ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HÀ HỒNG SƠN
CÁC TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƯỜI
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HÀ HỒNG SƠN
CÁC TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƯỜI
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Tiến Việt
HẢ NỘI - 2011
MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
Lời cam đoan
MỤC LỤC
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI VÔ Ý LÀM
CHẾT NGƯỜI THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
8
1.1.
Khái niệm lỗi vô ý và cơ sở lý luận của việc quy định các tội
phạm được thực hiện dưới hình thức lỗi vô ý theo luật hình sự
Việt Nam
8
1.1.1.
Khái niệm và cơ sở lý luận của lỗi theo luật hình sự Việt Nam
8
1.1.2.
Khái niệm lỗi vô ý và cơ sở lý luận của việc quy định các tội
phạm được thực hiện dưới hình thức lỗi vô ý theo luật hình sự
Việt Nam
11
1.2.
Khái niệm tội vô ý làm chết người, tội vô ý làm chết người do
vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính và phân
biệt các tội phạm này với một số tội phạm khác theo luật hình
sự Việt Nam
15
1.2.1.
Khái niệm tội vô ý làm chết người
15
1.2.2.
Khái niệm tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề
nghiệp hoặc quy tắc hành chính
18
1.2.3.
Phân biệt các tội vô ý làm chết người với một số tội phạm
khác theo luật hình sự Việt Nam
20
1.3.
Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật hình sự
Việt Nam từ thời kỳ phong kiến đến trước khi ban hành Bộ
luật hình sự năm 1999 về các tội vô ý làm chết người
23
1.3.1.
Giai đoạn từ thời kỳ phong kiến Việt Nam đến trước Cách
mạng tháng Tám năm 1945
23
1.3.2.
Giai đoạn từ khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công
cho đến trước pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự
năm 1985
27
1.3.3.
Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến
trước pháp điển hóa lần thứ hai - Bộ luật hình sự năm 1999
30
Chương 2: Các tội vô ý làm chết người theo QUY Định Của Bộ Luật
Hình Sự việt nam NĂM 1999 và thực tiễn xét xử ở nước ta
hiện nay
33
2.1.
Các tội vô ý làm chết người theo quy định của Bộ luật hình sự
Việt Nam năm 1999
33
2.1.1.
Những dấu hiệu pháp lý hình sự của tội vô ý làm chết người
34
2.1.2.
Những dấu hiệu pháp lý hình sự của tội vô ý làm chết người
do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính
37
2.2.
Thực tiễn xét xử các tội vô ý làm chết người ở nước ta hiện nay
39
2.2.1.
Tình hình xét xử tội vô ý làm chết người
39
2.2.2.
Tình hình xét xử tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc
nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính
46
Chương 3: hoàn thiện pháp luật và một số giải pháp nâng cao hiệu quả
áp dụng những quy định của bộ luật hình sự năm 1999 về
các tội vô ý làm chết người
74
3.1.
Sự cần thiết và ý nghĩa của việc hoàn thiện pháp luật những
quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về các tội
vô ý làm chết người
74
3.1.1.
Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật những quy định của Bộ
luật hình sự Việt Nam năm 1999 về các tội vô ý làm chết người
74
3.1.2.
ý nghĩa của việc hoàn thiện pháp luật những quy định của Bộ
luật hình sự Việt Nam năm 1999 về các tội vô ý làm chết người
75
3.2.
Hoàn thiện những quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam
năm 1999 về các tội vô ý làm chết người
75
3.2.1.
Nhận xét chung
75
3.2.2.
Một số nội dung sửa đổi, bổ sung cụ thể
76
3.3.
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định
của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về các tội vô ý làm
chết người
80
3.3.1.
Tăng cường công tác xây dựng pháp luật, đồng thời hướng
dẫn, giải thích những quy định của của Bộ luật hình sự liên
quan đến các tội vô ý làm chết người
80
3.3.2.
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân
các văn bản pháp luật khác liên quan đến các hành vi có thể
dẫn tới hậu quả chết người
86
3.3.3.
Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ
tư pháp, tăng cường phối hợp giữa các chủ thể phòng ngừa tội
phạm trong công tác đấu tranh phòng, chống các tội vô ý làm
chết người
97
Kết luận
100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
102
1
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Tổng số vụ, số bị cáo phải xét xử và tổng số vụ, bị cáo về
tội vô ý làm chết người phải giải quyết trên toàn quốc từ
năm 2005-2010
40
2.2
Tổng số vụ, số bị cáo đã bị Tòa án xét xử về tội vô ý làm
chết người từ năm 2005 đến năm 2010
41
2.3
Phân tích chế tài theo quyết định của Tòa án
42
2.4
Đặc điểm về nhân thân của các bị cáo bị xét xử về tội vô
ý làm chết người
43
2.5
Tổng số vụ án, bị cáo do Tòa án xét xử về tội vô ý làm
chết người trong tương quan với các tội xâm phạm tính
mạng của con người (các tội từ Điều 93 đến Điều 103 Bộ
luật hình sự)
44
2.6
Tổng số vụ án, bị cáo do Tòa án xét xử về tội vô ý làm
chết người trong tương quan với các tội xâm phạm an
toàn công cộng, trật tự công cộng (các tội từ Điều 202
đến Điều 256 Bộ luật hình sự)
45
2.7
Tổng số vụ, số bị cáo và tổng số vụ, bị cáo về tội vô ý
làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy
tắc hành chính phải giải quyết trên địa bàn toàn quốc
trong thời gian từ năm 2005-2010
47
2.8
Tổng số vụ, số bị cáo bị Tòa án xét xử về tội vô ý làm
chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc
hành chính
48
2.9
Phân tích chế tài theo quyết định của Tòa án đối với tội
49
2
vô ý làm chết người
2.10
Đặc điểm về nhân thân của các bị cáo bị xét xử về tội vô
ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc
quy tắc hành chính
50
2.11
Tổng số vụ án, bị cáo do Tòa án xét xử về tội vô ý làm
chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc
hành chính trong tương quan với các tội xâm phạm tính
mạng của con người (Các tội từ Điều 93 đến Điều 103 Bộ
luật hình sự)
51
2.12
Tổng số vụ án, bị cáo do Tòa án xét xử về tội vô ý làm
chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc
hành chính trong tương quan với các tội xâm phạm an
toàn công cộng, trật tự công cộng (Các tội từ Điều 202
đến Điều 256 Bộ luật hình sự)
52
2.13
Số bị cáo do Tòa án xét xử từ năm 2005-2010 (thống kê
cấp tỉnh + quận/huyện) về tội giết người, tội vô ý làm
chết người, tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc
nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính, tội vô ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác, tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp, tội
vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ và tội vi phạm quy định về an toàn lao động
54
2.14
Những loại tội phạm chính qua nghiên cứu ngẫu nhiên
175 bản án hình sự sơ thẩm của các Tòa án nhân dân cấp
tỉnh trên địa bàn cả nước đã xét xử từ ngày 01-01-2010
đến ngày 31-12-2010
57
3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong cuộc sống của con người thì những lợi ích về nhân thân (tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm) có ý nghĩa quan trọng nhất. Chính vì
vậy mà Tuyên ngôn thế giới về quyền con người ngày 10-12-1948 của Đại
Hội đồng Liên hợp quốc đã tuyên bố: "Mọi người đều có quyền sống và
quyền an toàn về cá nhân". Như vậy, quyền sống là quyền trước tiên và quan
trọng nhất của con người. Mọi hành vi xâm phạm quyền sống của con người
đều bị coi là hành vi phạm tội nghiêm trọng nhất và phải bị nghiêm trị theo
quy định của pháp luật. Việt Nam đã thừa nhận và cam kết thực hiện tốt nhất
các quyền ấy. Lần lượt các bản Hiến pháp của nước ta (1946, 1959, 1980,
1992) đều thể hiện tinh thần đó. Điều 71 Hiến pháp hiện hành quy định: "Mọi
công dân đều có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ
về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm…" [20, tr. 144].
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Nhà
nước, đất nước ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức và đạt được nhiều
thành tựu rất quan trọng. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa được xây
dựng, tiềm lực kinh tế, cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường. Đời sống văn
hóa, xã hội tiến bộ trên nhiều mặt, cuộc sống vật chất và tinh thần của nhân
dân được cải thiện; chương trình xóa đói, giảm nghèo được thực hiện đạt
nhiều kết quả nổi bật. Song song với việc phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và
Nhà nước đặc biệt quan tâm đến vấn đề bảo đảm quyền của công dân, các
quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn
trọng, đặc biệt là quyền sống. Nhà nước Việt Nam đặc biệt ưu tiên và đã có
những nỗ lực cao nhất nhằm bảo đảm quyền sống cho mọi người dân, kể cả
quyền sống của những người phạm tội, quyền này được pháp luật Việt Nam
4
bảo vệ. Mọi hành vi xâm phạm đến quyền được sống của con người (dù là với
lỗi cố ý hay vô ý) đều bị coi là tội phạm và bị xử lý bằng pháp luật hình sự
trên những cơ sở chung. Bộ luật hình sự Việt Nam đều đã quy định những
hình phạt nghiêm khắc đối với các hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp xâm phạm
đến quyền sống của con người.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, do tác động của nhiều nguyên
nhân, tình hình tội phạm nói chung và các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe
nói riêng diễn ra tương đối nghiêm trọng và phức tạp. Các hành vi sử dụng
điện để bảo vệ tài sản gây ra hậu quả có người bị điện giật chết vẫn xảy ra
nhiều nơi trên phạm vi cả nước. Mặc dù đã được các cơ quan có trách nhiệm
tuyên truyền, giáo dục về pháp luật, các Tòa án đã áp dụng các hình phạt
nghiêm khắc đối với những người có hành vi phạm tội để đấu tranh, nhưng do
sự thiếu hiểu biết của người dân nên trên thực tế, loại tội này vẫn tiếp tục xảy
ra. Ngoài ra, trong quá trình xây dựng và cải tạo cơ sở hạ tầng, duy tu, sửa
chữa, quản lý các công trình giao thông phục vụ cuộc sống, đã xảy ra việc
một số người bị chết do rò rỉ điện tại các thiết bị điện công cộng, ngã xuống
cống ngầm…nhưng do chưa có hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền về
các trường hợp này, nên chưa được giải quyết một cách triệt để. Thực tiễn xét
xử cho thấy, việc đánh giá chứng cứ trong những vụ án này rất phức tạp; bởi
lẽ, văn bản pháp luật để các Tòa án áp dụng trong việc xét xử đối với loại tội
