Tải bản đầy đủ (.doc) (127 trang)

BÀI GIẢNG HỌC PHẦN KINH TẾ QUỐC TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (641.13 KB, 127 trang )

BÀI GIẢNG HỌC PHẦN
KINH TẾ QUỐC TẾ
1
CHƯƠNG 1
Giới thiệu môn học kinh tế quốc tế
1.1. Nền kinh tế thế giới và các quan hệ kinh tế quốc tế
1.1.1. Nền kinh tế thế giới
1.1.1.1. Khái niệm nền kinh tế thế giới
Cùng với sự phát triển của lịch sử loài người, các hoạt động kinh tế diễn ra với quy mô
ngày càng lớn, phạm vi các quan hệ kinh tế ngày càng rộng, tính chất của chúng ngày càng
phức tạp, trình độ phát triển của chúng ngày càng cao. Từ khi phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa ra đời, quan hệ thương mại giữa các quốc gia ngày càng phát triển về cả chiều sâu
lẫn chiều rộng, sự phân công lao động diễn ra ở tầm quốc tế, các doanh nghiệp tìm cách mở
rộng thị trường ra nước ngoài, các quan hệ kinh tế quốc tế diễn ra không những trên lĩnh vực
thương mại mà cả trên lĩnh vực đầu tư, chuyển giao công nghệ, di chuyển quốc tế sức lao
động và nhiều lĩnh vực khác. Do sự phát triển của các hoạt động thương mại quốc tế và các
hoạt động trao đổi quốc tế khác, thị trường thế giới được hình thành. Nhưng không phải khi
hình thành thị trường thế giới là đã xuất hiện khái niệm nền kinh tế thế giới. Khái niệm nền
kinh tế thế giới chỉ ra đời trên cơ sở sự phát triển đến một trình độ nhất định không những của
các nền kinh tế quốc gia mà quan trọng hơn là sự phát triển đáng kể của các quan hệ kinh tế
quốc tế, vì chính các quan hệ kinh tế quốc tế này mới làm cho các nền kinh tế quốc gia liên hệ
và phụ thuộc lẫn nhau, tác động qua lại và thúc đẩy lẫn nhau, tạo nên tính thống nhất, tính
chỉnh thể của nền kinh tế thế giới
Nền kinh tế thế giới là tổng thể các nền kinh tế của các quốc gia trên trái đất có mối
quan hệ hữu cơ và tác động qua lại lẫn nhau thông qua sự phân công lao động quốc tế cùng
với các quan hệ kinh tế quốc tế của chúng.
Sự phát triển của nền kinh tế thế giới phụ thuộc trước hết vào trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, của phân công lao động quốc tế và của việc phát triển quan hệ kinh tế
quốc tế. Ngày nay nền kinh tế thế giới là một thực thể kinh tế đặc thù, duy nhất, có cơ cấu
nhiều tầng nấc, nhiều cấp độ quan hệ vơi snhững phạm vi hoạt động khác nhau. Các bộ phận
cấu thành nền kinh tế thế giới tác động qua lại, nhiều chiều trong sự vận động không ngừng cả


về mặt lượng và mặt chất.
1.1.1.2. Cơ cấu của nền kinh tế thế giới
Nền kinh tế thế giới là một thực thể thống nhất hữu cơ của hai bộ phận nói trên, nó
vận động theo những quy luật khách quan của quá trình phân công lao động quốc tế và của
hoạt động đầu tư và thương mại quốc tế. Cơ cấu của nền kinh tế thế giới biến đổi gắn liền với
2
các cuộc cách mạng công nghiệp. Ngày nay với xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá làm
tăng dần tính đa dạng của các mối quan hệ kinh tế quốc tế và làm tăng tính chỉnh thể của nền
kinh tế thế giới.
Cơ cấu của nền kinh tế thế giới có thể được xem trên nhiều góc độ
- Theo hệ thống kinh tế xã hội: người ta chia nền kinh tế thế giới ra thành
+ Hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa
+ Hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa
+ Hệ thống kinh tế của các nước thuộc thế giới thứ ba
Thực ra sự phân chia này chủ yếu có ý nghĩa về mặt nhận thức chính trị và tư tưởng,
còn trên thực tế nó mang tính hết sức tương đối do sự biến đổi và đan xen giữa các mô hình
kinh tế - xã hội khác nhau đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ trong thế giới hiện đại.
Ngay trong các quốc gia tư bản chủ nghĩa phát triển cao cũng không phải chỉ tồn tại
duy nhất loại hình kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Đối với các nước thuộc thế giới thứ ba cũng đang diễn ra sự phối hợp và đan xen giữa
nhiều mô hình kinh tế - xã hội và mô hình phát triển khác nhau.
Sự tan rã của mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Liên Xô (cũ) và Đông âu chỉ chứng minh
sự yếu kém và không phù hợp với thực tiễn của một mô hình cứng nhắc nào đó, còn phương
thức sản xuất xã hội chủ nghĩa với tư cách là một chế độ xã hội ưu việt vẫn là mục tiêu hướng
tới trong tương lai và trên thực tế người ta vẫn đang tìm cách biến nó thành hiện thực sao cho
phù hợp với đặc điểm và trình độ phát triển ở một số quốc gia.
- Theo trình độ phát triển kinh tế: người ta chia nền kinh tế thế giới thành 3 nhóm
quốc gia:
+ Các nước công nghiệp phát triển cao
+ Các nước đang phát triển

+ Các nước chậm phát triển.
Theo cách phân chia này, thế giới ngày nay có khoảng 30 quốc gia được xếp vào
nhóm các nước công nghiệp phát triển cao với đặc trưng là họ đã hoàn thành quá trình công
nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân, đạt được cơ cấu kinh tế hiện đại và có mức GDP bình quân
đầu người một năm hàng chục ngàn USD. Một số nước công nghiệp mới (NIC
s
) đã dần dần
được chuyển lên nhóm các nước công nghiệp phát triển cao này.
Nhóm các nước đang phát triển chiếm đại bộ phận số lượng các quốc gia trong nền
kinh tế thế giới. Những quốc gia này đang thực hiện nhiều biện pháp khác nhau để tiến hành
công nghiệp hoá đất nước họ và bước đầu cũng đạt được những kết quả nhất định trong việc
đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế. Trong số các nước đang phát triển, có một số nước đạt
3
được thành công với sự tăng trưởng kinh tế cao trong 3 – 4 thập kỷ gần đây và họ được xếp
thành nhóm các nước công nghiệp mới (NIC
s
).
Trên thế giới ngày nay, còn có một số quốc gia do điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội
và tự nhiên của họ không được thuận lợi, mặc dù đã giành được độc lập dân tộc nhưng vẫn ở
tình trạng nghèo đói và tốc độ phát triển kinh tế rất thấp, nền kinh tế của các quốc gia này
được xếp vào nhóm các nước chậm phát triển
Ngoài hai cách phân chí trên, người ta còn có thể xem xét kết cấu của nền kinh tế thế
giới theo nhiều tiêu thức khác như theo khu vực địa lý, theo trình độ công nghệ, theo đặc điểm
dân tộc – văn hoá - lịch sử…
1.1.1.3. Các giai đoạn phát triển của nền kinh tế thế giới
Theo tiến trình lịch sử vận động các quan hệ kinh tế quốc tế, nền kinh tế thế giới hình
thành sau sự ra đời của thị trường thế giới. Bởi vì chỉ khi phân công lao động quốc tế và các
quan hệ kinh tế quốc tế phát triển đến một giai đoạn nhất định mới đạt tới điều kiện của sự
hình thành nền kinh tế thế giới. Ở hình thái ban đầu, nền kinh tế thế giới mới chỉ thể hiện qua
mối quan hệ buôn bán diễn ra có tính chất tự phát, chủ yếu dựa trên sự khác biệt về điều kiện

tự nhiên sẵn có của từng quốc gia. Đến cuối thế kỷ 15 và đầu 16, nhờ những phát kiến địa lý
vĩ đại của Christoph Colombo (1446-1506) nền sản xuất hàng hoá tư bản đã vượt qua biên
giới quốc gia, hình thành các trung tâm thương mại quốc tế lớn trên thế giới. Vào giai đoạn
này, phân công lao động quốc tế đã dần dần chuyển sang tự giác trên cơ sở lợi thế so sánh
của mỗi nước.
Cơ cấu sản xuất và trao đổi quốc tế được biến đổi về chất theo các cuộc cách mạng
CN
- Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (1820 – 1870) làm cho giao thông vận tải
PT nhanh chóng, công nghiệp được mở rộng và bước đầu hình thành một thị trường thế giới
rộng lớn
- Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai (1870 – 1913) gây ra những biến đổi lớn
trong các ngành điện lực, hoá chất, luyện kim… Những thay đổi cơ bản trong buôn bán quốc
tế tăng cường quá trình đầu tư quốc tế, hình thành những quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng
bền vững. Đây là thời kỳ đánh dấu sự xuất hiện nền kinh tế thế giới - Một thực thể thống nhất
hữu cơ bao gồm cả hoạt động sản xuất, buôn bán, đầu tư, tài chính – tín dụng diễn ra giữa các
quốc gia chủ đạo và các khu vực kinh tế chủ yếu trên thế giới.
- Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba (1913 – 1950) làm xuất hiện và phát triển
nhanh chóng các ngành năng lượng hạt nhân, hoá dầu, công nghệ vũ trụ và khai thác đáy đại
dương, tin học, công nghệ sinh học… làm gia tăng dòng đầu tư và buôn bán quốc tế, thúc đẩy
sự phát triển của nền kinh tế thế giới lên một cơ sở vật chất kỹ thuật mới.
4
- Hiện nay, nền kinh tế thế giới đang đi vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
với các hướng chủ yếu như phát triển ngành vi điện tử, tin học, thông tin viễn thông và tự
động hoá, năng lượng mới, vật liệu mới, công nghệ sinh học…cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ tư đưa tới sự biến đổi sâu sắc về cơ cấu kinh tế của các quốc gia và đưa xã hội loài
người bước sang một nền văn minh mới - nền văn minh thứ ba. Phân công lao động quốc tế
diễn ra phổ biến cả chiều rộng và chiều sâu với những mức độ và phạm vi khác nhau. Quá
trình khu vực hoá và toàn cầu hoá tác động đan xen lẫn nhau. Các mối quan hệ kinh tế phát
triển đa dạng với những cường độ khác nhau làm tăng tính chỉnh thể của nền kinh tế thế giới
1.1.1.4. Bối cảnh mới của nền kinh tế thế giới

