Tải bản đầy đủ (.pdf) (192 trang)

Hoàn thiện pháp luật về hoạt động giám sát của Hội đồng Nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 192 trang )


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các hình vẽ, đồ thị
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI 18
1.1 Tình hình nghiên cứu trong nƣớc 18
1.2 Tình hình nghiên cứu nƣớc ngoài 26
CHƢƠNG 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN 34
2.1 Quan niệm về pháp luật hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân . 34
2.2 Phƣơng hƣớng, tiêu chí và các yếu tố ảnh hƣởng đến hoàn thiện pháp
luật giám sát của Hội đồng nhân dân 51
2.3 Pháp luật về hoạt động giám sát của cơ quan dân cử địa phƣơng một
số nƣớc và giá trị vận dụng vào thực tiễn ở Việt Nam. 66
CHƢƠNG 3 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ THỰC
TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN 73
3.1 Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về hoạt động giám sát của
Hội đồng nhân dân. 73

3.2 Thực trạng pháp luật về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân . 80
3.3 Những vấn đề bất cập trong quá trình thực thi pháp luật hoạt động
giám sát của Hội đồng nhân dân 107
CHƢƠNG 4. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN 133
4.1 Quan điểm hoàn thiện pháp luật về hoạt động giám sát của Hội đồng


nhân dân. 133
4.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật hoạt động giám sát của Hội đồng nhân
dân 148
KẾT LUẬN 170
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN 174
TÀI LIỆU THAM KHẢO 175
PHỤ LỤC 186


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

 HĐND: Hội đồng nhân dân
 MTTQVN: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
 TAND: Tòa án nhân dân
 TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
 TT HĐND: Thƣờng trực Hội đồng nhân dân
 UBHC: Ủy ban hành chính
 UBND: Ủy ban nhân dân
 UBTVQH: Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội
 VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
 VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao


DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ


Phụ lục 1. Mô hình tổ chức chính quyền ở đơn vị hành
chính cấp tỉnh không tổ chức HĐND huyện, quận, phƣờng 179
Phụ lục 2.Mô hình tổ chức chính quyền ở đơn vị hành

chính thành phố trực thuộc trung ƣơng không tổ chức
HĐND huyện, quận, phƣờng 180
Phục lục 3. Đánh giá hoạt động giám sát của HĐND 181
Phụ lục 4. Trình độ cán bộ TT HĐND nhiệm kỳ 2004-2011 182
Phục lục 5. Cơ cấu đại biểu HĐND là ngƣời ngoài Đảng
nhiệm kỳ 2004-2011 183
Phụ lục 6. Thống kê về số Đoàn giám sát của HĐND 184
Phục lục 7. Số lƣợng chất vấn của đại biểu HĐND 185
Phục lục 8. Tỷ lệ tham khảo ý kiến về nguyên nhân ảnh hƣởng đến hoạt
động chất vấn 186
Phục lục 9. Thống kê các cuộc giám sát cảu HĐND trƣớc và sau khi
thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phƣờng……187


MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu
Vấn đề cải cách bộ máy Nhà nƣớc, cải cách hệ thống hành chính Nhà
nƣớc từ Trung ƣơng đến địa phƣơng đã trở thành một vấn đề hết sức cấp bách
và trọng yếu của đất nƣớc trong công cuộc đổi mới toàn diện do Đảng khởi
xƣớng và lãnh đạo, trong đó lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nƣớc hiện nay chƣa theo
kịp yêu cầu của sự nghiệp đổi mới nói chung. Từ sau năm 1986, khi chuyển
sang đổi mới, những yếu kém của bộ máy nhà nƣớc đã bộc lộ rõ: quá cồng
kềnh, quan liêu, kém hiệu lực. Mặc dù năm 1992, với sự ra đời của Hiến pháp
1992 thay thế Hiến pháp 1980 (bản hiến pháp của nền kinh tế tập trung, quan
liêu bao cấp), Bộ máy nhà nƣớc ta đã có bƣớc chuyển đổi đáng kể, với việc
giảm trách nhiệm tập thể, tăng trách nhiệm cá nhân, điển hình là không còn
tồn tại Hội đồng nhà nƣớc, Hội đồng Bộ trƣởng mà thay vào đó là thiết chế
Chủ tịch nƣớc, Thủ tƣớng Chính phủ, Chính phủ. Nhƣng với việc chuyển

sang cơ chế thị trƣờng, tình trạng tham nhũng tăng lên làm nhức nhối xã hội,
nhu cầu phải tiếp tục đổi mới bộ máy nhà nƣớc đã và đang đƣợc đặt ra. Có thể
nói, với Hiến pháp 1992, chúng ta đã tiến hành đổi mới ở cấp Trung ƣơng để
hình thành các cơ quan lập pháp (cơ quan đại diện của nhân dân), hành pháp
(Chính phủ), tƣ pháp (TAND và VKSND) tƣơng đối phù hợp thì hiện nay, yêu
cầu đổi mới cả về tổ chức và hoạt động ở cấp địa phƣơng đang đƣợc đặt ra.
Nhìn chung, lý luận về phân chia quyền lực thƣờng đề cập tới việc phân
chia quyền lực ở cấp trung ƣơng giữa 3 quyền lập pháp, hành pháp và tƣ
pháp, do đó, ngƣời ta thƣờng đề cập nhiều tới việc đổi mới bộ máy nhà nƣớc
ở cấp này. Đối với bộ máy nhà nƣớc ở địa phƣơng ít có nghiên cứu chuyên

