Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
Với bất cứ một quốc gia nào, bất cứ một nền kinh tế nào thì vốn luôn là
yếu tố hàng đầu quyết định sự tăng trưởng kinh tế.
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu sản xuất không đủ tiêu dùng, qua gần 15
năm đổi mới Việt Nam đã và đang từng bước vươn lên, bước đầu khẳng định được
uy tín, chinh phục được mọi thị trường, chiếm lĩnh thị trường lớn, ổn định góp phần
nâng cao vị thế của mình trên chính trường quốc tế. Hiện nay với cơ chế mở cửa,
các thành phần kinh tế hoạt động một cách bình đẳng theo pháp luật. Nhiều loại
hình doanh nghiệp ra đời và phát triển mạnh mẽ. Cùng với nó là sự cạnh tranh gay
gắt giữa các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài đòi hỏi các doanh
nghiệp phải luôn luôn đổi mới công nghệ, trang thiết bị và mở rộng sản xuất.
Theo dự tính trong tương lai thì nhu cầu vốn ngày càng tăng nhằm đáp ứng
yêu cầu của sản xuất kinh doanh tạo ra năng lực mới, nâng cao khả năng cạnh tranh
của các doanh nghiệp. Để hoạt động kinh doanh phát triển và cạnh tranh được trên
thị trường các doanh nghiệp cần phải đầu tư một lượng vốn không nhỏ, mà vốn tự
có của doanh nghiệp chỉ đáp ứng được phần nào nhu cầu vốn của họ. Đặc biệt là
đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ do vốn tự có ít nên nhu cầu về vốn là rất cấp thiết.
Vì vậy Ngân hàng chính là nơi mà các doanh nghiệp này tìm đến để giải quyết các
khâu về vốn.
Tín dụng của các Ngân hàng thương mại là một trong những hình thức sử
dụng vốn đối với các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói
riêng. Tuy nhiên trong những năm qua, vấn đề tín dụng đối với các doanh nghiệp
vừa và nhỏ gặp không ít những khó khăn và tồn tại như: sự an toàn, chất lượng,
hiệu quả... đặc biệt là vấn đề chất lượng của các khoản tín dụng. Đây là mối quan
tâm hàng đầu của các Ngân hàng trong đó có Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp &
Phát triển Nông thôn Tây Hà Nội. Nâng cao chất lượng tín dụng luôn là một vấn đề
cấp thiết và quan trọng đối với các ngân hàng, vì chất lượng tín dụng liên quan trực
tiếp đến quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Chính vì lý do đó mà em đã chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín
dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng Nông
nghiệp & Phát triển Nông thôn Tây Hà Nội ” với mục đích nghiên cứu các vấn đề
lý luận và tiễn để nói nên được tầm quan trọng về chất lượng của các khoản tín
dụng.
Bài viết được chia làm 3 phần:
Chương I : Những vấn đề lý luận về chất lượng tín dụng
Chương II : Thực trạng chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa
và nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn Tây Hà
Nội
Chương III : Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn Tây
Hà Nội
Do trình độ lí luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế nên chuyên
đề không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của
thầy giáo và các anh, chị trong Chi nhánh để chuyên đề được hoàn thiện và đầy đủ
hơn.
2
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
I. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Ngân hàng thương mại và hoạt động của Ngân hàng thương mại
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển
của nền sản xuất hàng hoá. Quá trình phát triển kinh tế kinh tế là điều kiện và đòi
hỏi sự phát triển của ngân hàng; đến lượt mình, sự phát triển của hệ thống ngân
hàng trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Nghề ngân hàng bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền của các thợ
vàng. Việc lưu hành những đồng tiền riêng của mỗi quốc gia hoặc vùng lãnh thổ
kết hợp với thương mại và giao lưu quốc tế tạo ra yêu cầu đúc và đổi tiền tại các
cửa khẩu hoặc trung tâm thương mại. Người làm nghề đúc tiền, đổi tiền, thực hiện
kinh doanh tiền tệ bằng cách đổi ngoại tệ lấy bản tệ và ngược lại. Lợi nhuận thu
được là chênh lệch giá mua-bán.
Người làm nghề đổi tiền thường là người giàu, trước đó có thể đã làm nghề
cho vay nặng lãi. Họ thường có két tốt để cất giữ đảm bảo an toàn. Do yêu cầu cất
trữ tiền của các lãnh chúa, các nhà buôn... nhiều người làm nghề đổi tiền thực hiện
luôn cả nghiệp vụ cất trữ hộ. Thực hiện cất trữ hộ làm tăng thu nhập, tăng khả năng
đa dạng hoá loại tiền, tăng qui mô tài sản của người kinh doanh tiền tệ. Việc cất trữ
hộ nhiều người khác là đièu kiện để thực hiên thanh toán hộ và thanh toán không
dùng tiền mặt. Với những ưu điểm của mình thanh toán không dùng tiền mặt đă thu
hút các thương gia gửi tiền nhiều hơn.
Trong đIều kiện lưu thông tiền kim loại (bạc hoặc vàng) các chủ cửa
hàngvàng bạc vừa đổi tiền, thanh toán hộ, vừa đúc tiền. Những ngân hàng loại này
gọi là ngân hàng của những thợ vàng.
3
Nghề ngân hàng cũng được bắt đầu từ người cho vay nặng lãi. Một số người
cho vay nặng lãi đã thực hiện cả nghiệp vụ đổi tiền, giữ hộ tiền và thanh toán hộ.
Các ngân hàng đầu tiên dùng vốn tự có để tài trợ cho hoạt động của họ,
nhưng điều đó không kéo dài. Từ hoạt động thực tiễn, các chủ ngân hàng nhận thấy
thường xuyên có người gửi tiền vào và có người lấy tiền ra, xong tất cả người gửi
đều không cùng rút tiền một lúc nên đã tạo ra số dư thường xuyên ở ngân hàng. Do
tính chất vô danh của tiền, chủ ngân hàng có thể sử dụng tạm thời một phần tiền
gửi của khách để cho vay. Hoạt động cho vay tạo lên lợi nhuận lớn cho ngân hàng,
do vậy các ngân hàng đều tìm cách mở rộng thu hút tiền gửi để cho vay bằng cách
trả lãi cho người gửi tiền. Bằng cách cung cấp các tiện ích khác nhau mà ngân
hàng huy động được ngày càng nhiều tiền gửi, là điều kiện để mở rộng cho vay và
hạ lãi suất cho vay.
