Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi
mới nền kinh tế đất nước theo hướng mở cửa, hội nhập với khu vực và thế giới
phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Đảng ta thực hiện chủ trương công
ngiệp hoá, hiện đại hoá trên cơ sở phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các doanh nghiệp Việt Nam phát
triển với quy mô ngày càng lớn, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng hàng
hoá, dịch vụ vươn lên cạnh tranh với hàng hoá, dịch vụ của các nước khác trong
khu vực và trên thế giới. Bởi vậy nhu cầu vốn đầu tư của nền kinh tế ngày càng
tăng. Bên cạnh nguồn vốn tự có (thường không lớn ) các doanh nghiệp phải tìm
mọi cách huy động lượng vốn lớn hơn nhiều để đầu tư mở rộng và phát triển sản
xuất kinh doanh. Các ngân hàng thương mại là những địa chỉ cung cấp nguồn
vốn chủ yếu để các doanh nghiệp thực hiện chiến lược sản xuất kinh doanh. Vì
vậy, sự phát triển của các ngân hàng thương mại có ý nghĩa quan trọng đối với
sự phát triển của nền kinh tế. Do đó Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến sự phát
triển của ngành ngân hàng nói chung, sự phát triển của các ngân hàng thương
mại nói riêng, đặc biệt đối với các ngân hàng thương mại nhà nước được xếp
loại doanh nghiệp đặc biệt.
Ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh vừa với danh nghĩa là một
doanh nghiệp tổ chức hạch toán kinh tế kinh doanh, vừa với vai trò trung gian
tài chính, trung gian thanh toán trong nền kinh tế. Với vai trò trung gian tài
chính, ngân hàng thương mại tập trung mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong
nền kinh tế và phân phối vốn cho các nhu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp và doanh nhân theo nguyên tắc tín dụng. Chất lượng hoạt
động kinh doanh dịch vụ của các ngân hàng thương mại tác động đến hoạt động
sản xuất kinh doanh của các khách hàng, đồng thời kết quả sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp vay vốn của các ngân hàng có tác động trực tiếp đến hiệu
Website: Email : Tel : 0918.775.368
quả kinh doanh của ngân hàng thương mại. Các rủi ro của tất cả các khách hàng
vay vốn đều ít nhiều, trực tiếp hoặc gián tiếp tác động, ảnh hưởng đến kết quả
kinh doanh của ngân hàng thương mại. Vì thế, để huy động được nhiều vốn và
cho vay đảm bảo an toàn, có hiệu quả, đúng pháp luật có ý nghĩa sống còn đối
với mỗi ngân hàng thương mại.
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (NHNo) là một
doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng
ngân hàng. Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Hà
Nội là một đơn vị thành viên của NHNo Việt Nam, một chi nhánh loại I. Chi
nhánh đuợc thành lập trong quá trình NHNo đang đổi mới công nghệ, chi nhánh
đang áp dụng những công nghệ mới nhất của hệ thống NHNo, thử nghiệm công
nghệ mới để áp dụng rộng ra toàn hệ thống. Bởi vậy, nghiên cứu thực trạng hoạt
động kinh doanh tín dụng của ngân hàng cơ sở để từ đó rút ra nhận xét về những
thành công và những hạn chế, tồn tại, vướng mắc, trên cơ sở đó đề suất các giải
pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng ngân hàng là
điều cần thiết. Vì lẽ đó em chọn đề tài nghiên cứu: “Giải pháp nâng cao chất
lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Hà Nội” làm chuyên đề thực tập tốt
nghiệp.
Nội dung chuyên đề tốt nghiệp gồm 3 chương:
Chương I: Phương pháp đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng
thương mại.
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp
vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Nam Hà Nội.
Chương III: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng nông ngiệp và phát triển
nông thôn Nam Hà Nội.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I
PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
I. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1. Tín dụng ngân hàng
1.1.Khái niệm về tín dụng
Theo quan điểm của Mác thì “Tín dụng là quá trình chuyển nhượng tạm
thời một lượng giá trị từ người sở hữu đến người sử dụng, sau một thời gian nhất
định sẽ thu hồi lại một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu”.
Tín dụng biểu hiện mối quan hệ vay mượn và hoàn trả. Trong quan hệ này
thể hiện các nội dung sau:
+ Người cho vay chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị nhất
định.
+ Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định,
sau khi khoản vay đó hết thời hạn sử dụng theo thoả thuận, người đi vay phải
hoàn trả cho người cho vay phần vốn gốc cộng với khoản phí cơ hội mà người
cho vay mất đi khi bỏ lỡ cơ hội đầu tư tốt hơn.
+ Giá trị được hoàn trả thường lớn hơn lúc hai bên kí kết hợp đồng tín
dụng.
1.2 Khái niệm về tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng phổ biến và có vai trò quan
trọng nhất trong nền kinh tế. Đồng thời, nó cũng giữ vị trí chủ chốt trong hoạt
động của mỗi ngân hàng.
Như đã đề cập ở trên: “Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền
tệ giữa một bên là ngân hàng - một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền
tệ- với một bên là các tổ chức, cá nhân trong xã hội, trong đó ngân hàng vừa là
người đi vay, vừa là người cho vay”
Nói đến tín dụng ngân hàng là đề cập đến cả “đi vay” lẫn “cho vay”.Tuy
nhiên, trên thực tế, do tính chất phức tạp của hoạt động ngân hàng mà hoạt động
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhận tiền gửi và hoạt động cho vay laị được tách riêng, do hai bộ phận chuyên
môn độc lập nhau đảm nhận: bộ phận Nguồn vốn và bộ phận tín dụng. Hoạt
động nhận tiền gửi không được gọi là hoạt động tín dụng mà là hoạt động “huy
động vốn” do bộ phận Nguồn vốn thực hiện. Bộ phận tín dụng chuyên làm
nhiệm vụ cho vay. Như vậy, sẽ phù hợp hơn khi sử dụng định nghĩa sau để
nghiên cứu về tín dụng ngân hàng: “Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn
bằng tiền tệ, trong đó ngân hàng là người cho vay, còn người đi vay là các tổ
chức, cá nhân trong xã hội, trên nguyên tắc người đi vay sẽ hoàn trả cả vốn lẫn
lãi vào một thời điểm xác định trong tương lai như hai bên đã thoả thuận”. Như
vậy, tín dụng ngân hàng ở đây mang nghĩa hẹp hơn, giới hạn bên cho vay là
ngân hàng. Đây là định nghĩa mang tính chuyên nghiệp ngân hàng hơn là mang
tính lý luận, tránh được sự nhầm lẫn khi nghiên cứu về các nghiệp vụ của ngân
hàng thương mại.
1.3 Bản chất của tín dụng ngân hàng
Bản chất của tín dụng ngân hàng là sự vận động của vốn tiền tệ thông qua
các ngân hàng. Ngân hàng bằng các nghiệp vụ và các hình thức huy động vốn
khác nhau huy động lượng tiền nhàn rôĩ trong lưu thông, tạo thành nguồn vốn
lớn. Đồng thời, ngân hàng sử dụng chính nguồn vốn này để đem cho vay với lãi
suất lớn hơn lãi suất tiền gửi. Là trung gian nên ngân hàng là cầu nối giữa người
có vốn và người cần vốn hay nói cách khác việc sử dụng nguồn vốn trong các
doanh nghiệp nói riêng và trong nền kinh tế nói chung được ngân hàng điều hoà
sao cho phù hợp và đạt hiệu quả cao. Như vậy, ngân hàng bằng hoạt động của
mình đã góp phần vào việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong xã hội, thông
qua chức năng tạo tiền ngân hàng có thể nhận nguồn tiền gửi tăng trưởng theo
bội số tạo tiền. Qua đó, ngân hàng sẽ được hưởng phần chênh lệch giữa lãi suất
cho vay và lãi suất trả tiền gửi.