này chưa đầy đủ, rõ ràng. Tình trạng đó đã và đang gây nhiều khó khăn cho
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong công tác điều tra,
truy tố và xét xử cũng như trong chủ động phòng và đấu tranh chống tội
phạm, gây ảnh hưởng tới việc phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý
nghiêm minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không
làm oan người vô tội; gây tổn hại tới lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, tổ chức, trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Ở một chừng mực nhất định, do các quy định của luật hình sự Việt
Nam về các tội vô ý làm chết người còn chưa cụ thể, rõ ràng, chưa bảo đảm
5
tính hệ thống, đồng bộ; đặc biệt là thiếu quy phạm định nghĩa và các quy định
liên quan đến các yếu tố định tội danh và định khung hình phạt nên dẫn đến
nhiều cách hiểu khác nhau, không thống nhất trong việc nhận thức các dấu hiệu
pháp lý, việc định tội danh và đường lối xử lý đối với các tội phạm này. Có
trường hợp không làm sáng tỏ được ranh giới giữa tội phạm và các hành vi vi
phạm pháp luật khác, sự khác nhau giữa các tội vô ý làm chết người với một số
tội phạm khác có cùng tính chất lỗi vô ý trong Bộ luật hình sự như: tội vi phạm
quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ (Điều 202), tội vi phạm
quy định về duy tu, sửa chữa, quản lý các công trình giao thông (Điều 220),
tội vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy (Điều 240), tội vi phạm quy
định về an toàn vận hành công trình điện (Điều 241), tội vi phạm quy định về
khám bệnh, chữa bệnh, sản xuất, pha chế thuốc, cấp phát thuốc, bán thuốc
hoặc dịch vụ y tế khác (Điều 242); v.v
Do đó, để tiếp tục nghiên cứu một cách đầy đủ và sâu sắc hơn các vấn
đề lý luận về cấu thành tội phạm này cũng như thực tiễn điều tra, truy tố và
xét xử đối với các tội vô ý làm chết người từ đó đề xuất, kiến nghị tiếp tục
hoàn thiện pháp luật hình sự; đồng thời qua đó nâng cao hiệu quả công tác
đấu tranh phòng, chống tội phạm này, thì việc tác giả lựa chọn nghiên cứu đề
tài: "Các tội vô ý làm chết người theo luật hình sự Việt Nam và thực tiễn
xét xử ở nước ta hiện nay" làm luận văn thạc sĩ Luật học là cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Dưới góc độ thực tiễn, Tòa án nhân dân tối cao đã có các văn bản
hướng dẫn việc xử lý một số khía cạnh liên quan đến các tội này như Nghị
quyết số 04/HĐTP ngày 29-11-1986 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của
Bộ luật hình sự năm 1985; Công văn số 81/2002/TANDTC ngày 10-6-2002
giải đáp các vấn đề nghiệp vụ. Tuy nhiên, những hướng dẫn trong các văn bản
này mới chỉ đề cập tới từng trường hợp phạm tội cụ thể, những khái niệm của
6
hành vi phạm tội vô ý làm chết người nêu trong những hướng dẫn trên cũng
chưa cụ thể, rõ ràng, gây khó khăn trong việc áp dụng trong thực tiễn, chưa đủ
tác dụng để đấu tranh, phòng ngừa với loại tội phạm này.
Dưới góc độ khoa học pháp lý, việc nghiên cứu các tội vô ý làm chết
người đã được đề cập đến trong một số công trình nghiên cứu khoa học của
các cơ sở đào tạo luật học như Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật - Đại
học Quốc gia Hà Nội, Viện Nhà nước và Pháp luật thuộc Viện Khoa học xã
hội Việt Nam và một số cơ sở đào tạo khác. Trong đó phải kể đến một số giáo
trình, sách chuyên khảo hay những bài viết như: GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa,
Chương IV- Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm
của con người, trong Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm),
tập thể tác giả do TSKH.GS Lê Văn Cảm chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2003; GS.TS Võ Khánh Vinh (chủ biên), Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam (Phần các tội phạm), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2003. Ngoài ra,
các vấn đề lý luận và thực tiễn xét xử còn được nghiên cứu trong một số công
trình nghiên cứu của ThS. Đinh Văn Quế như Bình luận khoa học Bộ luật hình
sự năm 1999 - Phần chung, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2000; Bình luận
chuyên sâu Bộ luật hình sự, tập I, các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
danh dự và nhân phẩm của con người, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2003;
TS. Nguyễn Đức Mai, Phân biệt tội gây thương tích dẫn đến chết người với
tội giết người và tội vô ý làm chết người, Tạp chí Tòa án nhân dân số
07/1998; PGS.TS Trần Văn Luyện, Những điểm mới cơ bản về các tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người trong Bộ luật
hình sự năm 1999, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 03/2001; TS. Đỗ Đức
Hồng Hà, Phân biệt tội giết người với một số tội phạm khác xâm phạm tính
mạng con người, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 02/2003. Bên cạnh đó, còn
phải kể đến một số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Luật học chuyên ngành
Tư pháp hình sự nghiên cứu các tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe
7
con người, nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập trực tiếp đến
các tội vô ý làm chết người.
Như vậy, các công trình nghiên cứu nêu trên đã phần nào làm sáng tỏ
một số vấn đề về khái niệm, dấu hiệu pháp lý đặc trưng của cả nhóm tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người, trong đó có
các tội vô ý làm chết người; nhưng dưới góc độ khoa học pháp lý, đến nay
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống các vấn đề
lý luận và thực tiễn xét xử đối với các tội vô ý làm chết người ở cấp độ một
luận văn thạc sĩ luật học.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, các dấu
hiệu pháp lý, đường lối xử lý và thực tiễn xét xử đối với các tội vô ý làm chết
người theo luật hình sự Việt Nam, qua đó đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp
luật và một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của Bộ
luật hình sự năm 1999 về các tội phạm này.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ luật học, phạm vi nghiên
cứu của luận văn tập trung vào các dấu hiệu pháp lý đặc trưng và những vấn
đề liên quan đến việc định tội danh, thực tiễn xét xử đối với các tội vô ý làm
chết người trong những năm gần đây với tư cách là hai tội phạm trong chương
các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người
mà chưa có điều kiện nghiên cứu, phân tích.
4. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống về những vấn đề
pháp lý cơ bản của các tội vô ý làm chết người theo luật hình sự Việt Nam
8
như: khái niệm, các dấu hiệu pháp lý, trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội; phân biệt các tội vô ý làm chết người với một số tội phạm khác trong Bộ
luật hình sự; đồng thời đi sâu phân tích thực tiễn xét xử các tội vô ý làm chết
người trong thời gian từ năm 2005-2010. Trên cơ sở đó, luận văn chỉ ra một
số vướng mắc, tồn tại trong công tác xử lý, từ đó đề xuất một số kiến nghị,
giải pháp hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng
các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về xử lý các loại tội phạm này.
5. Cơ sở phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp và thống kê xã hội học; phương pháp so
sánh, đối chiếu; phân tích quy phạm pháp luật, khảo sát thực tiễn; nghiên cứu,
điều tra án điển hình… để phân tích và luận chứng các vấn đề khoa học cần
nghiên cứu trong luận văn này.
6. Những đóng góp mới của luận văn
6.1. Về mặt lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về hành
vi vô ý làm chết người trong khoa học luật hình sự Việt Nam; phân tích thông
qua nghiên cứu số liệu thực tiễn xét xử sơ thẩm trên địa bàn toàn quốc từ năm
2005-2010 và các bản án hình sự cụ thể của một số Tòa án để đánh giá. Qua
đó chỉ ra những mâu thuẫn, bất cập trong các quy định của pháp luật hiện
hành; các sai sót trong quá trình áp dụng các quy định đó, cũng như đưa ra
9
nguyên nhân để tìm giải pháp khắc phục, đề xuất những giải pháp nâng cao
hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về các tội vô ý làm chết
người ở khía cạnh lập pháp hình sự và việc áp dụng trong thực tiễn.
6.2. Về mặt thực tiễn
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, học tập.
Những đề xuất, kiến nghị của luận văn sẽ cung cấp những luận cứ khoa học
phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng Bộ luật hình sự
Việt Nam liên quan đến các tội vô ý làm chết người, qua đó góp phần nâng cao
hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống những tội này hiện nay và sắp tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về các tội vô ý làm chết người theo
luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Các tội vô ý làm chết người theo quy định của Bộ luật
hình sự Việt Nam năm 1999 và thực tiễn xét xử ở nước ta hiện nay.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và một số giải pháp nâng cao hiệu
quả áp dụng những quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về các
tội vô ý làm chết người.
10
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƢỜI
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM LỖI VÔ Ý VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC QUY ĐỊNH
CÁC TỘI PHẠM ĐƢỢC THỰC HIỆN DƢỚI HÌNH THỨC LỖI VÔ Ý THEO
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1.1. Khái niệm và cơ sở lý luận của lỗi theo luật hình sự Việt Nam
Nguyên tắc có lỗi là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật hình
sự Việt Nam. Có lỗi là cơ sở chủ quan để có thể buộc chủ thể phải chịu trách
nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và về hậu quả nguy
hiểm cho xã hội do hành vi đó gây ra. Dù hành vi của họ có gây hậu quả nguy
hiểm cho xã hội, nhưng nếu họ không có lỗi thì không phải chịu trách nhiệm
hình sự. Có thể nói, hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ bị coi là tội phạm khi
được thực hiện một cách có lỗi. Lỗi là thái độ tâm lý của chủ thể đối với hành
vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện và với hậu quả nguy hiểm cho xã
hội do hành vi ấy gây ra thể hiện dưới hình thức lỗi cố ý hay vô ý. "Một người
phải chịu trách nhiệm hình sự không chỉ vì họ đã có hành vi nguy hiểm cho
xã hội, mà còn vì họ đã có lỗi trong việc thực hiện hành vi đó" [23, tr. 87].
Theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin thì mỗi hiện tượng trong thực
tại khách quan đều được quy định bởi một hoặc nhiều hiện tượng khác nhau; sự
tồn tại, thay đổi và phát triển của mọi hiện tượng đều chịu sự chi phối của những
quy luật khách quan. Hoạt động của con người cũng chịu sự chi phối của những
quy luật khách quan. Tuy vậy, nhờ hoạt động có ý thức, con người có khả năng
nhận thức được quy luật và lợi dụng quy luật để thực hiện mục đích của mình,
đó là sự tự do của con người. Con người có tự do đối với xử sự của mình có
nghĩa là họ có tự do lựa chọn, quyết định và thực hiện xử sự. Tuy nhiên, con
người chỉ có thể tự do thực sự khi xử sự của họ phù hợp với quy luật, nếu không
11
phù hợp với quy luật thì có nghĩa họ đã tự tước bỏ khả năng tự do của mình. Tự
do và trách nhiệm là hai phương diện của một vấn đề, không thể có trách nhiệm
mà không được tự do, cũng như không thể có tự do không liên quan gì đến
trách nhiệm đối với người khác, đối với xã hội. Tự do không phải bẩm sinh
con người có được mà gắn với quá trình hoạt động, lịch sử phát triển của loài
người.