Tóm lại, ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế.
Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua các chức năng, các dịchv ụ hoặc vai trò
mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ các yếu tố trên đang không
ngừng thay đổi. Thực tế, rất nhiều tổ chức tài chính-bao gồm cả các công ty chứng
khoán, công ty môi giới chúng khoán, quỹ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu
đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng. Ngược lại ngân hàng đang
đối phó với các đối thủ cạnh tranh (các tổ chức tài chính phi ngân hàng) bằng cách
mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi giới chứng khoán, tham
gia các hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ
môi giới khác.
Cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét các tổ chức này trên phương
diện những loại hình mà chúng cung cấp. Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung
cấp danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất đặc biệt là tín dụng, thanh toán và
thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ tổ chức kinh doanh nào trong
nền kinh tế. Một số định nghĩa dựa trện các hoạt động chủ yếu. Ví dụ, Luật các tổ
chức tín dụng của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi “ Hoạt động
4
ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung
thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền vay này để cấp tín dụng và cung
cấp các dịch vụ thanh toán.
Hình thức ngân hàng đầu tiên- ngân hàng của các thợ vàng, hoặc ngân hàng
của những kẻ cho vay nặng lãi- thực hiện cho vay với các cá nhân, chủ yếu của các
người giàu như: quan lại, địa chủ... nhằm mục đích phục vụ tiêu dùng. Nhiều chủ
ngân hàng lớn còn mở rộng cho vay đối với vua chúa, nhằm tài trợ một phần cho
chi tiêu trong chiến tranh. Hình thức cho vay chủ yếu là thấu chi- tức là cho khách
hàng chi nhiều hơn số tiền gửi tại ngân hàng, một hình thức cho vay có nhiều rủi
ro. Do lợi nhuận từ cho vay rất cao, nhiều chủ ngân hàng đã lạm dụng ưu thế của
chứng chỉ tiền gửi (lưu thông thay vàng bạc), phát hành tiền gửi khống để cho vay.
Thực trạng này đã đẩy nhiều ngân hàng đến chỗ mất khả năng thanh toán và phá
sản.
Sự sụp đổ của các ngân hàng gây khó khăn cho hoạt động thanh toán, ảnh
hưởng xấu đến hoạt động mua bán. Hơn nữa lãi suất cao nên những nhà buôn
không thể sử dụng nguồn vay này. Trước tình hình đó những nhà buôn tự thành lập
ngân hàng gọi là ngân hàng thương mại. Như vậy ngân hàng thương mại được hình
thành xuất phát từ tư bản thương nghiệp, và gắn liền với qúa trình luân chuyển của
tư bản thương nghiệp. Ngân hàng thương mại cũng thực hiện các nghiệp vụ truyền
thống của ngân hàng như huy động tiể gửi, thanh toán, cất trữ hộ và cho vay. Tuy
nhiên, đIểm khác biệt giữa ngân hàng thương mại và các nhà buôn vay dưới hình
thức chiết khấu thương phiếu. Đây là các khoản cho vay ngắn hạn, dựa trên quá
trình luân chuyển của hàng hoá với lãi suất phải thấp hơn lợi nhuận tạo ra do sử
dụng tiền vay. Để đảm bảo an toàn, ngân hàng thương mại ban đầu không cho vay
đối với nguời tiêu dùng, không cho vay trung và dài hạn, không cho vay đối với
nhà nước.
Sự phá sản của nhiều ngân hàng thương mại đã gây tổn thất lớn cho người
gửi tiền là nguyên nhân dẫn đến hình thành ngân hàng tiền gửi . Ngân hàng này
5
không cho vay, chỉ thực hiện giữ hộ, thanh toán hộ để lấy chi phí. Đồng thời tại
mỗi nước, trong những điều kiện lịch sử cụ thể đã hình thành nên nhiều loại ngân
hàng khác nhau như ngân hàng tiết kiệm, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư,
ngân hàng trung ương (ngân hàng Nhà Nước)... tạo nên hệ thống các ngân hàng.
Trong đó trừ ngân hàng trung ương có chức năng xây dựng và quản lý chính sách
tiền tệ quốc gia, các ngân hàng còn lại dù có mốt số nghiệp vụ khác nhau song đều
có đắc điểm là kinh doanh tiền tệ và tín dụng.
Cùng với sự phát triển kinh tế và công nghệ, hoạt động ngân hàng đã có
những bước tiến rất nhanh. Trước hết đó là sự đa dạng các loại hình ngân hàng và
các hoạt động ngân hàng, Từ các ngân hàng tư nhân, quá trình tích tụ và tập trung
vốn trong ngân hàng đã dẫn đến hình thành ngân hàng cổ phần. Quá trình gia tăng
vai trò quản lí nhà nước đối với hoạt động ngân hàng đã tạo ra các ngân hàng thuộc
sở hữu nhà nước; ngân hàng liên doanh, các tập đoàn ngân hàng phát triển mạnh
trong những năm cuối thế kỷ 20. Nhiều nghiệp vụ truyền thống vẫn được giữ bên
cạnh những nghiệp vụ mới ngày càng phát triển. Ngân hàng thương mại từ chỗ chỉ
cho vay ngắn hạn là chủ yếu đã mở rộng cho vay trung và dài hạn, cho vay để đầu
tư vào bất động sản. Nhiều ngân hàng mở rộng cho vay tiêu dùng, kinh doanh
chứng khoán, cho thuê... Các hình thức huy động cũng ngày càng phong phú. Các
loại hình tiền gửi khác nhau đựơc đưa ra nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu của khách
hàng. Bên cạnh các hình thức huy động tiền gửi, các ngân hàng đẫ mở rộng các
hình thức vay như vay ngân hàng trung ương, vay các ngân hàng khác. Công nghệ
ngân hàng đang góp phần làm thay đổi các hoạt động cơ bản của ngân hàng. Thanh
toán điện tử thay thế dần thanh toán thủ công, đẩy nhanh tốc độ, tính thuận tiện an
toàn trong thanh toán. Các loại thẻ đang thay thế dần tiền giấy và dịch vụ ngân
hàng 24 giờ, dịch vụ ngân hàng đang tạo ra các tiện ích ngày càng lớn cho dân
chúng.
