Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành bán lẻ Việt Nam trong điều kiện gia nhập WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (571.35 KB, 92 trang )

Chuyên đê thực tập cuối khoá
MỤC LỤC
SV: Tiêu Quang Khánh Lớp: Thương mại quốc tế 49
Chuyên đê thực tập cuối khoá
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
SV: Tiêu Quang Khánh Lớp: Thương mại quốc tế 49
Chuyên đê thực tập cuối khoá
LỜI MỞ ĐẦU
Sau khi bắt đầu chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, Việt Nam đã
đạt được những bước tiến quan trọng, ngày càng hội nhập sâu hơn vào nền
kinh tế thế giới và đỉnh cao là sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành
viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO vào Ngày 17/11/2006.
Bên cạnh những lợi ích rõ ràng, trở thành thành viên của WTO cũng
đồng nghĩa với việc Việt Nam phải mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ và
các ngành kinh tế nội địa nói chung, ngành bán lẻ nói riêng phải chịu sự
cạnh tranh khốc liệt mà trước đây chưa từng có.
Ngành bán lẻ Việt Nam đang phải đối diện với những người khổng lồ
mang tầm vóc quốc tế. Đó là BigC với đại siêu thị của những núi hàng hóa
chất đống, đó là Parkson của những vị trí đắc địa và phong cách bài trí
quyến rũ, hiện đại, đó là những Unilever, Lotter, Louis Vuiton… và một
Wallmart đang ngấp nghé tấn công thị trường bán lẻ Việt Nam.
Trước tình hình đó, để bảo vệ và phát triển ngành bán lẻ Việt Nam,
vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành bán lẻ Việt Nam chưa bao
giờ trở nên cấp thiết hơn lúc này.
Vì vậy, em quyết định chọn đề tài:
“Nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành bán lẻ Việt Nam trong
điều kiện gia nhập WTO ”
làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Ngoài phần lời mở đầu và kết luận, đề tài nghiên cứu của em gồm 3
phần:
Chương I: Tổng quan về khả năng cạnh tranh của ngành bán lẻ


Việt Nam trong điều kiện gia nhập WTO
Chương II: Thực trạng khả năng cạnh tranh của ngành bán lẻ
Việt Nam sau khi gia nhập WTO
Chương III: Phương hướng và giải pháp nâng cao khả năng
cạnh tranh của ngành bán lẻ Việt Nam trong điều kiện gia nhập WTO
SV: Tiêu Quang Khánh Lớp: Thương mại quốc tế 49
3
Chuyên đê thực tập cuối khoá
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NGÀNH
BÁN LẺ VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN GIA NHẬP WTO
1. Ngành bán lẻ và tầm quan trọng của ngành bán lẻ đối với nền
kinh tế Việt Nam
1.1. Khái niệm bán lẻ và thị trường bán lẻ
1.1.1. Khái niệm và các hình thức bán lẻ
Về khái niệm hàng hóa, chúng ta cần phân biệt khái niệm hàng hóa
tiêu dùng và hàng hóa tư liệu sản xuất. Hàng tiêu dùng là những hàng hóa
phục vụ cho nhu cầu sống của cá nhân, gia đình. Hàng tư liệu sản xuất là
những hàng hóa phục vụ cho nhu cầu sản xuất, là yếu tố đầu vào của quá
trình tái sản xuất.
Về khái niệm bán lẻ, có nhiều khái niệm về bán lẻ hàng hóa. Theo từ
điển American Heritage định nghĩa: “Bán lẻ là bán hàng cho người tiêu
dùng, thường là bán với khối lượng nhỏ và không bán lại” Bán lẻ là hình
thức bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng nhằm thỏa mãn nhu cầu cá
nhân và gia đình. Bán lẻ hàng hóa là khâu kết thúc quá trình lưu thông,
hàng hóa đi vào lĩnh vực tiêu dùng và giá trị hàng hóa được thực hiện
Theo NAICS, US năm 2002, lĩnh vực thương mại bán lẻ bao gồm
những cơ sở kinh doanh bán lẻ hàng hóa và cung cấp các dịch vụ hỗ trợ
cho bán hàng. Quá trình bán lẻ là khâu cuối cùng trong phân phối hàng
hóa. Các nhà bán lẻ tổ chức việc bán hàng theo khối lượng nhỏ cho người

tiêu dùng.
Theo cuốn sách quản trị Marketing, Phillip Kotler đã định nghĩa: Bán
lẻ bao gồm tất cả cá hoạt động liên quan đến việc bán hàng hóa hay dịch
vụ trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng để họ sẻ dụng vào mục đích cá
SV: Tiêu Quang Khánh Lớp: Thương mại quốc tế 49
4
Chuyên đê thực tập cuối khoá
nhân, không kinh doanh.
Như vậy, qua các khái niệm nêu trên, chúng ta có thể rút ra những
điểm chung của khái niệm về bán lẻ là: hoạt động bán hàng với lượng nhỏ,
bán trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng. Ngoài ra, đây còn là công
đoạn đoạn cuối cùng trong khâu lưu thông, hàng hóa đến trực tiếp với
người mua để tiêu dùng chứ không phải kinh doanh.
Các nhà bán lẻ thuộc đủ loại quy mô, hình thức và luôn xuất hiện
thêm những kiểu bán lẻ đa dạng. Các chức năng phân phối do các nhà
bán lẻ thực hiện có sự phối hợp theo nhiều cách khác nhau để tạo ra
các dạng mới của định chế bán lẻ. Có thể phân loại những nhà bán lẻ
theo một số các tiêu thức sau:
• Theo những mặt hàng mà nhà bán lẻ bán người ta chia ra
thành: cửa hàng chuyên doanh, cửa hàng bách hoá, siêu thị, cửa hàng tiện
dụng, và cửa hàng cao cấp.
- Cửa hàng chuyên doanh: bán các dòng sản phẩm hẹp và chuyên
sâu
- Cửa hàng bách hoá: bày bán những mặt hàng khác nhau, mỗi mặt
hàng là một quầy riêng.
- Siêu thị: là những trung tâm bán lẻ lớn, chi phí thấp, tự phục vụ,
giá thấp, doanh số bán cao.
- Cửa hàng tiện dụng: là cửa hàng bán lẻ nhỏ, bán một số mặt hàng
phục vụ nhu cầu thường xuyên của người tiêu dùng.
• Theo phương pháp hoạt động của nhà bán lẻ chia thành: Bán lẻ

