra thu nhập nhưng lại được coi là
9
bất chính. Sự phân biệt này dựa trên cơ sở luật pháp và ý thức hệ của mỗi quốc
gia trong mỗi thời kỳ, giai đoạn của trình độ phát triển. Quan niệm về việc làm
hợp pháp phải là việc làm mang lại thu nhập chính đáng cho con người - nghề
hợp pháp - tương ứng với pháp luật của mỗi nước cho phép.
Tại Hội nghị quốc tế lần thứ 13 năm 1983, Tổ chức Lao động quốc tế
(ILO) đã đưa ra quan niệm về người có việc làm như sau: "Người có việc làm là
những người làm một việc gì đó, có được trả tiền công, lợi nhuận hoặc được
thanh toán bằng hiện vật hoặc những người tham gia vào các hoạt động mang
tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình, không nhận được
tiền công hay hiện vật" [ 4, tr.47].
Như vậy, người có việc làm bao gồm những người lao động ở tất cả các
khu vực (công và tư) có thu nhập đem lại nguồn sống cho bản thân, gia đình và
xã hội. Đây là một khái niệm mềm dẻo phù hợp với nền kinh tế thị trường, phù
hợp với nền kinh tế nhiều thành phần. Do đó, khái niệm này đã được áp dụng ở
nhiều nước trên thế giới.

Theo chúng tôi thì, nếu lao động là quá trình tiêu dùng sức lao động, quá
trình đó chỉ có diễn ra khi đã được dựa trên giả định những tiền đề vật chất cho
quá trình đó đã đầy đủ. Trên bình diện một nước cụ thể, thì quá trình lao động
sản xuất (việc làm) của một bộ phận dân cư có sức lao động lại được giả định
trên cơ sở số lượng việc làm. Do đó, việc làm không chỉ diễn ra trong mối quan
hệ giữa con người với tự nhiên, mà cả quan hệ giữa con người với con người,
trong đó liên quan đến các lợi ích kinh tế và luật pháp khi đã tạo lập đầy đủ các
yếu tố vật chất cho quá trình đó có thể diễn ra. Do đó việc làm là một phạm trù
tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế, xã hội và nhân khẩu, thuộc loại vấn đề
chủ yếu của toàn bộ đời sống xã hội.
ở nước ta, sau khi giành được độc lập dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
chỉ rõ: "Chúng ta phải ra sức đấu tranh làm cho nhân dân ai cũng được ăn no,
mặc ấm, có việc làm, có giờ nghỉ, được học tập " và xác định đó là trách nhiệm của
Đảng và Chính phủ. Bác nói: "Bất cứ làm nghề gì có ích cho nước nhà, cho nhân
10
dân, cho giai cấp đều vẻ vang. Bất cứ nấu bếp, quét nhà hay làm Chủ tịch đều phải
lao động cả, làm gì có ích nước, lợi dân là vẻ vang" [26, tr.59].
Nhưng trong một thời kỳ khá dài, chúng ta đã có quan niệm chưa đúng.
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, người lao động được
coi là có việc làm và được xã hội thừa nhận, trân trọng là người làm việc trong
thành phần kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, còn làm nội trợ, kinh tế gia đình,
kinh doanh, hành nghề cá thể thì chưa được xem là có việc làm chính đáng.
Quan điểm đó dẫn đến tình trạng mọi người chen chân nhau tìm việc làm trong
khu vực kinh tế quốc doanh và tập thể. Đó là một trong những nguyên nhân làm
cho số người làm việc trong khu vực kinh tế quốc doanh tăng lên quá mức so
với khối lượng sản xuất, công tác đảm nhận; kinh tế tập thể phát triển nhanh về
số lượng nhưng thiếu vững chắc; còn kinh tế gia đình thì teo đi; kinh tế tư nhân,
cá thể không phát triển được.Tình hình đó gây tác hại không nhỏ đến sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, làm mai một khá nhiều nguồn công việc làm
trong xã hội, đưa vấn đề giải quyết việc làm đến chỗ khó khăn, bế tắc.

Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, quan niệm về việc làm
đã được thay đổi một cách căn bản. Trên cơ sở học tập tư tưởng Hồ Chí Minh,
vận dụng khái niệm việc làm của ILO và nghiên cứu điều kiện cụ thể của Việt
Nam, chúng ta đã có khái niệm thống nhất về việc làm được khẳng định trong
Bộ luật Lao động của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: "Mọi hoạt
động lao động tạo ra thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là
việc làm" [8, tr.163].
Từ quan niệm trên ta thấy: Khái niệm việc làm bao hàm các nội dung sau:
+ Là hoạt động lao động của con người.
+ Hoạt động lao động nhằm mục đích tạo ra thu nhập.
+ Hoạt động lao động đó không bị pháp luật cấm.
Với khái niệm việc làm như trên đã xoá bỏ được quan niệm cứng nhắc
trước đây là chỉ những người "trong biên chế nhà nước"mới là người có việc
làm. Việc làm không chỉ trong biên chế, mà còn ngoài biên chế, không chỉ ngoài
11
xã hội, mà còn tại gia đình. Với khái niệm việc làm như vậy, tất cả những ai
đang làm việc trong các thành phần kinh tế, trong các cơ quan nhà nước, các tổ
chức xã hội, xí nghiệp, trường học hoặc tại gia đình (kể cả nội trợ) đều được coi
là có việc làm.
Như vậy, khái niệm việc làm được mở rộng về nội hàm và tạo ra khả năng
to lớn giải phóng tiềm năng lao động, giải quyết việc làm cho nhiều người. Việc
chuẩn và lượng hoá khái niệm việc làm tạo ra cơ sở thống nhất trong lĩnh vực
điều tra, nghiên cứu và hoạch định các chính sách về việc làm.
1.1.1.2. Một số khái niệm có liên quan
+ Dân số trong độ tuổi lao động: Là những người ở độ tuổi lao động theo
quy định của luật pháp.
ở Việt Nam hiện nay, theo Bộ luật Lao động quy định độ tuổi lao động là
những người đủ 15 tuổi đến 60 tuổi (với nam) và đủ 15 tuổi đến 55 tuổi (với nữ).
+ Nguồn lao động: Gồm những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và
những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, nhưng:

- Đang thất nghiệp
- Đang đi học
- Đang làm nội trợ trong gia đình mình.
- Không có nhu cầu làm việc.
- Những người thuộc tình trạng khác (bao gồm cả những người nghỉ hưu
trước tuổi theo quy định của Bộ luật Lao động)
+ Lực lượng lao động:
Theo quan niệm của ILO: Lực lượng lao động là một bộ phận dân số
trong độ tuổi quy định, thực tế đang có việc làm và những người thất nghiệp.
+ Sức lao động: Theo C.Mác: "...Sức lao động hay năng lực lao động là
toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một
con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra
một giá trị sử dụng nào đó" [25, tr.25].
12
+ Người có việc làm: là người đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các
ngành kinh tế quốc dân, với thời gian làm việc không ít hơn mức chuẩn quy định
cho người có việc làm trong tuần lễ tham khảo.
Mức chuẩn ở Việt Nam: Làm việc ít nhất 16 giờ trong một tuần.
+ Người thiếu việc làm:
Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) thì người thiếu việc làm là người
trong tuần lễ tham khảo có số giờ làm việc dưới mức quy định chuẩn cho người
có đủ việc làm và có nhu cầu làm thêm.
ở Việt Nam hiện nay, mức chuẩn về thời gian làm việc cho người thiếu
việc làm là làm việc dưới 40 giờ (5 công) trong tuần lễ tham khảo hoặc trong
tuần lễ tham khảo không làm việc vì lý do bất khả kháng, nhưng 4 tuần trước đó
làm việc dưới 160 giờ (20 công) và có nhu cầu làm thêm.
+ Người đủ việc làm: Là những người có việc làm với thời gian làm việc
không ít hơn mức giờ chuẩn quy định cho người đủ việc làm trong tuần lễ tham
khảo hoặc là những người làm việc dưới giờ chuẩn quy định cho người đủ việc
làm, nhưng không có nhu cầu làm thêm.

Mức chuẩn: Làm việc 40 giờ trở lên trong tuần lễ tham khảo.
+ Người được giải quyết việc làm: Là những người trong độ tuổi lao động
mà trong 12 tháng qua kể từ thời điểm điều tra đã ký được hợp đồng lao động
theo Bộ luật Lao động và những người tự tạo việc làm.
+ Thất nghiệp:
Đối lập với việc làm, thất nghiệp là một tình trạng có tính quy luật của các
nền kinh tế thị trường. Có nhiều khái niệm khác nhau về thất nghiệp. Theo quan
niệm của ILO: "Thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi một số người trong lực
lượng lao động muốn làm việc, nhưng không thể tìm được việc làm ở mức tiền
công đang thịnh hành" [4, tr.57]. Giải quyết thất nghiệp là một trong những vấn
đề bức xúc trong chính sách việc làm của mỗi quốc gia.
13
1.1.2. Một số lý thuyết hiện đại về tạo việc làm và chính sách tạo việc làm
1.1.2.1. Một số lý thuyết hiện đại về tạo việc làm
Cơ chế quản lý lao động, việc làm là một bộ phận cấu thành của cơ chế
quản lý kinh tế, trong đó Nhà nước kết hợp với thị trường nhằm thiết lập quan
hệ cung cầu về lao động, việc làm. Để điều tiết, tạo lập việc làm nhằm thực hiện
mục tiêu kinh tế - xã hội đã hoạch định, các nhà nghiên cứu kinh tế đã phân tích
một số lý thuyết kinh tế trong lĩnh vực việc làm, đó là:
a) Lý thuyết tạo việc làm của John Maynard Keynes
J.M. Keynes (1883- 1946) là nhà kinh tế người Anh. Tác phẩm nổi tiếng
của ông là cuốn "Lý luận chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ" xuất bản năm
1936. Trong tác phẩm này, J.M Keynes xem xét việc làm trong mối quan hệ
giữa sản lượng - thu nhập - tiêu dùng - đầu tư - tiết kiệm- việc làm. Theo ông,
trong một nền kinh tế, khi sản lượng tăng, thu nhập tăng, đầu tư tăng thì việc
làm tăng và ngược lại. Tâm lý của quần chúng là khi tổng thu nhập tăng thì cũng
tăng tiêu dùng, nhưng tốc độ tăng tiêu dùng chậm hơn so với tăng thu nhập và
có khuynh hướng tiết kiệm một phần thu nhập, làm cho cầu tiêu dùng có hiệu
quả hay cầu tiêu dùng thực tế giảm tương đối so với thu nhập dẫn đến một bộ
phận hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng không có khả năng bán được. ế thừa hàng

