1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN VĂN HÙNG
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA
CÁC TỘI XÂM PHẠM SỨC KHỎE TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH BẮC NINH - THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN VĂN HÙNG
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA
CÁC TỘI XÂM PHẠM SỨC KHỎE TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH BẮC NINH - THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04
luận văn thạc sĩ luật học
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Tuân
Hà nội - 2014
3
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Nguyễn Văn Hùng
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC TỘI XÂM
PHẠM SỨC KHỎE CON NGƯỜI
7
1.1.
Tội xâm phạm sức khỏe con người và các dấu hiệu pháp lý
đặc trưng
7
1.1.1.
Khái niệm các tội xâm phạm sức khỏe con người
7
1.1.2.
Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội xâm phạm sức
khỏe con người
9
1.2.
Khái niệm, đối tượng, phạm vi thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra
12
1.3.
Đặc điểm thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các
vụ án xâm phạm sức khỏe con người
20
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ
KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC TỘI XÂM PHẠM SỨC
KHỎE CON NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH
28
2.1.
Pháp luật về thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
28
2.2.
Kết quả đạt được trong hoạt động thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra các tội xâm phạm sức khỏe
37
2.3.
Đánh giá hiệu quả hoạt động thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sức khỏe con
người ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh
45
5
2.4.
Những hạn chế và nguyên nhân khi thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sức khỏe con người
50
2.4.1.
Hạn chế
50
2.4.2.
Nguyên nhân
57
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG
TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC TỘI XÂM PHẠM SỨC
KHỎE CON NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH
61
3.1.
Hoàn thiện pháp luật về thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra
61
3.2.
Nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
các tội xâm phạm sức khỏe con người trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
70
3.2.1.
Tổ chức điều hành tốt hoạt động thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm sức khỏe con người
70
3.2.2.
Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra,
gắn công tố với hoạt động điều tra
72
3.2.3.
Chủ động đề ra yêu cầu điều tra
73
3.2.4.
Xây dựng mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và
Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra
75
3.2.5.
Nắm vững quan điểm và thực hiện đúng đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong quá trình thực
hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
76
3.2.6.
Nâng cao nhận thức về hoạt động thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra đối với các vụ án xâm phạm sức khỏe con người
77
3.2.7.
Đổi mới công tác tổ chức cán bộ
77
KẾT LUẬN
79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
81
6
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
: Bộ luật Hình sự
BLTTHS
: Bộ luật Tố tụng hình sự
CQĐT
: Cơ quan điều tra
KSĐT
: Kiểm sát điều tra
THQCT
: Thực hành quyền công tố
VKS
: Viện kiểm sát
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC
: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
7
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
2.1
So sánh số lượng tố giác, tin báo tội phạm nói chung với
tội xâm phạm sức khỏe con người trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
43
2.2
So sánh tổng thụ lý KSĐT tội phạm nói chung với tội
xâm phạm sức khỏe con người trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
44
2.3
So sánh tội phạm VKSND tỉnh Bắc Ninh phải xử lý so
với tội xâm phạm sức khỏe con người
44
2.4
So sánh tổng số tội phạm VKSND tỉnh Bắc Ninh đã giải
quyết nói chung so với tội xâm phạm sức khỏe con người
44
8
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tăng cường trách nhiệm, nâng cao chất lượng công tố của Viện kiểm
sát nhân dân (VKSND) trong quá trình điều tra là chủ trương nhất quán, xuyên
suốt của Đảng và Nhà nước ta trong suốt hơn 50 năm qua, từ khi thành lập
VKSND đến nay; được nhấn mạnh trong nhiều bài phát biểu quan trọng của
các đồng chí Lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nhiều nghị quyết, chỉ thị của Đảng.
Ngay từ những năm đầu thành lập Ngành, các đồng chí lãnh đạo cao nhất của
Đảng và Nhà nước đã có những chỉ đạo, kết luận rất quan trọng về trách
nhiệm công tố của Viện kiểm sát (VKS) trong đấu tranh phòng, chống tội
phạm và bảo vệ quyền tự do, dân chủ của công dân. Tháng 7/1967, đồng chí
Trường Chinh, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã kết luận:
Công tố là một biện pháp chuyên chính trong bất cứ Nhà
nước nào. Không có cơ quan nhà nước nào có thể thay ngành Kiểm
sát để sử dụng quyền công tố. Bắt, giam, điều tra, tha, truy tố, xét
xử có đúng người, đúng tội, đúng pháp luật hay không, có đúng
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước hay không, điều đó
chính là Viện kiểm sát phải trông nom, bảo đảm làm tốt [14].