sâu về đổi mới bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, thƣờng chỉ đi vào cải cách đơn
giản và chấp nhận sự tồn tại vốn có gồm HĐND là cơ quan quyền lực nhà
nƣớc ở địa phƣơng và UBND là cơ quan chấp hành của HĐND. Thời gian
gần đây, sự đổi mới bắt đầu có bƣớc biến chuyển khi nhà nƣớc ta thí điểm
không tổ chức HĐND huyện, quận, phƣờng. Tuy nhiên, về mặt lý luận và
thực tiễn, việc thí điểm cũng còn nhiều điểm cần phải xem xét kỹ lƣỡng, đánh
giá cẩn trọng, trƣớc khi đƣợc luật hóa để áp dụng trong toàn quốc.
Nhà nƣớc ta chuyển từ thời kỳ tổ chức tập trung, bao cấp (ở đó dân chủ
bị hạn hẹp) sang xây dựng nhà nƣớc pháp quyền, khi đó, giá trị dân chủ đƣợc
nhận thức lại, mở rộng và thực thi trên thực tế. Việc chuyển đổi này đƣợc tiến
hành theo trình tự, dần dần bởi nó không chỉ là thay đổi về tổ chức bộ máy mà
cả về tƣ tƣởng con ngƣời, hệ tƣ tƣởng của xã hội. Chính vì vậy, sau gần 20
năm thực hiện Hiến pháp 1992, đến nay, tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm
vụ của từng cơ quan trong bộ máy nhà nƣớc vẫn đang có sự vận động thay đổi
theo chiều hƣớng thực hiện dân chủ rộng rãi và thực sự và đây cũng chính là
bản chất của nhà nƣớc pháp quyền bởi xét cho cùng, dân chủ tức là quyền lực
thuộc về nhân dân. Ngƣời ta chia ra 2 phƣơng pháp sử dụng, thực hiện dân
chủ đó là: dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, trong đó việc sử dụng phải
có sự kết hợp 2 hình thức này để phù hợp với điều kiện cụ thể từng nƣớc và

từng thời điểm lịch sử. Khi nói đến thực hiện hình thức dân chủ đại diện thì
ngƣời ta thƣờng nói tới các cơ quan đại diện do nhân dân bầu ra là Quốc hội,
Nghị viện, HĐND, Hội đồng địa phƣơng …. tùy theo cách gọi và cách thức tổ
chức của từng quốc gia. Tổ chức và quy định về quyền của HĐND trong đó
có quyền quyết định và quyền giám sát cũng nằm trong sự chuyển động
chung của tổ chức nhà nƣớc. Quyền giám sát của HĐND không ngừng thay
đổi theo hƣớng tích cực, để ngƣời dân thông qua cơ quan đại diện của mình
thực hiện đƣợc quyền dân chủ của mình tại địa phƣơng.

Đảng và Nhà nƣớc luôn đề cao vị trí, vai trò của chức năng giám sát
của HĐND, nhất là trong giai đoạn đổi mới, xây dựng nhà nƣớc pháp quyền,
xu thế dân chủ đƣợc phát huy. Nghị quyết Đại hội đảng lần thứ X cũng đã
khẳng định “phát huy vai trò giám sát của HĐND”, bên cạnh đó cũng đề ra
định hƣớng “tổ chức hợp lý chính quyền địa phương, phân định lại thẩm
quyền đối với chính quyền ở nông thôn, đô thị, hải đảo”, trong đó có chức
năng giám sát của HĐND ba cấp cũng cần đƣợc phân định cho hợp lý.
Cụ thể hóa nghị quyết của Đảng, Hiến pháp 1992 xác định vị trí của
HĐND là “cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu
ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp
trên”. Nghị quyết của Quốc hội số 51/2001/QH10 sửa đổi, bổ sung một số
điều của Hiếp pháp 1992 lần đầu tiên xác định nguyên tắc Nhà nƣớc Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam “là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”.
Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XI đã ban hành Luật tổ chức HĐND và UBND
(năm 2003), trong đó, một điểm mới là có riêng một chƣơng quy định về hoạt
động giám sát của HĐND. Tiếp theo đó, UBTVQH có Nghị quyết số
753/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 02 tháng 4 năm 2005 ban hành Quy chế hoạt
động của HĐND với nhiều quy định hƣớng dẫn về hoạt động giám sát của
HĐND.
Hiện nay, nƣớc ta đang tiến hành cải cách bộ máy Nhà nƣớc theo định

hƣớng xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân, tăng cƣờng hiệu quả quản lý đất nƣớc bằng
pháp luật. Nghị quyết số 17/NQ-TW ngày 01/8/2007 của Hội nghị lần thứ
năm Ban chấp hành Trung ƣơng khóa X về đẩy mạnh cải cách hành chính,
nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nƣớc đã đề ra phƣơng
hƣớng: “Thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường. Qua

thí điểm sẽ tổng kết, đánh giá và xem xét để có chủ trương sửa đổi, bổ sung
Hiến pháp về tổ chức chính quyền địa phương cho phù hợp”. Tại kỳ họp thứ
4 Quốc hội khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 26/2008/QH12 về thực hiện
thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phƣờng; Nghị quyết số
25/2008/QH12 về việc kéo dài nhiệm kỳ hoạt động 2004-2009 của HĐND và
UBND các cấp. Trên cơ sở đó, UBTVQH ban hành Nghị quyết số
724/2009/UBTVQH12 về danh sách huyện, quận, phƣờng của các tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ƣơng thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện,
quận, phƣờng; Nghị quyết số 725/2009/UBTVQH12 điều chỉnh nhiệm vụ,
quyền hạn của HĐND, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng và quy
định nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của UBND huyện, quận, phƣờng
nơi không tổ chức HĐND huyện, quận, phƣờng.
Có thể thấy rằng vị trí và vai trò của HĐND càng trở nên quan trọng khi
chúng ta xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nƣớc của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân. Hoạt động giám sát của HĐND các cấp
trong thời gian qua tuy đã có đổi mới, đƣợc coi trọng hơn, toàn diện hơn và có
tiến bộ, song chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu và mong đợi của ngƣời dân. Lần đầu
tiên hoạt động giám sát của HĐND đƣợc tập hợp và quy định thành một
chƣơng riêng trong Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, Quy chế hoạt
động của HĐND năm 2005, góp phần giúp HĐND các cấp thực hiện tốt hơn
chức năng giám sát của mình. Thực tiễn hoạt động của Quốc hội cũng cho
thấy rằng khi các quy định về hoạt động giám sát của Quốc hội nằm rải rác
trong nhiều văn bản khác nhau nhƣ Luật tổ chức Quốc hội, các quy chế hoạt