hóa là nguyên nhân gây ra khủng hoảng, ảnh hưởng tới quy mô sản xuất ở chu
kỳ tiếp theo, nên việc làm giảm, thất nghiệp tăng. Mặt khác, trong nền kinh tế thị
trường, khi quy mô đầu tư tư bản tăng thì hiệu quả giới hạn của tư bản đầu tư có
xu hướng giảm sút tạo nên giới hạn chật hẹp về thu nhập của doanh nhân trong
đầu tư tương lai. Doanh nhân chỉ tích cực mở rộng đầu tư khi hiệu quả giới hạn
của tư bản lớn hơn lãi suất. Còn khi hiệu quả giới hạn của tư bản nhỏ hơn hoặc
bằng lãi suất thì họ không tích cực đầu tư nên quy mô sản xuất bị thu hẹp, dẫn
đến việc làm giảm, thất nghiệp tăng. Theo Keynes, để tăng việc làm, giảm thất
nghiệp, phải tăng tổng cầu của nền kinh tế. Chính phủ có vai trò kích thích tiêu
dùng (tiêu dùng sản xuất và phi sản xuất) để tăng tổng cầu thông qua tăng trực
tiếp các khoản chi tiêu của chính phủ, hoặc thông qua các chính sách của Chính
phủ nhằm khuyến khích đầu tư của tư nhân, của các tổ chức kinh tế xã hội.
14
Keynes còn sử dụng các biện pháp: hạ lãi suất cho vay, giảm thuế, trợ giá đầu
tư, in thêm tiền giấy để cấp phát cho ngân sách nhà nước nhằm tăng đầu tư và
bù đắp các khoản chi tiêu của Chính phủ. Ông chủ trương tăng tổng cầu của nền
kinh tế bằng mọi cách, kể cả khuyến khích đầu tư vào các hoạt động ăn bám nền
kinh tế như: sản xuất vũ khí đạn dược, chạy đua vũ trang, quân sự hoá nền kinh
tế.
Lý thuyết về việc làm của J.M Keynes được xây dựng dựa trên các giả định
đúng với các nước phát triển, nhưng không hoàn toàn phù hợp với các nước đang
phát triển. Bởi vì hầu hết các nước nghèo, nguyên nhân khó khăn cơ bản để gia
tăng sản lượng, tạo việc làm không phải do tổng cầu không đủ cao. ở các nước
đang phát triển, khi tổng cầu tăng sẽ kéo theo tăng giá cả, dẫn đến lạm phát. Vì thế,
biện pháp tăng tổng cầu để tăng quy mô sản xuất, tạo việc làm không đúng với mọi
quốc gia, trong mọi thời kỳ. Mặt khác, nếu tạo việc làm cho khu vực thành thị và
một số trung tâm công nghiệp bằng cách tăng tổng cầu sẽ tạo ra làn sóng di dân từ
nông thôn ra thành thị và tỷ lệ thất nghiệp ở đô thị gia tăng. Điều này có thể làm
suy giảm việc làm và sản lượng quốc dân của cả nước.
b) Mô hình lý thuyết tăng việc làm bằng gia tăng sản lượng quốc dân

Các nước đang phát triển thường có lợi thế về nguồn lao động dồi dào. Để
tăng việc làm, họ thực hiện các biện pháp tối đa hoá mức thu hút lao động bằng
cách tối đa hoá tốc độ tăng trưởng GDP. Theo mô hình này hiệu quả tăng trưởng
kinh tế là kết quả tổng hợp của tăng sản lượng và việc làm chứ không thuần tuý
là năng suất lao động. Các chính sách vĩ mô của Chính phủ hướng mạnh vào
tăng cầu lao động để tăng việc làm.
c) Lý thuyết về tạo việc làm bằng chuyển giao lao động giữa hai khu vực
của nền kinh tế
Lý thuyết này do Athur Lewis - nhà kinh tế học Jamaica được giải thưởng
Nobel 1979- đưa ra. Tư tưởng cơ bản của lý thuyết này là chuyển số lao động dư
thừa từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp hiện đại do hệ thống tư
bản nước ngoài đầu tư vào các nước lạc hậu. Quá trình này sẽ tạo điều kiện cho
15
nền kinh tế phát triển. Bởi vì trong khu vực nông nghiệp, đất đai chật hẹp, lao
động lại quá dư thừa. Ngoài số lao động cần đủ cho sản xuất nông nghiệp, còn
có lao động thừa làm các ngành nghề lặt vặt, buôn bán nhỏ, phục vụ trong gia
đình và lao động phụ nữ. Số lao động dôi dư này không có công ăn việc làm.
Nói cách khác, họ không có tiền lương và thu nhập. Vì vậy, việc di chuyển lao
động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp có hai tác dụng. Một là,
chuyển bớt lao động ra khỏi lĩnh vực nông nghiệp, chỉ để lại lượng lao động đủ
để tạo ra sản lượng cố định. Từ đó nâng cao sản lượng theo đầu người đồng thời
tạo việc làm cho số lao động dôi dư trong nông nghiệp. Mặt khác, việc di chuyển
này sẽ làm tăng lợi nhuận trong lĩnh vực công nghiệp, tạo điều kiện nâng cao sức
tăng trưởng và phát triển kinh tế nói chung.
d) Lý thuyết của Harry Toshima
Theo Harry Toshima, lý thuyết của Athur Lewis không có ý nghĩa thực tế
với tình trạng dư thừa lao động trong nông nghiệp ở các nước châu á gió mùa..
Bởi vì, nền nông nghiệp lúa nước vẫn thiếu lao động lúc đỉnh cao của thời vụ và
chỉ dư thừa lao động trong mùa nhàn rỗi. Vì vậy, ông cho rằng cần giữ lại lao
động nông nghiệp và chỉ tạo thêm việc làm trong những tháng nhàn rỗi bằng