qua cửa hàng và bán lẻ không qua cửa hàng. Bán hàng không qua cửa hàng
có nhiều hình thức như: đặt hàng qua thư, máy bán hàng, mua hàng qua
máy tính, qua điện thoại và bán lẻ tại nhà.
• Theo hình thức sở hữu chia ra thành: Bán lẻ độc lập, chuỗi tập
SV: Tiêu Quang Khánh Lớp: Thương mại quốc tế 49
5
Chuyên đê thực tập cuối khoá
đoàn, hợp tác xã bán lẻ, hợp tác xã tiêu thụ và các đại lí độc quyền kinh
tiêu,
- Của hàng độc lập do một cá nhân làm chủ và tự quản lí.
- Chuỗi tập đoàn thường gồm nhiều cửa hàng bán lẻ thuộc cùng một
chủ sở hữu, bán những mặt hàng tương tự như nhau và việc mua bán có sự
điều hành tập trung.
- Hợp tác xã bán lẻ gồm một số các nhà bán lẻ độc lập liên kết lại và
thành lập một tổ chức thu mua và có tổ chức tập trung và điều hành các
công việc bán hàng và quảng cáo thống nhất.
- Hợp tác xã tiêu thụ là tổ chức bán lẻ do chính khách hàng lập ra.
- Các đại lí độc quyền kinh tiêu là những liên kết theo hợp đồng giữa
các bên chủ quyền (nhà sản xuất, nhà bán bán buôn hay tổ chức dịch vụ)
và bên nhận quyền (các nhà bán lẻ) muốn mua quyền sở hữu và quyền
kinh doanh sản phẩm.
• Xét theo lĩnh vực phân phối ta có thể phân chia bán lẻ thành hai
hình thức kênh chính đó là: kênh phân phối truyền thồng và kênh phân
phối hiện đại. Trong đó kênh phân phối truyền thống bao gồm: Các chợ,
cửa hàng thực phẩm, người bán dạo… Đây là kênh phân phối của các cá
nhân, tư nhân với hình thức kinh doanh nhỏ lẻ. Còn kênh phân phối hiện
đại thì bao gồm: Các trung tâm thương mại, các siêu thị, mạng lưới cửa
hàng tiện lợi, khu thương mại-dịch vụ, trung tâm hội chợ- triển lãm… Đây
là hình thức bán lẻ hàng hoá theo loại hình thương mại hiện đại.
1.1.2. Thị trường bán lẻ

Thị trường bán lẻ là nơi diễn ra các hoạt động mua bán giữa các nhà
bán lẻ và người tiêu dùng.
Cung bán lẻ ở đây bao gồm tất cả các cá nhân và tổ chức mua hàng
SV: Tiêu Quang Khánh Lớp: Thương mại quốc tế 49
6
Chuyên đê thực tập cuối khoá
hoá để bán lại hoặc cho thuê nhằm kiếm lời. Danh mục và chủng loại hàng
hoá mà họ mua sắm rất phong phú và đa dạng.
Cầu bán lẻ ở đây là những người tiêu dùng, họ có rất nhiều các nhu
cầu về hàng hoá và dịch vụ nhằm thoả mãn những mong muốn của mình.
Trên thị trường bán lẻ, các nhà bán lẻ đóng vai trò là người bán. Khi
lựa chọn mua hàng hoá từ nhà sản xuất, họ phải xem những sản phẩm ấy
có thu hút được khách hàng của họ hay không. Và từ đó họ quyết định nên
kinh doanh những mặt hàng nào nhằm đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu
của người tiêu dùng. Chính vị thế trên thị trường bán lẻ, người tiêu dùng là
người chấp nhận giá còn các nhà bán lẻ là ngưòi quyết định giá bán. Mức
giá mà họ đưa ra là dựa trên cơ sở: Mức giá mua vào, chi phí lưu thông và
khả năng thanh toán của khách hàng.
1.2. Vai trò của hoạt động bán lẻ
Bán lẻ đóng vai trò quan trọng trong kênh phân phối, nó là cầu nối
giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng. Nói đến vai trò của bán lẻ cũng
chính là ta đang nói tới vai trò của các nhà bán lẻ, những chủ thể của tác
động, nhờ có các nhà bán lẻ mà bánh xe lưu thông hàng hoá trở lên nhanh
nhạy hơn.
- Trước hết là vai trò tối thiểu hóa số làn tiếp xúc giữa nhà sản xuất
và khách hàng từ đó làm tăng hiệu quả của quá trình lưu thông hàng hóa,
có thể thấy qua các sơ đồ lưu chuyển hàng hoá sau :
SV: Tiêu Quang Khánh Lớp: Thương mại quốc tế 49
7
Chuyên đê thực tập cuối khoá

Sơ đồ 1: lưu chuyển hàng hóa trực tiếp từ nhà sản xuất –khách
hàng

Hàng hóa được sản xuất ra để đến được tay người tiêu dùng thì nhà
sản xuất phải thực hiện đến chín lần tiếp xúc. Số lần tiếp xúc lớn sẽ gây rất
nhiều những khó khăn như: Vấn đề tập trung được nguồn lực để mở rộng
quy mô, những khó khăn trong quản lý kênh, trong hoạt động xúc tiến bán
hàng Những vấn đề này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của họ.
Sơ đồ 2: Lưu chuyển hàng hóa từ nhà sản xuất- trung gian- khách hàng
Nhờ tối thiểu hóa số lần tiếp xúc thoả mãn thị trường lên các nhà bán
lẻ đã giúp cho việc lưu thông hàng hoá trở nên dễ dàng hơn. Bên cạnh đó,
các nhà bán lẻ còn có những lợi thế về quan hệ tiếp xúc thị trường, kinh
nghiệm, sự chuyên môn hoá và quy mô hoạt động. Chính vì thế trong rất
SV: Tiêu Quang Khánh Lớp: Thương mại quốc tế 49
Nhà sản
xuất
Nhà sản
xuất
Nhà sản
xuất
Khách
hàng
Khách
hàng
Khách
hàng
Nhà sản
xuất
Nhà sản
xuất