Các nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp trong những năm gần
đây có những chủ trương hết sức quan trọng về trách nhiệm công tố của VKS
trong giai đoạn điều tra: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị về "một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới"
đã nhấn mạnh:
Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và
kiểm sát tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công
tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá
9
trình tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm
tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai
phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ… [2].
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về "chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020" đặt ra nội dung "Tăng cường trách
nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra" [3]; Văn kiện Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ X của Đảng xác định: "Cải cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ;
lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm; thực hiện cơ chế công tố gắn với
hoạt động điều tra" [4]. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta tiếp
tục khẳng định: "Bảo đảm tốt hơn các điều kiện để Viện kiểm sát nhân dân
thực hiện hiệu quả chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp; tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn
công tố với hoạt động điều tra" [5].
Nhận thức và quán triệt nghiêm túc tinh thần nghị quyết của Đảng,
trong những năm qua hoạt động thực hành quyền công tố (THQCT) và kiểm
sát điều tra (KSĐT) các vụ án hình sự của ngành Kiểm sát nhân dân đã có
nhiều chuyển biến tích cực. Với số lượng rất lớn các vụ án hình sự được phát
hiện, điều tra, truy tố, xét xử nhanh chóng, kịp thời bảo đảm sự nghiêm minh,
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan
người vô tội đã góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị và
trật tự xã hội.
Tuy nhiên, qua áp dụng pháp luật vào thực tiễn còn gặp nhiều những
hạn chế, khó khăn nhất định, như: chưa phát huy hết vai trò, quyền hạn, trách
nhiệm của VKS trong hoạt động THQCT và KSĐT, đồng thời một số quy
định của pháp luật còn mang tính chung, chưa có hướng dẫn cụ thể nên ảnh
hưởng không nhỏ đến hoạt động THQCT và KSĐT của VKSND.
Nhằm khắc phục những nhược điểm trên, tác giả làm luận văn này, qua
nghiên cứu mong muốn sẽ góp một phần nhỏ của mình vào việc hoàn thiện các
10
quy định của pháp luật về THQCT và KSĐT, mở ra một hướng cho việc đào tạo,
tổ chức, sắp xếp cán bộ, Kiểm sát viên trong hoạt động này. Đồng thời nâng cao
hiệu quả đấu tranh, phòng chống tội phạm, tăng cường kỷ cương trật tự xã hội và
hoàn thiện hơn tổ chức của ngành kiểm sát trong giai đoạn đất nước đang tiến
hành cải cách, hoàn thiện bộ máy.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở nước ta hiện nay, liên quan đến hoạt động THQCT và KSĐT, tác
giả cũng đã tiếp cận, tham khảo được một số công trình nghiên cứu sau:
Luận văn thạc sĩ Luật học của các tác giả như: Nguyễn Hải Phong:
"Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự Việt Nam", 1999;
Trần Huy Hùng: "Quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong giai
đoạn khởi tố và điều tra hình sự", 1996; Đặng Văn Minh: "Chức năng Kiểm
sát điều tra của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự", 1999; Nguyễn
Hợp Phố: "Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra hình sự",
1999; Luận án tiến sĩ Luật học Lê Thị Tuyết Hoa: "Quyền công tố ở Việt
Nam", 2005
Chủ yếu các công trình nghiên cứu và bài viết mang tính khái quát,
toàn diện của ngành kiểm sát nhân dân mà chưa có nhiều chuyên khảo nghiên
cứu về THQCT và KSĐT các loại tội cụ thể.
Với vai trò ý nghĩa của việc THQCT và KSĐT, cũng như tình hình
nghiên cứu nêu trên lý giải cho tác giả chọn việc nghiên cứu " Thực hành quyền
công tố và kiểm sát điều tra các tội xâm phạm sức khỏe trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh - Thực trạng và một số kiến nghị" để làm luận văn cao học luật.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở nghiên pháp luật về
THQCT và KSĐT nói chung và thực tiễn áp dụng đối với các tội xâm phạm
11
sức khỏe trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng và đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án xâm phạm
sức khỏe.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Nghiên cứu những quy định cụ thể về vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền
hạn của VKS trong hoạt động THQCT và KSĐT, đặc biệt là kiểm sát các tội
xâm phạm sức khỏe con người.
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn hoạt động THQCT và KSĐT các tội
xâm phạm sức khỏe trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, đồng thời phân tích làm rõ
những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân.