Trách nhiệm được hiểu là khả năng của con người ý thức được những
kết quả hoạt động của mình, đồng thời là khả năng thực hiện một cách tự giác
những nghĩa vụ được đặt ra cho mình. Cũng như tự do, trách nhiệm của con
người được quy định bởi những nhu cầu phát triển của đời sống con người.
Trách nhiệm hình thành trong quá trình điều chỉnh lợi ích giữa cá nhân với
cộng đồng và xã hội. Lợi ích của mỗi người chỉ có thể thực hiện được trong
một tương quan nhất định với lợi ích của lợi ích của một xã hội nhất định.
Trách nhiệm tồn tại dưới hai hình thức cơ bản là hình thái tích cực, tức là hình
thái có trách nhiệm của con người và hình thái tiêu cực, tức là hình thái chịu
trách nhiệm của con người. Dưới hình thái tích cực, trách nhiệm thể hiện ở
những hoạt động nhằm duy trì, phát triển trật tự xã hội, pháp chế, đạo đức.
Còn dưới hình thái tiêu cực, trách nhiệm phát sinh từ những lợi ích của xã hội
và của con người bị vi phạm, khi không thực hiện đầy đủ trách nhiệm với xã
hội thì người đó phải chịu trách nhiệm trước xã hội. Có thể nói, con người có
trách nhiệm là con người thấy trước những hậu quả của hành động của mình,
cố gắng ngăn chặn những tác hại có thể xảy ra đối với lợi ích của xã hội.
Khi xã hội bảo đảm cho mỗi cá nhân được tự do thì cũng đòi hỏi cá
nhân phải đáp ứng đòi hỏi của xã hội, đó là vấn đề trách nhiệm của cá nhân
trong xã hội, trách nhiệm đó hoàn toàn phù hợp với tự do. Những đòi hỏi của
xã hội nhằm thực hiện sự tiến bộ, sự phát triển của xã hội theo tất yếu khách
quan, việc thực hiện những đòi hỏi của xã hội cũng chính là thực hiện sự tự
12
do. "Con người có tự do để thực hiện trách nhiệm và thực hiện đầy đủ trách
nhiệm cũng là sự thực hiện tự do" [23, tr. 86].
Mặc dù con người trong xã hội có khả năng thực tế để tự do, nhưng
trong xã hội vẫn có những xử sự không đúng, đó là những hành vi phạm tội,
hành vi vi phạm pháp luật và những hành vi trái đạo đức. Đối với những hành
vi như vậy xã hội và Nhà nước có quyền buộc họ phải chịu trách nhiệm, đó là
hậu quả của việc không thực hiện đầy đủ những nghĩa vụ trên cơ sở quyền
hạn của tự do. "Tự do là cơ sở của trách nhiệm và trách nhiệm chỉ đặt ra cho
một người khi họ có tự do. Con người xử sự trái với lợi ích của Nhà nước, của
xã hội thì có nghĩa họ là người có lỗi, trách nhiệm chỉ đặt ra khi có lỗi" [23, tr.
86].
Tự do, trách nhiệm là cơ sở lý luận của lỗi. Lỗi là một dấu hiệu của tất
cả các cấu thành tội phạm, đòi hỏi phải được xác định trong mọi trường hợp
khi áp dụng luật hình sự. Việc ghi nhận nguyên tắc có lỗi trong Luật hình sự
chính là sự thừa nhận và tôn trọng tự do thực sự của con người. Xác định lỗi
đúng là một điều kiện cần thiết định tội danh, nếu xác định lỗi sai thì sẽ dẫn
đến định tội danh sai. Trong thực tiễn, việc xác định lỗi trong nhiều trường
hợp rất phức tạp. Để có thể xác định lỗi một cách chính xác, đòi hỏi phải nắm
vững những dấu hiệu về hình thức cấu trúc tâm lý của các loại lỗi đã được mô
tả trong các điều luật của Bộ luật hình sự và hiểu rõ bản chất của lỗi nói
chung cũng như mặt nội dung của từng loại. "Trên cơ sở nhận thức đầy đủ về
lỗi và từng loại lỗi mới có thể có được phương pháp đúng trong việc xác định
lỗi trong những trường hợp phạm tội cụ thể" [51, tr. 25].
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, tuy có nhiều cách thể hiện
khác nhau, song về cơ bản các quan điểm đều thống nhất về nội hàm của chế
định lỗi là nhằm xác định rõ lý trí và ý chí của người phạm tội đối với những
biểu hiện bên ngoài của tội phạm.
13
Có quan điểm định nghĩa lỗi căn cứ vào mặt hình thức của lỗi như
sau: "Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã
hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới
hình thức cố ý hoặc vô ý" [22, tr. 101].
Có quan điểm định nghĩa lỗi theo đặc điểm cấu trúc tâm lý, cụ thể là:
"Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là có lỗi nếu khi thực
hiện nhận thức được hoặc có đủ điều kiện để nhận thức được tính nguy hiểm
cho xã hội của hành vi và có đủ điều kiện lựa chọn, thực hiện hành vi khác
phù hợp với đòi hỏi của xã hội" [23, tr. 91].
Có quan điểm cho rằng:
Lỗi hình sự là mặt chủ quan của tội phạm và là một trong
những điều kiện bắt buộc của trách nhiệm hình sự, đồng thời là thái
độ tâm lý của người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội bị
luật hình sự cấm mà người đó thực hiện và hậu quả do hành vi ấy
gây nên dưới hình thức cố ý hoặc vô ý [9, tr. 422].
Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những quan điểm khác nhau trên đây về
lỗi và căn cứ vào các quy định về lỗi trong pháp luật hình sự Việt Nam, có thể
đưa ra khái niệm về lỗi như sau: Lỗi là thái độ tâm lý của người phạm tội đối với
hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự quy định là tội phạm mà họ đã thực
hiện dưới hình thức lỗi cố ý hoặc vô ý và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra.
Căn cứ vào các yếu tố lý trí và ý chí trong những trường hợp có lỗi,
trong cả ba lĩnh vực thể hiện của luật hình sự Việt Nam (pháp luật hình sự
thực định, lý luận và xét xử) bao gồm hai hình thức lỗi - cố ý và vô ý. Hình
thức lỗi cố ý được phân chia thành hai hình thức là cố ý trực tiếp và cố ý gián
tiếp. Hình thức lỗi vô ý được chia thành hai hình thức là vô ý phạm tội vì quá
tự tin và vô ý phạm tội vì cẩu thả.
14
1.1.2. Khái niệm lỗi vô ý và cơ sở lý luận của việc quy định các tội
phạm đƣợc thực hiện dƣới hình thức lỗi vô ý theo luật hình sự Việt Nam
Theo Từ điển Tiếng Việt "vô ý" được hiểu là "không để ý đến" [56, tr. 1329].
Như vậy, phạm tội do lỗi vô ý được hiểu là người phạm tội do bất cẩn, không
để ý các quy tắc, quy định của đời sống xã hội nên đã gây nên thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe, tài sản của người khác.
"Lỗi vô ý là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội do không nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của các hành
vi đó. Nói cách khác, không giống như lỗi cố ý, ở trường hợp lỗi vô ý người
phạm tội không lựa chọn hành vi phạm tội" [23, tr. 97]. Có thể nhận thấy lỗi
vô ý có các dấu hiệu cơ bản, một là - người phạm tội không nhận thức được tính
nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình khi quyết định thực hiện hành vi
đó và hai là - người phạm tội có đủ điều kiện để nhận thức được vấn đề đó và
có điều kiện lựa chọn, thực hiện hành vi phù hợp với yêu cầu của xã hội.
Như vậy, họ đã thực hiện hành vi do không nhận thức đầy đủ tính
nguy hiểm cho xã hội của hành vi do họ thực hiện. Vì vậy, tội phạm do lỗi vô
ý nói chung chỉ nguy hiểm khi gây ra hậu quả nghiêm trọng. Việc gây thiệt
hại cho xã hội là một căn cứ xác định hành vi đã thực hiện có mức độ nguy
hiểm đáng kể cho xã hội. Hành vi được thực hiện do lỗi vô ý có mức độ nguy
hiểm thấp hơn hành vi phạm tội thực hiện do lỗi cố ý.
Những trường hợp người phạm tội không nhận thức đầy đủ tính nguy
hiểm cho xã hội (mặc dù có đủ điều kiện để nhận thức được) có thể xảy ra
như sau:
Thứ nhất, người phạm tội không nhận thức được tính chất thực tế của
hành vi và do vậy không nhận thức được khả năng gây ra hậu quả nguy hiểm
cho xã hội của hành vi đó.
15
Thứ hai, người phạm tội tuy có khả năng nhận thức được tính chất
thực tế của hành vi nhưng hoàn toàn không nhận thức được khả năng gây hậu
quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình.
Thứ ba, người phạm tội nhận thức được tính chất thực tế của hành vi,
nhận thức được hậu quả xảy ra nhưng sau khi cân nhắc đã loại trừ khả năng
đó khi lựa chọn hành vi. So với lỗi cố ý thì đây là điểm khác nhau cơ bản, vì
trong trường hợp lỗi cố ý, người phạm tội đã chấp nhận khả năng hậu quả xảy
ra khi lựa chọn và thực hiện hành vi. "Trong trường hợp lỗi vô ý, người phạm
tội loại trừ khả năng đó và cho rằng hậu quả không xảy ra" [25, tr. 151].
Căn cứ vào việc người phạm tội không nhận thức được đầy đủ tính
nguy hiểm cho xã hội của hành vi trong những trường hợp có lỗi vô ý, khoa
học luật hình sự phân lỗi vô ý thành hai hình thức là vô ý phạm tội vì cẩu thả
và vô ý phạm tội vì quá tự tin. Với cách phân chia này, lỗi vô ý phạm tội vì
cẩu thả bao gồm những trường hợp người phạm tội không nhận thức được đầy
đủ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi (không thấy trước hậu quả). Trường
hợp không nhận thức được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, tuy
nhận thức được khả năng hậu quả xảy ra nhưng đã tự loại trừ khả năng đó
thuộc hình thức lỗi vô ý phạm tội vì quá tự tin.
Trong thực tiễn cuộc sống, hành vi phạm tội do lỗi vô ý thường được
biểu hiện dưới các hình thức như: thiếu tinh thần trách nhiệm trong công tác
chuyên môn nghiệp vụ; thiếu kỷ luật trong khi thực hiện nhiệm vụ được giao;
thái độ bất cẩn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ; không quan tâm đến tính
mạng và lợi ích của những người xung quanh; làm những công việc không
phù hợp với năng lực chuyên môn của bản thân; thiếu kinh nghiệm và không
được chuẩn bị chu đáo về chuyên môn nghiệp vụ. Các lĩnh vực thường xảy ra tội
phạm do lỗi vô ý là các tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thông, vi phạm quy định về phòng cháy và chữa cháy; vi phạm quy định về
bảo đảm an toàn trong sử dụng điện, xây dựng, lao động, vệ sinh an toàn thực
16
phẩm, khám chữa bệnh, quản lý, sử dụng dược liệu và các dịch vụ y tế. Trên cơ
sở này, các nhà làm luật đã cụ thể hóa thành các tội phạm cụ thể để xử lý
những người nào có hành vi xâm phạm đến, qua đó bảo đảm trật tự an toàn xã
hội chung.