động của UBTVQH, HĐDT và các Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn ĐBQH thì
hoạt động giám sát của Quốc hội chƣa đạt hiệu quả cao, thiếu cả sự đồng bộ
về hệ thống luật pháp. Tuy nhiên, sau khi Quốc hội ban hành Luật về hoạt
động giám sát của Quốc hội năm 2003 thì hoạt động giám sát của Quốc hội đã

có bƣớc tiến đáng kể, dần đƣợc nâng cao cả về hiệu lực và hiệu quả. Nhƣ vậy,
có thể thấy rằng quy phạm về hoạt động giám sát có ảnh hƣởng mạnh mẽ tới
việc thực thi, hiệu quả, hiệu lực của Quốc hội cũng nhƣ HĐND.
Tuy đã có đổi mới về mặt luật pháp nhƣng trong thực tế hoạt động giám
sát của HĐND cũng chƣa thực sự có đƣợc hiệu quả, đáp ứng đƣợc nguyện
vọng của nhân dân. Nguyên nhân chính là quy định của pháp luật chƣa thực sự
hợp lý, đầy đủ và đảm bảo cho quyền giám sát của HĐND đƣợc thực hiện; tổ
chức bộ máy nhà nƣớc, chất lƣợng đại biểu HĐND và mối quan hệ giữa sự
lãnh đạo của Đảng với HĐND cũng còn những vấn đề bất cập. Dƣới góc độ
luật pháp, cơ chế pháp lý về hoạt động giám sát của HĐND là yếu tố cơ bản,
then chốt để HĐND thực hiện tốt quyền của mình. Nhận thức đƣợc vấn đề
này và cùng với việc đổi mới tổ chức HĐND, UBND nói chung, trong thời
gian tới, Quốc hội dự kiến sẽ sửa Hiến pháp, Luật tổ chức HĐND và UBND,
Luật bầu cử đại biểu HĐND, theo đó, UBTVQH cũng sẽ ban hành Quy chế
hoạt động của HĐND.
Xuất phát từ các lý do trên, đối với luận án thuộc chuyên ngành luật, tác
giả chọn đề tài "Hoàn thiện pháp luật về hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân", trong đó có nghiên cứu mô hình cải cách bộ máy nhà nƣớc ở địa
phƣơng không tổ chức HĐND huyện, quận, phƣờng làm Luận án Tiến sỹ luật
học, chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật. Đây là đề tài cấp
bách, có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn, góp phần trực tiếp vào
việc đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nƣớc nói chung
và hiệu quả hoạt động của HĐND nói riêng trong điều kiện đổi mới hiện nay
ở nƣớc ta, đón đầu cho việc sửa đổi luật về chính quyền địa phƣơng trong thời
gian tới.



2. Đối tƣợng và giới hạn nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận án bao gồm:
- Những vấn đề chung, những vấn đề lý luận liên quan đến pháp luật hoạt
động giám sát của HĐND nhƣ đối tƣợng điều chỉnh, phƣơng pháp điều chỉnh,
chủ thể tiến hành giám sát …
- Những vấn đề về quyền lực của HĐND, quyền lực của TT HĐND, Ban
của HĐND và đại biểu HĐND trong hoạt động giám sát.
- Những vấn đề về cách thức, hình thức HĐND tiến hành giám sát và
trình tự, thủ tục để HĐND thực hiện các hình thức giám sát.
- Những vấn đề về trách nhiệm của đối tƣợng bị giám sát.
Giới hạn nghiên cứu của luận án là:
- Luận án không đi sâu nghiên cứu các chế định cụ thể liên quan đến đổi
mới tổ chức và hoạt động của HĐND nói chung mà chỉ tập trung nghiên cứu về
đổi mới quy định của pháp luật về giám sát của HĐND. Nhƣ vậy, những vấn
đề về tổ chức bộ máy ảnh hƣởng tới hoạt động giám sát của HĐND nhƣ thế
nào sẽ ít đƣợc đề cập, nghiên cứu. Luận án thông qua việc phân tích, tổng hợp
những nội dung liên quan trong các bản Hiến pháp, Luật tổ chức HĐND và
UBND cũng nhƣ Quy chế hoạt động của HĐND, Nghị quyết của Quốc hội,
UBTVQH về thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phƣờng và quy định về
giám sát của HĐND khi tổ chức thí điểm theo mô hình này để từ đó đƣa ra những
kiến giải về hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động giám sát của HĐND.
Những quy phạm pháp luật nghiên cứu chủ yếu là các quy phạm thực định, quy
phạm đang có hiệu lực thi hành.
- Bên cạnh việc đánh giá hệ thống pháp luật về giám sát của HĐND, Luận
án cũng dùng quy định pháp luật để soi rọi hoạt động thực tiễn về hoạt động giám

sát của HĐND, từ đó đánh giá tính hợp lý, khả thi của hệ thống pháp luật, những
vấn đề còn tồn tại, những quy định chƣa phù hợp hay những nội dung cần bổ sung

trong văn bản pháp luật về hoạt động giám sát của HĐND, đề ra các giải pháp
hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động giám sát của HĐND. Tƣơng ứng với
việc tập trung đánh giá quy định pháp luật hiện hành thì Luận án cũng tập trung
đánh giá thực trạng hoạt động giám sát của HĐND từ thời điểm Luật tổ chức
HĐND và UBND năm 2003 có hiệu lực.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án.
Mục tiêu nghiên cứu của Luận án là xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn để
đề ra phƣơng hƣớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền giám sát của
HĐND và hoạt động giám sát của HĐND. Từ đó, góp phần nâng cao chất lƣợng
và hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND ở nƣớc ta hiện nay và việc quy định
về hoạt động giám sát của HĐND theo mô hình tổ chức bộ máy nhà nƣớc mới.
Với mục tiêu nghiên cứu nói trên, Luận án có những nhiệm vụ chủ yếu
sau đây:
- Nghiên cứu về mặt lý luận khái niệm hoạt động giám sát của HĐND,
trong đó nêu bật nội hàm, bản chất của hoạt động giám sát; phân biệt khái
niệm hoạt động giám sát của HĐND và các khái niệm hoạt động giám sát của
các tổ chức khác nhƣ hoạt động giám sát của Quốc hội, của MTTQVN, ….
- Nghiên cứu pháp luật về hoạt động giám sát của HĐND, bao gồm quy
định về quyền giám sát, các hoạt động giám sát cụ thể của HĐND nhằm tìm
ra những đặc điểm phù hợp, những quy định bất hợp lý, thiếu tính khả thi.
- So sánh sự phát triển những quy định của pháp luật về giám sát của
HĐND qua các thời kỳ lịch sử, từ đó tổng kết xu hƣớng phát triển của pháp
luật về hoạt động giám sát của HĐND, dự kiến xu hƣớng phát triển quy định
về hoạt động giám sát của HĐND trong thời gian tới, làm bật lên việc quy

định của pháp luật về hoạt động giám sát đã có sự tƣơng đồng với khái niệm
về hoạt động giám sát chƣa, những vấn đề xung đột cần giải quyết.
- Đánh giá những đặc điểm của tổ chức bộ máy HĐND theo mô hình
không có HĐND quận, huyện, phƣờng từ đó nghiên cứu, xây dựng mô hình
hoạt động giám sát phù hợp.