- Từ đó đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy
định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong hoạt động THQCT và KSĐT,
đặc biệt là trong việc THQCT và KSĐT các tội xâm phạm sức khỏe con người.
3.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động THQCT và KSĐT
đối với các vụ án xâm phạm sức khỏe con người.
Đề tài xác định phạm vi nghiên cứu là hoạt động THQCT và KSĐT
các vụ án xâm phạm sức khỏe con người trong thời gian từ năm 2008 đến
năm 2012 trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp
chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách
tư pháp được thể hiện trong các Văn kiện Đại hội Đảng VIII, IX, X, XI và các
12
Nghị quyết số 08/NQTW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49/NQTW ngày
26/5/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
- Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả
luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ thể như: phương pháp phân tích và
tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương
pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri
thức khoa học và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong
luận văn.
5. Những điểm mới đóng góp của luận văn
- Luận văn đã khảo cứu chuyên sâu một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án xâm phạm sức khỏe con người.
- Luận văn cũng đánh giá, phân tích những hạn chế trong hoạt động
của VKSND khi THQCT và KSĐT các vụ án xâm phạm sức khỏe con người,
thông qua đó, đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả của VKSND
trong hoạt động THQCT và KSĐT các tội xâm phạm sức khỏe trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hoạt động của
VKSND khi THQCT và KSĐT các vụ án xâm phạm sức khỏe con người, góp
phần xây dựng, hoàn thiện các tri thức của khoa học Luật hình sự, Luật tố
tụng hình sự và khoa học Điều tra hình sự.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho không chỉ các nhà lập pháp mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán
bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên
thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên
cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu
cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan điều tra (CQĐT), VKS,
13
Tòa án và cơ quan thi hành án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được
khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về thực hành quyền công tố và kiểm
sát điều tra các tội xâm phạm sức khỏe con người.
Chương 2: Thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
các tội xâm phạm sức khỏe con người trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Chương 3: Một số kiến nghị về hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các tội xâm phạm sức khỏe
con người trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
14
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA
CÁC TỘI XÂM PHẠM SỨC KHỎE CON NGƯỜI
1.1. TỘI XÂM PHẠM SỨC KHỎE CON NGƯỜI VÀ CÁC DẤU HIỆU
PHÁP LÝ ĐẶC TRƯNG
1.1.1. Khái niệm các tội xâm phạm sức khỏe con người
Con người với tư cách là một thực thể của tự nhiên và xã hội, luôn là
đối tượng được quan tâm và bảo vệ hàng đầu trong mọi nhà nước, đặc biệt là
ở các nhà nước hiện đại vấn đề con người càng được quan tâm. Xã hội ngày
càng phát triển thì việc bảo vệ con người và các lợi ích của con người càng
được chú trọng.
Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng:
Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng
thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn
quyền con người với quyền và lợi ích dân tộc, đất nước và quyền
làm chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã
hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và
cộng đồng dân cư trong việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam
giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri
thức, sức khỏe, lao động giỏi; sống có văn hóa, nghĩa tình; có tinh
thần quốc tế chân chính. Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc,
thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng,
trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách [5, tr. 76 ].
Vì vậy, để đạt được mục tiêu trên, trước hết là bảo vệ tính mạng, sức
khỏe của họ, vì đó là những điều có ý nghĩa hàng đầu đối với con người.
15
Những hành vi xâm phạm sức khỏe con người là xâm phạm vào một trong
những quyền thiêng liêng nhất - quyền được bảo vệ sức khỏe. Ở Việt Nam
sức khỏe con người được pháp luật bảo vệ trên mọi phương diện, lĩnh vực
liên quan đến cuộc sống, làm việc, học tập, sinh hoạt của con người.
Các tội xâm phạm sức khỏe là những hành vi (hành động hoặc không
hành động) có lỗi (cố ý hoặc vô ý) xâm phạm quyền được tôn trọng và bảo vệ
sức khỏe người khác. Sức khỏe con người là một trong những quyền bất khả
xâm phạm. Điều 71 Hiến pháp 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam quy định: "Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp
luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm" [21]. Không ai hoặc cơ
quan, tổ chức nào có quyền xâm phạm đến sức khỏe của người khác, những
hành vi xâm phạm đến sức khỏe của người khác đều bị pháp luật trừng trị.
