Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.63 KB, 79 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Để hoàn thành sự nhgiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VII đã chỉ ra rằng nước ta cần phải “xây dựng một nền
kinh tế mở, hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới, khuyến khích
xuất khẩu và thay thế hàng nhập khẩu bằng các sản phẩm hữu hiệu được sản
xuất trong nước”. Với tinh thần đó nước ta đã thực hiện AFTA, gia nhập APEC
và khi có đủ điều kiện sẽ gia nhập WTO.
Việc thực hiên hiệp định thương mại Việt Mỹ và những cam kết khi gia
nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO buộc các thành phần kinh tế nước ta phải
chấp nhận cạnh tranh bình đẳng theo luật chơi chung do cộng đồng quốc tế quy
định. Doanh nghiêp ngoài quốc doanh của ta chủ yếu là các doanh nghiệp vừa
và nhỏ, chiếm 90% tổng số các doanh nghiệp, có vai trò đặc biệt quan trọng tạo
việc làm, tạo thu nhập, góp phần ổn định đời sống xã hội. Ngoài ra kinh tế ngoài
quốc doanh còn tham gia tích cực vào hoạt động xuất nhập khẩu, nâng cao cạnh
tranh của khu vực này nhằm giữ vững thị trường trong nước và mở rộng thị
trường nước ngoài, có ý nghĩa quan trọng trong việc hội nhập với nền kinh tế thế
giới.
Tuy nhiên, ngoài những điều kiện kinh tế xã hội như thị trường, thiết bị
công nghệ, nhà xưởng, trình độ quản lý, trình độ tay nghề… để đảm bảo phát
triển nhanh, mạnh và có hiệu quả đối với các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh
trong quá trình hội nhập thì một điều không thể không nhắc đến là điều kiện về
vốn tài chính. Mọi hoạt động kinh doanh đều cần vốn tài chính trong khi các đơn
vị này lại rất hạn hẹp và gặp nhiều khó khăn. Trong khi đó các ngân hàng
thương mại còn e ngại khi cho thành phần kinh tế ngoài quốc doanh vay, nguyên
nhân chính là do chất lượng tín dụng đối với thành phần kinh tế này còn chưa
cao. Điều này đã làm ảnh hưởng tới công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá
mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra.
Bởi vậy, sau khi thực tập tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm và nhận
thức rõ nhưng khó khăn mà Ngân hàng đang phải đối mặt trong hoạt động tín


Website: Email : Tel : 0918.775.368
dụng, đề tài “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với thành phần kinh
tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm” đã được chọn để
nghiên cứu và phát triển thành luận văn tốt nghiệp.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề chung về chất lượng tín dụng đối với kinh tế
ngoài quốc doanh.
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc
doanh tại Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm.
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với kinh tế
ngoài quốc doanh tại Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm.
Do nhận thức còn hạn chế và thời gian học hỏi còn chưa nhiều, bài viết
không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả mong nhận được nhiều ý kiến
đóng góp của các thầy cô giáo nhằm hoàn thiện hơn về vấn đề ngiên cứu.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI
KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH
I. TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH
1. Khái niệm về kinh tế ngoài quốc doanh
Kinh tế ngoài quốc doanh là thành phần kinh tế khá phong phú, bao gồm
mọi loại hình kinh doanh cá thể, tổ hợp, hợp tác xã đến các công ty tư nhân,
công ty TNHH, công ty cổ phần … hoạt động trên tất cả các lĩnh vực công
nghiệp, nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Với lĩnh vực tham gia
rộng rãi như vậy, kinh tế ngoài quốc doanh đã tạo một phần không nhỏ GDP,
thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế đất nước, thu hút lao động, tận dụng, khai
thác tiềm năng của đất nước… Nhận thức rõ tầm quan trọng của khu vực kinh tế
này, năm 1986, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã khẳng định
đường lối phát triển kinh tế theo hướng: “kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận

động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
XHCN”. Sự khẳng định này khiến cho kinh tế quốc doanh không còn vị trí độc
tôn như trước nữa, thay vào đó là sở hữu tư nhân được thừa nhận, kinh tế ngoài
quốc doanh được tồn tại và phát triển bình đẳng với kinh tế Nhà nước.
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là các đơn vị kinh doanh có tính chất
tư hữu (không kể các đơn vị đầu tư nước ngoài). Xét về loại hình doanh nghiệp
bao gồm: Doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần và các đơn vị
theo hình thức hợp tác xã (HTX).
- Doanh nghiệp tư nhân: là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và chịu
trách nhiệm bằng tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
- Công ty TNHH: Là công ty trong đó phần vốn góp của tất cả các thành
viên phải được đóng góp đầy đủ ngay khi thành lập công ty. Các phần vốn góp
được ghi rõ trong điều lệ công ty. Công ty không được phép phát hành bất kì tài
liệu chứng khoán nào. Việc chuyển nhượng vốn góp giữa các thành viên được
thực hiện tự do. Việc chuyển vốn góp cho người không phải là thành viên phải

Website: Email : Tel : 0918.775.368
được sự nhất trí của nhóm thành viên đại diện cho ít nhất 3/4 số vốn điều lệ của
công ty.
- Công ty cổ phần: Là công ty trong đó số thành viên gọi là cổ đông mà
công ty phải có trong suốt thời gian hoạt động gồm ít nhất là 3 thành viên. Vồn
điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, giá trị
mỗi cổ phần gọi là cổ phiếu. Mỗi cổ đông có thể mua một hay nhiều cổ phiếu.
- Hợp tác xã: Là đơn vị kinh tế gồm nhiều lao dộng cùng nhau góp vốn để
sản xuất kinh doanh. Hợp tác xã hoạt động theo nguyên tắc bình đẳng, dân chủ,
cùng hưởng lợi, cùng chịu rủi ro nhằm kết hợp sức mạnh tập thể để giải quyết có
hiệu quả hơn những vấn đề thuộc phạm vi sản xuất kinh doanh.
Trong những năm gần đây quan điểm phát triển kinh tế nước ta bằng con
đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân đòi hỏi sự khác
nhau của các thành phần kinh tế. Số lượng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh

đã tăng lên nhanh chóng và tham gia tích cực hơn vào thị trường, góp phần làm
cho nền kinh tế trở lên sôi động.
2. Đặc điểm của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay
Trong nền kinh tế thị trường mọi thành phần kinh tế đều tự chủ trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình. Chính sách kinh tế mở đã tạo cơ hội cho
kinh tế ngoài quốc doanh phát huy hết khả năng tiềm tàng mà trong nền kinh tế
tập trung quan liêu bao cấp đã không có cơ hội để phát triển. Trong nền kinh tế
thị trường mọi thành phần kinh tế đều có quyền bình đẳng. Chính điều này đã
tạo nên sức mạnh và những thế mạnh riêng cho thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh.
Thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nước ta có những đặc điểm sau:
• Chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh và dễ thích ứng
Người quản lý thường là chủ sở hữu hoặc là người có vốn góp lớn nhất
nên họ được quyền ra tất cả quyết định. Cũng do quy mô hoạt động nhỏ nên họ
được tự do hành động. Sự gắn bó sát sao quyền lợi của của doanh nghiệp với
quyền lợi của người lãnh đạo khiến họ phải tập trung hết trí lực cho hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Họ có khả năng tự quyết, nên họ có thể chớp lấy

Website: Email : Tel : 0918.775.368
những cơ hội kinh doanh thuận lợi. Vì vậy, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
có khả năng thích ứng nhanh với sự thay đổi của thị trường và sự tiến bộ không
ngừng của khoa học. Bất cứ sản phẩm nào cũng có chu kì sống của nó, từ khi
mới xuất hiện trên thị trường cho đến khi phát triển cũng như thoái trào, lợi
nhuận chỉ thu được tối đa trong giai đoạn tăng trưởng. Việc thâm nhập vào thị
trường hàng hoá trong giai đoạn này sẽ đem lại cho doanh nghiệp thành công và
khi sản phẩm bị thị trường từ chối thì doanh nghiệp dễ dàng rút lui và lựa chọn
mặt hàng kinh doanh khác trong phạm vi được phép sao cho có lợi nhất, và phù
hợp nhất với khả năng của mình. Với tốc độ phát triển khoa học kỹ thuật như
hiện nay thì công nghệ đầu tư dễ bị lạc hậu. Vì vậy đây là một thế mạnh để
doanh nghiệp ngoài quốc doanh cạnh tranh với các doanh nghiệp Nhà nước.