2. Vai trò của tín dụng ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế
Tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền
kinh tế. Nó thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển, góp phần đẩy
nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng. Tín dụng ngân hàng là công cụ điều hoà
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lưu thông tiền tệ và thông qua đó điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Tín dụng ngân
hàng có chức năng huy động vốn và tập trung vốn tạm thời nhàn rỗi để đưa vào
sử dụng. Cụ thể:
2.1 Tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu cầu về vốn để duy trì quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh được liên tục và ngày càng mở rộng
Sự thiếu vốn là quá trình xảy ra thường xuyên ở các doanh nghiệp. Chính
trong quá trình tập trung và phân phối vốn, tín dụng ngân hàng huy động vốn
tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng của tất cả các thành phần kinh tế và trong dân cư
thành nguồn vốn để cho vay, đã góp phần tích luỹ và điều hoà vốn cho nền kinh
tế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bù đắp được nhu cầu vốn tạm thời, giúp
cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục.
2.2 Tín dụng ngân hàng tác động có hiệu quả đến nhịp độ phát triển,
thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế và góp phần tạo nên một cơ cấu kinh tế
hợp lý
Trong môi trường cạnh tranh, các chủ thể kinh doanh luôn luôn phải chủ
động tìm kiếm và thực hiện nhiều biện pháp như ứng dụng thành tựu khoa học
kỹ thuật, đổi mới công nghệ, tìm kiếm thị trường mới nhằm làm cho hoạt động
kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất. Để thực hiện được những việc này làm đòi hỏi
phải có một khối lượng lớn về vốn. Chính tín dụng ngân hàng cũng tạo điều kiện
thuận lợi cho việc di chuyển vốn từ ngành này sang ngành khác và chỉ có tín
dụng ngân hàng mới có thể đáp ứng được nhu cầu vốn cho việc thay đổi cơ cấu
sản xuất kinh doanh trong mỗi doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế. Các
nhà sản xuất kinh doanh sẽ dễ dàng chuyển từ những ngành có lợi nhuận thấp
sang những ngành có lợi nhuận cao, tạo điều kiện cho việc bình quân hoá tỷ suất
lợi nhuận trong nền kinh tế nhằm hình thành nên một cơ cấu kinh tế hợp lý.
2.3 Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ đắc lực cho các ngành kinh tế
kém phát triển và những ngành kinh tế mũi nhọn
Bằng việc sử dụng lãi suất ưu đãi đối với những ngành kinh tế mũi nhọn
cũng như những ngành kinh tế kém phát triển nhưng cần thiết cho quốc kế dân
sinh, tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy những ngành kinh tế này phát triển.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Mặt khác với đặc trưng hoàn trả cả vốn lẫn lãi, tín dụng ngân hàng đã giúp cho
việc sử dụng vốn của các doanh nghiệp có hiệu quả. Chính điều này đã thể hiện
sự ưu việt hơn của tín dụng ngân hàng so với việc ngân sách đầu tư vào lĩnh vực
đó, vì khi được cấp vốn ngân sách người sử dụng thường ít quan tâm tới việc sử
dụng vốn một cách có hiệu quả bởi lẽ nguồn vốn này được cấp phát mà không
phải hoàn trả.
2.4 Tín dụng ngân hàng có vai trò quyết định đến sự ổn định lưu thông
tiền tệ
Trong nền kinh tế thị trường, việc chú trọng phát triển lưu thông hàng hoá
phải luôn gắn liền với việc ổn định lưu thông tiền tệ. Do tính ưu việt của nó, tín
dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng quyết định đến sự ổn định lưu thông
tiền tệ. Trước hết ngân hàng là kênh quan trọng để đưa tiền vào lưu thông, có
khả năng kiểm soát được khối lượng tiền trong lưu thông cho phù hợp với lưu
thông hàng hoá. Nếu tín dụng ngân hàng được thực hiện một cách có hiệu quả sẽ
đảm bảo khối lượng tiền cung ứng phù hợp vì khi cho vay, ngân hàng sẽ đưa
tiền vào lưu thông phù hợp với lượng hàng hoá trên thị trường. Mặt khác, với
chức năng tạo tiền, các ngân hàng thương mại có khả năng mở rộng tiền gửi làm
tăng khối lượng tiền trong lưu thông. Vì vậy các ngân hàng trung ương phải sử
dụng công cụ của chính sách tiền tệ để điều tiết hoạt động tín dụng của các ngân
hàng thương mại như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu, hạn mức tín
dụng…
2.5 Tín dụng ngân hàng là cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với nước
ngoài thúc đảy quá trình mở rộng, tăng cường mối quan hệ hợp tác kinh tế
trong khu vực và trên thế giới
Hiện nay, với xu hướng toàn cầu hoá, nền kinh tế của một quốc gia luôn
gắn liền với nền kinh tế thế giới. Đầu tư vốn ra nước ngoài và kinh doanh xuất
nhập khẩu hàng hoá đã và đang là hai lĩnh vực hợp tác kinh tế thông dụng giữa
các nước. Vốn là yếu tố quyết định đầu tiên cho sự hợp tác này, do đó ngân hàng
với khả năng đặc biệt của mình là huy động vốn và cung cấp vốn cho các hoạt
động kinh doanh, thông qua đó góp phần mở rộng và tăng cường mối quan hệ
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hợp tác kinh tế với các nước. Như vậy, với những nước đang phát triển như
nước ta thì tín dụng ngân hàng đóng vai trò mở rộng xuất, nhập khẩu hàng hoá
đồng thời cũng nhờ nguồn tín dụng bên ngoài đầu tư phát triển các thành phần
kinh tế góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2.6 Tín dụng ngân hàng có vai trò kiểm soát nền kinh tế
Xuất phát từ chức năng phân phối vốn tiền tệ, tín dụng ngân hàng cỏ thể
kiểm soát được hoạt động kinh tế trong quá trình huy động mọi nguồn vốn nhàn
rỗi để cho vay. Thông qua việc huy động vốn tạm thời nhàn rỗi của các doanh
nghiệp và các tầng lớp dân cư trong xã hội và việc tổ chức thanh toán cho khách
hàng, ngân hàng có thể đánh giá tình hình tiêu thụ sản phẩm, tình hình sản xuất
cũng như khả năng chi trả của khách hàng thông qua biến động số dư trên tài
khoản. Trong quá trình cho vay, ngân hàng phải luôn đề phòng nguy cơ rủi ro có
thể xảy ra, phải thường xuyên phân tích khả năng tài chính của khách hàng và
thường xuyên giám sát, kiểm tra hoạt động sản xuất kinh doanh của họ để có thể
điều chỉnh, tác động kịp thời khi cần thiết. Vì vậy có thể nói qua hoạt động kinh
doanh của ngân hàng có khả năng kiểm soát được các hoạt động của các doanh
nghiệp và các tổ chức kinh tế góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế hợp lý.