Nền kinh tế thế giới đang bước vào thiên niên kỷ thứ ba với những đặc điểm mới trong
tốc độ tăng trưởng, trong sự thay đổi cơ cấu và đặc biệt là sự sống động trong các quan hệ
kinh tế QT
(1) Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế thế giới diễn ra không đều giữa các nước, giữa
các khu vực, giữa các nhóm nước và giữa các thời kỳ. Sau những năm trì trệ của đầu thập kỷ
90, kinh tế thế giới tăng trưởng khá cao trong 2 năm 1995 – 1996 (3,8%) song lại bị suy giảm
nhẹ vào năm 1997 (3,5%) và tiếp tục tăng không đều ở các năm tiếp theo.
Nền kinh tế các nước công nghiệp phát triển trong nhóm G7 được phục hội. Riêng
kinh tế Nhật đang đứng trước những vấn đề nan giải và đang đòi hỏi những cải cách đáng kể
nếu như nó muốn trở lại tăng trưởng cao. Kinh tế các nước đang phát triển, đặc biệt là các
nước công nghiệp hoá (NIC
s
) vẫn đạt mức tăng trưởng khá cao, đặc biệt Trung Quốc giai
đoạn này vẫn đạt tốc độ tăng trưởng 9%.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Đông Nam Á năm 1997, tốc độ tăng
trưởng của các nền kinh tế năng động Đông á đã giảm hẳn, làm ảnh hưởng chung đến tốc độ
tăng trưởng của nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, nhờ vào tăng trưởng xuất khẩu, nhu cầu nội
địa và một loạt các chính sách được áp dụng mà bước qua năm 2000 nền kinh tế Châu á đã có
bước tăng trưởng khả quan là 6,7%.
Kinh tế các nước Mỹ La Tinh cũng đang tiếp tục phục hồi với tốc độ GDP 3,3% sau
cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Mêxico năm 1994. Đến năm 2000, kinh tế Mỹ - nền kinh tế lớn
nhất thế giới đạt tốc độ tăng trưởng ngoạn mục là 5,2%.
EU cũng đạt tốc độ tăng trưởng 3,4%. Tất cả đã làm tốc độ tăng trưởng kinh tế thế
giới năm 2000 đạt gần 4%
Tuy nhiên sau sự kiện 11/9/2001 tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới đã giảm hẳn, chỉ
còn 1,3%, bước qua năm 2002 tăng trưởng đạt gần 2%. Các chính sách kinh tế hiệu quả của
nhiều nước đã góp phần tạo nên sự phục hồi của năm 2003 với tốc độ tăng trưởng là 3,2% và
5
năm 2004 là 4,5%, mặc dù trong thời gian đó có nhiều biến động về chính trị - xã hội như
cuộc chiến ở Apganistan, ở Irac, bệnh SAR, dịch cúm gà…

Hiện nay, sự khủng hoảng tài chính thế giới xuất phát từ Mỹ đã làm cho nền kinh tế
thế giới giảm một cách rõ rệt, hàng loạt các nhà máy công ty đã phải cắt giảm sản xuất
Như vậy tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước và nhóm nước diễn ra không đồng
đều, làm mở rộng hơn hố sâu ngăn cách về sự giàu có và trình độ phát triển giữa các quốc gia
(2) Thương mại quốc tế tiếp tục gia tăng với tốc độ khá cao gấp khoảng hơn 2 lần so
với tốc độ tăng trưởng GDP, thể hiện xu hướng tự do hoá thương maị trong quá trình toàn
cầu hoá nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên sự gia tăng thương mại không đồng đều giữa các nước
và nhóm nước đưa đến tình trạng thặng dư thương mại của một số nước này và sự thâm hụt
của một số nước khác. Sự cạnh tranh trong buôn bán quốc tế ngày càng gay gắt. Đặc biệt,
thặng dư thương mại giữa các nước Châu á và Mỹ cùng với sự căng thẳng chính trị nảy sinh
trong quá trình đó trở thành những vấn đề tiềm ẩn của những nguy cơ trong nền thương mại
thế giới.
(3) Đầu tư nước ngoài trên thế giới vẫn tiếp tục gia tăng ở mức độ cao hơn mức độ
gia tăng của thương mại quốc tế (trên 10%/năm) với những thay đổi đáng kể trong cơ cấu đầu
tư, cơ cấu lĩnh vực đầu tư cũng như tính đa phương và đa chiều, đa hình thức của hoạt động
đầu tư quốc tế. Sự thành công trong phát triển kinh tế của các nước tiếp nhận đầu tư phản ánh
các dòng vốn ồ ạt đổ vào các thị trường đầu tư mới nổi lên trong những năm gần đây, đồng
thời cũng thể hiện quá trình chuyển đổi mạnh mẽ sang hệ thống tài chính toàn cầu thông
thoáng hơn. Tuy nhiên các quốc gia nhất là các quốc gia đang phát triển cũng cần phải thận
trọng hơn trước sự tiếp nhận với quy mô ngày càng lớn dòng vốn nói trên, vì bản thân sự vận
động của chúng rất dễ bị tổn thương do sự nhạy cảm của thị trường vốn quốc tế, vì những
ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình phát triển bền vững cũng như những hậu quả tiêu cực khác
có thể xảy ra trong hoạt động đầu tư quốc tế.
(4) Thị trường tài chính toàn cầu phát triển đang đặt ra những vấn đề hết sức nghiêm
trọng đối với các quan hệ tài chính - tiền tệ quốc tế. Các quan hệ tài chính - tiền tệ quốc tế
diễn ra với tốc độ vận hành tức thời của mạng lưới thông tin viễn thông hiện đại vừa thúc đẩy
sự phát triển nhanh chóng của những quan hệ thương mại và đầu tư quốc tế, vừa đặt ra những
yêu cầu mới cho việc kiểm soát những rủi ro về hối đoái cũng như về khả năng thanh toán. Sự
cạnh tranh giữa các đồng tiền, trước hết là những ngoại tệ mạnh trong hệ thống tiền tệ quốc tế
ngày càng gay gắt. Các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, khủng hoảng tài chính

tiền tệ thế giới, sự chao đảo của thị trường chứng khoán thế giới, sự gia tăng của các khoản nợ
nước ngoài, đặc biệt là những khoản nợ không có khả năng thanh toán có thể gây nên những
biến động mạnh và sự thiệt hại to lớn cho không những một nhóm nước mà cả cho nền kinh tế
6
toàn cầu. Bởi vậy cần thiết phải có những tổ chức và cơ chế phối hợp một cách nhạy bén trên
phạm vi toàn cầu để dự báo và ngăn ngừa những rủi ro trên thị trường chứng khoán và tiền tệ
thế giới. Vai trò của các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế ngày càng trở nên quan trọng và đang
đặt ra những yêu cầu mới đối với việc hình thành các tổ chức tài chính tiền tệ khu vực cũng
như cải tổ các tổ chức hiện có này.
(5) Bên cạnh các quá trình phát triển kinh tế, các vấn đề xã hội và môi trường sinh
thái đặt ra ngày càng gay gắt. Đó là các vấn đề giải quyết nạn thất nghiệp, vấn đề đói nghèo,
vấn đề bệnh tật của xã hội hiện đại, vấn đề thay đổi khí hậu, vấn đề dân số, lương thực, năng
lượng…Đây chính là các vấn đề có tính chất toàn cầu, liên quan đến sự phát triển và sự sống
còn của tất cả các quốc gia, đòi hỏi sự phối hợp liên quốc gia, thậm chí trên bình diện toàn
cầu trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến sự phát triển bền vững của các dân tộc.
(6) Trong các hoạt động kinh doanh quốc tế, sự cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt
hơn đồng thời quá trình hợp tác cũng diễn ra ngày càng phong phú hơn ở nhiều cấp độ khác
nhau, rộng và sâu hơn. Các phương thức cạnh tranh mới xuất hiện. Muốn đạt được thắng lợi
trong cạnh tranh đòi hỏi một sự năng động, một tầm nhìn rộng rãi, một sự thích ứng thường
xuyên, một trình độ khoa học và công nghệ cao cũng như sự am hiểu về nền văn hoá, tâm lý
của các dân tộc, một trình độ quản lý giỏi và khả năng hợp tác đầu tư quốc tế. Đi đôi với cạnh
tranh là sự hợp tác với các cấp độ khác nhau, các bình diện khác nhau, các hình thức khác
nhau. Sự hợp tác diễn ra trong hoạt động buôn bán, hoạt động đầu tư, hoạt động chuyển giao
công nghệ cũng như trong các loại hình dịch vụ khác nhau. Các khuôn khổ mới cho sự hợp
tác phát triển giữa các quốc gia được hình thành theo khu vực cũng như trên phạm vi toàn
cầu. Sự hội nhập khu vực và quốc tế của các quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát
triển diễn ra với quy mô ngày càng lớn và cường độ ngày càng mạnh mẽ. Điều đó tạo nên cơ
hội mới cho sự phát triển nhưng đồng thời cũng đặt ra những thách thức mới cho tất cả các
quốc gia trước hết là các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam
(7) Các trung tâm kinh tế và cường quốc kinh tế mới được hình thành và phát triển,