Nhà sản
xuất
Khách
hàng
Khách
hàng
Khách
hàng
Nhà bán
lẻ
8
Chuyên đê thực tập cuối khoá
nhiều lĩnh vực để các nhà bán lẻ phân phối sản phẩm đến tay khách hàng
sẽ đem lại cho nhà sản xuất lợi ích nhiều hơn so với khi tự nó làm lấy. Vì
vậy mặc dù lợi nhuận của mình sẽ bị chia sẻ nhưng các nhà sản xuất vẫn sử
dụng các nhà bán lẻ trong kênh phân phối của mình.
- Thứ hai , hoạt động bán lẻ cũng đóng vai trò quan trọng trong
việc đem đến lợi ích tối đa cho người tiêu dùng. Khi có các nhà bán lẻ
tham gia phân phối hàng hoá thì khách hàng được hưởng rất nhiều lợi ích
như: Họ có thể mua được hàng hoá một cách nhanh chóng, chủng loại
hàng hoá đa dạng, được hưởng các dịch vụ hậu mãi phong phú…Như vậy
sẽ không còn khác biệt về thời gian, địa điểm và quyền sở hữu giữa nhà
sản xuất và người tiêu dùng. Mặc dù vẫn còn có những hạn chế: Thông tin
phản hồi từ phía khách hàng đến nhà sản xuất đôi khi không được phản
ánh đúng, nhà sản xuất phải bỏ ra một khoản chi phí cho các nhà bán lẻ.
Tuy nhiên sự có mặt của các nhà bán lẻ như là một nhu cầu tất yếu, làm
cho cung và cầu thị trường thị trường phù hợp nhau một cách trật tự và có
hiệu quả. Giúp doanh nghiệp đưa sản phẩm đến người tiêu dùng với đùng
mức giá mà họ có thể mua, đúng chủng loại mà họ cần, đúng thời gian và
địa điểm mà họ yêu cầu.

- Thứ ba là vai trò định hướng, kích thích sự phát triển của hoạt
động sản xuất hàng hóa xã hội. Như chúng ta biết, phân phối là khâu quan
trọng trong quá trình tái sản xuất hàng hóa xã hội. Trong khâu này, các nhà
bán lẻ bằng các hoạt động của mình, thực hiện nhiệm vụ đưa hàng hóa đến
tay người tiêu dùng cuối cùng, từ đó quá trình tái sản xuất hàng hóa có thể
tiếp diễn một cách thông suốt. Bởi vì trong nền kinh tế thị trường hướng
đến người tiêu dùng, lượng hàng hóa sản xuất phụ thuộc và nhu cầu và khả
năng tiếp cận hàng hóa của người tiêu dùng. Trong hoạt động của mình,
các nhà bán lẻ không chỉ đơn thuần làm nhiệm vụ phân phối hàng hóa mà
SV: Tiêu Quang Khánh Lớp: Thương mại quốc tế 49
9
Chuyên đê thực tập cuối khoá
song song với đó, họ còn làm cho hàng hóa trở nên dễ tiếp cận hơn và làm
phát sinh những nhu cầu mới cho người mua. Chính điều này đã làm cho
nền sản xuất xã hội ngày càng phát triển.
1.3. Chức năng của hoạt động bán lẻ
Chức năng của hoạt động bán lẻ có thể phân định trong phạm vi 4
chức năng chính là khai thác một số nhóm mặt hàng, dịch vụ nhất định;
chia những lô hàng lớn thành những đơn vị nhỏ; lưu trữ sẵn hàng hóa;
cuối cùng là trưng bày hàng hóa và cung cấp dịch vụ cộng thêm.
- Thứ nhất là chức năng khai thác một số nhóm hàng, dịch vụ
nhất định. Cửa hàng bán lẻ cần phải khai thác một số lượng lớn các sản
phẩm được sản xuất bởi nhiều công ty khác nhau. Điều nầy là cần thiết vì
nó mang lại cho khách hàng sự thoải mái trong việc lựa chọn sản phẩm,
nhãn hiệu, mùi vị, màu sắc, qui cách bao bì đóng gói và cả các mức giá
khác nhau. Chính vì vậy cho nên các cửa hàng bán lẻ phải rất thận trọng
trong việc chọn lưa những nhóm hàng hóa và dịch vụ thích hợp nhất cho
từng cửa hàng, phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng ở khu vực mà cửa
hàng tọa lạc.
Nếu nhiệm vụ chính của các nhà sản xuất là sản xuất ra sản phẩm tốt

thì cửa hàng bán lẻ giúp tiếp thị những sản phẩm nầy đến người tiêu dùng.
Chẳng hạn như Vinamilk sản xuất các sản phẩm sữa, Daso sản xuất xà
phòng, Mỹ Hảo sản xuất ra nước rửa chén, Nam Dương sản xuất nước
chấm và Bibica sản xuất bánh kẹo. Cho dù các nhà sản xuất trên có tự
đứng ra tổ chức cửa hàng bán lẻ để phân phối sản phẩm của mình thì cũng
khó lòng để người tiêu dùng có thể chấp nhận bỏ thời gian đi đến hàng
chục cửa hàng khác nhau để mua cho đủ những thứ mà mình cần dùng
trong ngày. Đó là lý do vì sao cửa hàng bán lẻ là trở thành một điểm mua
sắm được người tiêu dùng trên thế giới ưa chuộng.
SV: Tiêu Quang Khánh Lớp: Thương mại quốc tế 49
10
Chuyên đê thực tập cuối khoá
Tuy tất cả các cửa hàng bán lẻ đều cung cấp rất nhiều mặt hàng và
thương hiệu khác nhau, nhưng mỗi cửa hàng đều có một xu hướng thiên về
một nhóm sản phẩm làm nòng cốt.
- Thứ hai là chức năng chia nhỏ lô hàng lớn thành những đơn vị
nhỏ. Từ retailler bắt nguồn từ tiếng Pháp mang nghĩa là cắt nhỏ, chia nhỏ.
Chúng ta đều biết rằng bán sản phẩm trực tiếp đến người tiêu dùng là điều
không hề đơn giản đối với đa số các nhà sản xuất và các nhà bán sỉ. Do vậy
các nhà sản xuất và các nhà bán sỉ ưa thường thích bán từng lô lớn cho
những nhà bán lẻ chuyên nghiệp để họ chia nhỏ ra rồi bán lại cho người
tiêu dùng theo qui cách phù hợp với thói quen mua sắm của người tiêu
dùng tại địa phương ấy.
Chẳng hạn như nhà sản xuất nước bia cho nhà phân phối từng xe tải,
nhà phân phối sau đó bán lại cho nhà bán lẻ mỗi lần có thể chỉ vài két, để
nhà bán lẻ cuối cùng bán lại cho người tiêu dùng một vài chai.
- Thứ ba là chức năng lưu trữ hàng hóa. Một trong những chức năng
chính của nhà bán lẻ là lưu trữ hàng hóa nhằm làm cho hàng hóa lúc nào
cũng có sẵn mỗi khi người tiêu dùng cần đến. Người bán lẻ thông thường
không thích trữ chỉ một vài mặt hàng với khối lượng lớn, ngược lại họ