cách tăng vụ, đa dạng hoá cây trồng vật nuôi...Đồng thời, sử dụng lao động nhàn
rỗi trong nông nghiệp vào các ngành sản xuất công nghiệp cần nhiều lao động.
Việc tạo thuận lợi hơn nữa để có việc làm đầy đủ cho mọi thành viên gia đình
nông dân trong những tháng nhàn rỗi sẽ nâng cao mức thu nhập hàng năm của họ
và sẽ mở rộng được thị trường trong nước cho các ngành công nghiệp và dịch vụ.
Như vậy, lực lượng lao động sẽ được sử dụng hết.
e) Lý thuyết về tạo việc làm bằng di chuyển lao động của Todaro
Lý thuyết của Todaro nghiên cứu sự di chuyển lao động trên cơ sở thực
hiện điều tiết thu nhập, tiền lương giữa các khu vực kinh tế khác nhau. Theo
ông, những người lao động ở khu vực nông thôn có thu nhập trung bình thấp.
Họ lựa chọn quyết định di chuyển lao động từ vùng có thu nhập thấp sang khu
vực thành thị có thu nhập cao hơn. Như vậy, quá trình di chuyển lao động mang
16
tính tự phát, phụ thuộc vào sự lựa chọn, quyết định của các cá nhân. Điều này
làm cho cung cầu về lao động ở từng vùng không ổn định, gây khó khăn cho
chính phủ trong việc quản lý lao động và nhân khẩu.
Các lý thuyết về việc làm nêu trên đều tập trung nghiên cứu, xác định mối
quan hệ cung cầu lao động tác động đến việc làm. Những lý luận đó chưa làm rõ
vai trò của Chính phủ thông qua hệ thống các chính sách kinh tế kết hợp với
chính sách xã hội để tạo việc làm ổn định cho nền kinh tế, nhưng có tác dụng
gợi mở cho chúng ta khi phân tích thực trạng việc làm và đề ra những giải pháp
phù hợp tạo việc làm cho người lao động.
1.1.2.2. Chính sách tạo việc làm và những nhân tố ảnh hưởng
a) Chính sách tạo việc làm
Chính sách việc làm là một trong những chính sách xã hội cơ bản của mọi
quốc gia nhằm góp phần đảm bảo an toàn, ổn định và phát triển xã hội. Hội nghị
thượng đỉnh Copenhagen tháng 3 năm 1995 đã coi mở rộng việc làm là một
trong những nội dung cơ bản nhất của chiến lược phát triển xã hội của các nước
trên thế giới đến năm 2000 và 2010.
Đối với nước ta, tạo thêm việc làm cho người lao động, kiềm chế thất

nghiệp ở tỷ lệ thấp là một trong những mục tiêu kinh tế vĩ mô mà Nhà nước
thường xuyên quan tâm thực hiện.
Tạo việc làm, theo nghĩa rộng, bao gồm những vấn đề liên quan đến việc
phát triển và sử dụng có hiệu quả các nguồn nhân lực. Quá trình đó diễn ra từ
việc giáo dục, đào tạo và phổ cập nghề nghiệp, chuẩn bị cho người lao động
bước vào cuộc đời lao động, đến tự do lao động và hưởng thụ xứng đáng với giá
trị lao động mà mình đã tạo ra.
Tạo việc làm theo nghĩa hẹp chủ yếu hướng vào đối tượng thất nghiệp,
chưa có việc làm hoặc thiếu việc làm nhằm tạo thêm chỗ làm cho người lao
động, duy trì tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp.
17
- Chính sách việc làm là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các mục tiêu,
các giải pháp và công cụ nhằm sử dụng lực lượng lao động (LLLĐ) và tạo việc
làm cho LLLĐ đó [7, tr.394].
Nói cách khác, chính sách việc làm là sự thể chế hoá pháp luật của Nhà
nước trên lĩnh vực lao động và việc làm, là hệ thống các quan điểm, phương
hướng, mục tiêu và các giải pháp giải quyết việc làm cho người lao động.
Chính sách việc làm thực chất là một hệ thống các chính sách chung có
quan hệ và tác động đến việc mở rộng và phát triển việc làm cho LLLĐ của toàn
xã hội, như các chính sách: Khuyến khích phát triển các lĩnh vực, những ngành
nghề có khả năng thu hút nhiều lao động; chính sách tạo việc làm cho những đối
tượng đặc biệt (người tàn tật, đối tượng tệ nạn xã hội, người hồi hương... );
chính sách hợp tác và xuất khẩu lao động đi nước ngoài...
Chính sách việc làm tác động đến một vấn đề nhậy cảm, vừa có ý nghĩa
về mặt kinh tế, vừa có ý nghĩa về mặt chính trị và xã hội. Việc hoạch định và
thực hiện không tốt chính sách việc làm sẽ dẫn đến những hậu quả, những thiệt
hại trực tiếp cả về kinh tế (không sử dụng hết tiềm năng lao động để phát triển kinh
tế xã hội) và cả về chính trị, xã hội cho đất nước (Ví dụ: Thất nghiệp tăng thì tệ nạn
xã hội cũng tăng; thất nghiệp đồng hành với đói nghèo...).
Chính sách việc làm có mối quan hệ biện chứng với các chính sách kinh