- Tổng kết thực tiễn hoạt động giám sát của HĐND, trong đó có hoạt
động giám sát của HĐND ở những đơn vị không tổ chức HĐND quận, huyện,
phƣờng, đánh giá những hạn chế và thành quả đạt đƣợc trên cơ sở hệ thống
pháp luật, từ đó làm rõ những nguyên nhân ảnh hƣởng tới hiệu quả hoạt động
giám sát của HĐND xuất phát từ quy định của pháp luật.
- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động giám sát của HĐND,
Luận án đề xuất phƣơng hƣớng và giải pháp có tính khả thi, góp phần hoàn
thiện hệ thống pháp luật về hoạt động giám sát của HĐND.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu của Luận án.
Trên cơ sở phƣơng pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh về nhà nƣớc và pháp luật, luận án sử dụng các phƣơng pháp nghiên
cứu sau đây:
- Phƣơng pháp tổng hợp, phân tích các thông tin, số liệu liên quan đến
nội dung nghiên cứu. Các số liệu thông tin đƣợc thu thập từ các nguồn chính
thống, đƣợc tổng hợp, phân tích qua bảng biểu, từ đó thấy sự thay đổi, biến
động, rút ra kết luận có giá trị cho đề tài.
- Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu các quy định của pháp luật qua các
thời kỳ, từ đó soi rọi vào thực tiễn hoạt động giám sát của HĐND, TT HĐND,
các Ban của HĐND, đại biểu HĐND để xác định các yếu tố của hệ thống
pháp luật ảnh hƣởng đến hoạt động giám sát của HĐND. Việc so sánh tiến

hành trên cơ sở so sánh các quy định về giám sát của HĐND qua các bản
Hiến pháp, Luật từ năm 1946 đến nay; so sánh giữa quy định về giám sát của
Quốc hội với quy định về giám sát của HĐND.
- Sử dụng phƣơng pháp điều tra xã hội học thông qua các kết quả thống
kê và khảo sát thực tiễn trong hoạt động giám sát của HĐND ở một số địa
phƣơng, qua đó hình thành các sơ đồ và mô hình về các hoạt động đó.
5. Điểm mới của luận án.
- Luận án đƣa ra khái niệm về pháp luật hoạt động giám sát của HĐND.
Trong đó, xác định pháp luật hoạt động giám sát của HĐND đấy đủ các yếu

tố từ quyền giám sát của HĐND, trình tự, thủ tục tiến hành giám sát đến việc
xử lý sau giám sát.
- Luận án xác định chủ thể tiến hành giám sát, đối tƣợng và phạm vi
giám sát, đây là điểm quan trọng, có sự khác biệt lớn so với quy định trong
pháp luật hiện hành. Với việc xác định này, hệ thống pháp luật về giám sát
của HĐND đã đƣợc định hình tƣơng đối cụ thể, có sự tập trung, quyền giám
sát đã gắn với nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND trong tổ chức bộ máy nhà
nƣớc.
- Luận án chỉ ra những thiếu sót trong hệ thống pháp luật về giám sát, từ
quy định trong Hiến pháp đến quy định trong Luật tổ chức HĐND và UBND.
Đồng thời chỉ ra những bất cập trong quy định cụ thể về hoạt động giám sát
của HĐND trong Luật tổ chức HĐND và UBND.
- Từ những bất cập nêu trên, luận án đƣa ra những giải pháp hoàn thiện
hệ thống pháp luật hoạt động giám sát của HĐND. Những đề xuất, kiến nghị
sửa đổi quy phạm về giám sát của HĐND trong Hiến pháp đến việc xây dựng
Luật hoạt động giám sát của HĐND.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận án
- Luận án góp phần làm sâu sắc hơn lý luận về giám sát của HĐND, làm
rõ hơn cấu trúc pháp luật hoạt động giám sát của HĐND.
- Luận án có giá trị tham khảo đối với các hoạt động nghiên cứu lý luận
về khái niệm hoạt động giám sát của HĐND và chức năng giám sát của
HĐND các cấp ở nƣớc ta. Kết quả nghiên cứu có thể ứng dụng cho quá trình
sửa đổi các quy định về hoạt động giám sát của HĐND đƣợc quy định trong
quy định trong Luật tổ chức HĐND và UBND hiện nay. Kết quả nghiên cứu
phù hợp với nguyên tắc tổ chức HĐND 3 cấp ở tất cả các đơn vị hành chính
hoặc tổ chức HĐND ở các đơn vị hành chính trừ quận, huyện và phƣờng dự
kiến sẽ áp dụng trên toàn quốc sau khi hoàn thiện việc thí điểm trong thời
gian tới.
7. Kết cấu của Luận án.

Luận án gồm phần Mở đầu, 4 chƣơng và phần Kết luận, Phụ lục và
Danh mục tài liệu tham khảo.
Chƣơng 1. Tổng quan về hình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Chƣơng 2. Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động
giám sát của Hội đồng nhân dân
Chƣơng 3. Quá trình hình thành, phát triển và thực trạng pháp luật về
hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
Chƣơng 4. Quan điểm và giải pháp hoàn thiên pháp luật giám sát của
Hội đồng nhân dân


CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH
NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1 Tình hình nghiên cứu trong nước
1.1.1 Tình hình nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân
dân
Tổ chức bộ máy nhà nƣớc luôn là đề tài quan tâm nghiên cứu của các
nhà luật học, chính trị học, trong đó, thƣờng tập trung nghiên cứu về bộ máy
nhà nƣớc ở trung ƣơng nhƣ Quốc hội, UBTVQH, Chính phủ, TANDTC,
VKSNDTC mà ít có nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa
phƣơng nói chung và HĐND nói riêng.
Năm 2003, Văn phòng Quốc hội có đề tài nghiên cứu “Đổi mới tổ chức
và hoạt động của HĐND các cấp” do TS Phan Trung Lý, Phó Chủ nhiệm Ủy
ban Pháp luật của Quốc hội làm chủ nhiệm đề tài. Có thể coi đây là một trong
số ít đề tài nghiên cứu trực tiếp về HĐND, đề tài có giá trị tham khảo cao khi
Quốc hội ban hành Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003. Nội dung
nghiên cứu của đề tài chủ yếu trên cơ sở luật thực định, thừa nhận nhiều khái
niệm, quan điểm đã có sẵn, đối tƣợng nghiên cứu lại rộng, bao gồm cả tổ

chức và hoạt động của HĐND các cấp. Do đó, hoạt động giám sát của HĐND
tuy có đƣợc nghiên cứu nhƣng không chuyên sâu và cũng chỉ là một đề xuất
nhỏ trong phần kiến nghị. Đến nay, đề tài này phần nhiều có giá trị tham khảo
bởi sau khi đề tài hoàn thành, Quốc hội đã ban hành Luật tổ chức HĐND và
UBND năm 2003, nhiều kiến nghị trong đề tài nghiên cứu đã đƣợc tiếp thu
sửa đổi.

Luận án Tiến sĩ luật học về “Đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND
và UBND cấp xã” cũng là luận án nghiên cứu đối tƣợng rộng, về tổ chức và
hoạt động của cả HĐND và UBND, đồng thời hƣớng nghiên cứu không chỉ
về hệ thống pháp luật, đối tƣợng nghiên cứu giới hạn ở cấp xã.
Nhiều luận văn thạc sĩ nghiên cứu về đổi mới tổ chức và hoạt động của
HĐND ở từng địa phƣơng, có thể kể ra của tác giả nhƣ: Bùi Huyền Mai Đổi
mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân thành
phố Hà Nội” (2004); đề tài nghiên cứu về đổi mới tổ chức và hoạt động của
Hội đồng nhân dân tỉnh Hải Dƣơng, Nam Định … . Những luận án này có
đóng góp nhất định khi nghiên cứu về HĐND nhƣng cũng có những hạn chế
nhất định, đó là mức độ nghiên cứu chuyên sâu chƣa cao, mức độ lý luận về
tổ chức HĐND còn hạn chế, thƣờng thừa nhận luật thực định là chính, phạm
vi đánh giá thực trạng hoạt động của HĐND hẹp, chỉ có tính địa phƣơng
trong phạm vi một tỉnh, thành phố. Giải pháp đƣa ra thƣờng ít hƣớng tới kiến
nghị sửa đổi pháp luật mà tập trung vào nâng cao, tăng cƣờng tổ chức bộ
máy, con ngƣời.
Bên cạnh đó, cũng có nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học
luận bàn về tổ chức và hoạt động của HĐND nhƣ bài nghiên cứu của các tác giả:
Ths Nguyễn Quốc Tuấn, Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của
HĐND và UBND các cấp, Tạp chí Tổ chức nhà nƣớc số 4/2004, tác giả đặt ra
8 vấn đề cần giải quyết, trong đó có 4 vấn đề liên quan đến HĐND gồm: tăng
cƣờng sự lãnh đạo của Đảng; đào tạo, bồi dƣỡng; nâng cao chất lƣợng kỳ họp
HĐND; hoàn thiện bộ máy. Ths Nguyễn Hoàng Anh, Tổ chức và hoạt động

của HĐND cấp xã trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số
5/2003, tác giả đã khái quát thực trạng hoạt động của HĐND cấp xã thời gian
qua, nguyên nhân và đƣa ra một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của HĐND cấp xã. PGS.TS Bùi Xuân Đức, Bàn về tổ chức của HĐND
trong điều kiện cải cách bộ máy nhà nước hiện nay, Nhà nƣớc và Pháp luật,

số 12/2003. TS.Phạm Tuấn Khải, Tổ chức và hoạt động của HĐND trong
điều kiện hiện nay, Nghiên cứu lập pháp, số 6/2002. PGS.TS Nguyễn Thị
Hồi, HĐND và UBND ở nước ta hiện nay, Tạp chí Luật học, số 1/2004.
PGS.TS Trƣơng Đắc Linh, Tổ chức và hoạt động của các ban của HĐND,
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 2/2003. PGS.TS Lê Minh Thông, Đổi mới tổ
chức và hoạt động của HĐND và UBND, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật, số
6/1999. Các tác giả đã giải quyết đƣợc những vấn đề thực tiễn, xuất phát từ
thực tiễn hoạt động của HĐND, có những cách nhìn mới, giải pháp đổi mới tổ
chức HĐND nói chung, bộ máy HĐND nói riêng. Nhìn chung, các bài nghiên
cứu đã góp phần làm sáng tỏ vai trò, vị trí của HĐND trong bộ máy nhà
nƣớc, chỉ ra hƣớng đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND, tuy nhiên thời
điểm công bố công trình cũng tƣơng đối lâu, nhiều công trình công bố trƣớc
thời điểm Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003.
Bên cạnh đó, những công trình nghiên cứu riêng về nhà nƣớc pháp quyền
nói chung nhƣ: Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam trong
giai đoạn hiện nay, một số vấn đề lý luận và thực tiễn (2009) của GS.TSKH Đào
Trí Úc và PGS.TS Phạm Hữu Nghị đồng chủ biên; Chế ước quyền lực nhà nước
(2008) của PGS.TS Nguyễn Đăng Dung, Tư tưởng phân chia quyền lực nhà
nước với việc tổ chức bộ máy nhà nước ở một số nước (2005) của TS Nguyễn
Thị Hồi; Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin
về xây dựng nhà nước pháp quyền (2009) của TS Phạm Ngọc Dũng; Tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền (2007) của PGS.TS Nguyễn Đăng Dung
và Bùi Ngọc Sơn; Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới (2006) của Nguyễn Văn Yểu – GS.TS Lê Hữu Nghĩa

(đồng chủ biên); Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong giai đoạn hiện nay
(2004) của PGS.TS Bùi Xuân Đức; Mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống
chính trị một số nước trên thế giới (2008) của PGS.TS Tô Huy Rứa