thích trữ nhiều mặt hàng với khối lượng càng nhỏ càng tốt. Vì như thế
khách hàng luôn luôn có nhiều sự chọn lựa hơn. Hưởng lợi từ chức năng
nầy của người bán lẻ, khách hàng không phải mua trử nhiều sản phẩm
không nhà. Họ chỉ mua đủ dùng vì sản phẩm lúc nào cũng có sẵn ở cửa
hàng bán lẻ.
Không những thế, người bán lẻ còn dự đoán nhu cầu của khách
hàng khi lên kế hoạch dự trữ hàng. Đây là một lợi ích mà người bán lẻ
tạo ra cho khách hàng, khi nhu cầu phát sinh khách hàng luôn dễ dàng
tìm thấy thứ mà mình cần.
SV: Tiêu Quang Khánh Lớp: Thương mại quốc tế 49
11
Chuyên đê thực tập cuối khoá
- Cuối cùng là chức năng trưng bầy hàng hóa và cung cấp dịch vụ
cộng thêm. Bên cạnh những chức năng trên, nhà bán lẻ còn tạo ra mặt bằng
trưng bày hàng hóa rộng lớn có thể trưng bày hàng hóa một cách đa dạng
và phong phú, giúp khách hàng thoải mái xem, thử, chọn lựa trước khi
quyết định mua.
Không chỉ chấp nhận thanh toán bằng những loại thẻ tín dụng phổ
biến, nhiều nhà bán lẻ còn phát hành thẻ tín dụng riêng của họ nhằm giúp
cho khách hàng có được một hạn mức tín dụng để mua hàng trước và trả
tiền sau.
1.4. Tầm quan trọng của ngành bán lẻ đối với nền kinh tế Việt
Nam
Bảng 1.1: Doanh số bán lẻ Việt Nam so với tổng thu nhập quốc dân
Nguồn: CBRE (11-2008)
Trong những năm gần đây, xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế đã mang đến cho ngành bán lẻ môi trường thuận lợi cho sự phát
triển. Cụ thể là trong giai đoạn từ năm 2006-2010, tổng mức bán lẻ tăng
trung bình khoảng 24% hàng năm và rất nhiều các trung tâm thương mại ra
đời với những bước đột phá trong dịch vụ thương mại và cách thức cung

SV: Tiêu Quang Khánh Lớp: Thương mại quốc tế 49
12
Chuyên đê thực tập cuối khoá
cấp hàng hóa đến tay người tiêu dùng.
Sự phát triển nhanh chóng của ngành bán lẻ đã tạo tiền đề quan trọng
để thúc đẩy sản xuất, tái sản xuất phát triển trên quy mô lớn hơn. Trong
một thị trường đầy tiềm năng như Việt Nam, khi mà nhu cầu về hàng tiêu
dùng của người dân rất lớn và không ngừng gia tăng, các nhà bán lẻ giúp
cho người mua có thể tiếp cận hàng hóa một cách dễ dàng, thuận tiện hơn,
làm cho quá trình tái sản xuất diễn ra thông suốt, doanh nghiệp có thêm
động lực sản xuất.
Bên cạnh đó, ngành bán lẻ cũng giúp giải quyết công ăn việc làm cho
một lượng lớn lao động phổ thông, góp phần giảm gánh nặng do thất
nghiệp gây ra cho nền kinh tế. Do đặc điểm bán hàng với lượng nhỏ và
cung cấp cho người tiêu dùng cuối cùng, hoạt động bán lẻ đòi hỏi một
mạng lưới bán lẻ rộng khắp để có sự hiểu biết hơn và dễ tiếp cận hơn với
người tiêu dùng. Bởi vây, ngành bán lẻ đòi hỏi phải có một lượng lao động
lớn với những kĩ năng đơn giản. Điều này giúp giải quyết tốt hơn tình
trạng thất nghiệp trong một quốc gia có nền giáo dục chưa được phổ cập
rộng rãi và nhận thức một cách đầy đủ như nước ta.
Thực hiện chức năng đưa hàng hóa đến tay người tiêu dùng cuối
cùng, ngành bán lẻ làm cho người tiêu dùng dễ dàng tiếp cận và lựa chọn
hàng hóa cho mình, góp phần nâng cao đời sống và mức sinh hoạt cho
người dân. Tiêu dùng nhiều hơn sẽ làm cho sản xuất phát triển, quay
ngược trở lại nâng cao thu nhập cho người dân.
Cuối cùng, hoạt động bán lẻ mang hàng hóa từ nước ngoài vào Việt
Nam, điều này không chỉ giúp nâng cao mức sống cho người dân, mà đó
còn là cơ hội để chúng ta có sự hiểu biết về văn hóa, đời sống, công nghệ
của các nước tiên tiến trên thế giới, từ đó tạo ra động lực cho nền kinh tế
đất nước hội nhập sâu hơn và tự ý thức để nâng cao tính cạnh tranh của

SV: Tiêu Quang Khánh Lớp: Thương mại quốc tế 49
13
Chuyên đê thực tập cuối khoá
chính mình. Khi mà hàng hóa trong nước phải đối mặt với sự cạnh tranh
đến từ những quốc gia có nền sản xuất mạnh hơn, để tồn tại, các nhà sản
xuất trong nước buộc phải tự làm mới, tìm kiếm, phát triển năng lực cạnh
tranh của mình. Có thể nói, cùng với việc mang hàng hóa từ nước ngoài
sang để thỏa mãn nhu cầu ngày càng phong phú của người tiêu dùng, các
nhà bán lẻ đã đem đến cơ hội cạnh tranh và phát triển cho các doanh
nghiệp sản xuất trong nước.
Với những điểm đã phân tích ở trên, chúng ta có thể khảng định rằng
hoạt động bán lẻ đóng góp một vai trò quan trọng không thể thiếu cho sự
phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong hiện tại cũng như tương lai.
Tuy nhiên, trong điều kiện gia nhập WTO, Việt Nam theo lộ trình
phải mở cửa thị trường bán lẻ. Điều này đồng nghĩa với việc các nhà bán lẻ
trong nước phải đối mặt với những đối thủ vốn lớn, có nguồn hàng ổn định
và đầy kinh nghiệm đến từ các quốc gia khác.
Và đặc biệt với một thị trường bán lẻ đầy tiềm năng như Việt Nam, sự
cạnh tranh mà WTO đem lại hứa hẹn sẽ đầy thử thách.
2. Sự cần thiết của việc nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành
bán lẻ Việt Nam
2.1. Cam kết về mở cửa thị trường bán lẻ khi gia nhập WTO của
Việt Nam
Theo cam kết, khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ mở cửa tất cả các
phân ngành dịch vụ phân phối theo phân loại của WTO bao gồm: dịch vụ
đại lý hoa hồng, dịch vụ bán buôn, dịch vụ bán lẻ(bao gồm cả hoạt động
bán hàng đa cấp) và dịch vụ nhượng quyền thương mại.
 Cam kết về các hình thức phân phối của doanh nghiệp nước
ngoài đầu tư tại Việt
- Thứ nhất là thành lập liên doanh với đối tác Việt Nam với điều