Sức khỏe con người, theo Từ điển bách khoa Việt Nam: "là trạng thái
thoải mái đầy đủ về thể chất, tâm thần mà không chỉ có ý nghĩa là không có bệnh
hay thương tật, cho phép mỗi người thích ứng nhanh chóng với biến đổi môi
trường, giữ được lâu dài khả năng lao động và lao động có hiệu quả" [10, tr. 835].
Xâm phạm sức khỏe con người là gây lên mức độ thương tật hoặc làm mất
khả năng lao động trong một chừng mực nhất định. Tùy theo tính chất của
hành vi phạm tội và mức độ lỗi của người phạm tội mà Luật hình sự quy định
mức độ gây thương tích cho người khác phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) quy định các
tội xâm phạm sức khỏe của con người gồm các điều:
- Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác (Điều 104).
- Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 105).
- Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 106).
16
- Tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trong khi thi hành công vụ (Điều 107).
- Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác (Điều 108).
- Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 109).
- Tội hành hạ người khác (Điều 110).
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội xâm phạm sức
khỏe con người
Để nâng cao chất lượng hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án xâm
phạm sức khỏe, trước hết phải nắm vững các dấu hiệu pháp lý đặc trưng. Việc
nắm vững các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm này là căn cứ để
nghiên cứu đường lối, giải pháp, biện pháp đấu tranh, phòng chống phù hợp,
đồng thời giúp cho cơ quan và người có thẩm quyền có thể xác định, hành vi
đã xảy ra có cấu thành tội phạm hay không, cấu thành tội danh cụ thể nào.
Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội xâm phạm sức khỏe được biểu hiện
thông qua các dấu hiệu thuộc bốn yếu tố cấu thành tội phạm.
Khách thể của tội phạm xâm phạm sức khỏe con người
Con người khi sinh ra, tạo hóa cho họ một cơ thể hoàn thiện hoặc có
thể không hoàn thiện cả về thể chất lẫn tinh thần và đã được pháp luật thừa
nhận bảo vệ, không ai có quyền xâm phạm.
Sức khỏe của con người là vốn quý nhất của từng con người và xã hội.
Con người có sức khỏe thì mới có điều kiện học tập, lao động sáng tạo ra của
cải vật chất nuôi sống bản thân họ, gia đình và xã hội. Vì vậy, xâm phạm làm
tổn thương đến sức khỏe con người đều phải được xử lý nghiêm minh. Hành
vi xâm phạm đến sức khỏe con người là dùng tác động ngoại lực hoặc dùng
bất kỳ hình thức nào làm cho người đó yếu đi hoặc gây tổn thương, cố tật ở
17
các bộ phận của con người, gây nên bệnh tật làm tổn hại đến sức khỏe dẫn
đến hoạt động (lao động, sinh hoạt) bị suy giảm, hoặc mất khả năng suy nghĩ,
học tập, lao động sáng tạo của nạn nhân.
Khái niệm sức khỏe của con người được xem xét ở đây là tình trạng
sức khỏe vốn có ban đầu của nạn nhân khi chưa bị xâm phạm và sau khi bị
xâm phạm. Đây chính là cơ sở quan trọng để xem xét, đánh giá mức độ nguy
hiểm của hành vi.
Do đó, khách thể của nhóm tội này là quyền được tôn trọng và bảo vệ
sức khỏe. Đối tượng của nhóm này là những chủ thể có quyền được tôn trọng
và bảo vệ sức khỏe. Đó là những người đang sống, đang tồn tại với tư cách là
con người thực thể tự nhiên và xã hội.
Mặt khách quan của tội phạm
- Hành vi khách quan của tội xâm phạm sức khỏe là những hành vi có
tính chất gây tổn hại cho sức khỏe của con người. Những hành vi đó có thể là
hành động hoặc có thể là không hành động (chủ yếu là với tội vô ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc
nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính, Điều 109 BLHS).
- Hậu quả của hành vi khách quan nói trên là những thiệt hại gây cho
quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe thể hiện dưới dạng thiệt hại về thể chất
là thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe. Dấu hiệu hậu quả là dấu hiệu bắt buộc
trong cấu thành tội phạm của 6 tội quy định tại các điều từ Điều 104 đến Điều
109 BLHS. Trong cấu thành tội phạm tại Điều 110 BLHS, dấu hiệu hậu quả
không phải là dấu hiệu bắt buộc. Một vấn đề đặt ra là quan hệ nhân quả giữa
hành vi và hậu quả thương tích hoặc tổn thương khác, khi đã xác định có hành vi
xâm phạm sức khỏe và có hậu quả thương tích hoặc hậu quả tổn thương khác,
đòi hỏi phải xác định hậu quả này là do chính hành vi đó gây ra.