• Cơ cấu quản lý linh hoạt
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường thích hợp với những cơ cấu
tổ chức đơn giản. Số lượng nhân viên ít và các nhân viên này thường phải đảm
nhận công việc theo kiểu đa năng. Phần lớn các chủ doanh nghiệp vừa phải đảm
nhận vai trò quản trị (điều hành và chỉ huy nhân viên của mình) vừa phải đảm
nhiệm vai trò lãnh đạo (tìm kiếm và quyết định cơ hội đầu tư). Mặt khác, vốn
của thành phần kinh tế này là do những chủ thể kinh doanh tình nguyện đóng
góp, do các cổ đông đóng góp hay do liên doanh liên kết… bằng tiền hoặc tài
sản. Vì thế họ có toàn quyền quyết định nghành nghề kinh doanh phù hợp vơí
khả năng, trình độ cũng như nhu cầu của thị trường đối với loại hàng hoá mà họ
sẽ kinh doanh… Mặc dù quy mô hoạt động khá nhỏ bé, song đó lại là một lợi
thế cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng vòng quay vốn, nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn… Trong khi đó, mặc dù các doanh nghiệp có nguồn vốn lớn,
ổn định từ Nhà nước nhưng lại không có quyền tự chủ trong sản xuất kinh
doanh, do đó không có sự linh động sáng tạo, phản ứng kịp thời với những biến
động của thị trường… Do vậy cơ cấu chung của các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh thường đơn giản, gọn nhẹ, mang tính linh hoạt, dễ thay đổi cho phù hợp
với yêu cầu mới.
• Chi phí gián tiếp thấp:

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đặc điểm của một doanh nghiệp ngoài quốc doanh là một người chủ và
một số nhân viên làm việc không thường xuyên, giúp cho chi phí thấp. Chi phí
gián tiếp thấp tạo lợi thế cạnh tranh về giá của các sản phẩm cuối cùng. Chủ
doanh nghiệp có tinh thần trách nhiệm cao vì lợi ích của họ gắn liền với sự
thành bại của doanh nghiệp. Cũng chính vì vậy họ đòi hỏi nhân viên của họ làm
việc nghiêm túc và hiệu quả, giảm thiểu sự lãng phí nguồn lực vẫn thường gặp ở
các doanh nghiệp quốc doanh. Đồng thời khu vực kinh tế này cũng tạo nên sức
hút đối với phần đông dân cư trong việc cung ứng các đồng tiền nhàn rỗi vào
sản xuất kinh doanh, tạo nên sức sống cho nền kinh tế.

Rõ ràng là phát triển kinh tế khu vực ngoài quốc doanh là phù hợp với
điều kiện và khả năng về vốn, kỹ thuật cũng như trình độ quản lý của các nhà
đầu tư trong nước. Đồng thời nó có khả năng linh hoạt và dễ điều chỉnh hơn so
với các doanh nghiệp có quy mô lớn trong nền kinh tế thị trường hiện nay của
Việt nam. Do vậy khối lượng vốn để hỗ trợ cho từng doanh nghiệp sẽ không lớn,
hiệu quả sử dụng vốn cao và thời gian thu hồi vốn nhanh.
Tuy nhiên thành phần kinh tế ngoài quốc doanh cũng có không ít những
mặt hạn chế của nó.
• Khả năng tài chính còn nhỏ bé
Vốn luôn là khó khăn lớn nhất với sự tăng trưởng của doanh nghiệp ngoài
quốc doanh. Trong giai đoạn đầu, phần lớn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
đều gặp phải vấn đề thiếu vốn. Các tổ chức tài chính thường e ngại khi tài trợ
cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh này vì họ chưa có quá trình kinh doanh,
chưa có uy tín và chưa thể tạo lập khả năng trả nợ. Do vậy, các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh phần lớn phải dựa vào nguốn vốn phi chính thức từ bạn bè, họ
hàng hay thu hút vốn qua hình thức mua bán chịu… Việc mở rộng doanh nghiệp
luôn bị ngăn cản bởi sự hạn hẹp về nguồn vốn.
• Thiếu khả năng quản lý, đặc biệt trong việc lập kế hoạch tài chính:
Việc lập kế hoạch tài chính, xây dựng phương án sản xuất có hiệu quả phụ thuộc
vào nhiều nhân tố như: trình độ, khả năng quản lý kinh doanh của các chủ doanh
nghiệp, khả năng dự đoán về sự biến động của nghành, của nền kinh tế… do vậy

Website: Email : Tel : 0918.775.368
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh khó có thể xây dựng được kế hoạch tài
chính, phương án sản xuất kinh doanh khả thi, trong khi thói quen sử dụng các
dịch vụ tư vấn mang tính chuyên nghiệp chưa hình thành. Trong các doanh
nghiệp tư nhân, đa số quản trị bằng kinh nghiệm theo suy nghĩ hiểu biết của
riêng mình. Nhiều người trong số họ chưa qua đào tạo trường lớp nên ít hiểu về
pháp luật, yếu kém về năng lực và kiến thức.
Các sổ sách kế toán ở các doang nghiệp ngoài quốc đoanh thường quá

đơn giản, không cập nhật, không đầy đủ và thiếu chính xác. Do vậy việc đánh
giá doanh nghiệp thông qua phân tích tài chính (để quyết định cho vay) thực sự
khó khăn đối với ngân hàng, nhất là hiện nay hầu hết các sổ sách của doanh
nghiệp đều chưa qua kiểm toán.
• Trình độ công nghệ sản xuất chưa phát triển:
Trình độ công nghệ là yếu tố quyết định đến năng suất, chất lượng và khả
năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Hiện tại các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh có công nghệ hiện đại không nhiều, chỉ có một số công ty liên
doanh, công ty có vốn đầu tư nước ngoài được trang bị máy móc và dây truyền
tiến tiến, còn lại là sử dụng các công cụ thủ công, dây truyền thiết bị chắp vá,
thiếu đồng bộ. Mặc dù việc áp dụng công nghệ kỹ thuật mới vào dây truyền sản
xuất là vô cùng quan trọng nhưng họ sợ phảI đầu tư vốn lớn và sợ giá thành sản
phẩm cao.
• Môi trường sản xuất kinh doanh chưa ổn định:
Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã làm cho nền kinh tế nước ta trì trệ,
không tạo động lực thúc đẩy các thành phần kinh tế nói chung và kinh tế ngoài
quốc doanh nói riêng. Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế vận hành theo cơ
chế thị trường, các thể chế kinh tế và pháp lý chưa được xác lập, phát triển và
hoàn thiện một cách đầy đủ nên đã ảnh hưởng rất lớn tới phương hướng sản xuất
kinh doanh và chiến lược đầu tư.
3. Vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh đối với nền kinh tế nước ta
Trong cơ chế mới, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã được phục hồi
dần, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế có khả năng cạnh tranh bình đẳng