SV: Tiêu Quang Khánh Lớp: Thương mại quốc tế 49
14
Chuyên đê thực tập cuối khoá
kiện phần vốn nước ngoài trong liên doanh không quá 49%(từ ngày
1/1/2008 sẽ không hạn chế phần vốn nước ngoài trong liên doanh)
- Thứ hai là thành lập doanh nghiệp phân phối 100% vốn nước ngoài
sau 1/1/2009.
 Lộ trình phân phối các sản phẩm theo cam kết của Việt Nam
1. Từ ngày 11/1/2007: được quyền phân phối tất cả các sản phẩm
sản xuất tại Việt Nam và các sản phẩm nhập khẩu hợp pháp vào Việt
Nam, ngoại trừ:
o Xi măng và clinke;
o Lốp (trừ lốp máy bay);
o Giấy;
o Máy kéo; phương tiện cơ giới;
o Ô tô con và xe máy;
o Sắt thép;
o Thiết bị nghe nhìn;
o Rượu và phân bón.
2. Từ ngày 1/1/2009: Bổ sung thêm quyền phân phối thông qua dịch
vụ đại lý hoa hồng, bán buôn và bán lẻ đối với các sản phẩm máy kéo,
phương tiện cơ giới, ô tô con và xe máy;
3. Từ ngày 11/1/2010: Không có bất kỳ hạn chế nào về sản phẩm
được phép phân phối (miễn là các sản phẩm đó được sản xuất tại Việt Nam
hoặc được nhập khẩu hợp pháp vào Việt Nam).
Ví dụ đối với quyền phân phối ô tô nhập khẩu tại Việt Nam của doanh
nghiệp FDI sản xuất, lắp ráp ô tô. Chiếu theo cam kết trên của Việt Nam,
doanh nghiệp chỉ được quyền phân phối ô tô nhập khẩu khi hội tụ hai điều
kiện là doanh nghiệp đó được cấp phép thực hiện hoạt động phân phối và
việc phân phối ô tô nhập khẩu của họ được thực hiện sau ngày 1/1/2009.

 Quy định về việc mở thêm các điểm phân phối cho các doanh
SV: Tiêu Quang Khánh Lớp: Thương mại quốc tế 49
15
Chuyên đê thực tập cuối khoá
nghiệp nước ngoài
Tuy nhiên, cũng có hạn chế chung trong hoạt động của các doanh
nghiệp nước ngoài khi muốn đầu tư vào thị trường phân phối bán lẻ Việt
Nam là họ chỉ được phép cung cấp dịch vụ bán lẻ thông qua việc lập cơ sở
bán lẻ(cửa hàng, siêu thị… ) và các doanh nghiệp này chỉ được tự động mở
một địa điểm bán lẻ. Việc thành lập các cơ sở bán lẻ ngoài cơ sở thứ nhất
phải được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền. Theo cam kết gia nhập
WTO, Việt Nam có quyền xem xét nhu cầu kinh tế để cho phép hay từ
chối yêu cầu lập cơ sở bán lẻ thứ hai trở đi của các doanh nghiệp phân phối
có vốn đầu tư nước ngoài.
Chính quy định này là lý do các doanh nghiệp nước ngoài chưa thể
đầu tư ồ ạt vào thị trường bán lẻ Việt Nam, tạo cơ hội cho các nhà bán lẻ
trong nước có cơ hội tự hoàn thiện và nâng cao khả năng cạnh tranh của
mình trong bối cảnh mới.
 Đối với các hình thức phân phối qua mạng hoặc các hình thức
thương mại điện tử khác
Đối với hình thức phân phối qua mạng hoặc dưới các hình thức
thương mại điện tử khác, theo cam kết WTO, đối với các doanh nghiệp
phân phối nước ngoài không có hiện diện thương mại tại Việt Nam (không
thiết lập liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài), Việt Nam chỉ
cho phép họ phân phối qua biên giới các sản phẩm sau:
• Các sản phẩm phục vụ nhu cầu cá nhân;
• Các chương trình phần mềm máy tính hợp pháp phục vụ nhu cầu cá
nhân hoặc vì mục đích thương mại
• Ngoài ra, các hình thức bán hàng qua mạng khác chưa được chính
phủ Việt Nam cam kết

Những cam kết mở cửa thị trường đem đến cho ngành bán lẻ Việt
SV: Tiêu Quang Khánh Lớp: Thương mại quốc tế 49
16
Chuyên đê thực tập cuối khoá
Nam những tác động trái chiều. Một mặt, kênh bán lẻ truyền thống cũng
như hiện đại của chúng ta đứng trước nguy cơ sụp đổ bởi sự cạnh tranh
đến từ các đối thủ quốc tế. Mặt khác, gia nhập WTO cũng đem đến một
luồng gió mới cho thị trường bán lẻ còn đang sơ khai của Việt Nam. Sự có
mặt của các tập đoàn phân phối đa quốc gia với thế mạnh về tài chính,
công nghệ và mạng lưới sẽ đẩy hoạt động kinh doanh bán lẻ trên cả nước
đi vào bước ngoặt mới của cuộc cạnh tranh.
2.2. Mối đe dọa đến từ các tập đoàn bán lẻ đa quốc gia
Tính đến cuối năm 2006, thị trường phân phối ở Việt Nam đã có
nhiều doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài của các tập đoàn phân phối
lớn trên thế giới.
Đó là các tên tuổi như Metro Cash & Carry(Đức), BigC, Parkson,
Lotter với các siêu thị tại TP.HCM, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ
và đang tiếp tục triển khai kế hoạch mở rộng thêm các siêu thị vừa và nhỏ
tiếp theo trên các tỉnh thành phố khác.
Với những ưu thế vượt trội về vốn, công nghệ, phương pháp quản lý
và kinh nghiệm kinh doanh trong ngành phân phối ở các nước trên thế
giới, các tập đoàn phân phối đa quốc gia đã thực sự trở thành mối đe dọa
cho các nhà bán lẻ trong nước.
Đầu tiên, các tập đoàn bán lẻ đa quốc gia với quy mô lớn và sức mạnh
của vốn đầu tư đã tạo sức ép cho các nhà sản suất để hạ giá thành sản phẩm
của họ khi đến tay người tiêu dùng. Thực tế cho thấy, với cùng một mặt
hàng, cùng một thời điểm nhưng được bán trong siêu thị của hệ thống siêu
thị của chúng ta là đắt nhất so với Metro, BigC và các cơ sở đường phố.
Điều này là do khi ký hợp đồng với nhà sản xuất, các siêu thị Việt Nam
thường quy định sau một thời gian bán được hàng, siêu thị mới thanh toán