3. Các hình thức tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng được thực hiện dưới nhiều hình thức, được nhìn nhận
dưới nhiều góc độ khác nhau theo các tiêu phân loại khác nhau. Trên thực tế,
người ta thường đề cập đến các hình thức tín dụng ngân hàng theo các tiêu thức
phân chia sau:
3.1 Phân loại theo thời gian cấp tín dụng
* Tín dụng có kỳ hạn: Là khoản tín dụng có thời hạn xác định về ngày trả
nợ. Tín dụng có kỳ hạn, tín dụng trung và dài hạn. Mặc dù hầu hết các nước đều
thóng nhất về điều này nhưng thời gian cụ thể được quy định cho từng loại lại
không hoàn toàn đồng nhất. ở Việt Nam hiện nay, theo quy chế cho vay của tổ
chức tín dụng đối với khách hàng cùng với quyết định 1627/2001/QĐ- NHNN/
ngày 31/12/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì:
- Cho vay ngắn hạn: Tối đa đến 12 tháng, được xác định phù hợp với chu
Website: Email : Tel : 0918.775.368
kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng.
- Cho vay trung hạn, dài hạn: thời hạn cho vay được xác định phù hợp với
thời hạn thu hồi của vốn đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tính chất
nguồn vốn vay của tổ chức tín dụng.
+ Thời hạn cho vay trung hạn : từ trên 12 tháng đến 60 tháng.
+ Thời hạn cho vay dài hạn: từ 60 tháng trở lên nhưng không quá thời hạn
hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối với
pháp nhân và không quá 15 năm đối với các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
* Tín dụng không kỳ hạn: Là khoản tín dụng được ứng dụng đối với
khoản vay không xác định rõ thời hạn trả nợ.
3.2 Phân loại theo thành phần kinh tê
Theo thành phần kinh tế, ta có thể chia các khoản cho vay thành:
- Cho vay doanh nghiệp Nhà nước.
- Cho vay kinh tế tập thể.
- Cho vay kinh tế tư nhân.
- Cho vay kinh tế cá thể.
- Cho vay kinh tế hỗn hợp.
(Năm thành phần kinh tế trên được xác định trong văn kiện Đại hội Đảng
lần thứ VI)
Đây là cách phân loại không được nhấn mạnh trong nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa nhưng đối với nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN như
nước ta thì việc phân loại này rất có ý nghĩa thực tiễn. Kinh tế Nhà nước giữ vai
trò chủ đạo. Nhà nước có chính sách khác nhau đối với từng khu vực kinh tế, có
tác động lớn đến việc mở rộng hay thu hẹp tín dụng ngân hàng tới các thành
phần kinh tế nói chung. Mặt khác, mỗi thành phần kinh tế lại có những đặc điểm
riêng biệt nên ngân hàng cần phải có thái độ ứng sử rất khác nhau khi cho các
chủ thể thuộc các thành phần kinh tế này vay vốn.
3.3 Phân loại theo phương thức hoàn trả
Theo phương thức hoàn trả thì các khoản cho vay còn có thể được phân
chia theo hai loại: cho vay hoàn trả một lần và cho vay trả góp.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Cho vay hoàn trả một lần: các khoản vay sẽ được hoàn trả một lần vào
thời gian xác định trong hợp đồng tín dụng, lãi vay có thế đựoc hoàn trả theo
thoả thuận trong hợp đồng, chẳng hạn theo tháng, theo quý hoặc theo năm.
- Cho vay trả góp: việc hoàn trả được tiến hành theo định kỳ, các khoản
này có thể bằng nhau hay không bằng nhau tuỳ theo thoả thuận và được thực
hiện theo nguyên tắc trả dần trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng.
Thông thường, các ngân hàng thương mại thường áp dụng phương thức
trả góp đối với các khoản cho vay trung và dài hạn còn phương thức trả một lần
thường áp dụng đối với cho vay ngắn hạn.
3.4 Phân loại theo mức độ đảm bảo
Các ngân hàng có thể đảm bảo hay không có đảm bảo tùy thuộc vào mức
độ tín nhiệm của ngân hàng đôí với khách hàng vay cũng như độ rủi ro của
phương án xin vay.
* Cho vay có đảm bảo: Từ đảm bảo của khách hàng ở đay chỉ được hiểu
là đảm bảo bằng tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh của bên thứ ba. Cách đảm
bảo này có mục đích giảm bớt rủi ro mất mát trong trường hợp người vay không
trả được nợ được hay không muốn trả nợ khi đến hạn. Các tài sản được đem thế
chấp thường là các bất động sản trong khi các tài sản được đem cầm cố lại là các
động sản nhỏ, vật tư hàng hóa, chứng khoán và các giấy tờ khác…Yêu cầu cơ
bản đối với các tài sản đem thế chấp, cầm cố là chúng phải có tính thị trường tức
là có khả năng thanh lý được.
* Cho vay không có đảm bảo: Trường hợp khách hàng có tín nhiệm, có
tình hình tài chính vững mạnh và lợi nhuận có được từ dự án xin vay là khả quan
thì ngân hàng có thể cho vay không cần đảm bảo, điều này các ngân hàng ở Việt
Nam gọi là cho vay tín chấp.
Điều này giải thích tại sao các ngân hàng có thể cung cấp cho một số
khách hàng những khoản tín dụng lớn mà không cần đảm bảo, đó là những
doanh nghiệp có quan hệ vay trả sòng phẳng thường xuyên với ngân hàng, có
tình hình tài chính vững mạnh, lợi nhuận tương đối ổn định với hệ thống quản lý
có hiệu quả, sản phẩm dịch vụ được thị trường chấp nhận. Trường hợp này
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tương tự như việc các ngân hàng thương mại quốc doanh cho các doanh nghiệp
Nhà nước vay không phải có tài sản thế chấp trong thời gian vừa qua.
3.5 Phân loại theo nguồn phát sinh các khoản tín dụng
- Cho vay trực tiếp: trước khi cấp tiền ra ngân hàng có mối liên hệ trực
tiếp đối với người vay để thẩm định khách hàng, xem xét tình hình người vay…
- Cho vay gián tiếp: là hình thức ngân hàng cho vay thông qua các tổ chức
kinh tế xã hội nhưng không trực tiếp cho vay khách hàng.
Việc phân loại có ý nghĩa giúp ngân hàng đánh giá, lựa chọn cách thức
cho vay cũng như khách hàng tốt nhất, trên cơ sở đó nghiên cứu thể lệ và chính
sách tín dụng phù hợp. Trong thực tế kinh doanh ngân hàngchúng ta thường xam
xét chủ yếu là các loại hình tín dụng ngắn hạn là chủ yếu. Khi phân chia các loại
hình tín dụng ngắn hạn người ta thường nhìn dưới góc độ các “sản phẩm tín
dụng” hay còn được gọi là kỹ thuật cấp tín dụng.
3.6 Phân loại theo kỹ thuật cấp tín dụng
Ngân hàng thương mại cấp tín dụng dưới các hình thức sau đây:
- Chiết khấu thương phiếu: Chiết khấu thương phiếu là một nghiệp vụ tín
dụng cổ điển, nhưng mãi tới ngày nay vẫn được coi là một trong những kỹ thuật
cấp tín dụng chủ yếu của ngân hàng thương mại. Chiết khấu thương phiếu là
nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn trong đó khách hàng chuyển nhượng quyền sở hữu
thương phiếu chưa đáo hạn cho ngân hàng để nhận một số tiền bằng mệnh giá
của thương phiếu trừ đi số tiền lãi và phí hợp đồng.
- Tín dụng thấu chi: mỗi khách hàng đèu có một tài khoản tiền gửi tại
ngân hang. Về nguyên tắc, khách hàng chỉ được sử dụng số tiền đã gửi trên tài
khoản. Do nhu cầu kinh doanh, khách hàng thường có nhu cầu chi quá số tiền
gửi trên tài khoản. Thấu chi là hình thức cấp tín dụng trước được thực hiện trên
cơ sở hợp đồng tín dụng, trong đó khách hàng được sử dụng một số tiền lớn hơn
số tiền gửi mà khách hàng hiện có.