- Công cụ, phương tiện phạm tội: để thực hiện hành vi xâm phạm sức
khỏe người khác, người phạm tội dùng công cụ phương tiện gì. Các tội xâm
18
phạm sức khỏe con người, người phạm tội dùng rất nhiều công cụ phương
tiện phạm tội, có thể là công cụ phương tiện được chế tạo tinh vi, cũng có
những công cụ có sẵn trong tự nhiên. Nhưng vấn đề đặt ra là công cụ, phương
tiện nào được coi là hung khí nguy hiểm và đối với vấn đề cấu thành tội phạm
là phải chứng minh được quan hệ nhân quả giữa công cụ, phương tiện gây án
và hậu quả là thương tích, tổn hại để lại trên cơ thể nạn nhân, xác định thương
tích đó là do công cụ, phương tiện đó gây ra.
Mặt chủ quan của tội phạm
Lỗi của người phạm tội có thể là lỗi cố ý (như tội quy định tại Điều 104
BLHS) hoặc là vô ý (như tội quy định tại Điều 108 BLHS).
- Đối với lỗi cố ý có thể là cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp, người
phạm tội có thể mong muốn hậu quả thương tích hoặc hậu quả tổn hại cho sức
khỏe nhưng cũng có thể chỉ chấp nhận hậu quả đó. Lỗi cố ý cần phải làm rõ:
+ Vô cớ xâm phạm sức khỏe người khác.
+ Trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
+ Phòng vệ chính đáng - vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
- Đối với lỗi vô ý có thể là vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý do cẩu thả.
- Động cơ phạm tội là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm của
tội quy định tại Điều 106 BLHS và là dấu hiệu định khung tăng nặng của tội
được quy định tại Điều 104 BLHS.
Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của nhóm tội này có thể bất kỳ người nào có năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định:
- Từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
- Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng.
19
Trong nhóm tội xâm phạm sức khỏe có hai tội đòi hỏi chủ thể phải là
chủ thể đặc biệt. Ngoài dấu hiệu năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi
luật định, chủ thể đòi hỏi phải có quan hệ lệ thuộc với nạn nhân, trong đó nạn
nhân là người lệ thuộc vào người phạm tội (Điều 110 BLHS) hoặc phải là
người đang trong khi thi hành công vụ (Điều 107 BLHS).
Như vậy, từ những phân tích trên đây, có thể hiểu các tội xâm phạm
sức khỏe của con người là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng
lực trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến quyền
được bảo hộ về sức khỏe con người.
1.2. KHÁI NIỆM, ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG
TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA
Hoạt động công tố của VKS được thực hiện xuyên suốt quá trình điều
tra, truy tố, xét xử. Trong giai đoạn điều tra, hoạt động công tố của VKS có ý
nghĩa hết sức quan trọng, có tính chất quyết định việc buộc tội, gỡ tội, đảm
bảo truy tố đúng người, đúng tội, không để xảy ra oan sai, không để lọt tội
phạm. Trước yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm và cải cách tư pháp
hiện nay, hoạt động công tố của VKS càng phải được tăng cường, đổi mới
mạnh mẽ hơn nữa.
Hiến pháp năm 1980 là văn bản pháp lý đầu tiên của Nhà nước ta đưa
ra thuật ngữ "Thực hành quyền công tố" khi đề cập đến chức năng của
VKSND (Điều 138). Thuật ngữ này được nhắc lại ở Điều 1 và Điều 3 Luật tổ
chức VKSND năm 1981. Như vậy, trong các hoạt động của VKSND, bên
cạnh khái niệm truyền thống "kiểm sát việc tuân theo pháp luật" đã xuất hiện
khái niệm "quyền công tố" và "thực hành quyền công tố". Từ đó đến nay, đã
có nhiều đề tài nghiên cứu, nhiều quan điểm khác nhau, như:
Quan điểm thứ nhất: Công tố không phải là chức năng độc lập của
VKS mà chỉ là hình thức để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
20
luật [7]. Điều này có nghĩa ngay cả khi VKS kiến nghị yêu cầu cơ quan nhà
nước sửa chữa những vi phạm trên lĩnh vực hành chính, kinh tế xã hội cũng là
THQCT. Theo tôi đây là hai dạng hoạt động có nội dung hoàn toàn độc lập
với nhau, nếu đồng nhất chúng sẽ không thấy được sự liên hệ, sự khác nhau
về nội dung và phương thức hoạt động giữa chúng.