cho nhà sản xuất phần hàng bán được còn lượng hàng không bán được
SV: Tiêu Quang Khánh Lớp: Thương mại quốc tế 49
17
Chuyên đê thực tập cuối khoá
hoặc kém phẩm chất sẽ trả lại cho nhà sản xuất. Như vậy, các siêu thị trong
nước đã đẩy toàn bộ rủi ro trong lĩnh vực lưu thông lên nhà sản xuất cho
nên nhà sản xuất sẽ nâng giá lên cộng với phần trăm siêu thị được hưởng
đã đội giá sản phẩm lên cao.
Khác với các siêu thị trong nước, các tập đoàn bán lẻ đa quốc gia lại
làm theo một cách khác. Lấy ví dụ cho trường hợp của Metro, Khi ký hợp
đồng , nhà sản xuất được hưởng 4 ưu đãi, thứ nhất là dán lên nhãn hiệu của
nhà sản xuất biểu tượng của Metro để nâng cấp sản phẩm đó lên; thứ hai là
họ mua với khối lượng lớn để chi phí sản xuất giảm xuống; thứ ba là mua
ổn định trong thời gian dài để nhà sản xuất hoạch định kế hoạch sản xuất
cho phù hợp; thứ tư là thanh toán dứt điểm lượng hàng đã mua cho nhà sản
xuất. Vì được hưởng 4 ưu đãi đó nên nhà sản xuất phải chấp nhận điều
khoản thứ năm là bán cho Metro tối thiểu thấp hơn 15% so với giá bán
ngoài thị trường. Như vậy là Metro có được mặt hàng rẻ, khối lượng lớn và
ổn định để cung cấp cho người tiêu dùng. Do đó, khách hàng của Metro là
những nhà bán lẻ, những hộ tiêu dùng lớn như khách sạn, nhà hàng… Khi
bán được càng nhiều hàng có nghĩa là nhà sản xuất cũng tiêu thụ được
nhiều hàng nên chi phí sản xuất sẽ giảm đi, giá thành sẽ lại càng giảm, lãi
càng nhiều.
Hơn nữa, với kinh nghiệm và ứng dụng các phương pháp quả lý hiệu
quả. Các tập đoàn bán lẻ đa quốc gia tỏ ra nhậy bén hơn trong việc nắm bắt
nhu cầu của người tiêu dùng và phản ứng kịp thời đối với những thay đổi
về thị hiếu. Cách bài trí trong cửa hàng cũng được nghiên cứu kĩ lưỡng
nhằm tạo cảm giác thoải mái và hứng thú mua hàng cho người tiêu dùng,
khác hẳn với sự đơn điệu của các siêu thị nội địa.
Bên cạnh đó, những chiến dịch khuyến mại, quảng cáo, quan hệ

SV: Tiêu Quang Khánh Lớp: Thương mại quốc tế 49
18
Chuyên đê thực tập cuối khoá
khách hàng… mà các tập đoàn phân phối đa quốc gia tiến hành cũng đã
bước đầu tạo nên văn hóa mua sắm mới cho người tiêu dùng Việt Nam.
Ngày nay, người Việt sống ở đô thị ngày càng quen thuộc hơn với hình
thức mua sắm trong các siêu thị lớn, háo hức trước những đợt khuyến mại
được quảng cáo rầm rộ và giữ mối liên hệ ngày càng được cải thiện với các
trung tâm mua sắm lớn.
Chính những giá trị nổi trội mà các nhà bán lẻ quốc tế cung cấp đã
làm cho họ ngày càng trở nên quen thuộc hơn trong mắt người tiêu dùng
và làm giảm thị phần kinh doanh của các nhà bán lẻ nội địa.
2.3. Sự non trẻ của ngành bán lẻ Việt Nam
Hệ thống phân phối tại Việt Nam hiện nay chủ đạo bởi hệ thống phân
phối truyền thống với kênh phân phối chính là chợ và các tiệm bán lẻ rải
rác khắp các địa phương. Điều này đối chọi với hệ thống kinh doanh bán lẻ
hiện đại và chủ yếu là siêu thị như Co.opMart, MaxiMark và các trung
tâm bán sỉ lẻ lớn như Metro, BigC. Tại các đô thị lớn - nơi có sức mua lớn
nhất, nhịp sống dần dần được thay đổi trong các gia đình trẻ bởi thói quen
cuối tuần đi siêu thị mua đồ dùng cho cả gia đình trong một tuần. Thêm
nữa, sự chênh lệch về phương thức kinh doanh, sự đa dạng hàng hóa, giá
cả, nhãn hiệu, an toàn thực phẩm đã nghiêng cán cân lợi thế về phía hệ
thống phân phối hiện đại. Với sự phát triển nhãn tiền thì hệ thống phân
phối hiện đại tất nhiên sẽ làm suy yếu kênh phân phối truyền thống trong
thời gian tới.
Đối với các nhà bán lẻ nội địa, việc thu hẹp hệ thống phân phối truyền
thống thay bằng phân phối hiện đại sẽ làm ưu thế cạnh tranh của họ yếu đi
do trong hàng chục năm qua họ đã phát triển các lợi thế cạnh tranh của
mình dựa vào hệ thống chợ và các cửa hàng bán lẻ nhỏ, phân bố rải rác.
Bên cạnh đó, hệ thống bán lẻ hiện đại nước ta còn chưa nhiều, lại