Quá trình phát triển của các ngân hàng không những làm gia tăng số lượng
các ngân hàng mà còn làm tăng qui mô của mỗi ngân hàng. Tích tụ và tập trung
6
vốn đã tạo ra các công ty ngân hàng cực lớn với số vốn tự có hàng tỷ đô la Mỹ,
tổng tài sản hàng trăm tỷ đô la Mỹ, đủ sức tài trợ cho các ngành công nghiệp và
dịch vụ mũi nhọn toàn cầu.
Quá trình phát triển của ngân hàng đã tạo ra mối liên hệ ràng buộc ngày càng
chặt chẽ, sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng lớn giữa các ngân hàng. Các hoạt động
ngân hàng xuyên quốc gia và đa quốc gia đã và đang được thúc đẩy hình thành các
hiệp hội, các tổ chức liên kết các ngân hàng nhằm tạo ra những chính sách nhằm
thống nhất trong điều hành và vận hành hệ thống ngân hàng trong mỗi quốc gia,
khu vực và quốc tế.
Lịch sử phát triển của các ngân hàng cũng đã chứng kiến nhiều khủng hoảng
và hoảng loạn ngân hàng trong mỗi quốc gia, khu vực và thế giới, gây tổn thất rất
lớn cho nền kinh tế và mất ổn định chính trị. Có thể nói các vụ sụp đổ ngân hàng
cũng là một khâu tất yếu trong tiến trình phát triển ngân hàng. Các nhà quản lý đã
và đang không ngừng cải tiến chính sách quản lý để quản lý sự sụp đổ và mở
đường cho sự phát triển của khu vực ngân hàng.
1.2. Các hoạt động của Ngân hàng
Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng và doanh
nghiệp. Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định các dịch vụ tài
chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả.
1.2.1. Mua, bán ngoại tệ
Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi (mua,
bán) ngoại tệ: Mua, bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch
vụ.
1.2.2. Nhận tiền gửi
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm mọi
cách để huy động được tiền. Một trong những nguồn quan trọng là các khoản tiền
gửi thanh toán và tiết kiệm của khách hàng. Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để
bảo quản hộ người có tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn. Trong cuộc cạnh tranh để
7
tìm và dành được các khoản tiền gửi, các ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là
phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hy sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt
và cho phép ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh. Trong lịch sử đã có những
kỷ lục về lãi suất, chẳng các ngân hàng Hy Lạp đã trả lãi suất 16% một năm để thu
hút các khoản tiền tiết kiệm nhằm mục đích cho vay đối với các chủ tầu ở Địa
Trung Hải với lãi suất gấp đôi hay gấp ba lãi suất tiết kiệm. Như vây, khi cung cấp
dịch vụ nhận tiền gửi ngân hàng thu “phí” gián tiếp thông qua thu nhập của hoạt
động sử dụng tiền gửi đó.
1.2.3. Cho vay
* Cho vay thương mại
Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là
cho vayđối với người bán (người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân hàng để
lấy tiền trước). Sau đó ngân hàng cho vay trực tiếp đối với khách hàng (là người
mua), giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh.
* Cho vay tiêu dùng
Trong giai đoạn đầu hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với cá
nhân và hộ gia đình bơỉ vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi ro vỡ nợ
tương đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho
vay đã hướng các ngân hàng tới người tiêu dùng như là một khách hàng tiềm năng.
Sau chiến tranh thế giới thứ 2, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại
hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển
*Tài trợ cho dự án
Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng ngày
càng trở nên năng động trong việc tài trợ trung, dài hạn: Tài trợ xây dựng nhà máy,
phát triển ngành công nghệ cao. Một số ngân hàng còn cho vay để đầu tư vào đất.
1.3. Bảo quản tài sản hộ
Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng, các giấy tờ có giá và tài sản khác
cho khách hàng trong két ( vì vậy còn gọi là dịch vụ cho thuê két). Ngân hàng
8
thường giữ hộ những tài sản tài chính, giấy tờ cầm cố, hoặc những giấy tờ quan
trọng khác của khách hàng với nguyên tắc an toàn, bí mật, thuận tiện. Dịch vụ này
phát triển cùng vời nhiều dịch vụ khác như mua bán hộ các giấy tờ có giá cho
khách, thanh toán lãi hoặc cổ tức hộ...
1.4.Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán
Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng không chỉ bảo quản mà
còn thục hiện các lệnh chi trả cho khách hàng. Thanh toán qua ngân hàng đã mở
đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần phải đến
ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết phiếu chi trả cho khách, khách hàng mang
giấy đến ngân hàng sẽ nhận được tiền. Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền
mặt (an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiếtkiệm chi phí) đã góp phần rút ngắn thời
gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho khách hàng. Khi ngân hàng mở chi
nhánh, phạm vi thanh toán qua ngân hàng được mở rộng, càng tạo nhiều lợi ích
hơn. Điều này đã khuyến khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân
hàng thanh toán hộ. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, bên cạnh các
thể thức thanh toán như séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, L/C, đã phát triển các hình thức
thanh toán mới bằng điện, thẻ...
1.5. Quản lý ngân quỹ
Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và cá
nhân. Nhờ đó, ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng. Do
có kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân, nhiều
ngân hàng đã ccung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ, trong đó ngân
hàng đồng ý quản lý việc thu chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư
phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lời và tín dụng ngắn hạn
cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
1.6.Tài trợ các hoạt động của chính phủ
Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã trở
thành trọng tâm chú ý của các chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là cấp
9
bách trong khi thu không đủ, chínhphủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản
cho vay của ngân hàng. Ngày nay, chính phủ dành quyền cấp phép hoạt động và
kiểm soát các ngân hàng. Các ngân hàng được cấp giấy phép thành lập với điều
kiện là họ phải cam kết thực hiện với mức độ nào đó các chính sách của chính phủ
và tài trợ cho Chính phủ. Các ngân hàng thường mua trái phiếu Chính phủ theo một
tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được.
