Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Hoàn thiện pháp luật về huy động vốn của các ngân hàng thương mai.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.55 KB, 58 trang )

1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG
HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại.
1.1.1. Một số các vấn đề liên quan.
1.1.1.1. Tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
Ngân hàng thương mại là một trong những định chế tài chính quan trọng nhất của hệ thống tài
chính
1
quốc gia. Nếu đối với sự vận hành của nền kinh tế quốc gia, nguồn vốn được xem như là
máu trong một cơ thể sống thì hệ thống các ngân hàng thương mại là các mao mạch chính. Hoạt
động của các ngân hàng thương mại là những thể hiện sâu sắc nhất những diễn biến của thị trường
tiền tệ
2
nói riêng và thị trường tài chính nói chung. Ngoài ra, nhìn vào hoạt động của hệ thống các
ngân hàng thương mại, chúng ta có thể nhìn thấy sự vận hành của chính sách tiền tệ của mỗi quốc
gia trong từng thời kì cũng như sự hưng thịnh hay trên đà suy vong của nền kinh tế kinh tế quốc gia
đó.
Ngân hàng cũng là một loại hình doanh nghiệp, tuy nhiên hoàn toàn khác với các loại hình
doanh nghiệp thông thường khác, các ngân hàng thương mại chịu sự điều chỉnh của một hệ thống
pháp luật chuyên ngành
3
với những nguyên tắc điều chỉnh hết sức khắc khe. Vậy nguyên nhân nào
tạo nên yêu cầu khác biệt đó? Có thể lí giải từ nhiều góc độ: vị trí, vai trò của các ngân hàng thương
mại, yêu cầu an toàn cho nền kinh tế, tính chất rủi ro trong bản chất hoạt động của loại hình doanh
nghiệp này,… Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan, các đặc tính trên đều xuất phát từ một
yếu tố duy nhất, đó là đối tượng kinh doanh của loại hình doanh nghiệp này: tiền tệ.
Theo khoản 1 điều 9 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam
4
“Tiền tệ là phương tiện thanh toán,
bao gồm tiền giấy, tiền kim loại và các giấy tờ có giá như tiền”. Xuất phát từ bản chất của tiền tệ là


loại tài sản vô hình với giá trị của nó không liên quan gì đến hình thức vật lí của nó mà dựa vào trái
quyền hợp pháp trên một lợi ích tương lai nào đó. Tiền tệ, hiều theo nghĩa hẹp là đồng tiền được
luật pháp quy định để phục vụ trao đổi hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia hay nền kinh tế, chính
vì vậy, tiền tệ còn được gọi là “tiền lưu thông”. Từ góc độ này, tiền tệ có thể mang hình thức là tiền
giấy hoặc tiền kim loại do nhà nước (Ngân hàng trung ương, bộ tài chính,…) phát hành. Tuy nhiên,
1
Thị trường tài chính (financial market) được đề cập trong đề tài này có thể được định nghĩa: là thị trường giao dịch
về các loại tài sản tài chính, vốn tài chính và các sản phẩm tài chính hay công cụ biểu thị vốn phát sinh theo từng
phương thức giao dịch trên thị trường thị trường tài chính được hình thành và phát triển trong một nền kinh tế đều
dựa trên hai cơ sở chủ yếu là nhu cầu giao lưu vốn cùng với sự xuất hiện các công cụ vốn. Thị trường tài chính được
hợp thành bởi thị trường vốn và thị trường tiền tệ. (Gs.Ts Lê Văn Tư, Pgs.Ts Phạm Văn Năng, Thị Trường Tài
Chính, Nxb Thống Kê Hà Nội, năm 2003)
2
Thị trường tiền tệ (money market) là thị trường nơi các công cụ nợ ngắn hạn (thường dưới một năm) được mua bán
với số lượng lớn. Các công cụ nợ ngắn hạn lưu hành trên thị trường tiền tệ thường do nhà nước, các ngân hàng và
các doanh nghiệp lớn phát hành, đặc biệt là có tính thanh khoản cao, và rủi ro không thanh toán thấp. (Gs.Ts Lê Văn
Tư, Pgs.Ts Phạm Văn Năng, Thị Trường Tài Chính, Nxb Thống Kê Hà Nội, năm 2003)
3
Luật Các tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX ngày 12/12/1997 (sắp được thay thế bới Luật Các tổ chức tín dụng mới
vào cuối năm 2009 – trong quá trình phân tích các vấn đề liên quan đến các quy định của pháp luật, tác giả cũng sẽ
phân tích các quy định mới của dự thảo luật này); Nghị định số 49/2000/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12/09/200 về tổ
chức và hoạt động của Ngân hàng thương mại.
4
Đã được sửa đổi bổ sung.
SVTH: Nguyễn Thanh Thùy Linh – MSSV: 3020103
2
theo định nghĩa của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam như được nêu trên và cả nghiên cứu trong
lĩnh vực tài chính đều sử dụng thuật ngữ tiền tệ theo nghĩa rộng hơn rất nhiều. Tiền tệ lúc này bao
gồm tiền (tiền tệ theo nghĩa hẹp) và những loại hình có thể thay thế tiền mặt, chúng còn có tên gọi
khác là “near-money” _ công cụ được coi như tiền là các chứng khoán