SV: Tiêu Quang Khánh Lớp: Thương mại quốc tế 49
19
Chuyên đê thực tập cuối khoá
thiếu tính chuyên nghiệp và ít vốn, hệ thống hậu cần, nguồn hàng còn rời
rạc, thiếu đồng bộ. Khó khăn với doanh nghiệp và hộ kinh doanh Việt Nam
đó là năng lực cạnh tranh yếu vì đại bọ phận các doanh nghiệp có quy mô
nhỏ, trình độ quản lý lạc hậu, cơ sở kinh doanh chưa hiện đại, chiến lược
kinh doanh chưa được quan tâm đúng mức
Thêm vào đó, tuy chiếm giữ thị trường bán lẻ Việt Nam từ trước
nhưng các nhà bán lẻ trong nước không chiếm được các vị trí đắc địa trong
kinh doanh. Thực tế cho thấy, hầu hết các siêu thị, trung tâm thương mại
nước ngoài đều có vị trí đẹp nhất, gần khu trung tâm, nơi tập trung dân cư,
giao thông thuận tiện và mặt bằng rộng.
Trong phân phối bán lẻ, mối quan hệ tin tưởng giữa khách hàng và
nhà kinh doanh là vô cùng quan trọng. Đặc biệt, theo xu hướng của thế
giới, người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến vấn đề an toàn thực phẩm và
sự thoải mái trong quá trình mua sắm của mình. Tuy nhiên, an toàn thực
phẩm và sự minh bạch về giá cả, xuất xứ hàng hóa lại đang là một khâu
yếu còn đang tồn tại trong hệ thống phân phối bán lẻ của chúng ta.
Đối mặt với hoàn cảnh mới, cụ thể là 1/1/2009, nhà nước chính thức
cấp phép kinh doanh cho các doanh nghiệp bán lẻ 100% vốn nước ngoài
được hoạt động trong thị trường Việt Nam, điều quan trọng nhất đối với
các nhà bán lẻ nội địa là phải cải thiện năng lực cạnh tranh của mình để có
thể thích ứng với điều kiện mới mà không phải gánh chịu những cú sốc
ngoài ý muốn. Trong khoảng thời gian gần đây, do nền kinh tế thế giới suy
thoái mà sự thiếu ổn định của thị trường Việt Nam, các công ty phân phối
đa quốc gia cũng giảm dần tốc độ thâm nhập thị trường. Tuy nhiên, Việt
Nam vẫn là một thị trường đầy tiềm năng( xếp thứ 14 về thị trường bán lẻ
tiềm năng trên thế giới vào năm 2010) và các nhà bán lẻ cần phải thấy
được rằng đây là cơ hội để cải thiện sức cạnh tranh của mình chứ không

SV: Tiêu Quang Khánh Lớp: Thương mại quốc tế 49
20
Chuyên đê thực tập cuối khoá
phải là dịp để trì hoãn.
3. Cơ hội và thách thức với ngành bán lẻ Việt Nam khi gia nhập
WTO
3.1. Cơ hội
- Tạo ra một phong cách phục vụ văn minh hiện đại trong hệ
thống bán lẻ Việt nam.
Khi các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào hệ thống bán lẻ Việt
nam, các doanh nghiệp chỉ được phép mở một điển bán lẻ, còn từ điểm thứ
2 sẽ được xem xét trên cơ sở kiểm tra nhu cầu kinh tế. Vì thế hầu hết các
doanh nghiệp có xu hướng đầu tư các siêu thị lớn, đáp ứng cho nhu cầu
mua sắm có chất lượng cao của người tiêu dùng. Đây là các siêu có quy
mô lớn, mặt hàng đa dạng phong phú, áp dụng các phương tiện và kỹ thuật
hiện đại trong cung cấp dịch vụ bán lẻ, phong cách phục vụ mới lạ, tạo nên
sự văn minh hiện đại trong phục vụ, đáp ứng nhu cầu đa dạng phong phú
và ngày càng nâng cao của người tiêu dùng. Qua khảo sát siêu thị Big C ở
Hải phòng, Hà nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng nai, trong các ngày
nghỉ, ngày tết, ngày lễ đã thu hút một lượng khách hàng lớn đến tham quan
và mua sắm.
- Học tập được kinh nghiệm quản lý trong hệ thống bán lẻ hiện đại.
Các siêu thị bán buôn, bán lẻ của các doanh nghiệp nước ngoài ở
Việt nam như Metro, Big C, Parkson, Lotte là những siêu thị áp dụng các
công nghệ quản lý và kinh doanh hiện đại, đặc biệt trong lĩnh vực khai
thác và cung cấp nguồn hàng, chương trình quảng cáo khuyến mại, hệ
thống logicstics, quản trị nhân sự, kỹ thuật bán hàng…đây là các vấn đề có
tính then chốt trong hoạt động của siêu thị mà các doanh nghiệp Việt nam
còn nhiều hạn chế. Giám đốc Big C Hải phòng cho rằng hệ thống Big C có
phương pháp khai thác nguồn hàng và cung cấp hàng hóa cũng như các

SV: Tiêu Quang Khánh Lớp: Thương mại quốc tế 49
21
Chuyên đê thực tập cuối khoá
chương trình khuyến mại, bán hàng rất linh hoạt, hiệu quả, tạo ra các mặt
hàng, các dịch vụ khách hàng rất độc đáo với chi phí thấp và cạnh tranh có
tác dụng thu hút khách hàng, tăng doanh số bán hàng và rất đáng để các
siêu thị khác học tập
- Tạo động lực nâng cao khả năng cạnh tranh cho các nhà bán lẻ
Việt nam
Trong hoạt động kinh doanh nói chung và trong dịch vụ bán lẻ nói
riêng để phát triển phải tạo động lực cạnh tranh và cạnh tranh công bằng.
Các siêu thị nước ngoài với các ưu điểm có tính nổi trội là đối thủ cạnh
tranh trực tiếp của các siêu thị, các chuỗi cửa hàng tiện ích của các doanh
nghiệp Việt nam. Để tồn tại, các doanh nghiệp buộc phải tự hoàn thiện
mình, nâng cao khả năng cạnh tranh , đây là động lực để các doanh nghiệp
phát triển
- Làm đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ trên thị trường
Các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài thường cung cấp dịch vụ có chất
lượng cao, đáp ứng nhu cầu bậc cao của thị trường. Các doanh nghiệp Việt
nam chủ yếu cung cấp các hình thức bán lẻ truyền thống, các chuỗi cửa
hàng tiện ích, các siêu thị có chất lượng dịch vụ bậc trung. Sự có mặt của
các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài đã làm đa dạng hoá, tạo nên một chuỗi
các sản phẩm dịch vụ phủ đầy các phân khúc thị trường bán lẻ của Việt
nam.
- Tăng cơ hội hợp tác kinh doanh
Chỉ tính riêng phương thức 3, để tiếp cận thị trường bán lẻ Việt nam
doanh nghiệp nước ngoài có thể thành lập chi nhánh, thành lập công ty
100% vốn nước ngoài, có thể góp vốn liên doanh với các doanh nghiệp
Việt nam, có thể mua cổ phần của các doanh nghiệp bán lẻ Việt nam, đồng
thời các doanh nghiệp nước ngoài còn có nhu cầu thuê mặt bằng, nhu cầu