1.7. Bảo lãnh
Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và do
ngân hàng nắm giữ tiền gửi của khách hàng, nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh
cho khách hàng. Trong những năm gần đây, nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng đa dạng
và phát triển mạnh. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu
hàng hoá và trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng
khác ...
1.8. Cho thuê thiết bị trung và dài hạn (Leasing)
Nhằm để bán được các thiết bị, đặc biệt là các thiết bị có giá trị lớn. Nhiều
hãng sản xuất và thương mại đã cho thuê. Cuối hợp đồng thuê khách hàng có thể
mua( do vậy còn gọi là hợp đồng thuê mua). Rất nhiều ngân hàng tích cực cho
khách hàng quyền lựa chọn thuê các thiết bị máy móc cần thiết thông qua hợp đồng
thuê mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê với điều kiện
khách hàng phải trả tới hơn 70% hoặc100% giá trị của tài sản cho thuê. Do vậy cho
thuê của ngân hàng cũng có nhiều điểm giống như cho vay và được xếp vào tín
dụng trung và dài hạn.
1.9. Cung cấp dịc vụ uỷ thác và tư vấn
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia
về quản lí tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản
lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ uỷ thác phát triển sang cả uỷ
thác vay hộ , uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu tư... Thậm chí, các
ngân hàng đóng vai trò là người được uỷ thác trong di chúc, quản lý tài sản cho
10
khách hàng đã qua đời bằng cách công bố tài sản, bảo quản các tài sản có giá.
Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn về tài chính. Ngân
hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập, mua bán, sáp
nhập doanh nghiệp.
1.10. Cung cấp dịch vụ môi giới và đầu tư chứng khoán
Nhiều ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép
khách hàng thoả mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý do chính khiến các
ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng
cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác. Trong một vài trường
hợp các ngân hàng tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng
khoán để cung cấp dịch vụ môi giới.
1.11. Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm
Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng, điều đó
đảm bảo việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế hay gặp rủi
ro trong hoạt động, mất khả năng thanh toán. Ngân hàng liên doanh với công ty bảo
hiểm con, ngân hàng cung cấp dịch vụ tiết kiệm gắn với bảo hiểm như tiết kiệm an
sinh, tiết kiệm hưu trí...
1.12. Cung cấp các dịch vụ đại lý
Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh
hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi. Nhiều ngân hàng (thường ngân hàng lớn) cung cấp
dịch vụ ngân hàng đại lý cho các ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành hộ
các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ.
2. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại
2.1. Tín dụng – Sự cần thiết của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế
- Tín dụng được coi là mối quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa người cho vay
và người đi vay trong điều kiện có hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian nhất
định. Hay nói một cách khác: Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan
hệ kinh tế mà trong đó mỗi cá nhân hay một tổ chức nhường quyền sử dụng một
11
khối lượng giá trị hoặc hiện vật cho một cá nhân hay một tổ chức khác với những
ràng buộc nhất định về thời gian hoàn trả, lãi suất, cách thức vay mượn và thu hồi.
Trong quan hệ mua bán chịu, thông thường giá bán chịu hàng hoá cao hơn
giá bán trao tiền ngay, phần chênh lệch này chính là lãi của hàng hoá đem bán chịu.
Quan hệ mua bán chịu chỉ diễn ra giữa các đơn vị liên quan trực tiếp với nhau. Vì
vậy nó không đáp ứng được nhu cầu vay mượn ngày càng tăng của nền sản xuất
hàng hoá. Mặt khác, do đặc điểm tuần hoàn vốn trong quá trình tái sản xuất, xã hội
thường xuyên xuất hiện hiện tượng thừa vốn tạm thời ở các tổ chức cá nhân này và
nhu cầu thiếu vốn ở các tổ chức cá nhân khác. Hiện tượng thừa thiếu vốn phát sinh
do có sự chênh lệch về thời gian sử dụng vốn của tổ chức hay cá nhân đó. Trong
khi đó số lượng các khoản thu nhập và chi tiêu ở các tổ chức cá nhân trong quá
trình tái sản xuất đòi hỏi phải được tiến hành liên tục. Vậy để khắc phục tình trạng
này thì chỉ có ngân hàng – một tổ chức chuyên kinh doanh tiền tệ mới có khả năng
giải quyết được những mâu thuẫn đó.
Vậy tín dụng ngân hàng là gì?
“ Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ mà một bên là ngân
hàng – một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là tất cả
các tổ chức, cá nhân trong xã hội, trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi
vay, vừa là người cho vay”.
Với tư cách là người đi vay : ngân hàng huy động mọi nguồn vốn tạm thời
nhàn rỗi trong xã hội bằng hình thức nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ
chức cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong
xã hội
Với tư cách là người cho vay: Ngân hàng đáp ứng nhu cầu cho các doanh
nghiệp, tổ chức, cá nhân khi có nhu cầu thiếu vốn cần được bổ sung trong hoạt
động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Với vai trò này, ngân hàng đã thực hiện
chức năng phân phối lại vốn, tiền tệ để đáp ứng nhu cầu tái sản xuất xã hội.
12
Đây là hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường, nó luôn đáp
ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế một cách linh hoạt đầy đủ và kịp thời.