tế và các chính sách xã hội khác, đặc biệt là mối quan hệ chặt chẽ với các chính
sách như: Chính sách dân số; chính sách giáo dục - đào tạo, chính sách cơ cấu
kinh tế, chính sách công nghệ. Có thể nhận thấy rằng: Giáo dục đào tạo tốt thì cơ
hội việc làm tăng; giảm tốc độ tăng dân số sẽ khắc phục được tình trạng thất
nghiệp về lâu dài. Việc phát triển các ngành nghề sản xuất, các lĩnh vực, các
doanh nghiệp quy mô nhỏ sử dụng nhiều lao động ở cả nông thôn lẫn thành thị
là một vấn đề được tính toán đến khi xây dựng chính sách cơ cấu kinh tế (theo
ngành, theo vùng lãnh thổ hoặc theo thành phần kinh tế). Việc lựa chọn các
công nghệ sản xuất phù hợp sử dụng nhiều lao động đôi khi có hiệu quả kinh tế -
18
xã hội hơn là nhập những công nghệ quá hiện đại (sử dụng ít lao động và sử
dụng lao động trình độ cao).
Thực hiện tốt chính sách việc làm, nguồn nhân lực được sử dụng có hiệu
quả thì hiện tượng thất nghiệp sẽ giảm đi, như vậy chính sách bảo hiểm xã hội sẽ
giảm được chi phí cho các trợ cấp thất nghiệp. Ngược lại, khi chính sách việc
làm chưa được giải quyết tốt, nhất là vào thời kỳ kinh tế suy thoái, nạn thất
nghiệp sẽ tăng lên, và cùng với nó là tình trạng đói nghèo, các tệ nạn xã hội sẽ
dễ dàng phát sinh. Khi đó gánh nặng đối với các chính sách về bảo trợ xã hội, an
ninh xã hội sẽ tăng lên thậm chí còn có thể gây ra bất ổn định về chính trị, xã
hội.
Việc làm và giải quyết việc làm có một ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự
phát triển của một nền kinh tế, bởi vì sự phát triển kinh tế phụ thuộc vào vấn đề
sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực và nguồn
vốn. Trong đó, việc sử dụng nguồn nhân lực có vai trò quan trọng và quyết định
sự phát triển đó.
Việc làm là trạng thái phù hợp về số lượng và chất lượng giữa tư liệu sản
xuất và sức lao động. Còn lao động là hoạt động có mục đích của con người,
hoạt động diễn ra giữa con người và thế giới tự nhiên. trong khi lao động, con
người vận dụng sức lực tiềm tàng trong thân thể của mình, sử dụng công cụ lao
động để tác động vào thế giới tự nhiên, chiếm lấy những vật chất trong tự nhiên,

biến đổi những vật chất đó làm cho chúng trở nên có ích cho đời sống của mình.
Đây chính là thực chất của quá trình sản xuất.
Hiệu quả kinh tế phụ thuộc vào số lượng và chất lượng lao động tham gia
trực tiếp vào quá trình sản xuất, do đó muốn nền kinh tế phát triển thì phải huy
động được sức lao động của toàn dân. Sức lao động là yếu tố tích cực nhất, linh
hoạt nhất trong quá trình sản xuất. Nó phát động và đưa các tư liệu lao động vào
hoạt động sản xuất để sáng tạo ra sản phẩm. Nếu coi sản xuất là một hệ thống
gồm ba bộ phận hợp thành: các nguồn lực, các quá trình sản xuất, sản phẩm
hàng hóa thì sức lao động là một trong những nguồn lực khởi đầu của sản xuất
19
để tạo ra các sản phẩm hàng hóa nhằm thoả mãn nhu cầu của mình. Nói cách
khác, con người làm việc trước hết để thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần
của bản thân và gia đình của họ và qua đó góp phần phát triển kinh tế xã hội của
đất nước. Do đó, muốn tạo ra động lực phát triển kinh tế thì trước hết phải tạo ra
động lực trong lao động. Việc làm phù hợp với khả năng của từng người chính
là động lực tạo ra sự hứng thú trong lao động, thúc đẩy quá trình sản xuất, tạo đà
cho sự phát triển kinh tế.
Tạo việc làm cho người lao động chính là việc khai thác và sử dụng có
hiệu quả nguồn lực con người. Trong toàn bộ sự phát triển của xã hội, con người
luôn luôn tồn tại với hai tư cách: vừa là chủ thể, vừa là mục tiêu trong hoạt động
của mình. Với tính cách là chủ thể, con người thực hiện sự phát triển kinh tế - xã
hội mà trước hết là phát triển lực lượng sản xuất. Với tính cách là mục tiêu, con
người hưởng thụ những thành quả của sự phát triển đó. Như chúng ta đã biết, có
việc làm đồng nghĩa với có thu nhập. Vì vậy, tạo việc làm cho người lao động,
tức là đảm bảo đồng thời ba lợi ích: Nhà nước, tập thể và cá nhân người lao
động. Ngược lại, nếu không có việc làm thì người lao động không tạo ra thu
nhập, không cống hiến được sức lực của mình dẫn đến giảm nhu cầu hưởng thụ,
cản trở sự phát triển của kinh tế.
Do đó, trong chiến lược phát triển kinh tế của nhiều quốc gia, vấn đề tạo
việc làm cho người lao động nhằm sử dụng hợp lý nguồn lực con người đang