Những khách hàng có nhu cầu đối với hình thức tín dụng thấu chi là
những doanh nghiệp có nhu cầu chi tiêu thường xuyên và thu nhập bằng tiền gửi
vào tài khoản của ngân hàng, thường là các doanh nghiệp thương mại (mới
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thường xuyên có nguồn tiền vào ra).
Thấu chi là hình thức cấp tín dụng giúp cho khách hàng sử dụng vốn chủ
động và tiện lợi, tuy nhiên cũng gặp nhiều rủi ro. Vì vậy chỉ áp dụng cho những
khách hàng có khả năng tài chính lành mạnh, có tín nhiệm trong quan hệ tín
dụng với ngân hàng.
- Tín dụng thuê mua (leasing): Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng thuê
mua rất phát triển. Tín dụng thuê mua là hình thức cho thuê bất động sản như:
nhà cửa, máy móc thiết bị, xe vận tải, xe chuyên dụng, thiết bị văn phòng…Các
chủ thể thuê có thể là: các ngân hàng trực tiếp, các công ty con của ngân hàng
hoặc cac công ty chuyên doanh thuê mua độc lập thực hiện nghiệp vụ. Ngân
hàng cũng có thể liên kết với các nhà kinh doanh bất động sản để đầu tư dưới
hình thức thuê tín dụng thuê mua.
Khách hàng thuê tiến hành trả dần giá trị tài sản theo hợp đồng đã thoả
thuận với ngân hàng. Khi giá trị cảu tài sản đã trả xong, khách hàng được quyền
sở hữu tài sản đó. Trong thời gian chưa trả hết nợ, tài sản vẫn thuộc quyền sở
hữu của ngân hàng.
Tiền thuê bao gồm giá vốn, chi phí cac loại thuế và lãi kinh doanh, tuỳ
từng loại đối tượng khác nhau mà giá cả thuê mua được tính khác nhau.
Thời hạn thuê mua có thể là ngắn, trung hoặc dài hạn. Tuy nhiên, thời hạn
trung và dài hạn vẫn là chủ yếu. Tín dụng thuê mua ngắn hạn ít được sử dụng.
- Tín dụng trả góp: là hình thức cấp tín dụng mà khách hàng trả dần số
tiền vay gồm cả gốc và lãi theo định kỳ. Tín dụng trả góp có quan hệ chặt chẽ
với việc mua bán hàng hoá (tái sản). Việc cấp tín dụng được thực hiện trên cơ sở
thoả thuận của ba bên có liên quan: khách hàng mua- người đi vay, công ty bán
hàng và ngân hàng.
Tín dụng trả góp khác về cơ bản với tín dụng thuê mua là tài sản sau khi
bán đã thuộc quyền sở hưũ của người mua và họ có quyền định đoạt. Trong
trường hợp tài sản thuộc đối tượng của tín dụng là bất động sản thì có thể làm
thế chấp cho nhân hàng, khi khách không trả được nợ thì ngân hàng được phát
mại tài sản thế chấp và chỉ thu được phần nợ càn thiếu.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tín dụng trả góp có ưu điểm là không những nó phù hợp với đặc điểm sử
dụng vốn của vay mà còn kích thích lưu thông hàng hoá, mở rộng sản xuất và
tiêu dùng. Mặt khác, người vay phảI trả một khoản tiền cố định bao gồm cả gốc
và lãi vào những thời điểm xác định nên họ dễ dàng tính được số tiền phải trả từ
đó lập được kế hoach trả nợ.
- Tín dụng bảo lãnh: là một loại tín dụng phát sinh khi ngân hàng nhận
thanh toán cho người bán hàng trong trường hợp người mư không có khả năng
thanh toán số nợ này. Ngân hàng thu dịch vụ phí bảo lãnh, mức thu phụ thuộc
vào loại nhu cầu bảo lãnh và thời gian cho vay. Thời hạn có thể là ngắn, trung
hoặc dài hạn. Hình thức bảo lãnh của ngân hàng cũng rất phong phú và đa dạng:
bảo lãnh tín dụng, bảo lãnh cung cấp hàng hoá…Tín dụng bảo lãnh phát triển đã
đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh toán, chi tiêu của các nhà sản xuất kinh doanh
trong các hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng.
- Tín dụng vãng lai: là hoạt động vay mượn thường xuyên giữa khách
hàng và ngân hàng với nội dung thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Đặc điểm
của hình thức tín dụng này là ngân hàng mở cho khách hàng một tài khoản vay
vừa dư nợ, vừa dư có (tài khoản vãng lai). Toàn bộ thu nhập của người vay đều
được ghi vào bên có tài khoản, toàn bộ chi tiêu ghi bên nợ tài khoản. Khi không
còn số dư có, khách hàng được sử dụng một khoản tín dụng như đã thoả thuận
trong hợp đồng tín dụng với một mức dư nợ tối đa nào đó. Ngân hàng khống chế
số dư nợ mà không khống chế số dư có. Khách hàng được sử dụng vốn vay rất
linh hoạt dưới dạng tiền mặt, chuyển khoản, tín phiếu…
Điều kiện được vay vốn đối với loại tài khoản vãng lai là người vay có tài
sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh. Ngoài ra trong một số trường hợp, người
vay có uy tín cao thì có thể không cần bảo đảm bằng tài sản. Thời hạn vay
thường từ 3 -6 tháng. Trên lý thuyết, tín dụng vãng lai được xem như tín dụng
ngắn hạn. Tuy nhiên, hiện nay có nhiếu ngân hàng cho vay với thoả hạn 2-3 năm
nên tín dụng vãng lai trở thành tín dụng trung và dài hạn.
II. PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG
1. Khái niệm chất lượng tín dụng
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chất lượng cho vay là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng (ở đây là các
DNVVN) về vốn vay phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn
tại và phát triển của ngân hàng.
Chất lượng cho vay của ngân hàng đạt được phụ thuộc vào kết quả kinh
doanh của các doanh nghiệp vay vốn. Lợi nhuận từ hoạt động cho vay của ngân
hàng có được thông qua các doanh nghiệp bằng hình thức “giá của quyền sử
dụng vốn”. Lãi sẽ được thu đủ và đều đặn nếu doanh nghiệp kinh doanh có hiệu
quả. Ngược lại, ngân hàng sẽ không thu được lãi mà vốn cũng có nguy cơ hao
hụt.
Chất lượng cho vay thể hiện thông qua những tác động của hoạt động cho
vay của Ngân hàng về một số phương diện: tác động gì tới đơn vị trực tiếp nhận
tiền vay (ở đây là các DNVVN); tới nền kinh tế và tới Ngân hàng:
- Đối với Ngân hàng: phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp
với thực lực của bản thân ngân hàng, đảm bảo nguyên tắc tín dung, hạn chế đến
mức thấp nhất rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh và cạnh tranh, mang
lại lợi nhuận và thanh khoản của ngân hàng.
- Đối với DNVVN: tín dụng phát ra phải phù hợp với mục đích sử dụng
của khách hàng, với lãi suất, kỳ hạn hợp lý thu hút được nhiều khách hàng
nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng, đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng
tạo điều kiện cho DNVVN phá triển sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
- Đối với kinh tế - xã hội: Tín dụng phục vụ sản xuất lưu thông hàng hoá
góp phần giải quyết việc làm, khai thác được khả năng tiềm tàng trong nền kinh
tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải quyết tốt các mối quan hệ
giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế.