Có thể thấy rõ hơn khái niệm về tín dụng ngân hàng qua ví dụ sau :
Với lợi thế về du lịch Việt Nam đang ngày càng thu hút nhiều du khách nước
ngoài “trở thành điểm đến của thiên niên kỷ mới”, do vậy số lượng khách du lịch
đến Việt Nam sẽ tăng lên. Nếu biết tận dụng cơ hội này thì việc xây dựng nên
khách sạn không những đem lại lợi nhuận cho chính bản thân mà còn đem lại sự
phát triển cho nền kinh tế. Nhưng để xây dựng được khách sạn đủ khả năng cạnh
tranh thì cần có lượng vốn rất lớn mà nguồn vốn của chính bản thân thì khó có thể
đáp ứng. Trong khi đó có một số người khác có món tiết kiệm do tích luỹ được
trong nhiều năm, tạm gọi là lượng tiền nhàn rỗi. Nếu hai bên gặp được nhau và bên
đối tác sẵn sàng đáp ứng nhu cầu vốn thì kế hoạch sẽ trở thành hiện thực. Tuy
nhiên, khả năng gặp mặt giữa hai bên có xảy ra không? Trong nền kinh tế thị
trường, hàng ngày hàng giờ không biết xảy ra bao nhiêu mối quan hệ như vậy. Nó
đã hình thành nên: một bên là những người có tiền tích luỹ, có khả năng cung cấp
và phía bên kia là những người có nhu cầu vay cho đầu tư phát triển. Như vậy nảy
sinh vấn đề là làm như thế nào để họ có thể tìm gặp được nhau và làm thế nào để
cùng một lúc thoả mãn được nhu cầu vốn đa dạng và to lớn trong khi các nguồn tiết
kiệm còn đang nằm phân tán trong xã hội. Không phải bất kì ai cũng có khả năng
hoặc đầu tư vay vốn trên thị trường tài chính, ngoài ra khi giao dịch trên thị trường
tài chính đòi hỏi chi phí về tiền bạc và thời gian rất lớn. Do đó các ngân hàng
thương mại với chức năng cơ bản là trung gian tài chính, hoạt động như một chiếc
cầu nối liền giữa khả năng cung ứng và nhu cầu về vốn tiền tệ trong xã hội đã cơ
bản giải quyết được những vấn đề nẩy sinh trên. Đồng thời với tư cách là một trung
gian, tín dụng ngân hàng đóng vai trò là người môi giới giữa một bên là người có
tiền cho vay và một bên là người có nhu cầu vay vốn. Thông qua cơ chế thị trường
bằng những biện pháp kinh tế năng động và áp dụng các phương pháp kĩ thuật theo
hướng hiện đại tiên tiến, ngân hàng có khả năng thu hút hầu hết những nguồn vốn
13
tiền tệ tiết kiệm dự trữ trong xã hội để chuyển giao đúng nơi, đúng lúc phù hợp với
nhu cầu vốn trong sản xuất kinh doanh. Chính nhờ có tín dụng ngân hàng mà
những đồng tiền tạm thời nhàn rỗi đã trở thành tiền hoạt động, biến những đồng
tiền phân tán thành nguồn vốn tập trung phục vụ cho nhu cầu kinh doanh. Qua đó
thúc đầy hoạt động sản xuất kinh doanh giúp cho nền kinh tế ngày càng phát triển.
2.2. Các loại hình thức tín dụng
Tín dụng cho vay tồn tại dưới rất nhiều hình thức, nhiều tên gọi. Tuy nhiên,
căn cứ vào một số các tiêu thức khác nhau để phân chia tín dụng ngân hàng. Dưới
đây là một số cách phân chia mà Ngân hàng thường sử dụng khi phân tích và đánh
giá.
2.2.1. Phân loại theo thời hạn tín dụng
Theo cách này tín dụng ngân hàng được phân làm 3 loại:
- Tín dụng ngắn hạn: là khoản tín dụng dưới 1 năm và được sử dụng để bổ
sung sự thiếu hụt tạm thời vốn lưu động của doanh nghiệp, nó có thể được vay cho
những sinh hoạt cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: là khoản tín dụng có thời hạn từ 1-3 năm. loại tín
dụng này thường dùng để cung cấp, mua sắm tài sản cố định, cải tiến và biến đổi kỹ
thuật, mở rộng và xây dựng công trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: là khoản tín dung có thời gian từ 3 năm trở lên. Loại tín
dụng này dùng để cung cấp vốn cho xây dựng cơ bản như: Đầu tư xây dựng các xí
nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy
mô lớn
Tín dụng trung và dài hạn được đầu tư để hình thành vốn cố định và một
phần bổ sung cho vốn lưu động.
2.2.2. Phân loại theo mục đích
Theo tiêu thức này thì tín dụng ngân hàng được phân chia rất đa dạng và phong
phú:
14
- Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây
dựng bất động sản, nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp thương
mại và dịch vụ.
- Cho vay công nghiệp và thương mại: là cho vay ngắn hạn để bổ xung vốn
lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực này.
- Cho vay Nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất
như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, con giống, lao động, ...
- Cho vay cá nhân: là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như
mua sắm các vật dụng đắt tiền. Ngày nay Ngân hàng còn cho vay để trang trải các
khoản chi phí thông thường của đời sống thông dụng dưới tên gọi là tín dụng tiêu
dùng và phát hành thẻ tín dụng là một ví dụ.
- Thuê mua và các loại tín dụng khác.
2.2.3. Phân loại theo căn cứ đảm bảo
- Cho vay không bảo đảm: là loại cho vay không cần tài sản thế chấp, cầm cố
hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba. Việc cho vay chỉ dựa trên uy tín. Đối vói những
khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị
có hiệu quả thì Ngân hàng có thể cấp tín dụng mà không đòi hỏi nguồn thu nợ bổ
xung.
- Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay được Ngân hàng cung cấp với điều
kiện phải có tài sản thế chấp hoặc cần có bảo lãnh của bên thứ ba. Đối với khách
hàng không có uy tín cao đối với Ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có bảo đảm.
Sự bảo đảm này căn cứ pháp lý để Ngân hàng có thêm một nguồn thứ hai, bổ xung
cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn nhằm bù lại khoản tiền vay trong trường
hợp người vay không có khả năng trả nợ.
2.2.4. Phân loại theo đối tượng tín dụng
Theo tiêu thức này thì tín dụng được chia làm 2 loại
15
- Tín dụng lưu động: loại nào được cấp phát để hình thành vốn lưu động
của các tổ chức kinh tế như cho vay để dự trữ hàng hoá đối với xí nghiệp, thương
nghiệp, bù đắp vốn lưu động thiếu hụt tạm thời.
* Loại này được chia làm 2 loại:
+ Cho vay dự trữ hàng hoá, cho vay chi phí sản xuất.
+ Cho vay để thanh toán các khoản nợ dưới hình thức chiết khấu kỳ phiếu,
với thời hạn cho vay là ngắn hạn.