Quan điểm thứ hai: Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho
VKS truy tố kẻ tội phạm ra trước Tòa án, thực tiện buộc tội tại tòa án. Ý kiến
này thu hẹp nội dung phạm vi quyền công tố (hoạt động khởi tố, điều tra
không đề cấp đến chức năng này) [7]. Tác giả của quan điểm này có lý khi chỉ
ra một số quyền hạn không chỉ riêng biệt của VKS như quyền khởi tố vụ án,
khởi tố bị can, áp dụng biện pháp ngăn chặn… Quan điểm này đã tồn tại trong
ngành Kiểm sát trước khi có Hiến pháp năm 1980, đến nay vẫn được sự đồng
tình của một số nhà khoa học.
Quan điểm thứ ba: Quyền công tố là quyền của VKS thay mặt Nhà
nước bảo vệ lợi ích công, do vậy quyền công tố không chỉ có trong lĩnh vực tố
tụng hình sự mà có trong lĩnh vực tố tụng dân sự, hành chính (thông qua VKS
thực hiện quyền khởi tố vụ án dân sự, hành chính) [7, tr. 22]. Quan điểm này
đã mở rộng khái niệm, nội dung, phạm vi quyền công tố, đồng nhất quyền
công tố với quyền năng khác của VKS trong quá trình giải quyết vụ án hình
sự, dân sự, hành chính…Những người theo quan điểm này cho rằng, quyền công
tố xuất hiện từ khi có nhà nước và pháp luật, được thể hiện đầu tiên trong lĩnh
vực hình sự, tố tụng hình sự, cùng với sự phát triển của xã hội, các ngành luật,
quyền công tố được mở rộng sang lĩnh vực dân sự, tố tụng dân sự và lĩnh vực
tư pháp khác nhằm đảm bảo mọi hành vi vi phạm pháp luật đều bị phát hiện,
điều tra, xử lý theo pháp luật, không để lọt tội phạm. Theo tôi quan điểm này
quá mở rộng khái niệm, nội dung và phạm vi của quyền công tố của VKS.
Quan điểm thứ tư: Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho
các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện trong quá trình khởi tố, điều tra, truy
21
tố, thi hành án hình sự người phạm tội [46, tr. 204]. Đó là hoạt động của Điều
tra viên, Kiểm sát viên và những người khác được pháp luật quy định có trách
nhiệm xác định kẻ phạm tội cũng như các căn cứ để kết tội và áp dụng các
hình phạt đối với người phạm tội. Theo quan điểm này thì không chỉ CQĐT,
VKS mà cả Tòa án, Cơ quan thi hành án hình sự đều là chủ thể THQCT. Hiểu
theo quan điểm này dễ nhầm lẫn giữa các chức năng buộc tội, xét xử, bào
chữa trong tố tụng hình sự. Mỗi hoạt động nêu trên được thực hiện bởi một
hoặc một số chủ thể nhất định, tùy thuộc vào từng giai đoạn cụ thể của quá
trình tố tụng hình sự.
Quan điểm thứ năm: Quyền công tố là sự cáo buộc của Nhà nước đối
với các cá nhân, tổ chức đã vi phạm pháp luật, bao gồm vi phạm hành chính,
vi phạm luật dân sự, luật kinh tế và luật hình sự và quyền công tố là quyền
của Nhà nước thực hiện sự cáo buộc đó [8]. Theo quan điểm này, quyền
công tố chỉ thuộc về Nhà nước, Nhà nước không thể không thực hiện quyền
công tố khi chính Nhà nước là người ban hành pháp luật, có nhiệm vụ bảo
vệ pháp luật đồng thời là chủ thể tham gia nhiều quan hệ pháp luật khác
nhau. Do đó, quyền công tố được thể hiện ở nhiều phương diện như quyền
khởi tố vụ án dân sự, hành chính, kinh tế, lao động, hình sự và tham gia tố
tụng từ bất cứ giai đoạn tố tụng nào khi thấy cần thiết (dân sự, kinh tế, hành
chính…). Theo tôi quan điểm này không phù hợp với thực tế vì trong lĩnh
vực dân sự, hành chính, kinh tế, lao động, phải tôn trọng nguyên tắc quyền
quyết định và tự định đoạt của đương sự, vì thế không nhất thiết VKS phải
can thiệp sâu vào.