chúng giữ vai trò ngày càng lớn trong sự vận động của các quan hệ kinh tế quốc tế, tác động
ngày càng mạnh đến quá trình quốc tế hoá thể hiện trên các bình diện toàn cầu hoá và khu vực
hoá nền kinh tế thế giới.
Nền kinh tế thế giới đang chuyển từ trật tự cũ sang trật tự mới với một số nét đại lược
sau:
* Ba liên minh kinh tế lớn chi phối các quan hệ kinh tế quốc tế
- Liên minh Châu âu (EU) đã mở rộng ra 27 quốc gia
- Khối NAFTA cũng mở rộng ra khỏi khuôn khổ Bắc Mỹ. Đồng thời cũng sẽ hình
thành khu vực mậu dịch tự do cho các nước Châu Mỹ La tinh
7
- APEC sẽ trở thành khối mậu dịch tự do từ năm 2020 với dân số và tiềm lực kinh tế
và kỹ thuật khổng lồ.
* Các cường quốc thế giới mới nổi lên như Trung Quốc, Ấn Độ, CHLB Nga, CHLB
Đức… riêng khu vực Châu Á các nhân tố giữ vai trò quan trọng là Trung Quốc, Nhật Bản,
Hàn Quốc và các nước NIC
s
* Hình thành trật tự kinh tế mới với các liên kết kinh tế khu vực và tiểu khu vực, các
trung tâm kinh tế lớn giữ vai trò quan trọng trong việc chi phối các quan hệ kinh tế quốc tế.
Sự phân hoá giữa các nước giàu nghèo ngày càng nổi rõ. Nguy cơ đối với các quốc gia đang
phát triển tăng lên và càng ở vị trí bất lợi hơn trong giao lưu kinh tế quốc tế. Vấn đề dân tộc
và quốc gia cũng nổi lên và chi phối các quan hệ kinh tế quốc tế
(8) Sự bùng nổ của khoa học công nghệ thông tin: Một trong những yếu tố làm thay
đổi về chất nền kinh tế toàn cầu vào cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21 chính là sự phát triển mạnh
mẽ của khoa học công nghệ. Con người đã liên tiếp phát minh ra những đột phá trong các lĩnh
vực như tin học, sinh học, vũ trụ học, hải dương học, năng lượng, vật liệu, bảo vệ môi trường,
khoa học quản lý… Chính sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ đã hình thành
một nền kinh tế mới, đó là kinh tế tri thức, một nền kinh tế mà dựa vào tri thức của con người
là chủ yếu thay vì dựa vào các yếu tố sản xuất truyền thống là sức lao động và tiền vốn. Sự
phát triển nền kinh tế tri thức làm thay đổi cơ cấu kinh tế – xã hội toàn thế giới
Trong các lĩnh vực khoa học công nghệ, công nghệ thông tin có một bước phát triển

mạnh mẽ nhất, trong đó phải kể đến lĩnh vực Internet, những ưu thế về tốc độ, giá thành chính
là nguyên nhân thành công của hệ thống siêu mạng này. Công nghệ thông tin đã được ứng
dụng rộng rãi trong mọi mặt hoạt động của con người, từ sản xuất đến đời sống, từ kinh tế đến
xã hội, từ công nghiệp đến dịch vụ.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, một mặt thúc đẩy nền kinh tế thế giới tăng
trưởng, tạo ra cơ hội cho những nước có thế mạnh về tri thức đồng thời có thể đào sâu thêm
sự bất bình đẳng về kinh tế, đặt những nước chậm phát triển trước những thách thức mới.
1.1.2. Các quan hệ kinh tế quốc tế
1.1.2.1. Khái niệm và nội dung các quan hệ kinh tế quốc tế
a. Khái niệm
Quan hệ kinh tế quốc tế là tổng thể các quan hệ về vật chất và tài chính, các quan hệ
diễn ra không những trong lĩnh vực kinh tế mà cả trong lĩnh vực khoa học – công nghệ có liên
quan đến tất cả các giai đoạn của quá trình tái sản xuất, chúng diễn ra giữa các quốc gia với
nhau cũng như giữa các quốc gia với các tổ chức kinh tế quốc tế
b. Nội dung
8
Nội dung các quan hệ kinh tế quốc tế là rất phong phú và phức tạp. Theo đà phát triển
của khoa học công nghệ, với nhu cầu của con người ngày càng đa dạng, nội dung của các
quan hệ kinh tế quốc tế nói trên tiếp tục phát triển về chiều rộng và chiều sâu. Trong thực tế,
nội dung của kinh tế quốc tế là các hoạt động sau:
* Thương mại quốc tế
- Thương mại quốc tế là quá trình trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các nước thông qua buôn
bán nhằm mục đích kinh tế và lợi nhuận. Trao đổi hàng hoá, dịch vụ là một hình thức của các
mối quan hệ kinh tế xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất
kinh doanh hàng hoá, dịch vụ riêng biệt của các quốc gia
- Hoạt động thương mại quốc tế ra đời sớm nhất trong các quan hệ kinh tế quốc tế và ngày
nay nó vẫn giữ vị trí trung tâm trong các quan hệ kinh tế quốc tế.
- Thương mại quốc tế bao gồm những nội dung sau:
+ Xuất và nhập khẩu hàng hóa hữu hình (máy móc, lương thực, ). Đây là bộ phận chủ
yếu và giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.

+ Xuất và nhập khẩu hàng hóa vô hình (các bí quyết công nghệ, bằng sáng chế phát
minh, phần mềm máy tính, các bảng thiết kế kỹ thuật, các dịch vụ lắp ráp thiết bị máy móc,
dịch vụ du lịch, ).
+ Gia công thuê cho nước ngoài và thuê nước ngoài gia công.
. Khi trình độ phát triển của một quốc gia còn thấp, thiếu vốn, thiếu công nghệ, thiếu
thị trường thì các doanh nghiệp thường ở vào vị trí nhận gia công thuê cho nước ngoài.
. Khi trình độ phát triển ngày càng cao thì các quốc gia nên chuyển qua hình thức
thuê nước ngoài gia công cho mình.
+ Tái xuất khẩu và chuyển khẩu
. Tái xuất khẩu là hoạt động tiến hành nhập khẩu tạm thời hàng hóa từ bên ngoài vào,
sau đó lại tiến hành xuất khẩu sang nước thứ thứ ba.
. Hoạt động chuyển khẩu không có hành vi mua bán mà ở đây chỉ thực hiện các dịch
vụ như vận tải quá cảnh, lưu kho lưu bãi, bảo quản
+ Xuất khẩu tại chỗ: Hàng hóa và dịch vụ có thể chưa vượt ra ngoài biên giới quốc gia
nhưng ý nghĩa kinh tế của nó tương tự như hoạt động xuất khẩu.
Ví dụ: Cung cấp hàng hóa cho đoàn ngoại giao, khách du lịch quốc tế
* Đầu tư quốc tế
Đầu tư quốc tế là một hình thức của di chuyển quốc tế về vốn, trong đó vốn được di
chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác để thực hiện một hoặc một số dự án đầu tư nhằm
đem lại lợi ích cho các bên tham gia
9
Trong Đầu tư quốc tế thường có hai hoặc nhiều bên có quốc tịch khác nhau cùng phối
hợp với nhau để triển khai một dự án đầu tư nhằm đem lại lợi ích cho tất cả các bên. Khác với
hoạt động thương mại quốc tế có thể chỉ diễn ra theo từng vụ việc, đầu tư quốc tế là một quá
trình được kéo dài, có trường hợp đến 30 năm, 50 năm hoặc lâu hơn nữa. Vốn Đầu tư quốc tế
có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, như bằng các loại tiền mặt hoặc giấy
tờ có giá trị, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, quyền sử dụng đất đai, các sáng chế, phát
minh, bí quyết công nghệ, nhãn hiệu hàng hoá… Lợi ích do hoạt động đầu tư mang lại thường
là lợi ích kinh tế, đồng thời còn có cả lợi ích chính trị, lợi ích văn hoá – xã hội, lợi ích về bảo
vệ môi trường sinh thái.

Vốn đầu tư quốc tế có hai dòng chính là đầu tư của tư nhân và hỗ trợ phát triển chính
thức (ODA) của các chính phủ và các tổ chức quốc tế
- Đầu tư của tư nhân: Đầu tư của tư nhân được thực hiện dưới 3 hình thức
+ Đầu tư trực tiếp: Đó là việc chủ đầu tư nước ngoài mua toàn bộ hay phần lớn vốn
đầu tư vào các dự án nhằm giành quyền điều hành hoặc tham gia điều hành các doanh nghiệp
sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ thương mại
+ Đầu tư gián tiếp: Đó là việc chủ đầu tư nước ngoài mua cổ phần của các công ty ở
nước sở tại (ở mức nhất định) để thu lợi nhuận mà không tham gia điều hành trực tiếp đối
tượng mà họ bỏ vốn đầu tư
+ Tín dụng thương mại: Đó là việc cho vay vốn và thu lợi nhuận qua lãi suất tiền vay
- Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA): là hoạt động hợp tác phát triển giữa nhà nước hoặc
chính phủ một nước với các chính phủ nước ngoài, các tổ chức liên chính phủ hoặc liên quốc
gia.
Hỗ trợ phát triển chính thức bao gồm hình thức viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay
vốn với những điều kiện ưu đãi đặc biệt (cho vay dài hạn, lãi suất thấp, cách trả nợ thuận lợi)
nhằm giúp các nước chậm và đang phát triển đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và phúc lợi
xã hội của chính phủ, các hệ thống của tổ chức liên hợp quốc, các tổ chức phi chính phủ, các
tổ chức tài chính quốc tế như (ngân hàng thế giới WB, ngân hàng phát triển châu á – ADB,
quỹ tiền tệ quốc tế IMF…) dành cho chính phủ và nhân dân các nước nhận viện trợ. Các cơ
quan và tổ chức hỗ trợ phát triển trên được gọi chung là đối tác viện trợ nước ngoài
- Các quan hệ hợp tác quốc tế về kinh tế và khoa học – công nghệ
Bao gồm việc chuyên môn hoá và hợp tác hoá ở tầm quốc tế giữa các tổ chức kinh tế
thuộc các quốc gia khác nhau trong việc sản xuất một loại sản phẩm nào đó, hợp tác quốc tế
trong nghiên cứu, sáng chế, thiết kế, thử nghiệm, trong đào tạo cán bộ…
+ Việc chuyên môn hoá và hợp tác hoá quốc tế trong sản xuất
10
Việc chuyên môn hoá có thể diễn ra theo các ngành, trong nội bộ từng ngành (theo
từng sản phẩm) theo chi tiết sản phẩm, theo quy trình công nghệ. Chuyên môn hoá theo các
ngành diễn ra khi có sự khác biệt lớn về điều kiện tự nhiên, sự chênh lệch đáng kể về trình độ
công nghệ, trong đó mỗi quốc gia sẽ tập trung vào những ngành mà bản thân họ có điều kiện