2. Các chỉ tiêu cơ bản đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng
Để xem xét hiệu quả hoạt động của một ngân hàng ta sử dụng rất nhiều
các chỉ tiêu khác nhau nhưng có thể sử dụng 6 chỉ tiêu cơ bản sau:
2.1 Doanh số cho vay và doanh số thu nợ, dư nợ
Doanh số cho vay phản ánh lượng vốn mà Ngân hàng đã giải ngân giúp
DN trong đầu tư cải tiến máy móc thiết bị, ứng dụng công nghệ mới, mở rộng
Website: Email : Tel : 0918.775.368
sản xuất kinh doanh. Con số và tốc độ của doanh số cho vay qua các năm phản
ánh quy mô và xu hướng của hoạt động tín dụng là mở rộng hay thu hẹp.
Doanh số thu nợ phản ánh lượng vốn mà ngân hàng đã thu hồi được
trong một thời kỳ.
Dư nợ phản ánh lượng vốn mà khách hàng còn nợ ngân hàng tại một thời
điểm cụ thể.
2.2 Hệ số sử dụng vốn vay
Tổng dư nợ
Hệ số sử dụng vốn vay = ---------------------------------
Tổng nguồn vốn huy động
Hệ số này phản ánh kết quả sử dụng nguồn vốn để đầu tư của ngân hàng
thương mại. Hệ số này luôn nhỏ hơn 1. Nếu hệ số sử dụng vốn gần bằng 1 thì
ngân hàng thương mại phải chú ý tăng trưởng nguồn vốn để đề phòng mất khả
năng thanh toán. Nếu hệ số sử dụng vốn thấp cần tăng trưởng dư nợ hoặc giảm
huy động vốn bằng cách hạ lãi suất huy động hạn chế rủi ro nguồn vốn tác động
đến hiệu quả kinh doanh.
2.3 Tỷ trọng nợ quá hạn trong tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ quá hạn được tính theo công thức sau:
Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = --------------------- x 100 %
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này phản ánh rõ nhất về chất lượng tín dụng ngân hàng. Nếu tỷ lệ
nợ quá hạn cao thì chứng tỏ ngân hàng đó hoạt động kém hiệu quả và ngược lại.
tỷ lệ nợ quá hạn phụ thược rất lớn vào phương thức, cách thức hoạt động của
ngân hàng.
Nợ quá hạn thường chia làm hai loại:
Nợ quá hạn do định kỳ hạn trả nợ ngắn hơn chu kỳ sản xuất kinh doanh
hoặc vì một lý do nào đó chưa thu được tiền bán hàng nên đến kỳ hạn trả nợ
khách hàng chưa có tiền trả, ngân hàng buộc phải chuyển khoản nợ đó sang nợ
Website: Email : Tel : 0918.775.368
quá hạn, loại nợ quá hạn này khả năng ngân hàng thu được nợ cao.
Nợ quá hạn do khách hàng vay vốn bị phá sản hoặc kinh doanh thua lỗ,
hoặc bị lừa đảo, hoặc bị chết không còn khả năng trả nợ ngân hàng, buộc ngân
hàng phải chuyển sang nợ quá hạn chờ sử lý. Loại nợ quá hạn này gọi là nợ quá
hạn khó đòi, khả năng thu hồi rất ít. Thường các ngân hàng thương mại dùng
quỹ dự phòng rủi ro để xử lý giảm hoặc xoá nợ theo tình hình thực tế từng món
vay để giảm tỷ lệ nợ quá hạn.
Tỷ lệ nợ quá hạn phụ thuộc vào tổng dư nợ chuyển sang nợ quá hạn và
tổng dư nợ tại một thời điểm, thường là ngày cuối quý hoặc ngày cuối năm. Để
giảm nợ quá hạn các ngân hang thương mại thường giảm số tuyệt đối nợ quá
hạn nếu dư nợ tín dụng tăng không đáng kể hoặc vừa giảm nợ quá hạn vừa tăng
tín dụng. Trương hợp không thể giảm được nợ quá hạn hoặc giảm không đáng
kể các ngân hàng thương mại thương tăng tổng dư nợ tín dụng tức là tăng quy
mô dư nợ tín dụng. Theo thông lệ quốc tế, tỷ lệ nợ quá hạn dưới 5% trên tổng dư
nợ có thể chấp nhận được. Tỷ lệ này càng thấp càng tốt.
2.4 Tốc độ luân chuyển vốn
Vòng quay vốn tín dụng được tính theo công thức sau:
Doanh số thu nợ
Vòng quay vốn tín dụng = ----------------------
Dư nợ bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh số vồng quay tín dụng trong một thời gian nhất
định. Vòng quay vốn tín dụng lớn chứng tỏ vốn vay ngân hàng đã luân chuyển
nhanh, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và lưu thông hang hoá. Với số lượng
vốn nhất định, nhưng do tốc độ vòng quay vốn tín dụng nhanh nên ngân hàng
không những đáp ứng được nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp mà còn thêm
nguồn vốn để tiếp tục đầu tư cho các doanh nghiệp khác thực hiện phát triển sản
xuất kinh doanh. Vòng quay tín dụng tăng phản ánh chất lượng hoạt động tín
dụng ngân hàng tốt, khách hàng sử dụng vốn vay ngân hàng kinh doanh có hiệu
quả, thường trả nợ đúng hạn và trước hạn.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2.5 Thu nhập bình quân hàng năm.
Đây cũng là một tiêu thức quan trọng để đánh giá chất lượng tín dụng. nó
phản ánh tình hình Ngân hàng hoạt động có hiệu quả hay không, cũng giống như
tình hình tài chính của một doanh nghiệp, tình hình tài chính của Ngân hàng tốt
sẽ tạo điều kiện thuận lưọi cho việc nâng cao chất lượng tín dụng. Thu nhập
bình quân được tính bằng doanh thu bình quân hàng năm trừ đi chi phí bình
quân hàng năm.
3. Các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng
3.1 Các nhân tố chủ quan
Chất lượng tín dụng chịu tác động của nhiều nhân tố, trước hết những
nhân tố giữa hai chủ thể tham gia vào quá trình cho vay là ngân hàng và khách
hàng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng.
Phía ngân hàng
Chính sách tín dụng:
Chính sách tín dụng bao gồm các yếu tố giới hạn mức cho vay đối với
một khách hàng, kỳ hạn của khoản tín dụng, lãi suất cho vay và mức lệ phí, các
loại cho vay được thực hiện, sự bảo đảm và khả năng thanh toán nợ của khách
hàng, hướng giải quyết phàn tín dụng vượt quá giới hạn, các khoản nợ vay có
vấn đề…Chính sách tín dụng ảnh hưởng rất lớn tới kết quả hoạt động cho vay,
nó là người dẫn đường “ cho cán bộ tín dụng thực hiện việc cho vay đúng với
yêu cầu của ngân hàng, toàn bộ hoạt động cho vay diễn ra như thế nào phần lớn
tuân theo hướng dẫn của chính sách tín dụng đề ra”.
Một chính sách tín dụng được gọi là thành công nghĩa là nó mang lại hiệu
quả cho món vay đó. Chính sách tín dụng cần được xay dựng hợp lý, đúng đắn
nhưng rất cần tính linh hoạt. Vì nếu chính sách được thực hiện quá cứng nhắc thì
ngân hàng rất khó có thể thựchiện được món vay, giảm tính cạnh tranh trong
việc thu hút khách hàng. Với mức lãi suất đa dạng cho từng laọi hình vốn vay và
kỳ hạn phù hợp với phương án sản xuất kinh doanh củ doanh nghiệp sẽ làm tăng
tính hiệu quả của món vay.