Quan điểm thứ sáu cho rằng: Quyền công tố là quyền của Nhà nước
đưa các việc làm phạm pháp liên quan đến lợi ích chung ra Tòa án xét xử vì
Nhà nước nhân danh xã hội duy trì trật tự chung bằng pháp luật. Sự can thiệp
của Nhà nước vào các việc phạm pháp nói trên là do nhu cầu duy trì mọi xung
đột xã hội gắn với trật tự công cộng mà trách nhiệm của Nhà nước phải đứng
22
ra điều hòa - đó là bản chất của quyền lực công. Quyền công tố là quyền lực
công, đòi hỏi phải xử lý các vụ việc xâm phạm lợi ích chung một cách công
khai bằng con đường Tòa án, vì thế quyền công tố thường gắn với quyền tài
phán của Tòa án [29]. Theo tôi quan điểm trên cũng gần giống với quan điểm
thứ sáu, phạm vi hoạt động quyền công tố của VKS quá rộng, không phù hợp
với thực tiễn ngày nay, phải coi trọng quyền quyết định và tự định đoạt của
đương sự trong lĩnh vực dân sự, hành chính, kinh tế, lao động.
Thời gian gần đây, các công trình nghiên cứu về quyền công tố cũng
như cách giải quyết của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 đã tiếp
cận gần hơn với quan niệm chung về quyền công tố trên thế giới. Tôi bày tỏ
sự đồng tình với quan điểm của Tiến sĩ Lê Hữu Thể:
Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền công tố
được thực hiện bởi một cơ quan nhất định (ở nước ta là Viện kiểm
sát), có trách nhiệm đảm bảo việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để
xác định tội phạm và người phạm tội, trên cơ sở đó quyết định việc
truy tố bị can ra trước Tòa án bằng bản cáo trạng và bảo vệ sự buộc
tội tại phiên tòa. Vì vậy, quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực tố tụng
hình sự, với đối tượng là tội phạm và người phạm tội [27, tr. 40].
Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng
pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội. Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, VKS sử dụng các
quyền năng pháp lý cần thiết theo luật định để truy cứu trách nhiệm hình sự
người phạm tội, bắt đầu từ khi có dấu hiệu tội phạm xảy ra đến khi kết thúc
việc điều tra, VKS ra quyết định truy tố hoặc đình chỉ vụ án. Theo đó, hoạt
động THQCT trong giai đoạn điều tra được xác định là nhằm bảo đảm phát
hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không làm oan người
vô tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội.
23
Kiểm sát điều tra các vụ án hình sự là hoạt động của VKSND kiểm sát
việc tuân theo pháp luật của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng
hình sự phát sinh trong giai đoạn điều tra, nhằm đảm bảo cho quá trình điều
tra vụ án được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Nội dung của hoạt
động này là việc VKS sử dụng tất cả các quyền năng pháp lý do luật định để
phát hiện vi phạm của các chủ thể thuộc đối tượng bị kiểm sát, kịp thời yêu
cầu chấm dứt hoặc có biện pháp xử lý, khắc phục.
Mối quan hệ giữa THQCT và KSĐT trong tố tụng hình sự: Mục đích
của THQCT và KSĐT đều nhằm phát hiện nhanh chóng, xử lý nghiêm minh,
đúng pháp luật các hành vi phạm tội, bảo đảm việc điều tra, truy tố, xét xử
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không bỏ
lọt tội phạm. THQCT và KSĐT có mối quan hệ trong lĩnh vực hình sự và
trong phạm vi THQCT được tiến hành từ khi có tội phạm xảy ra đến khi vụ án
được đưa ra xét xử. Nếu hoạt động THQCT là bảo đảm mọi tội phạm, người
phạm tội phải được xử lý, thì KSĐT trong hoạt động điều tra nhằm bảo đảm
việc xử lý tội phạm đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Do vậy, giữa
THQCT và KSĐT có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong tố tụng hình sự.
Mối quan hệ giữa THQCT và KSĐT là mối quan hệ giữa nội dung và hình
thức. Nếu thực hiện tốt công tác THQCT sẽ là điều kiện thuận lợi để KSĐT
trong hoạt động điều tra có chất lượng, hiệu quả và ngược lại.
Những dấu hiệu cơ bản để phân biệt THQCT và KSĐT:
- Về phạm vi hoạt động: THQCT và KSĐT đều xuất hiện từ khi có tội
phạm xảy ra.
- Về đối tượng: Đối tượng của THQCT là tội phạm, còn đối tượng của
KSĐT là hoạt động thuộc lĩnh vực điều tra của cơ quan tư pháp, người tiến
hành tố tụng và người tham gia tố tụng hình sự.