Website: Email : Tel : 0918.775.368
trên thị trường. Với tinh thần tự chủ, năng động, sáng tạo, kinh tế quốc doanh đã
sớm thích nghi với những biến đổi thường xuyên của thị trường, đóng góp
không nhỏ cho nền kinh tế và ngày càng khẳng định vai trò không thể thiếu
được của mình trong nền kinh tế.
Thứ nhất, kinh tế ngoài quốc doanh phát triển tạo điều kiện thu hút lao

động, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp trong xã hội.
Như chúng ta đã biết khu vực kinh tế ngoài quốc doanh với quy mô vốn
đầu tư không nhiều có thể dễ dàng thành lập bởi một số cá nhân, gia đình hay
một số tổ chức, cùng với việc sử dụng kỹ thuật sản xuất cần tương ứng nhiều lao
động vì đây là nơi cung cấp việc nhanh nhất, giúp tạo việc làm với số vốn thấp
hơn nhiều so với các doanh nghiệp có quy mô lớn.
Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, kinh doanh tư nhân, cá thể phát
triển nhanh chóng cả về chất lượng, số lượng cũng như quy mô hoạt động, thu
hút ngày càng nhiều đầu tư trong dân cư vào mọi lĩnh vực sản xuất vật chất và
dịch vụ.
Trong những năm gần đây, cùng với số lao động đước giải quyết việc làm
bằng vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước, đã có thêm khá nhiều lao động có
thêm việc làm do các đơn vị tư nhân bỏ vốn vào lao động kinh doanh. Hàng năm
có khoảng hơn một triệu lao động có việc làm được tạo ra chủ yếu nhờ khu vực
kinh tế này.
Thứ hai, kinh tế ngoài quốc doanh tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh, là động
lực phát triển của nền kinh tế.
Trước đây hầu hết các lĩnh vực kinh tế, các nghành nghề sản xuất kinh
doanh đều do khu vực kinh tế quốc doanh đảm nhận. Hiện nay, trừ một số ít các
lĩnh vực, nghành nghề mà Nhà nước giữ vai trò độc quyền, còn lại hầu hết các
lĩnh vực sản xuất kinh doanh đều có sự tham gia của khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh với mức độ ngày càng lớn. Sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh đã
tác động mạnh mẽ đến các doanh nghiệp Nhà nước, buộc các doanh nghiệp này
phải đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức kinh doanh để tồn tại và đứng
vững trong cơ chế thị trường. Nói cách khác, kinh tế ngoài quốc doanh phát triển

Website: Email : Tel : 0918.775.368
đã thúc đẩy kinh tế quốc doanh phát triển mạnh mẽ hơn thông qua cạnh tranh
lành mạnh, làm cho nền kinh tế năng động hơn. Như vậy, sự phát triển của khu
vực kinh tế ngoài quốc doanh đã góp phần quan trọng hình thành và xác lập vị

trí của các chủ thể sản xuất kinh doanh theo yêu cầu của cơ chế thị trường, đẩy
nhanh việc hình thành nền kinh tế nhiều thành phần, thúc đẩy cải cách doanh
nghiệp Nhà nước, cải tổ cơ chế quản lý theo hướng thị trường, mở cửa hợp tác
với bên ngoài, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Thứ ba, kinh tế ngoài quốc doanh phát triển góp phần tăng thu ngân sách
cho Nhà nước.
Sản xuất kinh doanh phát triển là tiền đề tạo ra nguồn thu cho ngân sách
Nhà nước. Do vậy để tăng nguồn thu cho ngân sách, biện pháp quan trọng nhất
là không ngừng phát triển kinh tế và đời sống xã hội. Khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh tồn tại và phát triển là một bộ phận đóng góp to lớn cho ngân sách
Nhà nước (khoảng 30%) thông qua thuế và các khoản khác. Nguồn này sẽ được
dùng để đầu tư cho các nghành kinh tế mũi nhọn hoặc xây dựng cơ sở hạ tầng
hay giúp đỡ hỗ trợ một số nghành kinh tế yếu kém. Nói cách khác, khu vực kinh
tế ngoài quốc doanh có vai trò điều hoà thu nhập cũng như đóng góp vào ngân
sách Nhà nước.
Thứ tư, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đóng góp cho nền kinh tế một
khối lưọng lớn hàng hoá, dịch vụ phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đa dạng về nghành
nghề, quy mô và hình thức kinh doanh đã góp phần to lớn trong việc lấp chỗ
trống cho những thiếu hụt từ kinh tế quốc dân, tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư
nước ngoài, tạo ra sức sống cho nền kinh tế.
Bằng việc sản xuất hàng hoá, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã góp
phần to lớn vào việc tạo ra sự phong phú về chủng loại hàng hoá, nâng cao chất
lượng sản phẩm, từng bước cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân. Do đó cơ
hội lựa chọn hàng hoá và dịch vụ của người dân tăng lên và các doanh nghiệp
phải ra sức cạnh tranh với nhau để có thể tiêu thụ sản phẩm của mình nhiều
nhất. Để thắng trong cạnh tranh, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh luôn tìm

Website: Email : Tel : 0918.775.368
cách nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phi để từ đó giảm giá thành.

Thứ năm, kinh tế ngoài quốc doanh là thị trường để ngân hàng huy động
vốn, góp phần ổn định lưu thông tiền tệ.
Trong nền kinh tế thị trường, kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng phát
triển đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân và cá thể. Kinh tế ngoài quốc doanh đã
phát triển nhanh chóng cả về quy mô lẫn chất lượng. Tính đến tháng 12 năm
2001, cả nước có khoảng 36.000 doanh ngiệp ngoài quốc doanh. Hầu hết các
doanh nghiệp đều hoạt động dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty
TNHH, công ty cổ phần… Các nhà sản xuất đều mở tài khoản tiền gửi tại hệ
thống Ngân hàng thương mại. Đây có thể coi là nguồn vốn rẻ và dồi dào cho
việc huy động vốn của ngân hàng thương mại nếu họ biết tổ chức tốt công tác
thanh toán, tạo ra nhiều dịch vụ hơn và thay đổi phong cách làm việc với khách
hàng… Với sự phát triển ngày càng mạnh của kinh tế ngoài quốc doanh thì nhu
cầu về vốn ngày càng tăng và thị trường hoạt động tín dụng của các ngân hàng
càng được mở rộng, đồng thời đẩy mạnh hoạt động của các nghiệp vụ ngân hàng
khác.
II. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI KINH TẾ NGOÀI QUỐC
DOANH
1. Tín dụng ngân hàng
1.1. Khái niệm.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên là ngân
hàng- một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, với một bên là các
chủ thể còn lại của nền kinh tế, trong đó ngân hàng vừa là người đi vay vừa là
người cho vay. Như vậy nói đến tín dụng ngân hàng là đề cập đến cả “đi vay” và
“cho vay”. Tuy nhiên trên thực tế, do tính chất phức tạp của hoạt động ngân
hàng, nên hoạt động đi vay hay nói cách khác là hoạt động nhận tiền gửi được
gọi là hoạt động huy động vốn do bộ phận Nguồn vốn thực hiện. Còn hoạt động
cho vay được đảm nhận bởi bộ phận Tín dụng. Từ đó người ta đã đưa ra một
khái niệm khác về tín dụng ngân hàng là:
“Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn bằng tiền tệ, trong đó ngân