Một số tác phẩm nƣớc ngoài đƣợc dịch nhƣ Đổi mới hoạt động của
Chính phủ (Mỹ) (1997) của Đêvit Âuxbot – Tét Gheblo, Chế độ dân chủ, nhà
nước và xã hội (2009) của N.M.Voskresenskaia – N.B.Davletshina.
Những tác phẩm này trực tiếp hoặc gián tiếp đều có những đóng góp
nhất định vào hệ thống quan điểm về tổ chức và hoạt động của HĐND nói
chung, hoạt động giám sát của HĐND nói riêng. Nhất là những nghiên cứu về
xây dựng nhà nƣớc pháp quyền từ đó làm tiền đề nghiên cứu vị trí, vai trò,
chức năng của cơ quan dân cử ở địa phƣơng.
1.1.2 Tình hình nghiên cứu về pháp luật giám sát
Hoạt động giám sát là một trong những đề tài đƣợc nhiều tác giả nghiên
cứu, trong đó thƣờng tập trung nghiên cứu pháp luật về hoạt động giám sát
của Quốc hội là chính, hoạt động giám sát của các chủ thể khác nhƣ giám sát
của nhân dân, của Đảng, của Mặt trận Tổ quốc và của HĐND ít thu hút đƣợc
sự quan tâm, nghiên cứu của các nhà khoa học. Hàng loạt nghiên cứu của
nhiều tác giả về giám sát của Quốc hội đã đƣợc công bố, có thể kể đến các tác
phẩm, nghiên cứu sau:
Luận án tiến sĩ Luật học của tác giả Phạm Văn Hùng – VPQH về
“Giám sát của Quốc hội đối với Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân”
(2003) đề cập tới các vấn đề về cơ sở lý luận về quyền giám sát của Quốc hội
với Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân: khái niệm quyền giám sát của
Quốc hội, điều kiện và ý nghĩa, vai trò của việc thực hiện quyền giám sát;
luận án đề xuất giải pháp đổi mới thực hiện quyền giám sát trên các mặt: pháp
luật, tổ chức thực hiện, tăng cƣờng kiều kiện đảm bảo. Một trong những điểm
mới là tác giả đi sâu giải quyết việc giám sát các vụ án nhƣ thế nào, phạm vi,
mức độ và hậu quả pháp lý ra sao.


Luận án tiến sĩ Luật học của tác giả Trƣơng Thị Hồng Hà – Viện Nhà
nƣớc và Pháp luật – Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
về “Hoàn thiện cơ chế pháp lý đảm bảo chức năng giám sát của Quốc hội”
(2008) giải quyết các nội dung: Cơ sở lý luận về cơ chế pháp lý đảm bảo chức
năng giám sát của Quốc hội, tác giả nêu yếu tố tác động đến hiệu quả của cơ
chế pháp lý đảm bảo chức năng giám sát của Quốc hội; đánh giá thực trạng
vận hành của cơ chế pháp lý, trong đó đánh giá nguyên nhân hạn chế. Tác giả
đƣa ra các quan điểm cần đổi mới nhận thức lý luận và thực tiễn về quyền
giám sát của Quốc hội Việt Nam, quan điểm và giải pháp hoàn thiện cơ chế
pháp lý: hoàn thiện quy định pháp luật, đƣa ra một số quan điểm về hậu quả
pháp lý hoạt động giám sát nhƣ hủy bỏ văn bản quy phạm pháp luật; làm rõ
vai trò chủ thể giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội; …
Luận án Tiến sĩ Luật học của tác giả Trần Thị Tuyết Mai – VPQH về
“Cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt
động giám sát của Quốc hội Việt Nam” (2009) nghiên cứu một cách có hệ
thống nhƣ̃ ng vấ n đề lý luận về quyền giám sát tối cao của Quốc hội trong tổ
chức quyền lực nhà nƣớc; phân tích những nguyên nhân khách quan và chủ
quan làm hạn chế hiệu lực , hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội trong
thƣ̣ c tiễ n; luận án xác lập đƣợc tiêu chí khoa học làm cơ sở đánh giá hiệu lực,
hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội (gồm 4 tiêu chí đánh giá hiệu lực
và 4 tiêu chí đánh giá hiệu quả).
Năm 2006, Trung tâm bồi dƣỡng đại biểu dân cử - VPQH xuất bản
cuốn sách “Cơ quan lập pháp và hoạt động giám sát” là tập hợp các nghiên
cứu của nhiều học giả làm việc ở các Trƣờng đại học, cơ quan có danh tiếng
nhƣ: Đại học Arizona, Đại học Trung Âu (Hoa Kỳ), Đại học quản lý
Singapore, Đại học Strathclyde (Vƣơng quốc Anh) …. Các bài viết tập trung
vào phân tích, đánh giá hoạt động giám sát của Nghị viện một số nƣớc, ngoài

ra đề cập tới giám sát của chính quyền cấp vùng ở Brazil, thành phố
Westminster (Bang California, Hoa Kỳ). Những nghiên cứu này tập trung chủ

yếu vào hoạt động giám sát của nghị viện, đối với hoạt động giám sát của Hội
đồng địa phƣơng chỉ tập trung đánh giá về ảnh hƣởng chính trị, thực tiễn hoạt
động là chính, ít phân tích về mặt luật pháp bởi thực tế đánh giá về mặt luật
pháp của một quốc gia khác là rất khó, không thể trình bày trong một cuốn
sách nhỏ.
Về giám sát của nhân dân, TS Đặng Đình Tân trong tác phẩm Nhân dân
giám sát các cơ quan dân cử ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, đã đề cập tới
khái niệm về giám sát với những quan điểm khá mới lạ, những nghiên cứu
của tác giả đã đặt ra nhiều vấn đề mới cần nghiên cứu nhƣ giám sát để làm gì,
mối quan hệ giữa chủ thể giám sát và đối tƣợng bị giám sát nhƣ thế nào …
Luận án tiến sĩ Luật học của tác giả Trịnh Thị Xuyến về “Kiểm soát
quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay – vấn đề và giải pháp” (2007), cũng
nghiên cứu về kiểm soát quyền lực của nhân dân, của cơ quan dân cử với bộ
máy nhà nƣớc nói chung và cơ quan hành pháp nói riêng.
Những nghiên cứu này nhìn chung đã giải quyết đƣợc những vấn đề
mang tính nguyên tắc của hoạt động giám sát, đó là mục đích giám sát, chủ
thể giám sát, mối quan hệ giữa chủ thể và đối tƣợng giám sát, phƣơng pháp và
hình thức giám sát, hậu quả pháp lý hoạt động giám sát. Đây là những gợi ý
quan trọng khi nghiên cứu về pháp luật hoạt động giám sát của HĐND.
1.1.3 Tình hình nghiên cứu về pháp luật hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân
Nghiên cứu về giám sát của HĐND nói chung và pháp luật hoạt động
giám sát của HĐND nói riêng nhìn chung ít đƣợc các học giả quan tâm, mức
độ nghiên cứu thƣờng hạn hẹp, có một số đề tài, luận văn thạc sĩ luật học, một