Quy trình cho vay của ngân hàng:
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Quy trình cho vay là quy định các bước cần thiết phải thựchiện trong quá
trình cho vay, thu nợ, bảo đảm an toàn vốn tín dụng, được bắt đàu khi phân tích
nhu cầu cho đến khi thu hồi đủ nợ vay và cả vốn lẫn lãi.
Quá trình cho vay thường gồm năm bước: phân tích các yếu tố tín dụng,
ký hợp đồng tín dụng chính là khâu quan trọng nhất ảnh hưởng đến chất lượng
của món vay đó. Công việc này cần tính chặt chẽ, chính xác, có thực tế nhưng
cũng rất cần linh hoạt, sự nhạy cảm nghề nghiệp để tránh phần nào những quyết
định sai lầm. Việc thẩm định mà quá nguyên tắc, cứng rắn, kém linh hoạt có thể
dẫn đến ngân hàng bỏ lỡ nhiều cơ hội. Ngân hàng luôn phải cân nhắc giữa tính
toán an toàn với tính sinh lời trong mọi công việc, tuy nhiên khi đã chọn ra được
mục đích cụ thể thì cần có hướng đI đồng bộ trên mọi khâu của quy trình.
Chất lượng tín dụng còn phụ thuộc vào công tác kiểm tra, kiểm soát trước
tong và sau khi cho vay. Quá trình này giúp ngân hàng có thể nắm bắt được đối
tượng mà mình cho vay, khách hàng sử dụng vốn có đúng mục đích không và
hiệu quả sử dụng của món vay đó. Thông qua kiểm tra, kiểm soát ngân hàng có
thể dự đoán mọi tình hình xung quanh khoản vay của mình như về thu nhập khi
đến hạn hay ngân hàng phát hiện được những dấu hiệu sai tráI, bất hợp pháp để
từ đó có biện pháp ngăn ngừa và biện pháp xử lý.
Bước cuối cùng là thu nợ gố và lãi của ngân hàng cho từng đối tượng vay
rất quan trọng vì chất lượng được đánh giá trên kết quả thu được. Đối với các
doanh nghiệp, đặc biệt là các DNVVN chu kỳ sản xuất kinh doanh thường hay
biến động, có thể một lý do nào đó mà khách hàng chưa muốn trả nợ hoặc chưa
có nguồn để trả nợ. Vì thế nếu ngân hàng không thu nợ kịp thời hay các định kỳ
hạn nợ không hợp lý có thể dẫn tới nợ quá hạn gia tăng, mất khả năng thu nợ
của ngân hàng, ảnh hưởng xấu đến chất lượng cho vay.
- Tình hình huy động vốn của ngân hàng:
Đặc trưng nhất của ngành ngân hàng là “đi vay để cho vay”, bởi vậy nếu
không đi vay được tức là ngân hàng không có vốn đẻ đem cho vay. Nguồn vốn
huy động được càng lớn và đa dạng thì càng tạo đièu kiện cho hoạt động cho
vay phát triển. Tương tự như vậy chi phí trong hoạt động huy động vốn cũng
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ảnh hưởng lớn tới lãi suất cho vay, vì lãi suất cho vay phải đủ để trang trải chi
phí đầu vào. Chất lượng hoạt động cho vay cũng phụ thuộc vào chất lượng huy
động vốn, chúng phải song song với nhau. Nếu ngân hàng huy động được nhiều
vốn mà không cho vay hết được số đó sẽ dẫn đến tình trạng “đọng vốn”, chi phí
trả lãi vốn gia tăng mà thu nhập không tăng hoặc thấp hơn chi phí vốn, ngân
hàng sẽ không có lãi.
- Chất lượng nhân sự
Chất lượng nhân sự thể hiện ở trình độ nghiệp vụ, khả năng giao tiếp, kiến
thức tổng hợp như kiến thức marketing, tin học, ngoại ngữ…trách nhiệm với
công việc và cẩ vấn đề đạo đức của cán bộ tín dụng. Dưới con mắt khách hàng,
các cán bộ tín dụng là hình ảnh của ngân hàng. Vì vậy, phong cánh giao tiếp của
cán bộ tín dụng tạo niềm tin và sự hàI lòng của khách hàng cũng là một yếu tố
quan trọng để thu hút khách hàng đến với ngân hàng. Nhưng trình độ nghiệp vụ
là yếu tố quan trọng nhất vì nó đảm bảo quá trình thực thi nhiệm vụ nhanh
chóng, chính xác, linh hoạt trong mọi tình huống khi cho vay. Thêm vào đó,
những hiểu biết mạng tính tổng hợp sẽ tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng thực
hiện công việc tốt hơm, đặc biệt là trong khâu thẩm định.
Hoạt động cho vay là lĩnh vực gặp nhiều rủi ro nhất của ngân hàng, một
trong những nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng là do sự thiếu trách nhiệm và
đạo đức của cán bộ tín dụng đã lợi dụng sở hở trong quản lý để thực hiện động
cơ riêng. Yếu tố con người luôn là rất quan trong đẻ thựchiện thành công mọi
công việc.
- Thông tin tín dụng
Để hoạt động tín dụng thực sự có hiệu quả cần nắm bắt được các thông tin
tín dụng chính xác, kịp thời. Các thông tin tín dụng bao gồm nhưng thông tin tàI
chính, uy tín, trình độ quản lý, năng lực pháp lý, thông tin về kinh tế xã hội…
Sự chính xác, kịp thời và đầy đủ của các thông tin sẽ giúp ngân hàng đưa ra
quyết định đúng đắn với khách hàng, lựa chọn món vay có lợi cho ngân hàng.
Hiện nay, ở nước ta việc tìm kiếm thông tin có chất lượng như trên là rất
khó khăn. Có nhiều khoản cho vay gặp rủi ro vì thiếu thông tin chính xác như
Website: Email : Tel : 0918.775.368
một khách hàng dùng một tài sản thế chấp đi vay nhiều ngân hàng, giấy tờ giả,
hợp đồng giả hoặc thổi phồng tính khả thi của phương án kinh doanh…Điều này
không những gây tổn thất về mặt tài chính cho ngân hàng mà còn gây mất lòng
tin của ngân hàng đối với những khách hàng khác, đặc biệt tình hình này hay
xuất hiện ở những khu vực các DNVVN. Ngân hàng nắm bắt những thông tin
tín dụng không kịp thời sẽ không đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho khách hàng
và như vậy hạn chế chất lượng cho vay của ngân hàng.
- Cơ sở vật chất, trang thiết bị của ngân hàng
Cơ sở vật chất và trang thiết bị của ngân hàng cũng là yếu tố gây ảnh
hưởng tới chất lượng cho vay nói riêng và các hoạt động khác của ngân hàng nói
chung. Với trang thiết bị hiện đại có thể giúp ngân hàng thực hiện nghiệp vụ của
mình một cách nhanh chóng, chính xác như việc ứng dụng tin học vào việc quản
lý khách hàng.
Ngoài ra, hình thức của trang thiết bị của ngân hàng có thể đánh vào thị
giác của khách hàng, tạo tâm lý tin tưởng hoặc không tin tưởng của khách hàng.
Đây cũng là yếu tố thu hút khách hàng đến với ngân hàng.
- Công tác tổ chức của ngân hàng
Đây là yếu tố không trực tiếp ảnh hưởng tới chất lượng cho vay nhưng
nếu công tác tổ chức hoạt động của ngân hàng không khoa học, có sự chồng
chéo thì việc thực hiện cac hoạt động cho vay của phòng tín dụng sẽ bị ảnh
hưởng không tốt.