Website: Email : Tel : 0918.775.368
hàng là người cho vay, còn người đi vay là các tổ chức, cá nhân trong xã hội,
trên nguyên tắc người đi vay sẽ hoàn trả cả vốn lẫn lãi vào một thời điểm xác
định trong tương lai như hai bên đã thoả thuận”.
1.2. Đặc trưng của tín dụng ngân hàng.
TDNH được cấu thành nên từ sự kết hợp của ba yếu tố chính là: lòng tin
(sự tin tưởng vào khả năng hoàn trả đầy đủ và đúng thời hạn của người cho vay
đối với người đi vay); thời hạn của quan hệ tín dụng, sự hứa hẹn hoàn trả cụ thể
như sau:
Thứ nhất là lòng tin: Trong quan hệ tín dụng “lòng tin” được biểu hiện từ
nhiều phía, không chỉ có lòng tin từ một phía người cho vay đối với người đi
vay. Nếu người cho vay không tin tưởng vào khả năng hoàn trả của người đi vay
thì quan hệ tín dụng có thể không phát sinh và ngược lại, nếu người đi vay cảm
nhận thấy người cho vay không thể đáp ứng được yêu cầu về khối lượng tín
dụng, về thời hạn… thì quan hệ tín dụng cũng không phát sinh. Tuy nhiên, trong
quan hệ tín dụng lòng tin của người cho vay đối với người đi vay quan trọng
hơn niều bởi lẽ người cho vay là người giao phó tiền bạc hoặc tài sản của họ cho
người khác sử dụng.
Thứ hai là tính thời hạn: Khác với các quan hệ mua bán thông thường
khác, quan hệ tín dụng chỉ trao đổi quyền sử dụng giá trị khoản vay chứ không
trao đổi giá trị khoản vay. Người cho vay giao giá trị khoản vay dưới dạng hàng
hoá hay tiền tệ cho người kia sử dụng trong một thời gian nhất định. Sau khi
khai thác giá trị sử dụng của khoản vay trong thời hạn cam kết, người đi vay
phải hoàn trả toàn bộ giá tri khoản vay cộng thêm khoản lợi tức hợp lý kèm theo
như cam kết đã giao ước với người cho vay.
Mọi khoản vay dưới dạng hiện vật hay tiền tệ cũng đều là hàng hoá và vì
nó cũng có giá trị và giá trị sử dụng. Trong kinh doanh tín dụng người cho vay
chỉ bán “giá trị quyền sử dụng của khoản vay” chứ không bán “giá trị của khoản
vay”, nên sau khi hết thời hạn sử dụng theo cam kết, khoản vay đó được hoàn trả
về và vẫn giữ nguyên giá trị của nó, phần lợi tức theo thoả thuận nếu có là “giá

bán” quyền sử dụng khoản vay trong thời hạn nhất định. Như vậy, khối lượng

Website: Email : Tel : 0918.775.368
hàng hoá hay tiền tệ (phần gốc) cho vay ban đầu chỉ là vật chuyên chở giá trị sử
dụng của chúng, nó được phát ra qua các thời kỳ nhất định rồi sẽ thu về chứ
không bán đứt .
Thứ ba là tính hoàn trả: đây là đặc trưng thuộc về bản chất vận động của
tín dụng và là dấu ấn để phân biệt phạm trù tín dụng với các phạm trù tín dụng
khác. Sau khi kết thúc một vòng tuần hoàn của tín dụng, hoàn thành một chu kỳ
sản xuất trở về trạng thái tiền tệ, vốn tín dụng được người đi vay kèm theo một
phần lãi như đã thoả thuận.
Mối quan hệ tín dụng được gọi là hoàn hảo nếu được thực hiện với đầy đủ
các đặc trưng trên, nghĩa là người đi vay hoàn trả được đầy đủ gốc và lãi đúng
thời hạn.
1.3. Bản chất và chức năng của khoản vay
Tín dụng ngân hàng có hai chức năng cơ bản sau:
- Cho vay vốn đối với các chủ thể còn lại của nền kinh tế trên nguyên
tắc hoàn trả cả gốc và lãi đúng hạn.
- Kiểm soát các hoạt động kinh tế thông qua quan hê tín dụng với các tổ
chức và cá nhân.
2. Phân loại tín dụng ngân hàng
Có nhiều loại tín dụng khác nhau tuỳ theo tiêu thức phân chia, như phân
chia theo đối tượng quan hệ tín dụng, phân chia theo kỳ hạn, mục đích sử dụng
vốn vay, theo hình thức bảo đảm…
• Phân loại theo đối tượng quan hệ tín dụng.
- Tín dụng đối với kinh tế quốc doanh: Là loại tín dụng liên quan đến
các chủ thể là thành phần kinh tế quốc doanh.
- Tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh: Là loại tín dụng mà chủ
thể đi vay là thàmh phần kinh tế ngoài quốc doanh, bao gồm các doanh nghiệp
tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần, hợp tác xã và các hộ kinh doanh cá

thể, dân cư.
• Phân loại theo mục đích sử dụng.
- Tín dụng đối với bất động sản: Là loại tín dụng liên quan đến việc mua

Website: Email : Tel : 0918.775.368
bán và xây dựng nhà ở, đất đai…
- Tín dụng công nghiệp và thương mại: Là loại tín dụng ngắn hạn hoặc
dài hạn để bổ sung vốn ngắn hạn hoặc trung dài hạn cho các doanh nghiệp trong
lĩnh vực công nghiệp thương mại và dịch vụ.
- Tín dụng nông nghiệp: Là loại tín dụng để trang trải các chi phí sản
xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động,
nhiên liệu…
- Các loại tín dụng khác.
• Phân loại theo thời hạn:
- Tín dụng ngắn hạn: Tín dụng có thời hạn dưới 12 tháng và được sử
dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu
chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Đối với Ngân hàng thương mại tín dụng cá nhân
chiếm tỷ trọng cao.
- Tín dụng trung hạn: Thời hạn của tín dụng trung hạn thường là không
cố định. Trước đây thời hạn mà NHNN đưa ra đối với tín dụng trung hạn là 1-3
năm. Tuy nhiên đến nay, để đáp ứng yêu cầu vay của doanh nghiệp, các Ngân
hàng thương mại đã đưa thời hạn này lên 5 năm. Việc nâng thời hạn tín dụng lên
5 năm đã đáp ứng tốt hơn nhu cầu của doanh nghiệp vì đối với một số tài sản cố
định có thời hạn sử dụng tương đối dài nên cầu phải có thời gian đủ lớn doanh
nghiệp mới có thể hoàn trả gốc và lãi cho Ngân hàng và sẽ giúp doanh nghiệp
tránh rơi vào tình trạng nợ quá hạn. Còn đối với các nước khác trên thế giới thời
hạn này lên tới 7 năm.
- Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng mà thời hạn của nó dài hơn đối với
tín dụng trung hạn. Loại tín dụng này được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài
hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, các phương tiện vận tải có quy mô lớn,

xây dựng các xí nghiệp, nhà máy lớn, các dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ
tầng…
Ngoài ra còn có nhiều cách phân loại khác như: Phân loại theo phương
thức hoàn trả, phân loại theo xuất xứ món vay, theo hình thái giá trị…