5
, bản thân chúng không
được gọi là tiền nhưng có thể chuyển thành tiền một cách dễ dàng. Để tiền mặt thật sử trở thành
tiền tệ, hay nói cách khác muốn nó trở thành một loại hàng hóa có khả năng sinh lợi, các ngân hàng
chính là những đầu mối quan trọng để thực hiện chu trình chuyển đổi này. Về cơ bản có thể, có thể
diễn đạt cách ngắn gọn như sau, để biến tiềm mặt thành tiền tệ, người ta phải đem tiền mặt đi đổi
dưới các hình thức như mua, kí gởi, cho vay…, và như vậy, nó tạo ra lãi suất (giá của hàng hóa tiền
tệ) mà tiền mặt không làm được. Và có thể nói đây là phương thức hình thành nguồn vốn quan
trọng nhất của các ngân hàng thương mại, đó chính là bản chất kinh tế cơ bản của hoạt động ngân
hàng nói riêng và toàn thị trường tài chính nói chung. Nó chính là khởi phát của hoạt động huy
động vốn hiểu dưới góc độ kinh tế sơ khai trong hoạt động của các ngân hàng thương mại.
Hệ thống tiền tệ hiện nay (các hệ thống tài chính phát triển)
6
CUNG
ỨNG TIỀN
THÀNH PHẦN CỦA NÓ
M
1
A
- Tiền mặt của nhà nước
- Tiền gửi không kì hạn
M
1
B
- M1A
- Tiền gửi trong các tài khoản dùng séc
M
2
- M1B
- Các khoản gửi tiết kiệm

- Các khoản gửi có kì hạn (ngắn)
- Đơn vị nhỏ của tiền gửi có kì hạn (small-denomiation time
deposit – CDs)
- Trái phiếu ngắn hạn được mua lại của ngân hàng thương
mại (overnight REPOs)
- Euro đôla nhỏ
- Tiền gửi trong các quỹ tín dụng của thị trường tiền tệ
(money market fund deposits)
- Tài khoản gửi ở thị trường tiền tệ (money market deposit
accounts)
M
3
- M2
- Đơn vị lớn của tiền gửi có kì hạn (large-denomination
time deposit jumpo)
- Trái phiều dài hạn được mau lại của ngân hàng thương
mại và các hệ thống tài chính khác (RPs)
5
Vai trò đầu tiên của chứng khoán chính là các phương tiện huy động vốn, nhưng về sau khi hoạt động kinh doanh
tiền tệ phát triển, nó trở thành hàng hóa kinh doanh quan trọng trên thị trường chứng khoán.
6
Pts Lê Vinh Danh, “Chính sách tiền tệ và sự điều tiết vĩ mô của ngân hàng trung ương ở các nước tư bản phát triển”,
Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, năm 1997, trang 31.
SVTH: Nguyễn Thanh Thùy Linh – MSSV: 3020103
3
- Euro đôla lớn
L
- Trái phiếu (khoa bạc – công ty – đô thị)
- Cổ phiếu (kho bạc – công ty –đô thị)
- Trái phiếu tiết kiệm (saving bonds)