- Về căn cứ tiến hành: THQCT dựa trên quy định của luật nội dung
(BLHS) và luật hình thức (BLTTHS), còn KSĐT chỉ dựa trên quy định của
24
luật hình thức và các văn bản quy phạm pháp luật quy định về trình tự, thủ tục
tố tụng hình sự.
- Về hình thức hoạt động: THQCT được thực hiện thông qua các hình
thức cơ bản như: VKS ra lệnh, quyết định, cáo trạng, luận tội. Còn KSĐT
thông qua kiến nghị, yêu cầu.
- Về hậu quả pháp lý: Khi VKS THQCT ban hành các văn bản pháp
lý, sẽ dẫn đến các hậu quả pháp lý như: Truy cứu hoặc không truy cứu trách
nhiệm hình sự. Còn khi tiến hành KSĐT thì VKS ban hành các văn bản pháp
lý dẫn đến việc xử lý các vi phạm, thiếu sót trong hoạt động điều tra và cơ
quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy
định của BLTTHS.
Phân biệt sự khác nhau giữa THQCT và KSĐT có ý nghĩa trong việc
làm sáng tỏ hơn nội hàm của từng khái niệm, từ đó, là cơ sở để hoàn thiện lý
luận về công tác THQCT và KSĐT. Đồng thời, hiểu đúng các khái niệm này
cũng là cơ sở để những người làm công tác THQCT và KSĐT thực hiện đúng
đắn và hiệu quả hơn nhiệm vụ, quyền hạn của mình trên thực tiễn.
Đối tượng, phạm vi THQCT và KSĐT:
Đối tượng của quyền công tố là yếu tố mà quyền công tố tác động tới
nhằm thực hiện mục đích truy cứu trách nhiệm hình sự. Với cách hiểu này,
đối tượng của quyền công tố không gì có thể khác hơn là tội phạm và người
phạm tội. Đây cũng chính là đối tượng của hoạt động THQCT nói chung,
THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói riêng.
Khác với THQCT, hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
giai đoạn điều tra các vụ án hình sự hướng tới các chủ thể là cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong mối quan
hệ pháp luật tố tụng hình sự. Đối tượng của KSĐT là sự tuân thủ pháp luật
của các chủ thể tiến hành hoạt động điều tra (về thẩm quyền, thời hạn, thủ tục,
25
việc tiến hành các hoạt động điều tra cụ thể ) và các chủ thể khác tham gia
quan hệ pháp luật tố tụng hình sự phát sinh trong giai đoạn điều tra.
Trước hết, đó là sự tuân thủ pháp luật của CQĐT (CQĐT trong Công
an nhân dân, CQĐT trong Quân đội nhân dân, CQĐT của Viện kiểm sát nhân
dân tối cao (VKSNDTC)), cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra. Với nhóm chủ thể này, VKS phải đảm bảo sự tuân theo pháp
luật của họ trong việc ban hành và thực hiện các quyết định tố tụng, hành vi tố
tụng. Nói cách khác, sự tuân theo pháp luật của CQĐT trong việc tiến hành
các hoạt động từ khi giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, quá trình tiến
hành các hoạt động điều tra cụ thể cho đến khi kết thúc việc điều tra đều
thuộc đối tượng kiểm sát tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra.
Việc tuân theo pháp luật của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra trong việc thực hiện hoạt động điều tra theo
thẩm quyền cũng là đối tượng của KSĐT. Các cơ quan này gồm có: Bộ đội
biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Lực lượng cảnh sát biển và các cơ quan
khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra. Quyền hạn điều tra của các cơ quan này được quy
định tại Điều 111 BLTTHS và các điều 2, 20, 21, 24, 25 Pháp lệnh tổ chức
điều tra hình sự, Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh
tổ chức điều tra hình sự. Khi tiến hành hoạt động điều tra theo thẩm quyền nói
trên, các cơ quan này phải đảm bảo tuân thủ theo quy định của pháp luật tố
tụng hình sự.
Bên cạnh đó, khi thực hiện KSĐT vụ án hình sự, VKS cũng phải đảm
bảo sự tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng. Đó là sự tuân
theo pháp luật của người bị tạm giữ, bị can, người bị hại, người làm chứng,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người giám định, người phiên dịch,
người bào chữa Kiểm sát sự tuân theo pháp luật của những người tham gia
tố tụng là kiểm sát việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định