Website: Email : Tel : 0918.775.368
3. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh
Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay, vốn vẫn luôn là vấn
đề gây khó khăn nhất trong hoạt động sản xuất kinh doanh của họ, tình trạng
thiếu vốn của các doanh nghiệp là phổ biến và nghiệm trọng. Để giải quyết vấn
đề này. doanh nghiệp có hai cách: Thứ nhất là tự bản thân doanh nghiệp huy
động vốn trên thị trường thông qua con đường phát hành cổ phiếu và trái phiếu.
Thứ hai là vay vốn ở các ngân hàng thương mại. Đối với kinh tế ngoài quốc
doanh thì phương thức thứ nhất hầu như không thể thực hiện được. Vì một
doanh nghiệp muốn phát hành cổ phiếu, trái phiếu thì bản thân doanh nghiệp
phải có quy mô lớn, sản xuất kinh doanh có hiệu quả và có uy tín trên thị trường.
Trong khi đó các doanh nghiệp ngoài quốc doanh của ta lại thiếu tới hai trong ba
điều kiện trên. Chính vì lẽ đó, đối với kinh tế ngoài quốc doanh, tín dụng ngân
hàng luôn được coi là một điểm tựa vững chắc để đáp ứng các yêu cầu đầu tư
cho sản xuất kinh doanh, phát huy vai trò của mình đối với nền kinh tế. Nhìn
chung tín dụng ngân hàng có một số vai trò cơ bản sau:
• Tín dụng ngân hàng đảm bảo cho quá trình hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh diễn ra liên tục.
Do nguồn vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chủ yếu là vốn tự
có và hầu như vốn của họ nằm dưới dạng máy móc, thiết bị, nhà xưởng vì vậy
khi tiến hành hoạt động sản xuát hay đầu tư mở rộng thì các doanh nghiệp này
cần tới sự hỗ trợ từ bên ngoài. Do đó các ngân hàng thương mại với vai trò là
“bà đỡ của nền kinh tế” có trách nhiệm giúp đỡ các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh khắc phục nhược điểm này. Với nguồn vốn huy động được từ các thành
phần kinh tế, thông qua hoạt động tín dụng, các ngân hàng thương mại có thể

đáp ứng đầy đủ nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp miễn là các doanh nghiệp
có đáp ứngđược các điều kiện cho vay của ngân hàng. Như vậy,tín dụng ngân
hàng đã đảm bảo cho quá trình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp
không bị ngưng trệ.
• Tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bản chất của TDNH không phải là hình thức cấp phát vốn mà là hoàn trả
cả gốc và lãi sau một thời hạn quy đinh. Do đó, các doanh nghiệp sau khi sử
dụng vốn vay trong sản xuất kinh doanh không chỉ cần thu hồi vốn là đủ mà còn
phải tìm ra nhiều biện pháp để sử dụng vốn có hiệu quả, tiết kiệm, tăng nhanh
vòng quay của vốn, đảm bảo tỷ suất lợi nhuận lớn hơn lãi suất Ngân hàng thì
doanh nghiệp mới đảm bảo trả được nợ và thu lãi.
Về phía Ngân hàng, khả năng thu hồi khoản cho vay phụ thuộc rất lớn vào
kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn, Vì vậy, trước
khi cho vay Ngân hàng thường xem xét đánh giá rất kỹ phương án sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, Ngân hàng chỉ cấp tín dụng cho các doanh nghiệp có
phương án khả thi, lợi nhuận đủ cao để có thể trả nợ ngân hàng. Ngoài ra, doanh
nghiệp muốn có được vốn vay ngân hàng thì phải hoàn thiện năng lực tổ chức
quản lý sản xuất kinh doanh để đảm bảo kinh doanh có hiệu quả. Thêm vào đó,
trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng tín dụng, Ngân hàng sẽ thực hiện quy trình
giám sát, kiểm tra, kiểm soát trong và sau khi cho vay, thông qua việc làm đó
Ngân hàng giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn vay của doanh nghiệp, buộc các
doanh nghiệp phải thực hiện đúng những điều khoản như đã thoả thuận trong
hợp đồng, sử dụng vốn đúng mục đích để đem lại hiệu quả cao nhất.
Một yếu tố khác là do quyền lợi của Ngân hàng luôn gắn chặt với quyền
lợi của khách hàng, nên ngân hàng sẽ sẵn sàng hợp tác với doanh nghiệp để tháo
gỡ những khó khăn trong phạm vi cho phép, tư vấn cho các doanh nghiệp về các
vấn đề có liên quan, tạo điều kiện giúp doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh

doanh có hiệu quả.
• TDNH tác động tích cực đến nhịp độ phát triển, thúc đẩy cạnh tranh.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp
chịu sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá
trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh… sản xuất phải trên cơ sở đáp ứng
nhu cầu thị trường, thoả mãn nhu cầu thị trường trên mọi phương diện, không
những thỏa mãn về phương tiện giá cả, khối lượng, chất lượng, chủng loại hàng
hóa mà còn đòi hỏi thoả mãn cả trên phương diện thời gian, địa điểm. Hoạt động

Website: Email : Tel : 0918.775.368
của các doanh nghiệp phải đạt hiệu quả kinh tế nhất định theo qui định chung
của thị trường thì mới đảm bảo vững mạnh trong cạnh tranh. Để có thể đáp ứng
tốt nhất các yêu cầu của thị trường, doanh nghiệp không những cần nâng cao
chất lượng lao động, củng cố và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, chế độ hạch
toán kế toán…mà còn không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, dây truyền công
nghệ, tìm tòi sử dụng vật liệu mới, mở rộng quy mô sản xuất một cách thích
hợp… Những hoạt động này đòi hỏi một lượng vốn đầu tư nhiều khi vượt quá
khả năng tự có của doanh nghiệp. Giải quyết khó khăn này, doanh nghiệp có thể
tìm đến ngân hàng vay vốn thoả mãn nhu cầu đầu tư của mình. Thông qua hoạt
động tín dụng, Ngân hàng là chiếc cầu nối doanh nghiệp với thị trường, nguồn
vốn TDNH cấp cho các doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc nâng
cao chất lượng mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh, giúp doanh nghiệp
đáp ứng nhu cầu thị trường, theo kịp với nhịp độ phát triển chung, từ đó tạo cho
doanh nghiệp một chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh.
III. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI KINH TẾ
NGOÀI QUỐC DOANH
1. Quan điểm về chất lượng tín dụng ngân hàng
Vận động trong cơ chế thị trường để có thể tồn tại, phát triển và dành ưu
thế trong cạnh tranh, thích ứng với thị trường và sự yêu cầu ngày càng cao của
người tiêu dùng, các thành phần kinh tế nói chung và kinh tế ngoài quốc doanh