số nghiên cứu khoa học của địa phƣơng và một số bài viết của các nhà nghiên
cứu. Có thể kể đến các tác giả:
Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Hồ Thị Hƣng “Nâng cao hiệu quả
giám sát của HĐND tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay” (2006). Tác giả
đã có những đóng góp nhất định trong việc đƣa ra đánh giá về pháp luật hoạt

động giám sát, tuy nhiên, do hƣớng nghiên cứu về “nâng cao hiệu quả” và
phạm vi nghiên cứu trong địa phƣơng tỉnh Nghệ An nên tính khái quát chƣa
cao, ít có nghiên cứu về pháp luật hoạt động giám sát của HĐND.
Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Vũ Mạnh Thông về “Nâng cao
hiệu lực giám sát của HĐND cấp tỉnh trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam
hiện nay” (1998) cũng nặng về các vấn đề thực tiễn, giới hạn nghiên cứu ở
HĐND cấp tỉnh và thời điểm nghiên cứu đã lâu, từ năm 1998. Chính vì vậy,
những đóng góp của luận án về hoàn thiện pháp luật về giám sát của HĐND
cũng hạn chế.
Đề tài nghiên cứu khoa học của HĐND tỉnh Thanh Hóa “Thực trạng và
những giải pháp nâng cao chất lượng giám sát của TT HĐND các cấp ở
Thanh Hóa” (2007). Đề tài hầu nhƣ không đề cập tới phần cơ sở lý luận của
hoạt động giám sát, pháp luật hoạt động giám sát của HĐND mà chỉ nghiên
cứu hoạt động giám sát trong tổng thể chung về đổi mới tổ chức và hoạt động
của HĐND, với nhiều đề xuất kiến nghị về chỉ đạo của Đảng, tăng cƣờng bộ
máy, chất lƣợng đại biểu … mà ít có nghiên cứu sâu về hoạt động giám sát
của HĐND dƣới góc độ quy định của pháp luật. Mặt khác, đề tài này chỉ
nghiên cứu về thực trạng hoạt động là chính và cũng bó hẹp trong phạm vi địa
phƣơng mà không có đánh giá tổng thể hệ thống pháp luật, thực trạng hoạt
động giám sát trên cả nƣớc.

Sổ tay hướng dẫn hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh trong lĩnh
vực khoa học và công nghệ bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên
(2005) do TS Hồ Đức Việt (Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học – Công nghệ và
Môi trƣờng của Quốc hội) chủ biên có đóng góp nhất định trong nghiên cứu
về hoạt động giám sát của HĐND nói chung, đổi mới pháp luật về hoạt động
giám sát của HĐND nói riêng. Tuy nhiên, cuốn sách chủ yếu đƣa ra hƣớng
dẫn về cách thức tiến hành hoạt động giám sát của HĐND trên cơ sở quy định
của pháp luật hiện hành.
Đánh giá một các tổng thể, nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ và

chuyên sâu về pháp luật hoạt động giám sát của HĐND hầu nhƣ chƣa có,
những tác phẩm, nghiên cứu hầu nhƣ chỉ nêu đƣợc một góc độ nhất định nhƣ
thực trạng giám sát (cũng chỉ hạn chế ở một hoặc một vài địa phƣơng nhất
định), hoặc chỉ dừng lại ở việc nêu ra nhận định về giám sát của HĐND. Kết
quả những nghiên cứu đó cũng ít đề cập tới hoàn thiện pháp luật mà có tính
khái quát, tổng thể hơn, đó là việc nâng cao hiệu quả, hiệu lực giám sát.
Nghiên cứu về HĐND nói chung cũng có đề cập tới hoạt động giám sát
nhƣng không nhiều, nhất là đề cập tới pháp luật hoạt động giám sát thì chỉ
dừng ở việc nêu phƣơng án, đề xuất hoàn thiện pháp luật giám sát nói chung
mà thôi. Một số nghiên cứu về giám sát của Quốc hội, giám sát của nhân dân
… cũng đã có nội dung, tuy không nhiều, đề cập đến giám sát của HĐND, so
sánh với hoạt động giám sát của Quốc hội.
Nhìn chung, chƣa có nghiên cứu nào đề cập chuyên sâu tới pháp luật
hoạt động giám sát của HĐND, các nghiên cứu khoa học, sách … hầu nhƣ
chỉ tập trung vào nghiên cứu hoạt động giám sát của Quốc hội hay đề cập tới
đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND nói chung. Đặc biệt, sau khi Luật tổ
chức HĐND và UBND năm 2003 và Quy chế hoạt động của HĐND năm
2005 ra đời với nhiều quy định mới về hoạt động giám sát của HĐND thì hầu

nhƣ chƣa có nghiên cứu nào về đề tài này. Hơn nữa, với việc thí điểm mô
hình không tổ chức HĐND quận, huyện, phƣờng thì lại càng chƣa có đề tài
nào nghiên cứu về hoạt động giám sát của HĐND ở các đơn vị hành chính
kiểu này. Nghiên cứu về HĐND và pháp luật về giám sát của cơ quan dân cử
nói chung không nhiều nhƣng là một trong những cơ sở giúp nghiên cứu về
pháp luật hoạt động giám sát của HĐND tốt hơn. Đây là nghiên cứu luận án
tiến sĩ luật học đầu tiên về quy định của pháp luật liên quan tới giám sát của
HĐND nói chung và giám sát theo mô hình tổ chức bộ máy nhà nƣớc mới
đang đƣợc thí điểm.
Chính vì vậy, nghiên cứu về pháp luật hoạt động giám sát của HĐND
dƣới góc độ lý luận, thực trạng là cần thiết, đóng góp vào hệ thống cơ sở lý