được thừa nhận là quan trọng và quyết định nhất đối với một nền kinh tế. Hội
nghị lần thứ 2 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII (tháng 12/1996)
đã khẳng định: "Để thực hiện mục tiêu chiến lược mà Đại hội VIII đã đề ra cần
khai thác và sử dụng nhiều nguồn lực khác nhau, trong đó nguồn lực con người
là quí báu nhất, vai trò quyết định nhất". Đường lối của Đảng đã tạo ra một bước
ngoặt đặc biệt quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới trong việc khai thác và
phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tạo việc làm cho người lao động, giúp họ tham gia vào quá trình sản xuất
là yêu cầu của sự phát triển của nền kinh tế. Bất kỳ một đất nước nào giải quyết
20
tốt vấn đề việc làm cho người lao động thì đất nước đó nhất định có nền kinh tế
phát triển nhanh chóng, ngay cả khi quốc gia đó có nhiều điều kiện tự nhiên
không thuận lợi, ít tài nguyên, thậm chí hay bị thiên tai đe dọa. Nhật Bản là một
ví dụ, từ một nước bại trận trong chiến tranh thế giới lần II đã vươn lên thành
cường quốc kinh tế thứ hai trên thế giới chỉ trong vòng 2 thập kỷ, với tốc độ
tăng trưởng kinh tế trung bình hàng năm đạt 9% trong các năm 1955- 1960, gần
10% trong các năm 1960 - 1965 và 11,6% trong các năm 1965- 1970. Nhật Bản
luôn luôn coi trọng nguồn lực con người trong việc khôi phục và phát triển kinh
tế, giải quyết tốt việc làm cho người lao động để từ đó tận dụng triệt để cả thể
lực và trí lực con người cho công cuộc phát triển kinh tế.
Trong thời đại kinh tế tri thức, giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng
lao động càng có ý nghĩa quan trọng, sống còn đối với việc đẩy lùi nạn thất
nghiệp. Bởi xét về mặt kinh tế, thất nghiệp gắn chặt với nghèo đói. Tỷ lệ thất
nghiệp cao không những gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế, mà còn gây nhiều khó
khăn cho cuộc sống cá nhân người lao động. Những người thất nghiệp tuy
không sản xuất ra sản phẩm nhưng vẫn phải tiêu dùng. Giả sử mỗi người thất
nghiệp đều tiêu dùng ở mức tối thiểu tương ứng mức lương 290.000đ/tháng như
hiện nay thì một năm tiêu thụ hết ít nhất 3,5 triệu đồng. Nếu số người thất
nghiệp là 1 triệu người thì mỗi năm Nhà nước phải gánh chịu thiệt hại về mặt
kinh tế hàng nghìn tỷ đồng do thất nghiệp gây ra. Số tiền đó có thể được dùng để