nói riêng luôn phải tiến hành đa dạng hoá các sản phẩm, dịch vụ của mình nhằm
thu hút được khách hàng. Chính sách sản phẩm mà trong đó tập trung nhiều vào
việc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm là một biện pháp thiết thực, hữu
hiệu nhất cho hầu hết các doanh nghiệp hiện nay.
Có thể nói, chất lượng của một sản phẩm hay một dịch vụ đều được biểu
hiện ở mức độ thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng và lợi ích về mặt tài chính
cho người cung cấp. Theo cách đó, trong kinh doanh tín dụng ngân hàng, chất
lượng tín dụng được thể hiện ở sự thoả mãn nhu cầu vay vốn của khách hàng,
phù hợp với sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, đồng thời đảm bảo sự tồn
tại và phát triển của ngân hàng.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Với mỗi bên tham gia vào hoạt động tín dụng thì chất lượng tín dụng lại
được hiểu một cách khác nhau.
Đối với NHTM: chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn
tín dụng phải phù hợp khả năng thực lực của bản thân Ngân hàng và đảm bảo
được tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi.
Đối với khách hàng: do nhu cầu vay vốn tín dụng của khách hàng là để
đầu tư cho các hoạt động sản xuất kinh doanh nên chất lượng tín dụng được
đánh giá theo tính chất phù hợp với mục đích sử dụng của khách hàng với mức
lãi suất và kỳ hạn hợp lý. Thêm vào đó là thủ tục vay đơn giản, thuận lợi, thu hút
được nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng.
Đối với nền kinh tế: đối với sự phát triển kinh tế - xã hội chất lượng tín
dụng được đánh giá qua mức phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá, góp phần
giải quyết công ăn việc làm, khai thác các khả năng trong nền kinh tế, thúc đẩy
quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng
trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế, hoà nhập với cộng đồng quốc tế.
Hiểu đúng về bản chất của chất lượng tín dụng, phân tích và đánh giá
đúng những tồn tại về chất lượng sẽ giúp cho ngân hàng tìm được biện pháp
quản lý thích hợp để có thể đứng vững trong nền kinh tế thị trường. Trong

chuyên đề này, nội dung chỉ tập trung phân tích về chất lượng tín dụng trên góc
độ NHTM.
2. Một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng
Tín dụng là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của NHTM. Do đó, đo lường
chất lượng tín dụng là một nội dung quan trọng trong việc phân tích hiệu quả
hoạt động kinh doanh của NHTM. Tuỳ theo mục đích phân tích mà người ta đưa
ra nhiều chỉ tiêu khác nhau, tuy mỗi chỉ tiêu có nội dung khác nhau nhưng giữa
chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau. Trong phạm vi bảng báo cáo tổng hợp
kết quả hoạt động kinh doanh, ta có thể áp dụng các chỉ tiêu sau để đánh giá tình
hình chất lượng tín dụng của Ngân hàng.

Chỉ tiêu nợ quá hạn:
Một quy mô tín dụng lớn đồng nghĩa với một thị trường rộng mở, khả

Website: Email : Tel : 0918.775.368
năng can thiệp thị trường lớn và một sức mạnh tài chính mạnh mẽ là mong
muốn của nhiều Ngân hàng. Tuy nhiên, nếu chỉ quan tâm đến việc mở rộng quy
mô mà không quan tâm đến chất lượng, hiệu quả hoạt động tín dụng thì chắc
chắn Ngân hàng đó sẽ bước vào bờ vực của sự phá sản. Đây chính là bài học
kinh nghiệm của hệ thống ngân hàng Việt Nam sau một thời gian ồ ạt mở rộng
quy mô cho vay, và lần lượt đều rơi vào tình trạng mất vốn, nợ quá hạn gia tăng,
chất lượng món vay sút kém, hàng loạt các vụ đổ bể lớn xảy ra. Một trong các
nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do các ngân hàng không quan tâm
đến chất lượng và hiệu quả tín dụng.
Để đánh giá chất lượng tín dụng ta có thể xem xét thông qua tình trạng nợ
quá hạn tại các Ngân hàng thương mại.
Nợ quá hạn là những khoản nợ mà thời gian tồn tại của nó vượt quá thời
gian cho vay theo thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng cộng với thời gian
đã được gia hạn thêm nếu khách hàng có yêu cầu. Sẽ không thể đánh giá chất
lượng tín dụng cao nếu nợ quá hạn chiếm tỷ lệ lớn trong tổng dư nợ và có xu

hướng ngày càng tăng.
Tổng dư nợ quá hạn
- Tỷ lệ nợ quá hạn = × 100%
Tổng dư nợ cho vay
Tổng dư nợ các món vay phát sinh nợ quá hạn
- Tỷ lệ đầu tư rủi ro =
Tổng dư nợ cho vay
Cả hai chỉ tiêu này đều giúp ngân hàng quản lý rủi ro các khoản cho vay,
tuy nhiên sự khác biệt giữa hai tỷ lệ là nợ quá hạn chỉ xem xét đến giá trị quá
hạn của khoản nợ trong khi đó thì tỷ lệ đầu tư rủi ro xem xét toàn bộ món vay
phát sinh nợ quá hạn.
Hai chỉ tiêu này đều chịu ảnh hưởng của chính sách xoá nợ, một ngân
hàng có chính sách tốt là phải thiết lập được quỹ dự phòng rủi ro đủ mạnh và

Website: Email : Tel : 0918.775.368
thông báo định kỳ về những món vay không có khả năng thu hồi, để tránh tình
trạng trong một lúc ngân hàng phải thông báo con số nợ không có khả năng thu
hồi quá lớn làm giảm tài sản của ngân hàng một cách nghiêm trọng. Tuy nhiên
nếu ngân hàng thực hiện việc xoá nợ quá nhanh thì hai tỷ lệ này ở mức thấp
nhưng không có ý nghĩa thực tế. Thông thường khi lập bảng theo dõi nợ quá hạn
ngân hàng thường phân loại nợ quá hạn theo thời gian với các mốc là 180, 360
ngày kể từ ngày thu nợ. Sự phân loại này có ý nghĩa trong việc quản lý và đánh
giá chất lượng tín dụng để thiết lập dự phòng mất vốn.
Ngoài ra người ta còn xem xét chỉ tiêu sau:
Nợ khó đòi/ tổng nợ quá hạn.
Hoặc
Nợ khó đòi/ tổng dư nợ
Khi nợ quá hạn tồn tại đến một thời điểm nào đó và khả năng không thu
hồi được là cao thì khoản nợ này được coi là khoản nợ khó đòi. Khi một khoản
nợ được coi là khó đòi thì đồng nghĩa với nó là việc Ngân hàng sẽ khó có khả

năng thu hồi vốn. Tỷ lệ nợ khó đòi cao chứng tỏ hoạt động cho vay của ngân
hàng kém hiệu quả và chất lượng của khoản vay là thấp.
• Chỉ tiêu quản lý vốn:
Đây là một chỉ tiêu rất quan trọng để đánh giá chất lượng tín dụng của
mỗi ngân hàng.
Tổng số tiền cho vay được xoá nợ
Tỷ lệ mất vốn =
Dư nợ bình quân

Tỷ lệ này càng nhỏ càng tốt. Điều này chứng tỏ số tiền cho vay được xoá
nợ là thấp so với dư nợ bình quân, các khoản cho vay của ngân hàng có độ an
toàn cao.
Các ngân hàng đều có những khoản vay không có khả năng thu hồi nhưng
một ngân hàng quản lý tốt là tỷ lệ này ở mức thấp. Rất nhiều ngân hàng phản đối
việc xoá nợ vì họ có lòng tin là những khoản cho vay này vẫn có thể thu hồi.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Một khi món nợ đã được xoá, các nỗ lực thu hồi vốn vẫn tiếp tục nếu điều đó có
ý nghĩa kinh tế. Xoá nợ đơn giản chỉ là một phương pháp quản lý tài chính của
ngân hàng chứ không thừa nhận về mặt pháp lý rằng người vay không còn nợ
ngân hàng nữa.
Dự phòng mất vốn
Tỷ lệ dự phòng =
Tổng dư nợ
Tỷ lệ này được hình thành dựa trên tỷ lệ vỡ nợ trước đây, tỷ lệ này chỉ ra
% dư nợ được dự đoán là không có khả năng thu hồi. Tỷ lệ mất vốn đại diện cho
tổng giá trị các món vay được xoá nợ trong một thời kỳ. Còn tỷ lệ dự phòng là
số dư còn lại trên bảng cân đối kế toán và tỷ lệ này càng nhỏ chứng tỏ ngân hàng
càng có ít các khoản nợ có vấn đề.
• Nhóm chỉ tiêu về lợi nhuận và lãi treo.