luận về pháp luật hoạt động giám sát của HĐND, góp phần hoàn thiện pháp
luật về giám sát của HĐND.
1.2 Tình hình nghiên cứu nƣớc ngoài
Tổ chức chính quyền địa phƣơng trên thế giới không có sao chép giống
hệt nhau mà mỗi nƣớc có cách thức tổ chức riêng biệt, do đó, quy định về
pháp luật hoạt động giám sát của cơ quan dân cử địa phƣơng cũng không
giống nhau hoàn toàn. Sự khác biệt về tổ chức chính quyền địa phƣơng là một
trong những yếu tố quyết định tới pháp luật hoạt động giám sát của hội đồng
địa phƣơng. Hai mô hình tổ chức chính quyền phổ biến là (1) Mô hình chính
quyền địa phƣơng không phân định rõ cơ quan dân cử và cơ quan hành pháp,
với tính toàn năng của Hội đồng; (2) Mô hình chính quyền địa phƣơng phân
định rõ cơ quan dân cử và cơ quan hành pháp. Do vậy, việc xem xét các
nghiên cứu về hoạt động giám sát của cơ quan dân cử địa phƣơng ở các nƣớc
trên thế giới có ý nghĩa tham khảo nhất định. Bên cạnh đó, nghiên cứu ở các
nƣớc thƣờng tập trung vào chính quyền địa phƣơng, mô hình hoạt động, sự

phân quyền giữa trung ƣơng và địa phƣơng, giữa các cấp chính quyền địa
phƣơng với nhau mà ít có nghiên cứu mang tính chuyên sâu về pháp luật hoạt
động giám sát của cơ quan dân cử địa phƣơng. Có thể kể tới các nghiên cứu
chủ yếu sau về giám sát nói chung, giám sát của cơ quan dân cử ở trung ƣơng
(Quốc hội, nghị viện) và giám sát của cơ quan dân cử địa phƣơng (HĐND,
Hội đồng địa phƣơng):
Những sự thay đổi trong lĩnh vực giám sát Quốc hội Mỹ (Changes in
Congressional Oversight), tác giả JOEL D. ABERBACH, American
Behavioral Scientist. Cuốn sách nghiên cứu mối quan tâm ngày càng lớn của
Quốc hội Mỹ đối với chức năng giám sát (giám sát quốc hội đối với hoạt động
của các bộ, cơ quan và ủy ban, và các chƣơng trình, chính sách do họ quản
lý). Tác phẩm cũng chú ý các nhân tố thúc đẩy và tăng cƣờng chất lƣợng giám
sát và phân tích các xu hƣớng cách thức giám sát ủy ban của quốc hội. Tác giả
đƣa ra các quan điểm về giám sát, trong đó “giám sát là sự kiểm soát sự thật

và bao gồm các cuộc điều tra về chính sách đang và sẽ đƣợc triển khai; điều
tra về hoạt động hành chính và việc kêu gọi cơ quan hành pháp phải chịu
trách nhiệm với hoạt động của họ”, tác giả cũng cho rằng hành vi của các nhà
lập pháp sẽ tạo ra tác động đối với hành vi của cơ quan hành chính quan liêu;
giám sát hành chính là cần thiết bởi nó tạo ra cơ chế mà những nhà quản lý
hành chính có thể ảnh hƣởng đến chúng ta theo những cách cơ bản. Tác giả
nêu và phân tích những yếu tố ảnh hƣởng tới giám sát gồm: Sự kiểm soát của
các đảng với vị trí tổng thống và quốc hội; nhóm chịu sự tác động; nhóm lợi
ích; tổ chức cơ quan của Quốc hội; tăng cƣờng chất lƣợng và số lƣợng nghị
sĩ; sự công khai trong hoạt động.
- Giám sát và ngân sách của cơ quan lập pháp: Bối cảnh thế giới.
(Legislative Oversight and Budgeting: A World Perspective), ấn phẩm của
Ngân hàng Thế giới (12 tháng 9 năm 2008) ISBN-13: 978-0821376119. Tác

phẩm qua nghiên cứu nhiều nƣớc trên thế giới nhận định hầu hết các quốc gia,
Quốc hội có thẩm quyền hiến định trong giám sát hoạt động và sự tuân thủ
luật pháp của Chính phủ. Trong bối cảnh tăng cƣờng chức năng quản trị của
Quốc hội, các học giả và các nhà hoạt động thực tiễn đã xem xét chức năng
giám sát của Quốc hội trong việc tăng trách nhiệm giải trình về tài chính
công, kiềm chế tham nhũng và góp phần xóa đói giảm nghèo. Đây là công
trình tập hợp những nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau về vấn đề giám sát
của cơ quan lập pháp ở nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới. Ở các quốc gia
này, các cơ chế giải trình hoặc các hình thức giám sát của cơ quan lập pháp
đều dựa trên quyền lực hiến định của cơ quan lập pháp, tổ chức bộ máy của
chính phủ, sự phân chia quyền lực giữa chính quyền trung ƣơng, vùng và địa
phƣơng, và các nguồn lực sẵn có của cơ quan này (lập pháp). Đặc biệt, tác
phẩm đề cập đến việc giám sát ngân sách từ việc xây dựng, phê duyệt ngân
sách đến việc thực hiện và kiểm tra tài khoản công. Các quốc gia đƣợc đề cập
đến trong tác phẩm này bao gồm: Ba Lan, Nga, Braxin, Indonesia, Israel,
Nam Phi, Italia, cộng hòa Séc, Uganda,

Phân cấp và dân chủ địa phƣơng trong thế giới: Báo cáo toàn cầu 2008
Các thành phố và chính quyền địa phƣơng (Decentralization and Local
Democracy in the World: First Global Report 2008), ấn phẩm của Ngân hàng
Thế giới (ngày 5 tháng 11 năm 2008). Đây quan sát toàn cầu đầu tiên về dân
chủ địa phƣơng và việc phân chia quyền lực. Báo cáo phân tích chính quyền
địa phƣơng ở mỗi lục địa mỗi dƣới ba chủ đề chính: (1) Sự phát triển của cấu
trúc lãnh thổ; (2) Trách nhiệm và quyền lực; (3) Quản lý và tài chính và nền
dân chủ địa phƣơng. Trong đó có đề cập đến mối quan hệ giữa phân chia
quyền lực và vấn đề giám sát của chính quyền địa phƣơng.

×