Phía khách hàng
Chất lượng cho vay không chỉ phụ thuộc vào việc ngân hàng đã thực hiện
nó như thế nào mà còn phụ thuộc nhiều yếu tố về phía người sử dụng vốn vay.
- Phương án sản xuất kinh doanh của dự án vay vốn:
Chất lượng của việc sử dụng vốn cũng là một chỉ tiêu trong chất lượng
cho vay. Một dự án mà phương án kinh daonh không khả thi, khả năng tạo lợi
nhuận thấp thì không thể nói việc sử dụng vốn vay đó có chất lượng. Phương án
kinh doanh tốt sẽ cho lợi nhuận cao để doanh nghiệp vừa đủ tiền trang trảI cho
chi phí vay vốn ngân hàng, vừa có một lượng vốn lớn để tái đầu tư.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Uy tín của doanh nghiệp
Uy tín của doanh nghiệp vay vốn được biểu hiện bằng sự dẵn lòng trả nợ,
có mong muốn thực hiện tất cả các cam kết trong hợp đồng tín dụng.
- Tình hình tài chính của doanh nghiệp
Doanh nghiệp có kinh daonh hiệu quả hay không và có thể trả nợ được
cho ngân hàng hay không cũng tuỳ thuộc vào tình hình tài chính hiện có của
doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng “túng bấn” thì chắc
chắn ít có ý định trả nợ ngân hàng hoặc cũng trì hoãn việc trả nợ.
- Nhà quản lý doanh nghiệp
Trình độ quản lý của doanh nghiệp tốt sẽ cho kết quả kinh doanh tốt nếu
không gặp trở ngại khác. Như vậy, trình độ của nhà quản lý ảnh hưởng trực tiếp
tới chất lượng sử dụng vốn vay.
Hiện nay ở khu vực DNVVN nước ta, trình độ quản lý của cac doanh
nghiệp còn rất kém, công tác quản lý còn nhiều sơ hở nên làm ăn không hiệu
quả, thất thoát vốn, kết quả kinhdoanh thấp, mất khả năng thanh toán, phá sản
gia tăng. Đôi khi những tổn thất của ngân hàng là do đạo đức của người kinh
doanh. Người vay lợi dụng việc vay vốn ngân hàng để làm ăn phi pháp, biển thủ
vốn vay, không muốn trả nợ ngân hàng… gây khó khăn cho ngân hàng trong
việc thu nợ.
- Các nhân tố khác như năng lực vay nợ, quyền sở hưu tài sản của doanh
nghiệp…
- Tài sản đảm bảo nợ vay
3.2 Các nhân tố khách quan
Cho vay có chất lượng tốt hay không còn phụ thuộc vào những nhân tố
bên ngoài như môi trường kinh tế, môi trường tự nhiên, môi trường pháp lý, chủ
trương chính sách của nhà nước…
- Chủ trương chính sách của nhà nước
Từ khi nhà nước có chính sách cho phép phát triển kinh tế ngoài quốc
doanh, ngân hàng có thêm một lượng khách hàng lớn để mở rộng cho vay.
Nhưng trên thực tế, chưa có nhiều chủ trương, chính sách ưu đãI đối với khu
Website: Email : Tel : 0918.775.368
vực DNVVN. Đặc biệt trong mấy năm trở lại đây, các điều kiện cho vay ngày
càng thắt chặt nên khu vực các DNVVN không đủ điều kiện vay vốn. Như vậy,
những chính sách của nhà nước có thể là động lực nhưng cũng có thể là cản trở
để DNVVN có điều kiện vay vốn.
- Môi trường tự nhiên
Môi trường tự nhiên là yếu tố gián tiếp ảnh hưởng đến hoạt động của
ngân hàng, đặc biệt là NHNo hoạt động trong lĩnh vực nông – lâm – ngư
nghiệp… Việt Nam là nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa, thường xuyên xảy ra
lũ lụt gây thiệt hại về người và tài sản do đó, việc đầu tư vào lĩnh vực này có thể
gặp rủi ro làm giảm hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
- Môi trường pháp lý.
Môi trường pháp lý là cơ sở để cho các thành phần kinh tế hoạt động một
cách hợp pháp có hiệu quả. Hệ thống pháp luật chi phối các hoạt động kinh tế,
đưa các doanh nghiệp vào hoạt động theo khung pháp lý đã quy định. Vì vậy
phải có sự đồng bộ, thống nhất và hợp lý giữu các bộ luật và các văn bản pháp
quy nhằm tạo ra sự chặt chẽ và hiệu lực của pháp luật. Hiên nay môi trường
pháp lý cho ngành ngân hàng còn nhiều vấn đề đang được tranh cãi nhất là về
việc cấp chứng nhận sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất và sử lý tài sản thế chấp
tại ngân hàng. Chính những bất cập này là nguyên nhân chủ yếu gây ra tình
trạng khó khăn khi sử lý tài sản thế chấp và giải toả các khoản nợ khó đòi của
ngân hàng, tạo kẽ hở để khách hàng vay vốn ngân hàng chây ỳ không chịu trả nợ
ngân hàng khi kinh doang gặp rủi ro.
- Môi trường kinh tế.
Mọi thành phần kinh tế hoạt động kinh doanh trong môi trường kinh tế
luôn chịu sự chi phối của các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước hoặc chịu
sự chi phối của quy luật cung- cầu, quy luật giá trị,…trên thị trường. Do vậy,
việc tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh cho hoạt động của các thành phần
kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp cũng như sự ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát là những yếu tố tích cực
góp phần cho việc mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh tín dụng
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ngân hàng.
III. TÍN DỤNG ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
Theo thống kê, ở nước ta hiện nay, doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN)
chiếm tỷ lệ hơn 80% trong tổng số doanh nghiệp toàn quốc. Các doanh nghiệp
này là một trong những nguồn lực mạnh mẽ tạo nên sự tăng trưởng liên tục của
nền kinh tế, phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, tạo ra việc làm chủ yếu cho
hơn 80% lực lượng lao động ở cả nông thôn và thành thị. Mặt khác, việc xoá đói
giảm nghèo, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, giảm sự
chênh lệch giữa nông thôn và thành thị cũng có sự đóng góp của DNVVN.
1. Doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1 Khái niệm
Phát triển DNVVN là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát
triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Nhà nước
khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho DNVVN phát huy tính chủ động
sáng tạo, nâng cao năng lực quản lý, phát triển khoa học công nghệ và nguồn
nhân lực, mở rộng các mối liên kết với các loại hình doanh nghiệp khác, tăng
hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh trên thị trường; phát triển sản xuất
kinh doanh, tạo việc làm và nâng cao đời sống cho người lao động.
Theo nghị định của Chính phủ số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 về trợ
giúp phát triển DNVVN thì DNVVN được định nghĩa như sau:
“Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng
ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng
hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Căn cứ vào tình
hình kinh tế xã hội cụ thể của ngành, địa phương trong quá trình thực hiện các
biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ
tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu nói trên” bao gồm:
Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Nhà
nước.
Các Hợp tác xã thành lập và hoạt động theo Luật Hợp tác xã.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo NĐ số 02/2000/NĐ-CP ngày
3/02/2000 của CP về đăng ký kinh doanh.
Như vậy, DNVVN là một doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh bình thường
nhưng có vốn nhỏ hơn 10 tỷ đồng hoặc có số lao động trung bình cả năm dưới
300 người và đã đăng ký kinh doanh theo luật định.