sản xuất thuận lợi và đạt được hiệu quả cao. Việc chuyên môn hoá theo chi tiết sản phẩm và
theo quy trình công nghệ đòi hỏi sự tương đồng về trình độ công nghệ, trong đó mỗi bên chiụ
trách nhiệm chế tạo một số chi tiết sản phẩm nhất định hoặc từng giai đoạn nhất định trong
quá trình tạo nên sản phẩm cuối cùng. Đây là việc chuyên môn hóa có tính chất chiều sâu và
nó phát huy được thế mạnh công nghệ của từng quốc gia.
Việc chuyên môn hoá thường gắn liền với việc hợp tác hoá vì đây là hai mặt của một
vấn đề: việc chuyên môn hoá đòi hỏi việc hợp tác hoá và việc hợp tác hoá phải trên cơ sở
chuyên môn hóa.
Quá trình chuyên môn hoá và hợp tác hoá trong sản xuất gắn liền với sự phát triển của
cách mạng khoa học – công nghệ và quá trình phát triển của các công ty xuyên quốc gia.
Những công ty lớn có chi nhánh ở hàng chục quốc gia có khả năng thực hiện quá trình chuyên
môn hoá và hợp tác hoá một cách ăn khớp trên những phạm vi rộng lớn. Đặc biệt, sự ra đời
của các khối liên kết kinh tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phát triển của việc
chuyên môn hoá và hợp tác hoá quốc tế trong lĩnh vực sản xuất.
+ Sự hợp tác và trao đổi quốc tế về khoa học – công nghệ
Sự hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa học – công nghệ: Là một loại hình hoạt động
bao gồm các hình thức phối hợp giữa các nước để cùng nhau tiến hành nghiên cứu, sáng chế,
thiết kế, thử nghiệm, trao đổi các kết quả nghiên cứu, thông tin về khoa học – công nghệ , áp
dụng các thành tựu khoa học – công nghệ mới vào thực tiễn sản xuất. Sự hợp tác quốc tế về
nghiên cứu khoa học – công nghệ là một đòi hỏi khách quan trong thời đại ngày nay, không
một quốc gia nào có khả năng tự mình giải quyết mọi vấn đề khoa học – công nghệ mà thực
tiễn đặt ra. Khoa học – công nghệ ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và những
thành tựu của khoa học – công nghệ phải trở thành tài sản chung của nhân loại. Điều đó
không loại trừ tình hình thực tế là vẫn có việc giữ bí mật những kết quả nghiên cứu và nhiều
khi nó còn là phương tiện để khống chế lẫn nhau.
Việc chuyển giao công nghệ: Hoạt động chuyển giao công nghệ không chỉ là hoạt
động mua bán đơn thuần vì hàng hoá công nghệ có những đặc điểm riêng. Quá trình chuyển
giao công nghệ phải giải quyết các khía cạnh kinh tế, kỹ thuật và pháp lý thì mới bảo đảm cho
việc chuyển giao đạt kết quả mong muốn. Việc chuyển giao công nghệ không chỉ đơn thuần
là việc mua máy móc, thiết bị. Đó mới chỉ là phần cứng của công nghệ đã được vật chất hoá,

có giá cả xác định và được mua bán theo mối quan hệ thương mại thông thường. Công nghệ
11
còn có phần mềm bao gồm các kiến thức khoa học, các công thức và bí quyết kỹ thuật… Đó
là hàng hoá vô hình và không có giá cả xác định. Các dạng khác nhau của công nghệ và quyền
sử dụng chúng vào sản xuất được phản ánh bằng các khái niệm như kiểu dáng công nghiệp,
nhãn hiệu hàng hoá, sáng chế, bí quyết kỹ thuật, bằng bảo hộ sáng chế, giấy phép sử dụng…
+ Sự hợp tác và trao đổi các dịch vụ thu ngoại tệ: Các dịch vụ thu ngoại tệ bao gồm
các hoạt động kinh tế quốc tế dưới dạng các dịch vụ quốc tế như du lịch quốc tế, giao thông
vận tải quốc tế, thông tin liên lạc quốc tế, bảo hiểm quốc tế, thanh toán và tín dụng quốc tế,
xuất và nhập khẩu sức lao động… Yếu tố quốc tế ở đây thể hiện ở phạm vi hoạt động hoặc
chủ thể sản xuất và đối tượng tiêu dùng thuộc các quốc tịch khác nhau. Để thuận tiện, người
ta quy ước tính quốc tế của các dịch vụ này đồng nhất với hình thức thanh toán là việc thu
được ngoại tệ. Các dịch vụ thu ngoại tệ có quy mô ngày càng lớn, nội dung ngày càng phong
phú và hình thức ngày càng trở nên đa dạng
Như vậy, quan hệ kinh tế quốc tế có nội dung rộng lớn hơn nhiều so với thương mại
quốc tế (theo nghĩa thông thường). Theo nghĩa rộng, người ta có thể sử dụng khái niệm
thương mại quốc tế để chỉ toàn bộ các quan hệ kinh tế quốc tế nói chung, bởi vì hình thức
biểu hiện phổ biến hiện nay trong các quan hệ kinh tế quốc tế là thông qua buôn bán hàng hoá
và dịch vụ.
1.1.2.2. Tính chất của quan hệ kinh tế quốc tế
Việc làm rõ những tính chất cơ bản của các quan hệ kinh tế quốc tế giúp cho việc xác
định rõ hơn đối tượng và phạm vi nghiên cứu của môn học kinh tế quốc tế
- Một là: quan hệ kinh tế quốc tế là các mối quan hệ thoả thuận, tự nguyện giữa các
quốc gia độc lập, giữa các tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân.
Nó chỉ có thể phát triển trên cơ sở giữ vững chủ quyền, thực hiện nguyên tắc bình
đẳng và các bên cùng có lợi thông qua hợp đồng kinh tế với sự chấp nhận của các bên. Có thể
phát triển quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia có chế độ chính trị - xã hội khác nhau nếu
biết đáp ứng và khai thác các nhu cầu và lợi ích chính đáng của nhau, đảm bảo sự cân bằng lợi
ích và giữ vững chủ quyền của các bên
Tuy nhiên, quan hệ kinh tế quốc tế chịu sự chi phối của các quan hệ chính trị quốc tế.

Cần phải sử dụng kết hợp để chúng làm tiền đề cho nhau và thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Tuỳ từng trường hợp cụ thể, có thể phát triển các quan hệ chính trị và ngoại giao đi trước một
bước để trên cơ sở đó thiết lập và mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại. Ngược lại, cũng có
trường hợp quan hệ kinh tế đối ngoại có thể và cần phải đi trước một bước. Ngay cả khi quan
hệ chính trị và ngoại giao giữa các quốc gia còn vướng mắc nhưng vẫn có thể từng bước triển
khai các quan hệ kinh tế đối ngoại và qua đó tạo điều kiện để thúc đẩy chúng khi có cơ hội
thuận lợi.
12
- Hai là: quan hệ kinh tế quốc tế diễn ra theo yêu cầu của các quy luật kinh tế, cho nên
cần tôn trọng và vận dụng thành thạo các quy luật này để phát triển quan hệ kinh tế quốc tế.
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới vận hành theo cơ chế thị trường ngày càng phổ
biến, việc am hiểu và vận dụng đúng các quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh… trong quan
hệ kinh tế giữa các các quốc gia là một đòi hỏi khách quan, mặc dù sự tương trợ và giúp đỡ
lẫn nhau cũng tồn tại trong quan hệ giữa các quốc gia. Quyền lợi quốc gia và quyền lợi dân
tộc chỉ có thể được xử lý một cách hài hoà và phu hợp trên cơ sở vận dụng đúng đắn yêu cầu
của các quy luật kinh tế thị trường
- Ba là: quan hệ kinh tế quốc tế chịu sự tác động của các hệ thống quản lý khác nhau,
của các chính sách, luật pháp, thể chế của từng quốc gia cũng như của các điều ước quốc tế.
Do trình độ phát triển không đều giữa các quốc gia, do lợi ích chính trị và kinh tế khác
nhau, do hoàn cảnh lịch sử và truyền thống dân tộc không giống nhau nên hệ thống quản lý
cũng như chính sách, luật pháp và thể chế của từng quốc gia cũng khác nhau. Khi tổ chức các
hoạt động kinh tế quốc tế, tất yếu diễn tra sự gặp gỡ, va chạm giữa các hệ thống quản lý cũng
như giữa các chính sách, luật pháp và thể chế của từng quốc gia. Vấn đề đặt ra đối với các
doanh nghiệp là một mặt phải thực hiện đúng các yêu cầu của luật pháp và chính sách trong
nước, mặt khác cũng phải biết tôn trọng và vận dụng phù hợp với yêu cầu của luật pháp và
chính sách của các quốc gia có liên quan. Chính vì vậy, việc am hiểu luật pháp của nước mình
và của các quốc gia có liên quan là hết sức cần thiết, đồng thời phải từng bước nâng cao tính
tương thích giữa hệ thống luật pháp trong nước với luật pháp và thông lệ quốc tế. Việc tích
cực đóng góp vào xây dựng các điều ước quốc tế là một yêu cầu quan trọng trong việc phát
triển các quan hệ kinh tế quốc tế