- Thương phiếu (commercial paper)
1.1.1.2. Vốn trong hoạt động của ngân hàng:
• Bản chất của nguồn vốn.
Vốn trong kinh tế học là một phạm trù tương đối phức tạp và khó tìm được một định nghĩa
thống nhất giữa các quan điểm từ trước đến nay. Trong tác phẩm Tư bản luận của mình, Các Mác
đã khái quát phạm trù vốn thành phạm trù cơ bản. Theo Các Mác, tư bản là giá trị mang lai giá trị
thặng dư. Định nghĩa này thể hiện đầy đủ bản chất của vốn: 1) vốn phải đại diện cho một loại tài
sản nhất định nào đó; 2) vốn phải luôn luôn vận động, luôn luôn sinh lời trong quá trình vận động;
3) vốn là một loại hàng hóa và cũng như những loại hàng hóa khác, nó có chủ đích thực. Nói ngắn
gọn, vốn là một bộ phận của cãi được dùng vào sản xuất để làm ra của cãi nhiều hơn.
Xuất phát từ vai trò trên, vốn là tiền đề của hoạt động kinh doanh trong toàn xã hội nói chung
và của mỗi doanh nghiệp nói riêng, mọi doanh nghiệp đều có nhu cầu to lớn về vốn để vận hành và
phát triển. Hơn nữa, hoạt động kinh doanh thường xuyên đòi hỏi phải không ngừng được bổ sung
một số lượng vốn nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu về tái sản xuất mở rộng, về thanh toán, về dự
trữ,… phát sinh ở mọi thời điểm. Trong cơ chế thị trường, lượng vốn kinh doanh biểu hiện thế lực
và sức cạnh tranh của doanh nghiệp, có tầm quan trọng đối với sự thành công hay thất bại của
doanh nghiệp trên thị trường. Chính vì vậy mà thị trường tài chính mà trong đó đóng vai trò chủ
chốt là các ngân hàng thương mại luôn có mối quan hệ khắng khít cho hoạt động sản xuất kinh
doanh, là nguồn huyết mạch cung cấp cho doanh nghiệp sức sống để tồn tại và phát triển. Đây là
căn nguyên làm cho các ngân hàng thương mại trở thành một trong những định chế tài chính quan
trọng nhất của nền kinh tế quốc gia.
Khởi phát nguyên thủy của việc hình thành các ngân hàng thương mại không phải là nhu cầu về
vốn mà là nhu cầu về cất giữ tài sản, tuy nhiên, các dịch vụ ngân hàng sơ khai không đơn thuần là
“hệ quả phái sinh” từ việc một số chủ thể (tiền thân của các ngân hàng – các tổ chức tín dụng thời
sơ khai) nắm giữ một lượng tư bản khổng lồ mà nguyên nhân trực tiếp của hiện tượng này theo
quan niệm của tác giả là nhu cầu khách quan của nền kinh tế, nhu cầu về những nguồn vốn với sự
đa dạng về thời hạn và quy mô.
Quay trở lại với vấn đề nguồn vốn của các ngân hàng thương mại, các ngân hàng thương mại
cũng là một loại hình doanh nghiệp, nguồn vốn cũng đóng vai trò hết sức quan trọng đối với nó
tương tự như đối với các doanh nghiệp khác, tuy nhiên, vốn đối với các ngân hàng không đơn thuần

chỉ là phục vụ cho nhu cầu mua nguyên vật liệu hay thực hiện các thanh toán chi trả mà nó là đối
tượng trực tiếp của hoạt động ngân hàng, nó là “hàng hóa”, là phương tiện hoạt động của các ngân
hàng. Chính vì thế, khác với các loại hình doanh nghiệp khác, nhu cầu về vốn của các ngân hàng
nói riêng và các tổ chức tín dụng nói chung là rất lớn và có thể nói là không hạn chế về lượng. Xuất
SVTH: Nguyễn Thanh Thùy Linh – MSSV: 3020103
4
phát từ tính chất đó, loại doanh nghiệp đặc biệt này chủ yếu dựa vào nguồn vốn vay mượn, phần
lớn bắt nguồn từ hoạt động bán các trái quyền tiền gửi cho các doanh nghiệp, cá nhân… để cung
ứng dịch vụ tín dụng và các dịch vụ khác. Chính nguồn vốn vay mượn này, chứ không phải vốn sở
hữu, đã tạo nguồn lực tài chính chủ yếu cho các hoạt động của ngân hàng. Trong giai đoạn đầu của
hoạt động ngân hàng, các ngân hàng thường không chủ động trong việc tìm kiếm các nguồn vốn mà
thường phụ thuộc vào người gửi tiền. Nhưng kinh tế càng phát triển, các ngân hàng phát hiện ra
rằng, nguồn vốn truyền thống theo định hướng tiền gửi không đủ đáp ứng mức cầu tín dụng đang
gia tăng của các khách hàng doanh nghiệp và gia đình. Để thảo mãn nhu cầu tín dụng gia tăng của
giới doanh nghiệp và cá nhân cần phải có những nguồn vốn mới: vay trên thị trường tiền tệ.
Thị trường tiền tệ giúp các ngân hàng có đầu óc đổi mới phát triển nguồn vốn quan trọng và dồi
dào có thể vay mượn cấp thời (vài phút hoặc vài giờ) bằng cách thông qua bất cứ công cụ nào của
thị trường tiền tệ (như các chứng chỉ tiền gửi, vay dự trữ, bán lại thương phiếu, …). Nguồn vốn vay
trên thị trường tiền tệ làm cho tính chất của các nguồn vốn của các ngân hàng thêm phong phú, hiện
nay người ta phân biệt hai loại nguồn vốn của ngân hàng thương mại: nguồn vốn thụ động và
nguồn vốn đi mua. Đối với các ngân hàng, nguồn vốn tiền gửi chủ yếu là các nguồn vốn thụ động.
Ngân hàng không phải van nài khách hàng, mà khách hàng chủ động đến gửi tiền vì muốn có
những tiện ích hay các dịch vụ khác được ngân hàng cung ứng (chủ yếu là an toàn và lãi suất).
Ngược lại, vay vốn trên thị trường tiền tệ là nguồn vốn phải đi mua. Ngân hàng sử dụng nguồn vốn
này phải tích cực tìm kiếm bất kì nguồn vốn khả dụng nào và trả mức giá ít nhất ngang bằng lãi
suất thị trường hiện hành để bảo đảm nhu cầu sử dụng cảu mình. Nét đặc thù của tất cả các nguồn
vốn trên thị trường tiền tệ là tính nhạy cảm với giá cả
7
của chúng. Các ngân hàng muốn tiếp cận
nguồn vốn này cần cung cấp mức lãi suất cạnh tranh, thậm chí trong một số trường hợp, ngân hàng