- Tín dụng vốn cố định: là loại tín dụng được cấp phát để hình thành tài sản
cố định. Loại này thường được đầu tư để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi
mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng các công trình mới. Thời hạn cho vay đối
với loại này là trung và dài hạn.
2.2.5.Phân loại theo phương thức hoàn trả tiền vay
Theo cách này thì khoản cho vay có thể được hoàn trả theo hai cách. Cách
thứ nhất là trả một lần cả vốn gốc và lãi khi đến hạn. Hai là khoản tiền vay sẽ được
trả làm nhiều lần theo nhiều kỳ.
2.2.6. Phân loại theo xuất xứ vốn vay
Có loại do ngân hàng trực tiếp cho vay, có loại cho vay gián tiếp tức là ngân
hàng mua lại nợ từ chủ nợ khác.
2.2.7. Phân loại theo hình thức giá tự có
Một là cho vay bằng tiền, đây là loại cho vay chủ yếu của các ngân hàng
được thực hiện bằng các kỹ thuật khác nhau.
Hai là cho vay bằng tài sản - loại này được áp dụng phổ biến dưới hình thức
tài trợ thuê mua.
2.2.8. Phân loại theo thành phần kinh tế
- Tín dụng đối với thành phần kinh tế quốc doanh.
- Tín dụng đối với thành phần kinh tê ngoài quốc doanh.
16
II. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Khái niệm
Tín dụng là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng (còn được gọi là
tín dụng ngân hàng).
Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ la tinh credo (tin tưởng, tín nhiệm). Trong
thực tế cuộc sống thuật ngữ tín dụng được hưởng theo nhiều nghĩa khác nhau: ngay
cả trong quan hệ tài chính, tùy theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng nội
dung riêng. Trong quan hệ tài chính, tín dụng có thể hiêu theo các nghĩa sau:
+ Xét trên góc độ dịch chuyển quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết
kiệm sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp dịch
chuyển quỹ từ người cho vay sang người đi vay.
+ Trong quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản
trên cơ sở hoàn trả giữa hai chủ thể. Như một công ty công nghiệp hoặc thương mại
bán hàng trả chậm cho một công ty khác, trong trường hợp này người bán hàng
chuyển giao hàng cho bên mua và sau một thời gian nhất định theo thỏa thuận bên
mua phải trả tiền cho bên bán. Phổ biến hơn cả là giao dịch của ngân hàng và các
định chế tài chính khác với các doanh nghiệp và cá nhân thể hiện dưới hình thức
cho vay, tức là ngân hàng cấp tiền vay cho bên đi vay và sau một thời hạn nhất định
người đi vay phải thanh toán vốn gốc và lãi.
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay
(ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay ( cá nhân, doanh nghiệp và
các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng
trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô
điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Từ khái niệm trên, bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ
sở hoàn trả và có đặc trưng sau:
+ Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai
hình thức là cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản). Trong
17
những năm 1960 trở về trứơc hoạt động tín dụng của ngân hang chỉ có cho vay
bằng tiền. Xuất phát từ tính đặc thù đó mà nhiều lúc thuật ngữ tín dụng và cho vay
được coi là đồng nghĩa vơi nhau. Từ những năm 1970 trở lại đây, dịch vụ cho thuê
vận hành và cho thuê tài chính đã được ngân hàng hoặc các định chế tài chính cung
cấp cho khách hàng. Đây là một sản phẩm kinh doanh của ngân hàng, một hình
thức tín dụng bằng tài sản thực.
+ Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay chuyển giao
tài sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng
hạn. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng. Trong thực tế khi một số
nhân viên tín dụng khi xét duyệt cho vay không dựa trên cơ sở đánh giá mức độ tín
nhiệm về khách hàng mà lại chú trọng đến các đảm bảo, chính quan điểm này đã
làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
+ Giá trị hoàn trả thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách
khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài gốc. Để thực hiện được nguyên
tắc này phải xác định lãi xuất danh nghĩa lơn hơn tỷ lệ lạm phát, hay nói cách khác
lãi xuất thực phải dương (Lãi suất thực = Lãi xuất danh nghĩa- Tỷ lệ lạm phát). Tuy
nhiên, vì lãi suất chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, nên trong một số
trường hợp cụ thể lãi suất danh nghĩa có thể thấp hơn tỷ lệ lạm phát, ngoại lệ này
chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn.
+ Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay được cấp trên cơ sở cam
kết hoàn trả vô điều kiện. Về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan hệ
tín dụng như hợp động tín dụng, khế ước... thực chất là lệnh phiếu, trong đó bên đi
vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn.
2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
2.1. Hoạt động tín dụng xét ở góc độ hoạt động của ngân hàng
Các khoản tín dụng của ngân hàng có chất lượng tốt khi hiệu quả sử dụng
vốn cao, an toàn và mang lại hiệu quả kinh tế cho chủ thể sử dụng đồng thời mang
18
lại một mức lợi nhuận nào cho ngân hàng. Dưới đây là một số chỉ tiêu đánh giá
chất lượng tín dụng đối với ngân hàng:
2.1.1. Các chỉ tiêu về an toàn tín dụng và mức độ rủi ro
- Tỷ lệ nợ quá hạn.
Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Tổng dư nợ
Nợ quá hạn là phần còn lại mà đến hạn hoặc có thêm thời gian gia hạn
vẫn chưa đủ thu hồi được.
- Tổng dư nợ quá hạn trong kỳ và tổng dư nợ quá tích lũy.
- Cơ cấu nợ quá hạn “theo tuổi”: Phân nhóm nợ quá hạn theo thời gian
quá hạn và theo khách hàng, ước tính tỷ lệ nợ quá hạn chuyển sang nợ khó đòi. Chi
tiết nợ quá hạn theo tuổi sau:
+) Tên khách hàng.
+) Tổng dư nợ.
+) Qúa hạn dưới 3 tháng.
+) Qúa hạn dưới 3-6 tháng.
+) Quá hạn từ 6 tháng đến 1 năm
+) Quá hạn trên 1 năm
- Tỷ lệ phần trăm nợ quá hạn theo tuổi.