- Bốn là: quan hệ kinh tế quốc tế được vận hành gắn liền với sự gặp gỡ và chuyển đổi
giữa các loại đồng tiền.
Sự phát triển của các quan hệ hàng hoá - tiền tệ trong một quốc gia được mở rộng ra
phạm vi quốc tế. Các quan hệ tiền tệ quốc tế, một mặt là phương tiện tất yếu để phục vụ cho
các quan hệ vật chất và tài chính, cũng như các quan hệ trao đổi quốc tế vầ khoa học – công
nghệ; mặt khác, vì mỗi đồng tiền có đời sống riêng với sự thăng trầm về sức mua và khả năng
thanh toán của nó, cho nên các quan hệ tiền tệ quốc tế cũng là một lĩnh vực phong phú với
quy luật vận động riêng của nó. Như vậy, sự vận động của quan hệ tiền tệ quốc tế là một bộ
phận quan trọng của các quan hệ kinh tế quốc tế. Quan hệ tiền tệ quốc tế vừa là phương tiện
phục vụ cho việc phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế nói chung, vừa tuân theo quy luật vận
động riêng của thị trường tiền tệ quốc tế. Bởi vậy, vấn đề tỷ giá hối đoái, cán cân thanh toán
quốc tế và việc quản lý ngoại hối trở thành những nội dung quan trọng trong quá trình phát
triển các quan hệ kinh tế quốc tế. Trong điều kiện quốc tế hoá mạnh mẽ nền kinh tế thế giới,
13
khủng hoảng tài chính - tiền tệ quốc tế trở thành vấn đề đáng quan tâm trong chính sách của
các chính phủ cũng như của các tổ chức kinh tế quốc tế
- Năm là: các khoảng cách về không gian - địa lý tác động trực tiếp đến quá trình phát
triển các quan hệ kinh tế quốc tế vì nó ảnh hưởng đến thời gian và chi phí vận tải.
Trong quan hệ kinh tế quốc tế, hàng hoá và dịch vụ thường vượt ra ngoài biên giới
quốc gia và được di chuyển qua hàng ngàn cây số thông qua nhiều phương tiện vận tải khác
nhau, với khoảng thời gian khá dài. Tất cả những điều đó ảnh hưởng đáng kể đến quá trình tổ
chức, triển khai các hoạt động kinh tế quốc tế, từ khâu nghiên cứu thử nghiệm đến khâu sản
xuất và tiêu thụ. Bởi vậy vấn đề khoảng cách không gian - địa lý cần phải được chú ý thoả
đáng khi tham gia vào phân công lao động quốc tế, tiến hành chuyên môn hoá và hợp tác hoá,
tổ chức hoạt động đầu tư cũng như xâm nhập thị trường.
1.1.2.3. Những cơ sở của việc hình thành và phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế
Các quan hệ kinh tế quốc tế xuất hiện từ hàng ngàn năm nay do yêu cầu tất yếu của
việc giao lưu quốc tế và sự phát triển của lực lượng sản xuất vượt ra ngoài phạm vi biên giới
của một nước. Việc hình thành và phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế dựa trên những cơ sở
thực tiễn và lý thuyết nhất định. Ban đầu chủ yếu và trước hết là do thực tiễn đòi hỏi, người ta

tổ chức và triển khai các quan hệ kinh tế quốc tế một cách tự phát. Càng về sau này, việc phát
triển các quan hệ kinh tế quốc tế đòi hỏi một cơ sở lý luận vững chắc với sự chứng minh về
những lợi ích đem lại từ thương mại quốc tế cũng như các hoạt động kinh tế quốc tế khác.
- Một là: sự khác biệt về điều kiện tự nhiên giữa các quốc gia, như đất đai, khí hậu,
khoáng sản… đưa đến tình trạng mỗi quốc gia có lợi thế trong việc sản xuất một số loại sản
phẩm nào đó và họ phải trao đổi cho nhau nhằm cân bằng giữa phần dư thừa về loại sản phẩm
này với sự thiếu hụt về loại sản phẩm khác. Có những quốc gia rất nhỏ nhưng lại sản xuất ra
một khối lượng sản phẩm khá lớn.
Ví dụ Arabi Saudi và Kuwest chỉ chiếm 0,3% dân số thế giới nhưng lại sản xuất ra
11% dầu hoả. Cu ba và Brazin chỉ chiếm 3% dân số thế giới nhưng lại chiếm tỷ trọng tới 18%
sản lượng đường của thế giới…
- Hai là: do sự phát triển không đều về kinh tế và khoa học kỹ thuật giữa các quốc gia
đưa đến sự khác nhau về điều kiện tái sản xuất giữa chúng. Như khác nhau về nguồn vốn, về
trình độ kỹ thuật, về bí quyết công nghệ, về nguồn nhân lực và cả trình độ quản lý…Điều đó
đòi hỏi các quốc gia phải mở rộng phạm vi trao đổi quốc tế sang các yếu tố nói trên. Di
chuyển về vốn, về sức lao động, về công nghệ… khi ấy đối tượng tham gia vào việc trao đổi
quốc tế được mở rộng hơn nhiều
- Ba là: Sự phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc và mở rộng. Quá trình phát
triển kinh tế tất yếu dẫn đến phân công lao động. Sự phân công này dần dần vượt ra ngoài
14
phạm vi biên giới quốc gia, đưa đến sự chuyên môn hoá và sự hợp tác hoá lẫn nhau giữa các
công ty thuộc các quốc gia khác nhau. Điều đó càng làm mở rộng đối tượng và phạm vi trao
đổi quốc tế sang các bán thành phẩm, nguyên liệu, các chi tiết sản phẩm.
- Bốn là: Đặc biệt xuất hiện một yêu cầu khách quan là cần phải tiến hành chuyên
môn hoá giữa các quốc gia nhằm đạt tới quy mô tối ưu cho từng ngành sản xuất. Điều này có
nghĩa là không phải mỗi nước đều tự mình sản xuất mọi thứ hàng hoá để tự đáp ứng cho nhu
cầu của mình kể cả trường hợp họ có đầy đủ các nguồn lực cần thiết cho điều đó. Trái lại
chính dung lượng của thị trường thế giới đòi hỏi mỗi quốc gia phải biết tập trung vào một số
ngành và sản phẩm nhất định mà họ có lợi thế để đạt tới quy mô sản xuất tối ưu. Ví dụ như
ngành chế tạo máy bay chở khách đòi hỏi và cho phép chỉ nên tập trung chuyên môn hoá vào

một số hãng nhất định, không thể dàn trải ra nhiều quốc gia được. Đây cũng là một căn cứ
quan trọng để các quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng phát triển theo chiều sâu.
- Năm là: Sự đa dạng hoá trong nhu cầu tiêu dùng ở mỗi nước là cơ sở quan trọng của
việc phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế. Ví dụ người Việt Nam mua ti vi SONY của Nhật,
người Mỹ mua xe hơi Mercedes của Đức, người Anh uống rượu vang của Pháp… mỗi quốc
gia có những sở thích tiêu dùng riêng của mình và vì những lý do khác nhau đó họ phải đáp
ứng nhu cầu thông qua mậu dịch quốc tế. Khi đời sống kinh tế ngày càng phong phú thì
người tiêu dùng tìm đến các mặt hàng phù hợp với thị hiếu và khả năng thanh toán của họ.
Chính đều này giải thích nguồn gốc về quy mô trao đổi thương mại hết sức lớn giữa các nước
công nghiệp phát triển (khoảng 70% tổng kim ngạch thương mại quốc tế)
1.2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu của môn học kinh tế quốc tế
1.2.1. Đối tượng môn học kinh tế quốc tế
Đối tượng của môn kinh tế quốc tế là nghiên cứu tính quy luật phụ thuộc lẫn nhau về
mặt kinh tế giữa các quốc gia, nghiên cứu sự vân động và phân phối lợi ích giữa các quốc gia
trong quá trình trao đổi hàng hoá và dịch vụ, trong dòng chảy của các nguồn vốn, của sức lao
động, của công nghệ cũng như tính quy luật và tác động của các hoạt động thanh toán, tín
dụng giữa một quốc gia với phần còn lại của thế giới, trên cơ sở đó nghiên cứu cơ sở của các
chính sách nhằm định hướng cho các dòng chảy này và phân tích ảnh hưởng của chúng đến
phúc lợi của mỗi quốc gia.
Cụ thể hơn kinh tế học quốc tế nghiên cứu các học thuyết về thương mại quốc tế,
chính sách thương mại quốc tế, học thuyết về đầu tư quốc tế, chính sách đầu tư quốc tế, thị
trường ngoại hối và hệ thống tiền tệ quốc tế, tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán quốc tế.
Trên giác độ tổng quát kinh tế học quốc tế nghiên cứu những vấn đề nói trên một cách chung
nhất, nhưng để thấy rõ tác động của các nhân tố trên đến phúc lợi của một quốc gia, người ta
thường phân thế giới thành hai bộ phận: một bên là từng quốc gia và một bên là phần còn lại
15
của thế giới. Thông thường một quốc gia chỉ đóng một vai trò nhất định, nói chung là tương
đối nhỏ trong nền kinh tế thế giới. Khi ấy tác động của các quan hệ kinh tế quốc tế giữa quốc
gia này với phần còn lại của thế giới không làm thay đổi mặt bằng chung về giá cả hàng hoá
và dịch vụ, tỷ giá hối đoái cũng như các chỉ số kinh tế quốc tế khác. Ngược lại, chính những