có thể tạm thời nâng cao mức lãi suất huy động so với lãi suất thị trường hiện hành cho đến khi đủ
vốn đáp ứng nhu cầu tín dụng của nó.
Tóm lại, vốn ngân hàng có thể được hiểu là những giá trị tiền tệ ngân hàng tự có, huy động và
tạo lập được để thực hiện cho vay, đầu tư và thực hiện các dich vụ ngân hàng. Việc tạo lập và huy
động vốn hình thành nên các khoản mục bên tài sản nợ của bảng cân đối tài sản của ngân hàng
thương mại. Việc sử dụng vốn để cho vay, đầu tư, thực hiện các dịch vụ ngân hàng hình thành nên
các khoản mục bên tài sản có của bảng cân đối tài sản ngân hàng thương mại.
• Phân loại nguồn vốn.
Về cơ bản nguồn vốn của ngân hàng có thể được phân loại thành các dạng cơ bản sau:
VỐN TỰ CÓ
(vốn chủ sở hữu)
VỐN HUY ĐỘNG VỐN ĐI VAY
CÁC NGUỒN VỐN
KHÁC
Khái niệmLà nguồn vốn do NHTM
tự tạo lập ra, thuộc sở hữu
Là những giá trị tiền tệ
mà ngân hàng huy động
Là nguồn vốn mà
NHTM có được dựa
Là nguồn vốn hình
thành trong quá trình
7
Lãi suất là giá cả của việc mua và bán quyền sử dụng vốn hay nói cách khác lãi suất chính là giá cả của tiền, nhưng
giá cả bày chỉ có thể xuất hiện khi diễn ra các quan hệ tín dụng và do vậy, người ta còn gọi là giá cả của tín dụng.
SVTH: Nguyễn Thanh Thùy Linh – MSSV: 3020103
5
riêng có của NHTM. được từ công chúng
thông qua việc bán các
sản phẩm dịch vụ cho

khách hàng (là vốn do
NHTM tạo lập ra thông
qua việc thu hút tiền gửi
và phát hành giấy tờ có
giá).
trên mối quan hệ vay
mượn trên thị trường
liên ngân hàng, dựa
trên các quỹ cho vay
đã được thiết lập.
cung cấp dịch vụ ngân
hàng cho khách hàng.
Đặc điểm
-Chiếm tỷ trọng rất nhỏ
trong tổng nguồn vốn của
ngân hàng (khoảng 5 -
10%) nhưng lại có tính
chất Quyết định đến sự
hình thành và tồn tại của
ngân hàng
-Nguồn vốn này mang tính
ổn định cao (vì nó thuộc sở
hữu của NHTM và NHTM
không có nghĩa vụ phải
hoàn trả)
-Không thuộc sở hữu của
NHTM.
-Có tính biến động cao,
không ổn định (cần phải
dự trữ)

-Chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong tổng nguồn vốn của
NHTM.
-Là loại nguồn vốn đa
dạng về: Nguồn gốc hình
thành, Thời hạn các
khoản huy động, Giá trị
các khoản huy động,
Loại tiền huy động.
-Không thuộc sở hữu
của ngân hàng.
-Chiếm tỷ trọng ko
lớn (ko quá lệ thuộc
vào nguồn vốn này để
kinh doanh)
-Độ ổn định cao hơn
nguồn vốn huy động.
-Chi phí cao, lãi suất
nhạy cảm với sự thay
đổi của lãi suất thị
trường.
-Thời hạn rất ngắn
(ngày, tuần).
-Không thuộc sở hữu
của NHTM.
-Quy mô nhỏ.
-Chi phí ko cao.
-Độ ổn định thấp.
Vai trò
-Bảo đảm an toàn cho hoạt

động của NHTM
-Vốn tự có với vai trò hoạt
động: mua sắm tài sản cố
định, xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật, tạo điều kiện
tổ chức mọi hoạt động kinh
doanh của ngân hàng.
-Vốn tự có góp phần điều
chỉnh mọi hoạt động kinh
doanh của ngân hàng (quy
mô, giá trị tài sản cố định,
cơ cấu tài sản,…)
Là nguồn vốn chủ yếu
của các ngân hàng
thương mại, đáp ứng hầu
hết các nhu cầu về hoạt
động tín dụng của các
ngân hàng này.
Có vai trò đặc biệt đối
với việc kinh doanh
của NHTM (giải
quyết nhanh nhu cầu,
với khối lượng lớn).
Phục vụ cho các hoạt
động của ngân hàng
thương mại như các
ngồn vốn khác.
Thành
phần
Thành phần của vốn tự

có: gồm vốn tự có cấp 1
(vốn cơ bản) và vốn tự có
cấp 2 (vốn bổ sung).
Gồm có 2 phương thức
huy động là: huy động
tiền gửi và huy động
thông qua phát hành giấy
Vay NHTW
Vay các NHTM
-Nguồn vốn nhận tài
trợ ủy thác đầu tư.
-Nguồn vốn trong
thanh toán.
SVTH: Nguyễn Thanh Thùy Linh – MSSV: 3020103
6
tờ có giá. -Nguồn vốn khác: vay
nước ngoài, vay công
ty mẹ (nếu có), …
Cơ cấu nguồn vốn hiện nay của các ngân hàng thương mại Việt Nam
(Thống kê ở mức độ tương đối)
1.1.2. Vai trò của hoạt động huy động vốn đối với hoạt động của các ngân hàng thương
mại.
Như đã được trình bày ở trên, ngân hàng cũng là một doanh nghiệp, vì vậy vai trò của nguồn
vốn đối với các ngân hàng thương mại đầu tiên cũng sẽ Quyết định đến quy mô, thế lực và khả
năng mỏ rộng quy mô của các ngân hàng. Nhìn từ góc độ kinh tế, có thể khái quát hóa các vai trò
của nguồn vốn này đối với hoạt động của một ngân hàng thương mại dưới một vài các khía cạnh
sau:
• Vốn là cơ sở của hoạt động ngân hàng: NHTM muốn hoạt động kinh doanh được thì phải
có vốn, vốn phản ánh năng lực chủ yếu để Quyết định khả năng kinh doanh.
• Để có giấy phép thành lập thì NHTM phải có vốn pháp định.

• Để thực hiện tốt vai trò, chức năng của mình thì NHTM cần phải thường xuyên chăm lo
tới việc tăng trưởng vốn trong suốt hoạt động kinh doanh của mình.
• …
• Vốn của NHTM Quyết định đến quy mô và khả năng mở rộng hoạt động kinh doanh của
NHTM:
• Quy mô của NHTM thể hiện ở Tổng tài sản (tiền, chứng khoán, quy mô cho vay, tài sản
cố định, …), nếu nguồn vốn lớn  tài sản lớn.
SVTH: Nguyễn Thanh Thùy Linh – MSSV: 3020103
7
• Phạm vi: nếu nguồn vốn lớn thì có thể mở rộng hệ thống chi nhánh tại các địa phương 
địa bàn hoạt động rộng.
• Khả năng mở rộng hoạt động kinh doanh: nếu nguồn vốn lớn thì có khả năng cung cấp
nhiều loại hình sản phẩm, dịch vụ  đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, …
• Vốn của NHTM Quyết định đến khả năng thanh toán của NHTM đó. Điều này thể hiện
như sau:
• Nếu nguồn vốn lớn  dự trữ thực tế lớn  tạo điều kiện cho NHTM có thể tập trung vốn,
ứng phó kịp thời với trường hợp khách hàng rút tiền lớn hơn so với dự kiến ban đầu.
• Nếu nguồn vốn lớn  NHTM có thể đa dạng hóa danh mục đầu tư (đầu tư trên thị trường
chứng khoán: dự trữ thứ cấp)  tạo điều kiện phân tán rủi ro  NHTM có điều kiện kinh doanh an
toàn hơn.
• Nếu nguồn vốn lớn  NHTM sẽ có uy tín cao trên thị trường  khi NHTM thiếu hụt trong
thanh toán thì có điều kiện thuận lợi trong việc vay mượn và bù đắp kịp thời thiếu hụt trong thanh
khoản, …
• Nếu nguồn vốn lớn, NHTM thường được sự trợ giúp từ phía Chính phủ vì nếu những NHTM
lớn mà sụp đổ thì sẽ ảnh hưởng nặng nề tới hệ thống tiền tệ quốc gia và nền kinh tế.
• Vốn của NHTM Quyết định tới khả năng cạnh tranh của NHTM đó. Nếu có nguồn vốn
lớn thì NHTM sẽ có ưu thế hơn trong cạnh tranh, điều này thể hiện như sau:
Cạnh tranh về giá:
• Nguồn vốn lớn giúp NHTM tạo dựng được lợi thế nhờ quy mô  do đó giảm được chi
phí bình quân  có điều kiện cạnh tranh về giá.