Chất lượng tín dụng còn được đánh giá thông qua chỉ tiêu lợi nhuận thu
được từ hoạt động tín dụng. Chênh lệch lợi nhuận ở các thời kỳ khác nhau cho
biết sự tăng hay giảm của chất lượng tín dụng trong thời kỳ này.
Trong kinh doanh, tín dụng phải thực hiện lãi suất dương, có nghĩa là lãi
suất đầu ra cao hơn lãi suất đầu vào cộng với các chi phí nghiệp vụ ngân hàng.
Nguồn thu từ hoạt động kinh doanh là nguồn thu chủ yếu để ngân hàng tồn tại
và phát triển. Ngân hàng có thể tuỳ từng thời gian, điều kiện kinh doanh cụ thể
để có chính sách khách hàng hợp lý nhưng vẫn đảm bảo cho hoạt động tín dụng
có hiệu quả. Lợi nhuận do tín dụng đem lại chứng tỏ các khoản cho vay không
những thu hồi được cả gốc mà còn thu được lãi, đảm bảo độ an toàn của đồng
vốn cho vay.
- Lãi treo: Phản ánh mặt trái của chất lượng tín dụng. Đây là số tiền lẽ ra
nguồn thu của ngân hàng nhưng thực tế đơn vị vẫn chưa trả. Số lượng và tốc đọ
tăng của lãi treo là một trong những dấu hiệu tiềm ẩn của chất lượng tín dụng là
không tốt.


Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tổng lãi treo
Tỷ lệ lãi treo =
Tổng dư nợ
Thông thường chỉ tiêu này được tính cho từng tháng, quý, năm (tùy theo
yêu cầu quẩn lý).
Ngoài việc việc sử dụng các chỉ tiêu định lượng trên, hiện nay nhiều ngân
hàng còn sử dụng các chỉ tiêu định tính để đánh giá chất lượng tín dụng như việc
tuân thủ các quy chế, chế độ thể lệ tín dụng, lập hồ sơ cho vay, phương án sản
xuất kinh doanh…
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng.
Để đưa ra nhưng giả pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng tín dụng
đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, cần phải quan tâm tới các nhân tố ảnh

hưởng đến nó, chúng ta sẽ lần lượt xem xét các nhân tố về phía ngân hàng,
khách hàng và các nhân tố khác.
3.1. Về phía ngân hàng.
• Chất lượng cán bộ: Con người luôn là yếu tố quyết định đến sự thành
bại trong mọi hoạt động kinh doanh nói chung và tất nhiên nó cũng không loại
trừ khỏi hoạt động của một Ngân hàng. Muốn nâng cao được hiệu quả trong
kinh doanh, chất lượng trong hoạt động tín dụng, Ngân hàng cần phải có một đội
ngũ cán bộ tín dụng giỏi, được đào tạo có hệ thống, am hiểu và có kiến thức
phong phú về thị trường đặc biệt trong lĩnh vực tham gia đầu tư vốn, nắm vững
những văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động tín dụng. Trong bố trí sử
dụng, người cán bộ tín dụng cần phải được sàng lọc kỹ càng và phải có kế hoạch
thường xuyên bồi dưỡng kiến thức cần thiết để bắt kịp với nhịp độ phát triển về
đạo đức và sự liêm khiết, bởi lẽ nếu người cán bộ tín dụng thiếu trách nhiệm hay
cố tình vi phạm có thế sẽ gây tổn thất rất lớn cho Ngân hàng.
• Công tác tổ chức bộ máy hoạt động của ngân hàng: Công tác sắp xếp
cán bộ, các phòng ban một cách khoa học, linh hoạt và cụ thể hoá trên cơ sở tôn
trọng các nguyên tắc tín dụng là cở sở tiến hành nghiệp vụ tín dụng lành mạnh.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng ban, các bộ phận trong ngân
hàng cũng như thiết lập quan hệ với các cơ quan pháp luật, tài chính, các cơ
quan chính quyền địa phương sẽ tạo điều kiện cho quản lý hiệu quả các khoản
tín dụng, phát hiện và giải quyết kịp thời các khoản tín dụng có vấn đề khi cần
thiết vì hoạt động tín dụng có khả năng rủi ro cao hơn các hoạt động kinh doanh
khác.
• Chính sách tín dụng: Chính sách tín dụng phản ánh định hướng cơ bản
cho hoạt động tín dụng, nó có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại
của mgân hàng. Để đảm bảo và nâng cao chất lượng tín dụng, ngân hàng cần
phải có chính sách tín dụng phù hợp với đường lối phát triển kinh tế, đồng thời
kết hợp được lợi ích của người gửi tiền, của ngân hàng và người vay tiền.

• Quy trình tín dụng: Quy trình bắt đầu từ khâu chuẩn bị cho vay, phát
tiền vay, kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay, đến khi thu hồi được nợ, tất cả phải
được thực hiện nghiêm túc, đúng quy định. Làm tốt công tác này sẽ tạo tiền đề
cho việc thu hồi vốn và lãi khi đến hạn thanh toán, tạo tiền đề cho vốn tín dụng
luân chuyển nhanh. Trước khi quyết định cho vay cần cân nhắc các mặt sau:
Sự an toàn của vốn vay và khả năng trả khi đến hạn.
Sự phù hợp giữa cấp vốn tín dụng với tình hình kinh tế hiện tại.
Khả năng sinh lời của vốn tín dụng.
Khâu quản lý và giám sát phải được thể hiện ở việc thường xuyên kiểm
tra sổ sách và thực tế triển khai công việc kinh doanh có được thực hiện đúng
mụ tiêu, đối tượng và tiến độ không để từ đó giải ngân một cách hợp lý.
Thu nợ và thanh toán nợ là khâu quan trọng quyết định sự tồn tại vững
chắc của ngân hàng, cho nên phải nhạy bén, kịp thời phát hiện những điều kiện
bất lợi xảy ra.
• Kiểm soát nội bộ: Đây là hoạt động mang tính thường xuyên và cần
thiết đối với mọi hoạt động ngân hàng. Công tác kiểm tra nội bộ hoạt động kinh
doanh của Ngân hàng càng thường xuyên, chặt chẽ sẽ càng làm cho hoạt động
tín dụng đúng hướng, thực hiện đúng các nguyên tắc, yêu cầu thể lệ trong quy
chế tín dụng cũng như qui trình tín dụng. Kiểm soát nội bộ là biện pháp mang

Website: Email : Tel : 0918.775.368
tính chất ngăn ngừa, hạn chế những sai sót của cán bộ tín dụng, giúp cho hoạt
động tín dụng kịp thời sửa chữa, tạo điều kiện thuận lợi nâng cao chất lượng tín
dụng.
• Thông tin tín dụng: Hoạt động tín dụng muốn đạt được hiệu quả, an
toàn cần phải có hệ thống thông tin hữu hiệu phục vụ cho công tác này. Vai trò
và yêu cầu thông tin phục vụ công tác tín dụng và kinh doanh ngân hàng là hết
sức quan trọng. Muốn nâng cao chất lượng tín dụng, Ngân hàng cần xây dựng
được hệ thống thông tin đầy đủ và linh hoạt, nhờ đó cung cấp các thông tin
chính xác, kịp thời, tăng cường khả năng phòng ngừa rủi ro tín dụng.