mặt bằng chung về các chỉ số kinh tế quốc tế sẽ gây ảnh hưởng lớn đến các chỉ số kinh tế
trong từng quốc gia.
Tuy nhiên trong thực tế cũng có một số quốc gia lớn, chúng đóng vai trò quan trọng
trong nền kinh tế thế giới, cũng như gây ảnh hưởng lớn đến các quan hệ kinh tế quốc tế.
Trong trường hợp này, tác động của các quan hệ kinh tế quốc tế giữa quốc gia ấy với phần
còn lại của thế giới sẽ gây ra những thay đổi đáng kể đến mặt bằng chung của các chỉ số kinh
tế quốc tế. Bởi vậy, khi phân tích tác động của các quan hệ kinh tế quốc tế, người ta thường
chia ra trường hợp nước lớn và trường hợp nước nhỏ, bởi trong mỗi trường hợp chiều hướng
tác động sẽ khác nhau.
Cần phân biệt môn học kinh tế quốc tế với kinh tế đối ngoại. Kinh tế quốc tế dựa vào
lý thuyết của kinh tế học để phân tích các mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia chủ yếu về
mặt định lượng. Còn kinh tế đối ngoại lại phân tích ở khía cạnh định tính nhiều hơn. Kinh tế
quốc tế trang bị cho người học cơ sở lý luận để hiểu được bản chất của các mối quan hệ kinh
tế quốc tế chứ không đi vào tác nghiệp, giải quyết từng vấn đề cụ thể. Vì lẽ đó kinh tế quốc tế
đã trang bị một nền tảng lý luận cơ bản để nghiên cứu sâu hơn ở kinh tế đối ngoại
1.2.2. Phương pháp nghiên cứu môn học
Nghiên cứu kinh tế quốc tế được dựa trên phương pháp luận cơ bản là duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, cũng như các phương pháp quy nạp và diễn giải, so sánh và lịch sử.
Đặc biệt phương pháp mô hình hoá và các phương pháp phân tích của kinh tế học vĩ mô, vi
mô được sử dụng khá phổ biến khi tiếp cận các vấn đề kinh tế cụ thể. Việc sử dụng phương
pháp trừu tượng hoá được kết hợp với phân tích thực tiễn phát triển các quan hệ kinh tế quốc
tế của mỗi quốc gia
16
CHƯƠNG 2
Thương mại quốc tế
2.l. Nội dung, chức năng và đặc điểm của thương mại quốc tế
2.1.1. Khái niệm và nội dung của thương mại quốc tế
2.1.1.1. Khái niệm thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế là việc trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các chủ thể kinh tế có
quốc tịch khác nhau (trong đó đối tượng trao đổi thường là vượt ra ngoài phạm vi địa lý của

một quốc gia, các chi phí vận chuyển thường là rất lớn) thông qua hoạt động mua bán, lấy tiền
tệ làm môi giới.
2.1.1.2. Nội dung của thương mại quốc tế
- Xuất và nhập khẩu hàng hóa hữu hình (máy móc, lương thực, ). Đây là bộ phận chủ yếu và giữ vai
trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
- Xuất và nhập khẩu hàng hóa vô hình (các bí quyết công nghệ, bằng sáng chế phát minh,
phần mềm máy tính, các bảng thiết kế kỹ thuật, các dịch vụ lắp ráp thiết bị máy móc, dịch vụ
du lịch, ).
- Gia công thuê cho nước ngoài và thuê nước ngoài gia công.
+ Khi trình độ phát triển của một quốc gia còn thấp, thiếu vốn, thiếu công nghệ, thiếu
thị trường thì các doanh nghiệp thường ở vào vị trí nhận gia công thuê cho nước ngoài.
+ Khi trình độ phát triển ngày càng cao thì các quốc gia nên chuyển qua hình thức
thuê nước ngoài gia công cho mình.
- Tái xuất khẩu và chuyển khẩu
+ Tái xuất khẩu là hoạt động tiến hành nhập khẩu tạm thời hàng hóa từ bên ngoài vào,
sau đó lại tiến hành xuất khẩu sang nước thứ thứ ba.
+ Hoạt động chuyển khẩu không có hành vi mua bán mà ở đây chỉ thực hiện các dịch
vụ như vận tải quá cảnh, lưu kho lưu bãi, bảo quản
- Xuất khẩu tại chỗ: Hàng hóa và dịch vụ có thể chưa vượt ra ngoài biên giới quốc gia nhưng
ý nghĩa kinh tế của nó tương tự như hoạt động xuất khẩu.
2.1.2. Chức năng của thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế có hai chức năng cơ bản:
- Làm biến đổi cơ cấu giá trị sử dụng của sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân được sản
xuất trong nước thông qua việc xuất và nhập khẩu nhằm đạt tới cơ cấu có lợi cho nền kinh tế
trong nước.
- Thương mại quốc tế góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế quốc dân, nâng cao hiệu
suất sử dụng và hạ giá thành.
17
2.1.3. Đặc điểm của thương mại quốc tế
- Thương mại quốc tế những năm gần đây có xu hướng tăng nhanh, cao hơn so với tốc độ

tăng trưởng của nền sản xuất, điều đó đưa đến tỷ trọng kim ngạch ngoại thương trong tổng
sản phẩm quốc dân của mỗi quốc gia ngày càng lớn, thể hiện mức độ mở gia tăng của nền
kinh tế mỗi quốc gia ra thị trường thế giới.
- Tốc độ tăng trưởng của thương mại “vô hình” nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của thương mại
“hữu hình”.
- Cơ cấu mặt hàng trong thương mại quốc tế có những thay đổi sâu sắc
- Tỷ trọng buôn bán những mặt hàng chứa đựng hàm lượng vốn lớn, công nghệ cao tăng
nhanh.
- Sự phát triển của nền thương mại thế giới ngày càng mở rộng phạm vi và phương thức cạnh
tranh với nhiều công cụ khác nhau
- Chu kỳ sống của từng loại sản phẩm được rút ngắn, việc đổi mới thiết bị, đổi mới công
nghệ, đổi mới mẫu mã hàng hóa diễn ra liên tục, đòi hỏi phải năng động, nhạy bén khi tham
gia vào thị trường thế giới.
- Sự phát triển của các quan hệ kinh tế quốc tế một mặt thúc đẩy tự do hóa thương mại, song
mặt khác, giữa các liên kết kinh tế cũng hình thành những hàng rào mới, yêu cầu bảo hộ mậu
dịch ngày càng tinh vi hơn.
- Vai trò của GATT/WTO ngày càng quan trọng trong điều chỉnh thương mại quốc tế. (WTO
là tổ chức thay thế GATT. Các nguyên tắc của GATT được WTO kế thừa, quản lý và mở
rộng)
2.2. Một số lý thuyết về thương mại quốc tế
2.2.1. Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối của Adam Smith (1723-1790)
a. Đặc điểm tình hình
Bắt đầu từ giữa thế kỷ 18, nền kinh tế các nước Tây Âu đã có những thay đổi đáng kể
- Từ một xã hội nông nghiệp đơn giản phát triển thành một xã hội kinh tế phức tạp, bao gồm
nhiều ngành nghề khác nhau
- Công nghiệp phát triển.
- Mậu dịch từ nội bộ địa phương đã được mở rộng ra toàn quốc và toàn cầu
- Hệ thống ngân hàng phát triển, hệ thống thương phiếu ra đời và bắt đầu phát hành tiền tệ.
- Quốc gia đã mạnh không cần dùng các biện pháp tăng cường quyền lực như giai đoạn trước
mà chuyển vai trò đó vào tay cá nhân.

b. Quan điểm kinh tế cơ bản của Adam Smith về lợi thế tuyệt đối
- Khẳng định vai trò của cá nhân và hệ thống kinh tế tư nhân.
- Chính phủ không cần can thiệp vào các hoạt động mậu dịch quốc tế
18
- Khẳng định nguyên tắc phân công lao động để tạo ra nhiều lợi nhuận là cơ sở cho sự ra đời
của lý thuyết lợi thế tuyệt đối. Theo ông, hai quốc gia tham gia mậu dịch với nhau là tự
nguyện và cả hai đều cùng phải có lợi.
- Theo ông, cơ sở mậu dịch giữa hai quốc gia chính là lợi thế tuyệt đối. Lợi thế tuyệt đối ở đây
là chi phí sản xuất thấp hơn
c. Minh họa bằng số của lợi thế tuyệt đối
Để đơn giản hoá việc giải thích lý thuyết lợi thế tuyệt đối. Mô hình thương mại đơn
giản được xây dựng với hai quốc gia Mỹ và Anh và với hai mặt hàng là lúa mỳ và vải, cùng
với với những giả định được đặt ra là:
1. Thế giới chỉ chỉ bao gồm hai quốc gia và sản xuất hai sản phẩm
2. Lao động là yếu tố sản xuất duy nhất và được di chuyển tự do giữa các ngành sản
xuất trong nước, nhưng không di chuyển được giữa các quốc gia;
2. Chi phí vận chuyển không đáng kể có thể coi như bằng không;
4. Tất cả các thị trường đều là thị trường cạnh tranh hoàn hảo;
5. Không sử dụng tiền trong trao đổi.
Trong điều kiện tự cung tự cấp, mỗi nước tự sản xuất hai mặt hàng để tiêu dùng trong
nước. Giả sử một giờ lao động ở Mỹ được 6 giạ lúa mỳ (1 giạ = 36 lít), ở Anh được 1 giạ.
Trong khi đó 1 giờ lao động ở Anh sản xuất được 5m vải, còn ở Mỹ chỉ được 4m. Các số liệu
được biểu thị qua bảng như sau:
Bảng 2.1: Lợi thế tuyệt đối của Mỹ và Anh trong sản xuất lúa mỳ và vải
Sản phẩm Mỹ Anh
Lúa mỳ (giạ/người/giờ) 6 1
Vải (mét/người/giờ) 4 5
Qua số liệu trên bảng chúng ta thấy trong điều kiện tự cấp tự túc Anh là nước có hiệu
quả hơn trong sản xuất vải, vì trong một giờ lao động nước này làm ra được 5m, trong khi Mỹ
chỉ sản xuất được 4m vải. Ngược lại, Mỹ có hiệu quả hơn trong sản xuất lúa mỳ, vì trong một