- Tỷ lệ nợ quá hạn trong kỳ: Cùng với tỷ lệ nợ quá hạn, tỷ lệ thu hồi
nợ quá hạn cho ta biết mức độ quản lý nội bộ đối với nợ quá hạn. Nếu tỷ lệ thu hồi
nợ quá hạn nhỏ thì thực tế Ngân hàng có thể đang đứng trước một rủi ro mất một
lượng vốn lớn cho vay. Tỷ lệ này có thể xác định bằng công thức:
Doanh số thu nợ quá hạn trong kỳ
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Dư nợ quá hạn đầu kỳ+Dư nợ quá hạn trong kỳ
19
Một tỷ lệ nợ quá hạn được coi là chấp nhận được là dưới 3%
2.1.2. Các chỉ tiêu về sử dụng vốn
- Lương dư nợ tích lũy đến thời điểm hết kỳ và cơ cấu dư nợ (ngắn, trung và
dài hạn)
- Tỷ lệ cho vay trên tổng vốn dư nợ
Tổng dư nợ đến kỳ hạn
Tỷ lệ cho vay =
Tổng lượng vốn huy động tích lũy
Tỷ lệ này cho biết khả năng ngân hàng tận dụng nguồn vốn huy động trong
hoạt động tín dụng.
- Cơ cấu cho vay theo mức lãi suất và lãi suất cho vay bình quân. Chỉ tiêu
này cho thấy được mức lãi suất cho vay bình quân của ngân hàng. Nói chung, lãi
suất cho vay bình quân phải lớn hơn lãi suất huy động bình quân thì ngân hàng mới
hoạt động và có lãi.
- Vòng quay vốn tín dụng trong năm
Dư nợ trong năm
Vòng quay vốn tín dụng trong năm =
Dư nợ bình quân năm
Chỉ tiêu này cho ta biết một đồng vốn của ngân hàng được cho vay
bao nhiêu lần trong năm. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt, nó chứng tỏ ngân hàng thu
được nhiều nợ và chứng tỏ rằng nguồn vốn mà ngân hàng đã đầu tư vào hoạt động
kinh doanh có hiệu quả.
2.1.3. Các chỉ tiêu về doanh lợi
- Tổng doanh thu của ngân hàng từ hoạt động tín dụng
- Cơ cấu thu nhập từ các hoạt động tín dụng của ngân hàng và từ trong hoạt
động kinh doanh khác.
- Lợi nhuận trước thuế và lợi nhuận sau thuế của ngân hàng.
20
2.2. Chất lượng tín dụng ngân hàng dưới góc độ họat động của doanh
nghiệp
Doanh nghiệp là người trực tiếp quản lý và sử dụng vốn nên đối với họ chỉ
tiêu đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng là doanh thu từ khỏan vay ngân hàng,
lợi nhuận tăng lên nhờ việc sử dụng vốn vay ngân hàng... Ngoài ra nó còn thể hiện
ở chỗ nhờ có số tiền vay ngân hàng mà doanh nghiệp có thể đổi mới công nghệ
nâng cao chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao tính cạnh tranh, củng cố vị
thế doanh nghiệp trên thị trường, tạo công ăn việc làm và cải thiện đời sống công
nhân.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng Ngân hàng
Để có thể nâng cao được chất lượng tín dụng ngân hàng đối với doanh
nghiệp ( cả về ngân hàng và doanh nghiệp sản xuất kinh doanh) ta phải hiểu rõ các
nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng để từ đó phát huy những ảnh
hưởng tích cực cũng như hạn chế các ảnh hưởng tiêu cực. Mặt khác cả ngân hàng
và doanh nghiệp phải cố gắng linh hoạt để phù hợp với quy định của Nhà nước
trong hoạt động tín dụng. Có như thế thì cả ngân hàngvà doanh nghiệp mới để ra
các biện pháp đúng đắn, cụ thể, linh hoạt để đạt được mục tiêu hoạt động của mình
một cách tốt nhất. Sau đây chúng ta lần lượt nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến
chất lượng tín dụng ngân hàng thuộc về ngân hàng và doanh nghiệp.
3.1. Các nhân tố thuộc về ngân hàng
- Chính sách tín dụng
Đây là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng của Ngân hàng, nó có ý nghĩa
quyết định sự thành công hay thất bại của Ngân hàng. Chính sách tín dụng phải phù
hợp với đường lối phát triển kinh tế của đảng và nhà nước, đồng thời kết quả hài
hòa giữa quyền lợi của người gửi tiền, của ngân hàng và người sử dụng vốn vay.
Muốn vậy, chính sách tín dụng phải được xây dựng trên cơ sở khoa học và thực
tiễn.
- Thông tin tín dụng.
21
Nhờ có thông tin tín dụng mà người quản lý có thể đưa ra những quyết định
cần thiết liên quan đến việc cho vay, quản lý đảm bảo tiền vay, giảm thiểu rủi ro tín
dụng, nâng cao hiệu quả tín dụng. Thông tin tín dụng có thể thu thập được từ nguồn
thông tin sẵn có của ngân hàng từ thông tin tín dụng(CIC), từ khách hàng, từ đối
thủ cạnh tranh hoặc nói cách khác từ nguồn trực tiếp hay gián tiếp, từ các nguồn
thông tin của cơ quan pháp luật...
- Công tác tổ chức Ngân hàng
Nhân tố này không chỉ tác động đến chất lượng tín dụng mà tác động đến
mọi hoạt động của Ngân hàng. Một Ngân hàng có cơ cấu tổ chức đựơc sắp xếp một
cách khoa học, sự phân công công việc được tiến hành một cách cụ thể, có sự liên
kết giữa các bộ phận thì việc đáp ứng các yêu cầu của khách hàng sẽ được thực
hiện kịp thời, không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh, quản lý có hiệu qủa và an toàn các
khoản tín dụng.
- Chất lượng nhân sự.
Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong hoạt động kinh doanh
nói chung, còn nói đến hoạt động Ngân hàng thì nó lại càng quan trọng. Vì cán bộ
công nhân viên của Ngân hàng là bộ mặt, hình ảnh của Ngân hàng đối với khách
hàng. Hơn nữa nghiệp vụ ngân hàng càng ngày càng phát triển đòi hỏi chất lượng
nhân sự ngày càng cao. Việc tuyển dụng nhân viên có đạo đức tốt, giỏi chuyên môn
nghiệp vụ sẽ giúp ngân hàng ngừa tối đa những sai phạm có thể xẩy ra để đem lại
một khoản tín dụng có chất lượng.