3.2. Về phía khách hàng.
• Uy tín, đạo đức của người vay
Trong quy trình tín dụng các Ngân hàng thường chỉ đưa ra quyết định cho
vay sau khi đã phân tích cẩn thận các yếu tố có liên quan đên uy tín và khả năng
trả nợi của người vay nhằm hạn chế thấp nhất các rủi ro do chủ quan của người
vay có thể gây nên.
Đạo đức của người vay là một yếu tố quan trọng của quy trình thẩm định,
tính cách của người vay không chỉ được đánh giá bằng phẩm chất đạo đức
chung mà còn phải kiểm nghiệp qua những kết quả hoạt động trong quá khứ,
hiện tại và chiến lược phát triển trong tương lai. Thực tế kinh doanh đã cho thấy,
tính chân thật và khả năng chi trả của người vay có thể thay đổi sau khi món vay
được thực hiện. Khách hàng có thể lừa đảo Ngân hàng thông qua việc gian lận
về số liệu, giấy tờ, quyền sở hữu tài sản, sử dụng vốn vay không đúng mục đích,
không đúng đối tượng kinh doanh, phương án kinh doanh.
Uy tín của khách hàng cũng là một yếu tố đáng quan tâm, uy tín của
khách hàng là tiêu chí để đánh giá sự sẵn sàng trả nợ và kiên quyết thực hiện các
nghĩa vụ cam kết trong hợp đồng từ phía khách hàng. Uy tín của khách hàng
được thể hiện dưới nhiều khía cạnh đa dạng như: chất lượng, giá cả hàng hoá,
dịch vụ, sản phẩm, mức độ chiếm lĩnh thị trường, chu kỳ sống của sản phẩm, các
quan hệ kinh tế tài chính, vay vốn, trả nợ với khách hàng, bạn hàng và Ngân
hàng. Uy tín được khẳng định và kiểm nghiệm bẳng kết quả thực tế trên thị

Website: Email : Tel : 0918.775.368
trường qua thời gian càng dài càng chính xác. Do đó, ngân hàng cần phân tích
các số liệu và tình hình trong suốt quá trình phát triển của khách hàng với những
thời gian khác nhau mới có kết luận chính xác.
• Năng lực, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của khách hàng.
Chất lượng tín dụng phụ thuộc rất lớn vào năng lực tổ chức, kinh nghiệm
quản lý kinh doanh của người vay. Đây chính là tiền đề tạo ra khả năng kinh
doanh có hiệu quả của khách hàng, là cơ sở cho khách hàng thực hiện cam kết

hoàn trả đúng hạn nợ ngân hàng cả gốc lẫn lãi. Nếu trình độ của người quản lý
còn bị hạn chế về nhiều mặt như học vấn, kinh nghiệm thực tế… thì doanh
nghiệp rất dễ bị thua lỗ, dẫn đến khả năng trả nợ kém, ảnh hưởng xấu đến chất
lượng tín dụng của Ngân hàng.
3.3. Các nhân tố khác.
• Môi trường kinh tế
Tính ổn định hay bất ổn về kinh tế và chính sách kinh tế của mỗi quốc gia
luôn có tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp. Tính ổn định về kinh tế mà trước hết và chủ yếu là ổn định về tài
chính quốc gia, ổn định tiền tệ, lạm phát là những điều mà các doanh nghiệp
kinh doanh rất quan tâm vì nó liên quan trực tiếp đến kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp. Nền kinh tế ổn định sẽ là điều kiện, môi trường thuận lợi để các
doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh và thu được lợi nhuận cao, từ đó
góp phần tạo nên sự thành công trong kinh doanh của ngân hàng. Trong trường
hợp ngược lại, sự bất ổn tất nhiên cũng bao trùm đến các hoạt động của ngân
hàng, làm ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng, gây tổn thất cho ngân hàng.
Và không thể không xét đến yếu tố cạnh tranh của nền kinh tế. Có thể nói
đây là yếu tố tác động mạnh mẽ đến chất lượng tín dụng nói riêng và hoạt động
kinh doanh nói chung của NHTM . Sự tác động đó diễn ra theo hai chiều hướng:
thứ nhất, để chiếm ưu thế trong cạnh tranh ngân hàng luôn phải quan tâm đến
đầu tư trang thiết bị tốt, tăng cường đội ngũ nhân viên có trình độ, củng cố và
khuyếch trương uy tín và thế mạnh của ngân hàng. Hướng tác động này đã tạo
điều kiện nâng cao chất lượng tín dụng. Tuy nhiên, ở hướng thứ hai, dưới áp lực

Website: Email : Tel : 0918.775.368
của cạnh tranh gay gắt các ngân hàng có thể bỏ qua những điều kiện tín dụng
cần thiết khiến cho độ rủi ro tăng lên, làm giảm chất lượng tín dụng.

Môi trường pháp lý
Trong nền kinh tế thị trường, mọi thành phần kinh tế đều có quyền tự chủ

về hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng phải đảm bảo trong khuôn khổ pháp
luật. Hoạt động tín dụng ngân hàng cũng vậy, phải tuân thủ theo quy định của
ngân hàng Nhà nước, luật các tổ chức tín dụng, luật dân sự và các quy định
khác. Nếu những quy định của luật pháp không rõ ràng, không đồng bộ, không
kịp thời, không ổn định và có nhiều kẽ hở thì rất khó khăn cho ngân hàng trong
các hoạt động nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng, đồng thời cũng tạo ra
những khó khăn cho hoạt động của các doanh nghiệp.
Ngược lại, những văn bản pháp luật, những quy định rõ ràng, đầy đủ,
đồng bộ và ổn định sẽ là một hành lang pháp lý vững chắc, góp phần vào sự
cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng trong hoạt động tín dụng. Và đó cũng
là cơ sở pháp lý để ngân hàng giải quyết các khiếu nại, tố cáo khi có tranh chấp
xảy ra… Điều đó sẽ giúp cho chất lượng hoạt động tín dụng ngày càng được
nâng cao.
• Thảm hoạ tự nhiên:
Các yếu tố do thiên nhiên gây ra như lũ lụt, hoả hoạn, động đất, dịch
bệnh... có thể gây ra những thiệt hại không lường trước được cho cả người vay
và Ngân hàng. Mặc dù những rủi ro này là khó dự đoán nhưng bù lại nó chiếm
tỷ lệ không lớn, mặt khác Ngân hàng thường được chia sẻ thiệt hại với các Công
ty Bảo hiểm hoặc được Nhà nước hỗ trợ.
Tóm lại, việc nâng cao chất lượng tín dụng chịu tác động của rất nhiều
yếu tố: Từ điều kiện kinh tế xã hội, môi trường pháp lý, khả năng quản lý, trình
độ đội ngũ nhân viên của chính ngân hàng… Do đó để nâng cao chất lượng tín
dụng ngân hàng cần phải nắm vững các nhân tố ảnh hưởng để từ đó tìm ra các
biện pháp khắc phục, tạo cơ sở cho sự thành công của hoạt động tín dụng góp
phần vào sự ổn định chung của toàn nghành.

×