giờ lao động nước này làm ra được 6 giạ, còn Anh chỉ sản xuất được 1 giạ. Theo lý thuyết lợi
thế tuyệt đối của Adam Smith thì Mỹ được coi là có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất lúa mỳ và
bất lợi tuyệt đối trong sản xuất vải. Ngược lại Anh có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất vải.
Trong điều kiện có trao đổi thương mại quốc tế, theo lý thuyết lợi thế tuyệt đối Anh sẽ
chuyên môn hoá vào sản xuất vải còn Mỹ chuyên môn hoá vào sản xuất lúa rồi tiến hành trao
đổi cho nhau.
- Tỷ lệ trao đổi quốc tế giữa lúa mỳ và vải sẽ nằm trong khoảng tỷ lệ trao đổi nội địa
của từng nước. Cụ thể là 1/5<tỷ lệ trao đổi lúa và vải<6/4.
19
Như vậy thông qua chuyên môn hoá sản xuất và trao đổi, sản lượng của toàn thế giới
đã tăng lên lớn hơn mức sản xuất của mỗi nước trong trường hợp tực túc.
Tóm lại, lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith có thể kết luận mấy vấn đề sau
Thứ nhất: Đề cao vai trò của cá nhân và các doanh nghiệp, ủng hộ một nền thương
mại tự do, không có sự can thiệp của chính phủ. Mậu dịch tự do sẽ làm cho thế giới sử dụng
tài nguyên có hiệu quả hơn, mang lại nhiều lợi ích hơn
Thứ hai: Thấy được tính ưu việt của chuyên môn hoá. Tuy nhiên lý thuyết này lại
đồng nhất hoá sự phân công lao động quốc tế với sự phân công lao động trong nước mà
không tính tới sự khác biệt giữa các quốc gia là rất lớn về thể chế chính trị, về phong tục tập
quán
Thứ ba: Mô hình về lợi thế tuyệt đối của Adam Smith chỉ có thể giải thích được một
phần của thương mại quốc tế. Tuy nhiên, mô hình này chưa giải thích được trường hợp tại sao
thương mại vẫn có thể diễn ra khi một quốc gia có mức bất lợi tuyệt đối (hoặc lợi thế tuyệt
đối) về tất cả các sản phẩm làm ra. Trên thực tế, thương mại quốc tế có thể diễn ra mà không
nhất thiết đòi hỏi các nhà xuất khẩu phải có lợi thế tuyệt đối so với các đối thủ cạnh tranh
nước ngoài.
2.2.2. Lý thuyết về lợi thế tương đối hay lợi thế so sánh của David Ricardo (1772-1823)
Lợi thế tương đối được xác định trên cơ sở so sánh các mức giá tương quan của hai
hàng hoá. Giá tương quan giữa hai mặt hàng được định nghĩa một cách đơn giản là giá của
mặt hàng này được tính bằng số lượng mặt hàng kia.
a. Bản chất của quy luật lợi thế so sánh

Để xây dựng quy luật lợi thế so sánh, David Ricardo đã đưa ra một số giả thiết làm
đơn giản hoá mô hình trao đổi mậu dịch, các giả thiết đó là:
1. Thế giới chỉ chỉ bao gồm hai quốc gia và sản xuất hai sản phẩm
2. Lao động là yếu tố sản xuất duy nhất và được di chuyển tự do giữa các ngành sản
xuất trong nước, nhưng không di chuyển được giữa các quốc gia;
3. Mậu dịch tự do
4. Chi phí sản xuất là cố định, được đồng nhất với tiền lương.
5. Chi phí vận chuyển không đáng kể có thể coi như bằng không;
Vẫn sử dụng mô hình giản đơn về thương mại giữa Mỹ và Anh, nhưng với sự khác
biệt về năng suất sản phẩm làm ra giữa hai quốc gia được cho trong bảng sau:
Bảng 2.2: Lợi thế so sánh của Mỹ và Anh trong sản xuất Lúa mỳ và vải
Sản phẩm Mỹ Anh
Lúa mỳ (giạ/giờ) 6 1
vải (mét/giờ) 4 2
20
Theo số liệu ở bảng 2.2 trên thì Anh bây giờ một giờ lao động họ chỉ làm ra 2 m vải,
và như vậy Anh không có lợi thế tuyệt đối so với Mỹ trong việc sản xuất cả hai mặt hàng lúa
mỳ và vải
Còn ở Mỹ chi phí sản xuất cả hai sản phẩm đều thấp hơn ở Anh, nhưng như thế không
có nghĩa là Mỹ sẽ sản xuất cả hai mặt hàng trên. Nói cách khác là nếu theo lý thuyết về lợi thế
tuyệt đối thì Mỹ sẽ chỉ xuất khẩu và Anh sẽ chỉ nhập khẩu. Kết luận này là không thực tế, vì
sẽ không thể tồn tại trao đổi thương mại lâu dài giữa một nước chỉ xuất khẩu còn nước kia chỉ
nhập khẩu.
Tuy nhiên, theo lý thuyết lợi thế tương đối, thì việc Anh không có lợi thế tuyệt đối so
với Mỹ ở cả hai mặt hàng, sẽ không cản trở trao đổi thương mại giữa hai nước. Bởi vì, nếu so
sánh giữa lúa mỳ và vải thì Anh có lợi thế so sánh về sản xuất vải, vì năng suất lao động sản
xuất vải của Anh chỉ bằng nửa (1/2) năng suất lao động sản xuất vải của Mỹ (2 so với 4).
Trong khi đó năng suất lao động sản xuất lúa mỳ của Anh lại nhỏ hơn những 6 lần so với
năng suất sản xuất lúa mỳ của Mỹ (1 so với 6). Còn ở Mỹ tuy có lợi thế tuyệt đối cả về hai sản
phẩm nhưng lợi thế về sản xuất lúa mỳ lớn hơn (6 so với 1) so với sản xuất vải (4 so với 2)

Như vậy, theo lý thuyết lợi thế tương đối, nếu Anh thực hiện chuyên môn hoá hoàn
toàn vào sản xuất vải (mặt hàng có lợi thế so sánh), và Mỹ thực hiện chuyên môn hoá hoàn
toàn vào sản xuất lúa mỳ và sau đó trao đổi với nhau, thì cả hai quốc gia sẽ thu được lợi ích từ
thương mại. Và như vậy lợi thế tuyệt đối theo cách hiểu của Adam Smith thực ra chỉ là
trường hợp riêng của lợi thế so sánh
b. Phân tích lợi ích mậu dịch
Trong mô hình giản đơn trên, giá cả tương quan giữa lúa mỳ và vải được xác định
thông qua chi phí lao động. Từ số liệu ở bảng 2.2 ta có thể tính được các mức giá tương quan
của lúa mỳ và vải như sau
Bảng 2.3 Giá cả tương quan giữa hai sản phẩm ở hai quốc gia
Sản phẩm Mỹ Anh
Lúa mỳ (1 giạ) 4/6 m vải 2 m vải
vải (1 mét) 6/4 giạ lúa 1/2 giạ lúa
Như vậy, giá tương quan giữa lúa mỳ và vải ở Anh là 1 lúa mỳ = 2 m vải và 1 m vải =
1/2 giạ lúa. Còn ở Mỹ là 1 lúa mỳ = 4/6 m vải và 1 m vải = 6/4 giạ lúa.
Nếu giả sử Mỹ trao đổi 6 W lấy 6C đối với Anh thì Mỹ sẽ có lợi 2 W (tức là tiết kiệm
được ½ giờ lao động) vì Mỹ chỉ có thể đổi 6W lấy 4C nếu sản xuất trong nước. Còn đối với
Anh để có 6W thì nước này phải bỏ cả 6 giờ lao động để sản xuất lúa. Nhưng khi tiến hành
chuyên môn hoá thì Anh chỉ sản xuất vải do vậy trong 6 giờ Anh sản xuất được 12C và trao
đổi 6C để lấy 6W và Anh vẫn còn lợi 6C (tương đương với 3 giờ lao động vì 1 giờ lao động
21
của Anh sản xuất được 2C).Và như vậy cả hai nước (thế giới) đều có lợi nhờ chuyên môn hoá
và mậu dịch quốc tế.
Như vậy chúng ta thấy rằng cả hai quốc gia đều có lợi khi trao đổi 6W lấy 6C. Tuy
nhiên đây không phải là tỷ lệ trao đổi duy nhất mà ở đó hai quốc gia cùng có lợi
Đối với Mỹ chỉ cần đổi 6W lấy một số lớn hơn 4C là đã có lợi hơn so với tự sản xuất
Đối với Anh để có 6W phải mất tương đương 12C nếu tự sản xuất trong nước. Do vậy
Anh sẽ sẵn sàng trao đổi với Mỹ bất cứ một số nào nhỏ hơn 12C để có được 6W là Anh đã có
lợi hơn so với tự sản xuất trong nước. Như vậy khung mậu dịch tương đối của hai quốc gia
trên sẽ là: 4C <6W<12C