- Công tác kiểm soát nội bộ.
Đây là công tác mà Ngân hàng nào cũng cần tiến hành thường xuyên, liên
tục nhằm duy trì chất lượng, hiệu quả kinh doanh của mình phù hợp với các chính
sách, đáp ứng yêu cầu, mục tiêu đã đề ra. Để làm tốt công tác này, Ngân hàng cần
sắp xếp một đội ngũ cán bộ giỏi chuyên môn, nghiệp vụ, trung thực làm nhiệm vụ
này và có chế độ thưởng, phạt nghiêm minh. Có như thế, công tác tín dụng mới
được thực hiện đúng quy trình nhằm nâng cao chất lượng tín dụng
22
3.2. Nhân tố thuộc về doanh nghiệp
-Năng lực của doanh nghiệp:
Không một doanh nghiệp nào đi vay lại không muốn món vay đem lại hiệu
quả. Nhưng nhiều khi do năng lực có hạn chế, họ không thực hiện được mục đích
của mình và làm ảnh hưởng đến khoản tín dụng mà họ đã nhận từ ngân hàng.
- Trình độ quản lý của các nhà doanh nghiệp:
Do trình độ của nhiều nhà lãnh đạo còn nhiều hạn chế về học vấn, kiếm thức
cũng như kinh nghiệm thực tế nên nhiều khi họ không dự đoán được những biến
động của thị trường, yếu kém Marketing sản phẩm... Do sự bảo thủ của nhiều nhà
quản lý không dám đổi mới khiến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không
có hiệu quả, dẫn đến tình trạng không thu hôi hết được vốn và làm ảnh hưởng đến
hiệu quả của doanh nghiệp từ đó ảnh hưỏng đến chất lượng của khoản tín dụng đã
sử dụng.
- Đạo đức của người đi vay:
Ngân hàng chỉ quyết định cho vay sau khi đã phân tích kỹ các yếu tố có liên
quan đến khả năng của người vay trong việc hoàn trả nợ và cách thức sử dụng vốn
vay. Nhưng thông tin này có thể bị thay đổi sau khi doanh nghiệp nhận được tiền
vay. Thực tế, nhiều doanh nghiệp đã sử dụng vốn vay không hợp lý dẫn đến không
đạt đựơc hiệu quả sản xuất kinh doanh. Còn có nhiều ngừơi có ý tham nhũng và kết
quả là hiệu quả sử dụng vốn vay Ngân hàng kém thậm chí không thu hồi được. Vì
vậy, công tác kiểm tra, giám sát của ngân hàng là rất quan trọng
3.3. Các nhân tố khách quan khác
Ngoài những nhân tố chủ quan trên còn nhiều nhân tố khách quan mà tác
động của nó cũng không nhỏ đến chất lượng của các khoản tín dụng ngân hàng.
- Tác động của môi trường kinh tế.
Đây là nhân tố luôn ảnh hưởng đến khả năng tài chính của người vay hay nói
rõ hơn là nếu môi trường kinh tế xấu làm cho hoạt động của doanh nghiệp gặp khó
khăn, ảnh hưởng đến thời hạn trả nợ và khả năng hoàn trả món vay cho ngân hàng
23
đo đó ảnh hưởng đến chất lượng của khỏan tín dụng đó của ngân hàng. Ngược lại
nếu môi trường kinh tế thuận lợi sẽ giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp thuận lợi, thu hồi được vốn nhanh đồng thời lợi nhuận thu được sẽ
cao và từ đó khả năng trả nợ của doanh nghiệp, khỏan vay sẽ được trả đúng hạn,
khoản tín dụng ngân hàng sẽ có chất lượng tốt.
- Tác động của môi trường pháp lý:
Ngân hàng là một doanh nghiệp luôn phải hoạt động trong hành lang pháp lý
hẹp hơn bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất hay thương mại nào. Vì vậy, một hệ
thống pháp lý càng hoàn chỉnh, đồng bộ thì sẽ càng đem lại hiệu quả hoạt động của
ngân hàng, của các doanh nghiệp và đảm bảo đựơc chất lượng tín dụng của các
doanh nghiệp đó với ngân hàng. Còn nếu môi trường pháp lý không hoàn chỉnh, có
nhiểu lỗ hổng thì kết quả sẽ ngược lại cho cả ngân hàng và các doanh nghiệp từ đó
làm cho chất lượng của các khỏan tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp sẽ xấu
và khó có thể thu hồi.
- Chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước bao
gồm các chính sách tài chính tiền tệ, chính sách lãi suất, chính sách đối ngoại... có
vai trò quan trọng đối với hoạt động của nền kinh tế nói chung và hoạt động của
các ngân hàng, các doanh nghiệp nói riêng. Chính sách kinh tế trong hoàn cảnh này
thì có tác dụng cho cả ngân hàng và doanh nghiệp nhưng trong hoàn cảnh khác thì
lại ngược lại. Các chính sách này nhằm ưu tiên phát triển hay hạn chế một ngành
nào đó để đảm bảo cân đối cho nền kinh tế. Do vậy các chủ trương, chính sách của
Nhà nước phải đúng đắn thì mới thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, là điều
kiện cần để đạt được chất lượng và hiệu quả của các khoản tín dụng ngân hàng.
- Các yếu tố thiên tai gây lên.
Chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhiều khi mang tín thời vụ.
Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần của Nhà nước có thành phần kinh tế Nhà
nước, trong đó doanh nghiệp trong các ngành nông – lâm – ngư nghiệp lại chiếm
24
một tỷ lệ không nhỏ thì yếu tố này rất quan trọng. Khi thiên tai xẩy ra như: lũ lụt,
hạn hán, mưa bão, hỏa hoạn,... làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp bị đổ bể, dẫn đến khả năng hoàn trả các khoản nợ là khó khăn hoặc
không thể, làm cho chất lượng của các khoản tín dụng bị giảm sút.
25