SV: Tiêu Quang Khánh Lớp: Thương mại quốc tế 49
22
Chuyên đê thực tập cuối khoá
về dịch vụ nghiên cứu thị trường, cung cấp hàng hóa, dịch vụ hỗ trợ….đây
là cơ hội để các doanh nghiệp Việt nam hợp tác kinh doanh với các doanh
nghiệp nước ngoài.
- Nâng cao chất lượng giảm giá thành dịch vụ
Mở cửa thị trường phân phối sẽ tạo nên một sự cạnh tranh rất gay
gắt, các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đều phải thường xuyên
nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Một trong các giải pháp tạo nên
khả năng cạnh tranh vượt trội là nâng cao chất lượng giảm giá thành dịch
vụ, làm chất lượng dịch vụ khách hàng thường xuyên được cải thiện, giá
hàng hóa có tính cạnh tranh. Khảo sát thực tế tại siêu thị Intimex Hải
phòng, Coop Mart Thành phố Hồ Chí Minh đều cho rằng để cạnh tranh với
các siêu thị nước ngoài như Big C, các siêu thị này đều phải áp dụng các
biện pháp nhằm nâng chất lượng dịch vụ tạo nên sự văn minh, sang trọng
trong phong cách phục vụ, giảm các chi phí nhằm giảm giá hàng hóa nhằm
thu hút khách hàng, điều này kích thích tiêu dùng và tác động tích cực đển
dòng vận động của hàng hóa để phát triển sản xuất.
- Góp phần xuất khẩu hàng hóa cho Việt nam.
Các doanh nghiệp nước ngoài thường có hệ thống, bán buôn, bán lẻ
toàn cầu, một số hàng hóa Việt nam được xuất khẩu để cung cấp cho hệ
thống ở nước ngoài. Ở Việt nam, Metro đã tham gia xuất khẩu các sản
phẩm của Việt nam cho hệ thống Metro toàn cầu, các doanh nghiệp khác
hoạt động xuất khẩu cũng còn hạn chế.
3.2. Thách thức
- Tạo nên sự cạnh tranh gay gắt đối với các doanh nghiệp bản lẻ
trong nước

Tạo nên sự cạnh tranh vừa tác động tích cực, nhưng vừa là tác động

SV: Tiêu Quang Khánh Lớp: Thương mại quốc tế 49
23
Chuyên đê thực tập cuối khoá
tiêu cực đến các doanh nghiệp bán lẻ trong nước. Mở cửa thị trường áp lực
cạnh tranh nên các doanh nghiệp trong nước ngày càng tăng cao, yêu cầu
các doanh nghiệp trong nước phải thường xuyên đổi mới, tự hoàn thiện để
phát triển trong môi trường có tính cạnh tranh quốc tế, những doanh
nghiệp không đủ khả năng cạnh tranh sẽ bị loại ra khỏi hệ thống hoặc
chuyển sang các lĩnh vực kinh doanh khác phù hợp hơn.
- Các doanh nghiệp bán lẻ trong nước bị mất dần thị phần
Khi mở cửa thị trường, các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài thường
chọn các phân khúc thị trường hấp dẫn để chiếm lĩnh, thường là các phân
khúc thị trường mà các doanh nghiệp Việt nam chưa có lợi thế. Sự xuất
hiện của các doanh nghiệp nước ngoài làm cho thị trường của các doanh
nghiệp Việt nam bị thu hẹp, gây khó khăn cho sự phát triển của các doanh
nghiệp bán lẻ trong nước
- Có một sự chuyển dịch nguồn nhân lực chất lượng cao từ các
doanh nghiệp bán lẻ trong nước sang các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài
Các doanh nghiệp nước ngoài thường có các điều kiện làm việc tốt
và trả mức lương hấp dẫn hơn. Khi các doanh nghiệp nước ngoài tham gia
vào hệ thống bán lẻ trong nước sẽ cần nguồn nhân lực trong nước, theo
kinh nghiệm của Trung quốc sẽ có một số cán bộ quản lý, bán hàng, phục
vụ có chất lượng cao được chuyển dịch từ các doanh nghiệp trong nước,
đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước sang các doanh nghiệp nước ngoài.
Qua khảo sát tại Coop. Mart, Maximark nhiều cán bộ quản lý và nhân viên
bán hàng đã sang làm việc tại các siêu thị nước ngoài. Sự chuyển dich
nguồn nhân lực, nhất là các nhà quản lý cấp cao có chất lượng sẽ gây khó
khăn cho các doanh nghiệp trong nước.
CHƯƠNG II
SV: Tiêu Quang Khánh Lớp: Thương mại quốc tế 49

24
Chuyên đê thực tập cuối khoá
THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NGÀNH
BÁN LẺ VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP WTO
1. Thực trạng ngành bán lẻ Việt Nam sau khi gia nhập WTO
1.1. Tổng quan về thị trường bán lẻ hàng hóa và dịch vụ trong
giai đoạn 2006-2010
Giai đoạn 2006- 2010 là một khoảng thời gian có đầy biến động đối
với thị trường bán lẻ Việt Nam. Tuy rằng cuộc khủng hoảng kinh tế thế
giới năm 2009 phần nào ảnh hưởng đến mức độ hấp dẫn nhà đầu tư của
thị trường bán lẻ Việt Nam và bằng chứng là chúng ta từ hạng nhất năm
2008 về mức độ hấp dẫn nhà đầu tư năm 2008 đã rớt xuống hạng 14
năm 2010. Mặc dù vậy, thị trường bán lẻ Việt Nam vẫn là một thị
trường đầy hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.
Trong khoảng thời gian gần đây, bất chấp sự suy thoái của nền kinh
tế thế giới, Việt Nam vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng của mình và là một
trong các nước có mức tăng trưởng cao nhất thế giới.
Bảng 2.1: Tốc độ tăng trưởng nền kinh tế Việt Nam 2010
Việt Nam 6%
Thái Lan 5.5%
Singapore 4.7%
Indonesia 6%
Philippines 3.6%
Thế giới 3.6%
Các nước phát triển 2.3%
Các nước đang phát
triển
6.3%
Nguồn: Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) Jan 2010
Trong khoảng thời gian 2006- 2010, tốc độ tăng trưởng bình quân của

SV: Tiêu Quang Khánh Lớp: Thương mại quốc tế 49
25

×