Nói cách khác là tỷ lệ trao đổi quốc tế giữa lúa mỳ và vải sẽ nằm trong khoảng tỷ lệ
trao đổi nội địa của từng nước.
Nếu như tỷ lệ trao đổi quốc tế đúng bằng mức giá tương quan của một trong hai quốc
gia, thì quốc gia đó sẽ không có lợi gì, còn toàn bộ lợi ích từ thương mại quốc tế sẽ thuộc về
quốc gia kia (nếu như hai nước tiến hành trao đổi thương mại, bởi vì ở tỷ lệ này có thể sẽ
không có thương mại giữa hai nước).
Ngược lại, nếu Anh là nước lớn và Mỹ là nước nhỏ thì mức giá quốc tế sẽ bằng mức
giá tương quan của Anh và toàn bộ lợi ích thương mại sẽ thuộc về Mỹ.
- Nếu mức giá trao đổi quốc tế vượt ra khỏi giới hạn nói trên thì một trong hai nước sẽ từ chối
tham gia buôn bán vì nhận thấy rằng điều đó không những không có lợi mà ngược lại còn gây
thiệt hại cho quốc gia đó.
Căn cứ vào khung mậu dịch tương đối của hai quốc gia 4m vải<6 giạ lúa<12 m vải,
chúng ta có thể giả sử các mức giá trao đổi quốc tế của hai sản phẩm trên như sau
- Xét về mặt lý thuyết có thể tồn tại trường hợp ngoại lệ đối với quy luật lợi thế so
sánh. Điều này xảy ra khi lợi thế tuyệt đối (hay mức bất lợi tuyệt đối) của một quốc gia là như
nhau đối với cả hai mặt hàng. Và được gọi là trường hợp lợi thế “cân bằng”
Bảng 2.5: Trường hợp lợi thế “cân bằng”
Sản phẩm Mỹ Anh
Lúa mỳ (Giạ/người/giờ) 6 1
Vải (mét/người/giờ) 12 2
Các số liệu trên cho thấy Mỹ có lợi thế tuyệt đối về cả hai mặt hàng vải và lúa mỳ,
nhưng năng suất lao động của Mỹ trong sản xuất cả hai sản phẩm đều gấp 6 lần năng suất lao
động của Anh, cho nên không thể xác định được nước nào có lợi thế so sánh về mặt hàng nào.
Tuy nhiên, trên thực tế trường hợp lợi thế cân bằng như vậy rất ít khi xảy ra, nếu không muốn
nói là không tồn tại. Do vậy không hề làm giảm tính đúng đắn của quy luật này.
c. Quy luật lợi thế tương đối
22
- Một cách tổng quát, quy luật lợi thế so sánh có thể được phát biểu như sau: Một quốc gia sẽ
xuất khẩu những mặt hàng có giá cả thấp hơn một cách tương đối so với quốc gia kia.
Cụ thể, nếu quốc gia I có lợi thế tuyệt đối (hay bất lợi tuyệt đối) trong sản xuất cả hai

sản phẩm X và Y thì quốc gia I sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu sản phẩm X khi và
chỉ khi:
Hoặc
Như vậy lợi thế so sánh là lợi thế thể hiện ở hàng hoá có tỷ lệ chi phí sản xuất nhỏ hơn
Lưu ý: Trong mô hình giả định thế giới chỉ bao gồm hai quốc gia, sản xuất hai sản
phẩm thì khi quốc gia I có lợi thế so sánh về sản phẩm thứ nhất, thì quốc gia II sẽ có lợi thế so
sánh về sản phẩm còn lại
- Dù có những tiến bộ quan trọng so với lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith. Lý thuyết
của David Ricardo vẫn bộc lộ nhiều hạn chế:
+ Trong chi phí sản xuất mới chỉ tính đến có một yếu tố duy nhất, đó là lao động. (Lý
thuyết của ông được xây dựng trên học thuyết giá trị của lao động) Còn các yếu tố khác như
vốn, kỹ thuật, đất đai và trình độ của người lao động thì không được đề cập đến.
+ Mặc dù học thuyết này có chứng minh được lợi ích của thương mại quốc tế, nhưng
vẫn không xác định được tỷ lệ trao đổi quốc tế, tức là giá cả quốc tế, căn bản vẫn là hàng đổi
hàng.
2.2.3. Một số lý thuyết khác
2.2.3.1. Lý thuyết của Haberler về lợi thế tương đối
a. Lợi thế tương đối xem xét từ góc độ chi phí cơ hội
Theo Haberler, chi phí cơ hội của một hàng hoá là khối lượng các hàng hoá khác phải
cắt giảm (hy sinh) để dành đủ số nguồn lực sản xuất thêm 1 đơn vị hàng hoá thứ nhất.
Quốc gia nào có chi phí cơ hội thấp trong việc sản xuất một loại hàng hoá nào đó thì
họ có lợi thế tương đối (lợi thế so sánh) trong việc sản xuất hàng hoá đó và không có lợi thế
23
Hay
tương đối trong việc sản xuất hàng hoá thứ hai. Do đó sự khác nhau về chi phí cơ hội trong
sản xuất là nguyên nhân của sự hình thành thương mại quốc tế
Việc xác định và giải thích quy luật lợi thế so sánh dưới góc độ chi phí cơ hội sẽ tránh
được giả thiết cho rằng lao động là yếu tố duy nhất hay đồng nhất để tạo ra sản phẩm
b. Đường giới hạn khả năng sản xuất với trường hợp chi phí cơ hội không đổi
Chi phí cơ hội có thể được minh hoạ bằng đường giới hạn khả năng sản xuất.

Đường giới hạn khả năng sản xuất của một quốc gia là một đường tập hợp tất cả
những điểm biểu thị cho mức sản lượng của 2 mặt hàng có thể sản xuất ra khi quốc gia đó sử
dụng tất cả mọi nguồn lực với công nghệ sẵn có tốt nhất của mình.
Với chi phí cơ hội không đổi đường giới hạn khả năng sản xuất đó là một đường thẳng
chỉ ra sự kết hợp thay thế nhau của hai sản phẩm mà quốc gia có thể sản xuất khi sử dụng toàn
bộ tài nguyên với kỹ thuật là tốt nhất.
Tuy nhiên, trên thực tế, chi phí cơ hội rất ít khi là một hằng số. Phần lớn các quốc gia
đều gặp phải tình trạng chi phí cơ hội tăng dần
c. Lợi ích thu được qua thương mại trong điều kiện chi phí cơ hội không đổi
Khi có thương mại quốc tế, mỗi nước chuyên môn hoá sản xuất hoàn toàn mặt hàng
mà mình có lợi thế tương đối
Những điểm ở trong đường giới hạn khả năng sản xuất là những điểm mà nền sản xuất có
thể đạt tới, nhưng hiệu quả thấp vì chưa sử dụng hết tài nguyên hiện có. Những điểm nằm ngoài
đường khả năng sản xuất là những điểm không thể nào đạt tới trong nền kinh tế đóng.
2.2.3.2. Lý thuyết của Heckscher - Ohlin
Lý thuyết tương quan các nhân tố, của hai nhà kinh tế học người Thuỵ Điển là Eli
Heckscher và Bertil Ohlin, là lý tiêu biểu về thương mại quốc tế, lý thuyết giải thích nguồn
gốc của thương mại quốc tế thông qua việc xem xét hai khái niệm, là hàm lượng các yếu tố
sản xuất cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá nào đó, và mức độ dồi dào các yếu tố sản xuất
của một nước.
a. Những giả thiết của Học thuyết Heckscher – Ohlin (H – O)
1- Thế giới gồm 2 quốc gia (1 và 2), 2 yếu tố sản xuất (Lao động-L và Vốn-K); 2 hàng
hoá X và Y
2- Hai quốc gia sử dụng cùng một công nghệ như nhau, cùng trình độ kỹ thuật
3- Sản phẩm X là sản phẩm thâm dụng lao động và sản phẩm Y là sản phẩm thâm
dụng tư bản ở cả hai quốc gia.
4- Lợi suất theo quy mô không đổi trong sản xuất cả hai loại sản phẩm ở cả hai quốc
gia.
5- Chuyên môn hoá là không hoàn toàn trong sản xuất ở cả hai quốc gia.
24

6- Hai quốc gia có cùng thị hiếu
7- Thị trường hàng hoá và thị trường các yếu tố sản xuất là cạnh tranh hoàn hảo
8- Các yếu tố sản xuất có thể di chuyển tự do trong phạm vi một nước nhưng không
thể di chuyển giữa các nước
9- Thương mại là hoàn toàn tự do, chi phí vận chuyển bằng không, không có thuế
quan và các rào cản khác.
b. Hàm lượng các yếu tố sản xuất trong các hàng hóa và đường giới hạn tiềm năng sản xuất
* Hàm lượng các yếu tố sản xuất - Yếu tố thâm dụng
Xem xét một mô hình đơn giản chỉ bao gồm hai nguồn lực cơ bản là lao động (L) và
vốn (K), sử dụng để sản xuất ra hai hàng hoá X và Y.
Ta nói rằng hàng hoá X được coi là sử dụng nhiều một cách tương đối (thâm dụng) lao
động, nếu tỷ lệ giữa lượng lao động và vốn sử dụng để sản xuất ra một đơn vị mặt hàng X, lớn
hơn tỷ lệ tương ứng các yếu tố đó để sản xuất ra một đơn vị mặt hàng Y. Nói cách khác, hàng
hoá X được coi là có hàm lượng lao động cao nếu:
y
y
x
x
K
L
K
L
>
Trong đó:
- L
x
và L
y
là lượng lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị hàng hoá X và hàng hoá Y
- K

x
và K
y
là lượng vốn cần thiết để sản xuất ra một đơn vị hàng hoá X và hàng hoá Y
Tương tự nếu tỷ lệ giữa vốn (tư bản) và lao động là lớn hơn thì X được coi là hàng hoá
có hàm lượng vốn cao (thâm dụng tư bản)
* Mức độ dồi dào các yếu tố sản xuất
Khái niệm mức độ dồi dào các yếu tố sản xuất chỉ ra sự dồi dào của một quốc gia về
một yếu tố sản xuất nào đó, có thể là lao động hay tư bản. Để xác định được yếu tố dư thừa
của một quốc gia có thể theo hai cách.
- Cách thứ nhất là đo bằng những đơn vị vật chất cụ thể toàn bộ số lượng lao động và tư bản
để dùng vào sản xuất của quốc gia đó.
Xem xét một mô hình giản đơn với hai nước 1 và 2 chỉ gồm hai yếu tố sản xuất là K
và L. Quốc gia 1 sẽ được coi là dồi dào về yếu tố lao động nếu
B
B
A
A
TK
TL
TK
TL
>
25
Trong đó:
- TL
A
, TK
A
là tổng lượng lao động và vốn của

quốc gia 1;
- TL
B
, TK
B
là tổng lượng lao động và vốn của
quốc gia 2.

×