đầu tư phát triển sản xuất hay đầu tư phát triển cho giáo dục, y tế, nhằm nâng
cao chất lượng và sức khoẻ nguồn nhân lực. Ngay cả những nước tư bản phát
triển nhất, nạn thất nghiệp vẫn là nguy cơ tiềm tàng đối với sự tăng trưởng kinh
tế. Như thế nghĩa là càng ngày người ta càng nhận thức rõ hơn việc làm là mục
tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là động lực của sự phát triển ấy.
Tóm lại, giải quyết việc làm cho người lao động có ý nghĩa to lớn đối với
nền kinh tế. Tạo việc làm cho người lao động tức là chúng ta đã tận dụng được
sức mạnh của nguồn lực con người vào trong công cuộc phát triển kinh tế.
b) Những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến tạo việc làm
21
Thứ nhất: Tài nguyên thiên nhiên.
Trong những nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng nguồn công việc, tạo
việc làm cho người lao động, trước hết phải nói đến nhân tố có tính chất tự
nhiên, vốn có sẵn ở mỗi quốc gia, mỗi địa phương, đó là nhân tố tài nguyên
thiên nhiên.
Tài nguyên thiên nhiên vừa là đối tượng lao động, vừa là tư liệu lao động.
Vì thế nó là một trong những yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất và là cơ sở
quan trọng đầu tiên để tạo việc làm cho người lao động.
Tài nguyên thiên nhiên bao gồm tất cả các nguồn khoáng sản, đất đai,
năng lượng có trên mặt đất, dưới lòng đất, trong rừng, dưới biển... Ngay cả vị trí
địa lý, khí hậu, thời tiết thuận lợi cũng là những tài nguyên quý giá cho sự tồn
tại và phát triển của con người và xã hội.
Mỗi quốc gia, mỗi địa phương nằm trên những vị trí địa lý nhất định, có
thể thuận lợi hoặc khó khăn về mặt khí hậu thời tiết, nhiệt độ, lượng gió, mưa,
bão lụt, hạn hán... Những yếu tố này ảnh hưởng đến sản xuất, đặc biệt là sản
xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Do đó, mỗi nước, mỗi địa phương có thể có những
cách thức tổ chức sản xuất lao động khác nhau. Với những vùng có vị trí địa lý
thuận lợi về thời tiết khí hậu như nước ta: cây cối xanh tươi, hoa quả bốn mùa,
các loại cây con, thủy hải sản đa dạng phong phú, đất đai màu mỡ, chúng ta có
thể phát triển nông nghiệp, công nghiệp chế biến, xuất khẩu các mặt hàng đặc

sản quý hiếm trên thị trường quốc tế. Đây cũng là những lợi thế nhất định ở mỗi
quốc gia, mỗi địa phương trong việc tạo việc làm, mở rộng số lượng loại việc
làm thu hút người lao động. Tất nhiên, cũng có khi khí hậu, thời tiết ảnh hưởng
xấu đến sản xuất lao động. Nắng lắm, mưa nhiều, hạn hán, lũ lụt, bão, những
cơn "sóng thần" gây rất nhiều khó khăn cho việc tổ chức sản xuất. Vì vậy, mỗi
quốc gia, mỗi địa phương phải căn cứ vào điều kiện thiên nhiên nước mình, địa
phương mình để tổ chức tạo việc làm cho người lao động sao cho có hiệu quả
cao nhất.
22
Cùng với vị trí địa lý, nguồn tài nguyên đất đai, khoáng sản, sông ngòi, bờ
biển, rừng núi... cũng ảnh hưởng rất lớn đến giải quyết việc làm. Vai trò của đất
đai đối với lao động, việc làm là cực kỳ quan trọng. Đặc biệt trong sản xuất
nông nghiệp, đất canh tác là tư liệu lao động đồng thời là đối tượng lao động của
người nông dân. Tỷ lệ đất canh tác ở Việt Nam chỉ chiếm 21% đất tự nhiên nên
bình quân diện tích canh tác trên một lao động nông nghiệp rất thấp đã ảnh
hưởng đến việc làm và năng suất của lao động nông nghiệp.
Về tài nguyên dưới lòng đất, chúng ta hiện đã khai thác được mỗi năm
gần 10 triệu tấn than sạch, 16 triệu tấn dầu thô, hàng trăm mỏ quặng kim loại và
phi kim đang hoạt động. Tương lai, công nghiệp dầu mỏ vẫn còn khả năng tiếp
tục tăng trưởng trong nhiều năm. Từ tài nguyên mỏ chuyển sang phát triển công
nghiệp chế biến là hướng đi tất yếu của bản thân công nghiệp, đồng thời, tạo
việc làm rộng rãi cho lao động xã hội.
Với 3.200 km bờ biển, vùng biển nước ta chứa đựng rất nhiều tiềm năng đa
dạng, phong phú. Các nguồn lợi về sinh vật biển như: tôm, cá, rau câu, nguồi lợi về
muối và các sản phẩm từ muối; cát thủy tinh, quặng ti tan, rừng cây nước lợ, sú vẹt,
phi lao, hàng trăm bãi biển có thể phát triển được du lịch tham quan, thu hút khách
trong nước và quốc tế. Những tiềm năng trên cho phép chúng ta tổ chức phân công
lao động, tạo ra hàng trăm hàng nghìn loại hình công việc khai thác lợi thế sông,
biển, rừng ven biển và các tài nguyên thiên nhiên.
Thứ hai: Sự biến đổi dân số.