• Nguồn vốn lớn giúp NHTM có điều kiện giao dịch với khách hàng lớn  giá trị giao dịch
lớn  chi phí giao dịch bình quân cho 1 hợp đồng thấp  giảm được chi phí bình quân  cạnh
tranh về giá.
• Nguồn vốn lớn giúp NHTM có điều kiện giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh  có điều
kiện giảm chi phí bù đắp rủi ro.
Cạnh tranh về sản phẩm, dịch vụ:
• Nguồn vốn lớn giúp NHTM có điều kiện để đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, ứng dụng
những công nghệ mới.
• Nguồn vốn lớn giúp NHTM có điều kiện để nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng
khách hàng, …
Thông qua hệ thống các vai trò mang đậm chất kinh tế của nguồn vốn ngân hàng thương mại ta
có thể nhận thấy tầm quan trọng của hoạt động huy động vốn đối với sự tồn tại và phát triển của
một ngân hàng thương mại như thế nào. Tuy nhiên, nhìn vào cơ cấu của nguồn vốn này, có thể
nhận thấy vai trò của các nguồn vốn là hoàn toàn không giống nhau và mang đặc tính khá khác
nhau và đặc biệt trong một số trường hợp việc huy động các nguồn vốn này chi phí lợi nhuận bị
tạm thời bỏ qua (lợi nhuận âm) và xuất hiện các chủ thể đặc biệt. Mặt khác, việc sử dụng các nguồn
vốn này bị ràng buộc khá chặc chẽ bởi các quy định pháp luật. Nguyên nhân sâu xa của hiện tượng
này như được trình bày ở trên chính là xuất phát từ việc đối tượng kinh doanh của các ngân hàng
thương mại chính là loại hàng hóa đặc biệt – tiền tệ. Lí giải một cách đơn giản và thực tế hơn đó
SVTH: Nguyễn Thanh Thùy Linh – MSSV: 3020103
8
chính là xuất phát từ vai trò của hệ thống các ngân hàng thương mại trong hệ thống tài chính và nền
kinh tế quốc gia, nó là huyết mạch, là đầu tàu nơi các chính sách kinh tế được triển khai nhằm vận
hành nền kinh tế theo những chiến lược được định ra từ chính phủ. Vì vậy, khác với các doanh
nghiệp thông thường khác, ngoài vai trò kinh tế, nguồn vốn trong các ngân hàng thương mại còn
đóng những vai trò khác khá quan trọng được thiết lập từ các quy định của pháp luật. Những nhiệm
vụ đó có thể được khái quát như sau:
Đối với nguồn vốn tự có: Khoản 13 Điều 9 Luật Các tổ chức tín dụng quy định: “Vốn tự có
gồm có giá trị thực của vốn điều lệ, các quỹ dự trữ, một số tài sản nợ khác của tổ chức tín dụng
theo quy định của Ngân hàng nhà nước. vốn tự có là căn cứ để tính toán các tỷ lệ bảo đảm an toàn