Trong chính sách pháp luật hình sự ở nước ta hiện nay, quan điểm của các
nhà làm luật tập trung xử lý các tội phạm do lỗi cố ý. Tuy nhiên, việc quy định
tội phạm và hình phạt đối với các hành vi nguy hiểm cho xã hội do lỗi vô ý là
vấn đề cần thiết; bởi lẽ, chính sách hình sự của Nhà nước được quyết định bởi
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội, pháp luật hình sự được xây dựng trên
cơ sở các nguyên tắc nhất định của chính sách hình sự. Một đòi hỏi quan trọng
khi áp dụng pháp luật hình sự là phải bảo đảm việc xác định chính xác trách
nhiệm pháp lý. Dưới góc độ khoa học pháp lý, trách nhiệm pháp lý được hiểu là
hậu quả bất lợi của một chủ thể vi phạm pháp luật phải gánh chịu và được thể
hiện bằng một hay nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được pháp luật
quy định.
Trong thực tiễn, cần phải xây dựng và áp dụng những quy định
nghiêm khắc đối với các hành vi tuy được thực hiện với lỗi vô ý nhưng đã gây ra
những hậu quả nghiêm trọng. Vì theo nguyên tắc pháp chế, một đòi hỏi quan
trọng khi áp dụng pháp luật hình sự là phải bảo đảm áp dụng đầy đủ và chính
xác các quy định để xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội
phạm, tránh làm oan người vô tội. Tuy nhiên, những tội phạm do lỗi vô ý phần
lớn xuất phát từ những nguyên nhân khách quan. Trong khi đó, pháp luật hình
sự chỉ thực sự có giá trị và phát huy tác dụng khi tác động có hiệu quả tới nhận
thức chủ quan của con người. Mặt khác, trong nhiều trường hợp, việc giữ gìn
trật tự, kỷ cương trong mọi hoạt động của đời sống xã hội, cũng như nâng cao
trách nhiệm trong công tác chuyên môn, nghề nghiệp đối với các quy tắc an toàn
xã hội không hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng và ý muốn của con người, mà
còn bị ảnh hưởng bởi các điều kiện khách quan như khả năng kinh tế, trình độ
17
khoa học kỹ thuật, các phương tiện đảm bảo an toàn. Ngoài ra, còn phụ thuộc
nhiều vào ý thức tuân thủ pháp luật và kỷ luật của con người; vì vậy, nếu áp dụng
những hình phạt nghiêm khắc đối với các tội phạm được thực hiện với lỗi vô ý
thì tác dụng của luật hình sự đối với những hành vi này là rất hạn chế và trong
nhiều trường hợp, đi ngược lại quan điểm nhân đạo trong chính sách hình sự
của Nhà nước ta.
Có thể thấy rằng đối với các hành vi nguy hiểm cho xã hội nói chung
và những hành vi được thực hiện với lỗi vô ý nói riêng, việc áp dụng các quy
định của Bộ luật hình sự nhằm đảm bảo việc giáo dục ý thức pháp luật, giữ
gìn trật tự, kỷ cương trong mọi hoạt động của đời sống xã hội, cũng như nâng
cao trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức trong công tác chuyên môn, nghề
nghiệp là cần thiết. Ngoài ra, để thực hiện nguyên tắc công bằng trong luật
hình sự, đòi hỏi phải có sự bình đẳng khi quy định và áp dụng trách nhiệm
hình sự và hình phạt giữa những người phạm tội do lỗi cố ý cũng như phạm tội
do lỗi vô ý. Chính vì vậy, trong công tác xây dựng và áp dụng pháp luật, cũng
cần quan tâm đến lợi ích của bản thân người phạm tội, việc áp dụng loại và
mức hình phạt chỉ đến mức cần và đủ và đạt được mục đích của hình phạt, chỉ
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các trường hợp vô ý phạm tội gây hậu
quả nghiêm trọng qua đó bảo đảm sự công bằng và nguyên tắc nhân đạo của
pháp luật hình sự, cũng như đáp ứng các yêu cầu đấu tranh phòng và chống
tội phạm.
Qua việc nghiên cứu cơ sở lý luận của chế định lỗi nói chung và cơ sở
lý luận của việc quy định các tội phạm được thực hiện dưới hình thức lỗi vô ý
nói riêng, tác giả luận văn cho rằng: Lỗi vô ý là trường hợp người phạm tội
khi hành động đã không có ý thức lựa chọn cách thức phạm tội, họ đã thực
hiện tội phạm trong khi có đủ điều kiện để lựa chọn một hành vi khác không
gây thiệt hại cho xã hội; ngoài ra, người phạm tội vì không thấy trước hậu
quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi hoặc tuy thấy trước nhưng tin rằng hậu
18
quả đó không xảy ra; vì vậy, họ không nhận thức được hành vi sẽ thực hiện là
hành vi phạm tội.