Dân số và kinh tế xã hội là những yếu tố vận động theo các quy luật
khách quan trong quá trình tái sản xuất xã hội, nhưng lại có quan hệ hữu cơ với
nhau. Một trong những mối liên hệ quan trọng giữa dân số và lao động là vấn đề
tăng trưởng lực lượng lao động và cơ hội tạo việc làm phù hợp.
Khi dân số thay đổi, một vấn đề cần được đặc biệt quan tâm là sự thay đổi
lực lượng lao động trong dân số. Chúng ta đều biết rằng quy mô, cơ cấu và sự
phân bố dân số có quan hệ ảnh hưởng quyết định đến quy mô, cơ cấu, phân bổ,
sử dụng LLLĐ.
23
Dân số tăng nhanh là áp lực đối với vấn đề tạo việc làm cho LLLĐ. Quan
sát cho thấy, ở tất cả các nước trên thế giới, tỷ lệ tham gia LLLĐ của nhóm tuổi
15 - 60 là cao nhất trong LLLĐ so với các nhóm tuổi khác. Nếu tỷ lệ dân số
trong độ tuổi 15 - 60 tăng thì LLLĐ sẽ tăng ngay cả khi sự tham gia LLLĐ theo
nhóm tuổi không tăng.
Một vấn đề quan trọng cần được chú ý là, trong vòng 15 năm tới, cho dù
mức sinh có đạt đến tỷ lệ giới hạn nào đó thì những người tham gia vào LLLĐ
sẽ vẫn còn cao hơn tốc độ tăng dân số. Các nhà quản lý cần phải thấy trước để
tạo việc làm cho người lao động. Số lượng việc làm trong xã hội ngày càng phải
mở rộng để khai thác tốt LLLĐ này.
Theo chiến lược dân số và kế hoạch hoá gia đình, đến năm 2020 Việt
Nam sẽ có một LLLĐ khoảng 56 triệu người, vì vậy nhu cầu việc làm ngày
càng lớn. Về mặt kinh tế xã hội, đây là một điều vừa có lợi vừa bất lợi. LLLĐ
dồi dào là một lợi thế trong phát triển kinh tế xã hội, nếu biết khai thác và sử
dụng có hiệu quả, nhưng nếu không tạo được việc làm thì sẽ gây nên những hậu
quả khó lường.
Thứ ba: Trình độ tiến bộ khoa học - kỹ thuật - công nghệ.
Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang làm thay đổi tính
chất và nội dung nghề nghiệp của người lao động. Cách mạng công nghệ đã dẫn
đến việc sử dụng công cụ, phương tiện hiện đại, phức tạp nên lao động trí óc dần
dần đã thay thế lao động chân tay. Nếu trình độ học vấn, mặt bằng dân trí được

nâng cao thì năng lực làm việc của con người sẽ được mở rộng. Người lao động
có trí tuệ không chỉ nắm vững sâu sắc chuyên môn một nghề mà họ còn có thể
tham gia ở những nghề khác, nghĩa là họ có thể có khả năng làm nhiều loại công
việc. Tuy nhiên, theo C.Mác thì khi ứng dụng các thành tựu khoa học - công
nghệ hiện đại thường dẫn đến tăng kết cấu hữu cơ tư bản và tăng năng xuất lao
động, mà:
Sự tăng năng xuất lao động thể hiện ra ở việc giảm bớt khối lượng lao
động so với khối lượng tư liệu sản xuất mà lao động đó làm cho hoạt động, hay
24
là thể hiện ra ở sự giảm bớt đại lượng của nhân tố chủ quan của quá trình lao
động so với nhân tố khách quan của quá trình đó [25, tr.877].
Vì vậy, phần bất biến của tư bản vận động cùng chiều với sự tăng lên của
tích luỹ tư bản, còn bộ phận tư bản khả biến thì nói chung sẽ vận động ngược
chiều với sự tăng lên của tích luỹ.
Không những thế, khi đổi mới tư bản cố định, thường thường người ta
thay bằng máy móc thiết bị hiện đại hơn, khiến cho một số lao động ít hơn cũng
đủ để vận dụng một khối lượng máy móc và nguyên liệu lớn hơn, gây ra sự giảm
sút tuyệt đối lượng cầu về lao động. Đồng thời công nghệ hiện đại đòi hỏi người
vận hành, quản lý công nghệ phải có trình độ tương ứng với trình độ công nghệ
sử dụng làm cho lao động có kỹ năng thấp bị xa thải để tuyển chọn lao động có
kỹ năng, trình độ tiên tiến.
ở nước ta hiện nay, trình độ công nghệ sử dụng trong các ngành kinh tế
lạc hậu so với trình độ trung bình tiên tiến trên thế giới từ 2 đến 3 thế hệ kỹ thuật
(không kể một số lĩnh vực mới như: dầu khí, viễn thông). Một số ngành công
nghiệp then chốt như cơ khí, chế tạo động cơ...có trình độ công nghệ lạc hậu 30-
50 năm so với các nước phát triển trung bình. Vì vậy, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với kinh tế mở và hội nhập kinh tế quốc tế nhằm rút ngắn khoảng cách
lạc hậu về trình độ công nghệ so với các nước là con đường tất yếu để phát triển
nhanh nền kinh tế nước ta.
Nhưng hiện nay, việc đổi mới công nghệ lại mâu thuẫn với tiềm năng nguồn

lực về vốn ít và lực lượng lao động dồi dào. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đang đặt ra một vấn đề: lựa chọn công nghệ cần đổi mới trong từng thời kỳ, từng
giai đoạn như thế nào cho phù hợp. Ngành nào, khâu nào, lĩnh vực nào cần lựa chọn
trình độ công nghệ ra sao để vừa đáp ứng yêu cầu hiện đại hoá sản xuất, vừa tận dụng
được tiềm năng lao động để tăng việc làm trong điều kiện nguồn vốn hạn hẹp đang là
bài toán đặt ra trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ tư: Cơ cấu kinh tế:
25

×