trong hoạt động ngân hàng”. Vốn điều lệ và vốn pháp định cũng là những thể hiện của nguồn vốn
này.
Vốn pháp định theo quy định của khoản 7 Điều 4 Luật Doanh nghiệp “là mức vốn tối thiểu
phải có theo quy định của pháp luật để thành lập doanh nghiệp”.
Vốn điều lệ là vốn được ghi trong điều lệ của ngân hàng. Theo quy định tại khoản 6 Điều 4 của
Luật Doanh nghiệp 2005: “Vốn điều lệ là vốn do các thành viên, cổ đông góp hoặc cam kết góp
trong một thời hạn nhất định và được ghi vào Điều lệ công ty.”
Vì vậy, vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại thực tế phải luôn lớn hơn hoặc bằng vốn
pháp định. Có thể nói vốn pháp định là nguồn vốn có vai trò tiên quyết đối với sự hình thành và tồn
tại của các ngân hàng thương mại
8
, theo quy định của Quyết định số 24/2007/QĐ-NHNN, đến năm
2010, nếu không đủ số vốn điều lệ theo quy định của Quyết định này, các ngân hàng buộc phải sáp
nhập hoặc phải tiến hành giải thể. Ngoài ra, nguồn vốn tựu có này còn Quyết định rất lớn hoạt động
và các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại.
9
Đối với nguồn vốn khác, phương thức điều chỉnh mang tính mềm mỏng hơn và thiên về tính
nghiệp vụ cũng hướng tới mục đích chính là đảm bảo an toàn của hệ thống tín dụng, đảm bảo khả
năng thanh toán của các ngân hàng. Chẳng hạn, vận dụng nguyên tắc an toàn tín dụng, các khản
vốn được huy động ngắn hạn chỉ được dùng để cung cấp tín dụng ngắn hạn, điều 45 Luật Các tổ
chức tín dụng quy định chỉ có tổ chức tín dụng là ngân hàng mới có quyền huy động các nguồn vốn
ngắn hạn này. Ngoài một số rất ít các quy định mang tính hành chính mệnh lệnh này, để quản lí
phương thức sử dụng các nguồn vốn này, nhà nước ta sử dụng các phương pháp mềm dẻo và linh
hoạt hơn phù hợp với xu thế phát triển của các nghiệp vụ tài chính trên thế giới. một trong những ví
dụ điển hình đó chính là các quy định về bảo hiểm tiền gửi hay các quy định về dự trữ bắt buộc
(các vấn đề này sẽ được phân tích cụ thể ở phấn sau).
1.1.3.Những đặc trưng cơ bản của hoạt động huy động vốn.
8
Trước đây, mức vốn điều lệ tối thiểu để xin cấp giấy phép NHTMCP Nông thôn là 5 tỉ đồng và NHTMCP đô thị là
70 tỉ đồng. Tuy nhiên, theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước qua Quyết định số 24/2007/QĐ-NHNN

những NH nào thành lập từ nay đến trước ngày 31.12.2008 phải có mức VĐL là 1.000 tỉ đồng. Đối với các NH thành
lập từ 31.12.2008 đến năm 2010, vốn điều lệ tối thiểu là 3.000 tỉ đồng. Nguồn vốn góp phải là nguồn hợp pháp;
không được sử dụng tiền vay dưới bất cứ hình thức nào để góp vốn thành lập NH.
9
Chẳng hạn, căn cứ vào quy mô của nguồn vốn tự có này, điều chỉnh quy mô hoạt động của ngân hàng thương mại,
cụ thể: (vốn tự có/ Σtài sản rủi ro) ≥ 8%.; điều chỉnh giá trị tài sản cố định mua sắm, cơ sỏ vật chất kĩ thuật: tài sản cố
định ≤(50% Vốn tự có cấp 1); điều chỉnh đối tượng khách hàng, điều chỉnh cơ cấu tài sản của ngân hàng; điều chỉnh
nghiệp vụ góp vốn mua cổ phiếu,…
SVTH: Nguyễn Thanh Thùy Linh – MSSV: 3020103
9
1.1.3.1. Nguồn gốc hoạt động huy động vốn.
Huy động vốn có thể được xem là một trong những nghiệp vụ xuất hiện sớm nhất trong hoạt
động của các ngân hàng thương mại. Trong giai đoạn sơ khai của hoạt động ngân hàng, những
nghiệp vụ này chỉ đơn thuần là hoạt động cất giữ các tài sản có giá nhắm mục đích đảm bảo an
toàn, và lúc này, người phải trả phí là người gửi tiền chứ không phải là các ngân hàng, các khoản
tiền chỉ được xem đơn thuần là vật được kí gửi chứ hoàn toàn không đóng vai trò là nguồn vốn đối
với các ngân hàng thương mại, tiền lúc này không được xem là tiền tệ theo đúng nghĩa của nó, vì
không có khả năng luân chuyển, không sinh ra được lợi nhuận. Khi nhu cầu tín dụng gia tăng,
nghiệp vụ ngân hàng phát triển, vị thế đó bị đảo ngược, ngân hàng là người phải trả phí (lãi suất –
giá cả của tín dụng), và nguồn tiền được kí gửi thay đổi vai trò của nó, trở thành nguồn vốn khả
dụng và lớn nhất của các ngân hàng thương mại hiện nay
10
. Chính vì vậy, trái ngược với quá khứ,
ngân hàng là người phải đi nài nỉ khách hàng gửi tiền, nếu trước đây, ngân hàng là người bị động
trong quan hệ này thì hiện nay, hầu hết tất cả các ngân hàng đều có các chính sách, phương thức để
lôi kéo nguồn tiền gửi này và chính vì vậy các phương thức huy động vốn ngày càng trở nên quan
trọng, phong hú và đa dạng hơn. Có thể nói, hiện nay, hoạt động huy động vốn là một trong những
hoạt động hết sức quan trọng và liên quan đến sự sống còn của các ngân hàng thương mại.
1.1.3.2. Khái niệm hoạt động huy động vốn.
Xuất hiện khá lâu đời và không ngừng phát triển, thay đổi cùng với sự phát triển của các ngân