1.2. KHÁI NIỆM TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƢỜI, TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT
NGƢỜI DO VI PHẠM QUY TẮC NGHỀ NGHIỆP HOẶC QUY TẮC HÀNH
CHÍNH VÀ PHÂN BIỆT CÁC TỘI PHẠM NÀY VỚI MỘT SỐ TỘI PHẠM KHÁC
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.2.1. Khái niệm tội vô ý làm chết ngƣời
Hiện nay, trong khoa học luật hình sự Việt Nam, mặc dù còn có nhiều
quan điểm khác nhau về khái niệm tội vô ý làm chết người, song tựu trung lại
các quan điểm đó vẫn thống nhất trong việc nêu ra nội dung và bản chất pháp
lý của tội phạm này.
Có quan điểm cho rằng: "Vô ý làm chết người là hành vi của một người
không thấy trước được hành vi của mình có khả năng gây ra chết người mặc
dù phải thấy trước và có thể thấy trước hoặc tuy thấy trước hành vi của mình
có thể gây ra chết người nhưng tin rằng hậu quả đó không xảy ra" [34, tr. 103].
Quan điểm này dựa trên các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 (Điều 98)
để định nghĩa, nhưng chưa nêu được dấu hiệu chủ thể của tội phạm này.
Quan điểm khác cho rằng:"Vô ý làm chết người được hiểu là trường hợp
hành vi vô ý của một người làm cho người khác bị chết" [58, tr. 81]. Tương
tự, có quan điểm lại cho rằng: "Vô ý làm chết người là hành vi của một người
không thấy trước được hành vi của mình có khả năng gây ra chết người mặc
dù phải thấy trước và có thể thấy trước nhưng tin rằng hậu quả chết người
không xảy ra" [2, tr. 114]. Các quan điểm này nhìn chung chưa nêu được dấu
hiệu chủ thể của tội phạm, cũng như chưa phản ánh rõ ràng hành vi khách
quan của tội phạm.
19
Có quan điểm cụ thể hóa hơn biểu hiện của hành vi phạm tội vô ý làm
chết người và đã nêu tương đối đầy đủ nội dung khái niệm tội phạm này, song
vẫn thiếu dấu hiệu chủ thể của tội phạm, theo đó:
Vô ý làm chết người là trường hợp vô ý gây ra hậu quả chết
người do vi phạm quy tắc an toàn về tính mạng, sức khỏe trong
những lĩnh vực khác nhau của hoạt động chung xã hội. Những quy
tắc này có thể đã được quy phạm hóa hoặc có thể chỉ là những quy
tắc xử sự xã hội thông thường đã trở thành nếp quen sinh hoạt, mọi
người đều biết và thừa nhận. Trong Bộ luật hình sự có nhiều tội
danh khác nhau được quy định cho hành vi vô ý làm chết người, tùy
thuộc vào lĩnh vực có quy tắc an toàn mà chủ thể đã vi phạm. Các
trường hợp vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc an toàn công
cộng (an toàn giao thông, an toàn lao động, an toàn trong xây
dựng, an toàn trong quản lý vũ khí ) được quy định thành những
tội danh khác nhau thuộc nhóm các tội xâm phạm an toàn công
cộng. Tội vô ý làm chết người được quy định trong Chương "Các
tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con
người" gồm những trường hợp vô ý làm chết người còn lại chưa
được quy định thành các tội riêng [25, tr 297].
Tuy nhiên, qua nghiên cứu cơ sở lý luận của chế định lỗi nói chung và
các tội phạm được thực hiện do lỗi vô ý nói riêng, tác giả luận văn tán thành
với cách lập luận về tội vô ý làm chết người như sau:
Vô ý làm chết người là trường hợp người phạm tội có năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo quy định của pháp luật hình sự đã có hành
vi vi phạm quy tắc an toàn nhằm đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khỏe cho
con người. Các quy tắc đó thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, có thể đã được
quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật hoặc có thể chỉ là những quy
tắc xử sự thông thường đã trở thành tập quán sinh hoạt, được mọi người biết
20
và thừa nhận. Hậu quả của hành vi vi phạm là dẫn đến hậu quả chết người,
đây là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Người phạm tội có thể
thực hiện tội phạm do vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý vì cẩu thả. Trong trường
hợp vô ý vì quá tự tin, người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội, có thể gây hậu quả chết người nhưng đã quá tự tin là
hậu quả đó sẽ không xảy ra nhưng thực tế hậu quả đó vẫn xảy ra. Còn trong
trường hợp vô ý vì cẩu thả, người phạm tội không thấy trước được hậu quả
chết người do hành vi của mình gây ra mặc dù họ phải thấy trước và có đủ
điều kiện thấy trước hậu quả đó.
Từ những phân tích như đã nêu trên, tác giả luận văn đưa một khái niệm
về tội phạm này như sau: Tội vô ý làm chết người là hành vi của một người có
năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo quy định của pháp luật hình sự,
không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra chết người mặc dù phải thấy
trước và có thể thấy trước hoặc tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây hậu
quả chết người, nhưng cho rằng hậu quả chết người sẽ không xảy ra hoặc có
thể ngăn ngừa được và trên thực tế đã gây ra hậu quả làm chết người.
1.2.2. Khái niệm tội vô ý làm chết ngƣời do vi phạm quy tắc nghề
nghiệp hoặc quy tắc hành chính
Cũng giống như tội vô ý làm chết người, dưới góc độ khoa học Luật
hình sự, cũng có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm đối với tội vô ý
làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính.
Có quan điểm cho rằng:
Vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc
quy tắc hành chính là trường hợp đặc biệt của tội vô ý làm chết
người. Các quy tắc an toàn bị vi phạm trong trường hợp này là quy
tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính và người phạm tội là