1.2 Các đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam được phát triển một cách chính
thức kể từ khi có sự ra đời của luật doanh nghiệp tư nhân, luật công ty áp dụng
từ năm 1990 và sửa đổi năm 1994 và nay thay bằng luật doanh nghiệp năm
1999. Một loạt các bộ luật khác đã thực sự hỗ trợ cho sự phát triển của khu vực
này. Từ năm 1991 đến năm 1998 số lượng các doanh nghiệp tư nhân đã tăng từ
con số không đáng kể đến 18.759 doanh nghiệp, số các công ty trách nhiệm hữu
hạn đến năm 1998 là 7.100 công ty và số công ty cổ phần là 171 công ty. Theo
số liệu thống kê của Viện ngiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, năm 1998 cả
nước ta có 5.970 doanh nghiệp nhà nước, 2.607 doanh nghiệp vốn đầu tư nước
ngoài và gần 35.000 công ty trách nhiệm hữu hạnvà doanh nghiệp tư nhân, 5487
hợp tác xã kiểu mới và 2 triệu hộ phi nông nghiệp kinh doanh theo nghị định 66.
Trong tổng số các cơ sở kinh doanh nói trên, kể cả số doanh nghiệp nhà nước và
doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, khoảng 95% là DNVVN, chưa kể đến khoảng
110.000 trang trại gia đình kinh doanh nông lâm ngư nghiệp đều là quy mô nhỏ.
Theo các số liệu thống kê và kết quả tổng điều tra các tổ chức kinh tế thì đến
cuối năm 1999 số lượng các doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng thuộc DNVVN
là 43.772 doanh nghiệp chiếm 91% tổng số các doanh nghiệp, trong đó DNVVN
thuộc DNNN là 3.672 chiếm 64% tổng số DNNN và số DNVVN ngoài quốc
doanh là 40.100 doanh nghiệp chiếm 94,5% tổng số doanh nghiệp ngoài quốc
doanh. Trong năm 2000, số doanh nghiệp mới được thành lập theo Luật doanh
nghiệp dưới dạng doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm
hữu hạn có số vốn đăng ký trung bình trên dưới 1 tỷ đồng nên hầu hết số doanh
nghiệp này cũng có quy mô vừa và nhỏ. Nếu xét theo chỉ tiêu lao động dưới 200
người thì DNVVN có 46.834 doanh nghiệp chiếm tỷ lệ 97% toỏng số doanh
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nghiệp.
Xét từ góc độ vi mô, theo hai cuộc điều tra DNVVN do bộ lao động
thương binh xã hội tiến hành năm 1991 và năm 1997 và cuộc điều tra tháng
1/1999 của dự án phát triển Mekong với đối tượng nghiên cứu là các DNVVN
có trên 100 công nhân trở lên đã đưa ra một bức tranh tương đối tỷ mỷ và rõ nét
về DNVVN ở Việt Nam, theo đó các đặc điểm chủ yếu có thể thấy rõ là:
a) Chủ doanh nghiệp.
Các cuộc điều tra cho thấy hầu hết các chủ doanh nghiệp có trình độ phổ
thông trung học hoặc cao hơn, đã từng đảm nhiệm các vị trí quan trọng và làm
việc trong khu vực quốc doanh. Phụ nữ chiếm 20%. Có rất ít chủ doanh nghiệp
dưới 29 tuổi. Hầu hết các chủ doanh nghiệp tư nhân đều có kinh nghiệm hoạt
động kinh doanh cùng loại (42%) và một số đã từng làm thuê cho các doanh
nghiệp khác
b) Lý do phát triển doanh nghiệp.
Có ba lý do thành lập doanh nghiệp được các chủ doanh nghiệp nêu ra
theo thứ tự ưu tiên: kinh nghiệm trong lĩnh vực hoạt động, có sẵn mối quan hệ
với các kênh cung ứng hoặc với thị trường, dựa vào truyền thống địa phương
hoặc theo hướng dẫn của viên chức nhà nước địa phương.
c) Vốn đầu tư ban đầu và nguồn vốn.
Các doanh nghiệp được thành lập sau năm 1990 có quy mô vốn đầu tư lớn
hơn so với các DNVVN được thành lập trước đó. 58% trong số các doanh
nghiệp này có vốn đầu tư ban đầu từ 100 triệu đồng trở lên. Hầu hết các doanh
nghiệp ban đầu đều dựa vào nguồn vốn tự có, vốn huy động ngoài rất ít, với 7%
DNVVN có vay không trả lãi và trên 2% vay từ ngân hàng. Con số này giúp
chúng ta đưa ra hai kết luận như sau: Một là, sự phát triển DNVVN đã thực sự là
công cụ huy động mọi nguồn vốn trong nhân dân. Hai là, việc không sử dụng
các nguồn vốn tín dụng đã hạn chế quy mô của doanh nghiệp và do vậy thiếu
vốn là một trở ngại chính.
2. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Nhật Bản và các nước Châu Á láng giềng khác đều đánh giá cao vai trò
Website: Email : Tel : 0918.775.368
của DNVVN trong quá trình phát triển kinh tế của họ và đều tích cực khuyến
khích phát triển các DNVVN ngay từ giai đoạn ban đầu. Đối với các nước này,
chính sách hỗ trợ huy động vốn đã góp phần không nhỏ đến sự phát triển thành
công của các DNVVN. Đối với Đài Loan, ngay trong giai đoạn đầu phát triển
kinh tế, Nhà nước đã áp dụng nhiều biện pháp chính sách khuyến khích phát
triển các DNVVN trong một số ngành sản xuất như: nhựa, dệt … Hiện nay, số
lượng DNVVN ở Đài Loan chiếm khoảng 96% tổng số doanh nghiệp, tạo ra
khoảng 40% sản lượng công nghiệp, hơn 50% giá trị xuất khẩu và chiếm hơn
70% chỗ việc làm.
Các DNVVN đống vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân
như huy động vốn trong xã hội, giải quyết việc làm, tăng sản phẩm, tăng ngân
sách nhà nước, tăng thu nhập và cải thiện đời sống dân cư. Chẳng hạn, năm
1998, chỉ tính số cơ sở sản xuất và dịch vụ dân doanh (hầu hết là doanh nghiệp
vừa và nhỏ) đã chiềm tỷ trọng vốn đầu tư xã hội là 19,5%, giải quyết gần 93%
tổng số nơi làm việc, tạo ra 22% tổng sản phẩm công nghiệp, 44,3% GDP và
nộp ngân sách nhà nước với tỷ trọng 22%. Vai trò của các DNVVN được thể
hiện cụ thể ở một số khía cạnh sau:
2.1 DNVVN đóng góp cho nền kinh tế một khối lượng lớn hàng hoá và
dịch vụ, ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm quốc nội
Sự phát triển đa dạng về ngành nghề, quy mô, hình thức tổ chức kinh
doanh của DNVVN đã góp phần to lớn trong việc lấp chỗ trống cho những thiếu
hụt từ khu vực kinh tế quốc doanh, khơI dậy tiềm năng sáng tạo của nhân dân để
phát triển sản xuất tạo ra sức sống cho nền kinh tế, tạo điều kiện thu hút vốn đầu
tư nước ngoài, đóng góp đáng kể cho quỹ tiêu dùng, đáp ứng cho nhu cầu xuất
khẩu, đặc biệt là các mặt hàng tiểu thủ công nghiệp. DNVVN hàng năm đã đóng
góp trên 44% GDP cho nền kinh tế và tỷ lệ này có xu hướng tăng lên trong
những năm gần đây nhờ có các chính sách khuyến khích phát triển của Đảng và
Nhà nước.
2.2 DNVVN tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh là động lực phát triển của
nền kinh tế