hàng thương mại, nội hàm của khái niệm hoạt động huy động vốn đã có những thay đổi rất đáng
kể, cả về quy mô và các hình thức thể hiện. Hơn nữa, gần như không tìm được một định nghĩa hoàn
thiện về hoạt động này cũng như không có được sự thống nhất hoàn toàn giữa các quan điểm. Đặc
biệt, là sự khác biệt trong cách hiểu khi đề cập vấn đề này dưới các khía cạnh khác nhau.
Phổ biến nhất là việc sử dụng thuật ngữ này trong các khía cạnh không chuyên, đặc biệt là ngôn
ngữ thường nhật của xã hội và báo chí, khái niệm huy động vốn được sử dụng ở đây đối với hoạt
động của các ngân hàng thương mại có thể nói là hẹp và không rõ ràng nhất, trong nhiều trường
hợp có sự không thống nhất trong nội hàm của bản thân khái niệm. Nhưng nhìn chung, phổ biến
nhất, khái niệm này được dùng chủ yếu đề cập đến một hoạt động đặc trưng nhất của các ngân hàng
thương mại, đó là nhận tiền gửi và dưới các hình thức cơ bản nhất, cụ thể là nhận tiền gửi tiết kiệm
và các loại tiền gửi có và không có kì hạn khác.
Một cách không chính thức, dưới khía cạnh kinh tế cũng có khá nhiều cách tiếp cận với riêng
khái niệm này, tuy cũng khá tương đồng nhau và phạm vi thường rộng hơn khái niệm được đề cập
ở trên nhưng nội hàm của chúng thường không đồng nhất. Cách tiếp cận thông thường nhất hiện
nay trong các nghiên cứu của các chuyên ngành kinh tế, tài chính ngân hàng là tiếp cận khái niệm
huy động vốn từ nguồn gốc của các nguồn vốn. chẳng hạn, nguồn vốn được chia thành vốn tự có,
vốn huy động, vốn đi vay, vốn tiếp nhận, vốn khác. Chính vì vậy, hoạt động huy động vốn của
ngân hàng thương mại lúc này bao gồm cả việc khởi tạo nguồn vốn ban đầu cho sự hình thành vốn
10
Các nguồn tiền kí gửi hay còn gọi là các tài sản nợ của ngân hàng thương mại là nguồn vốn chủ yếu trong hoạt
động kinh doanh của các ngân hàng. Các ngân hàng trên thế giới tài sản nợ chiếm khoản từ 90% - 95% trên tổng số
nguồn vốn của các ngân hàng, đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam, ti lệ này thấp hơn.
SVTH: Nguyễn Thanh Thùy Linh – MSSV: 3020103
10
điều lệ và cả việc tạo lập nguồn vốn cấp 2 (một bộ phận của nguồn vốn tự có) của ngân hàng
thương mại.
11
Tuy nhiên, khi nhắc đến nghiệp vụ huy động vốn của các ngân hàng thương mại, một số tài liệu
chuyên ngành đôi lúc cũng có cách tiếp cận hẹp hơn. Chẳng hạn, trong một số giáo tài liệu giảng
dạy của các trường khối kinh tế tài chính khi đề cập đến các hình thức của nghiệp vụ huy động vốn

thường chỉ bao gồm: Hình thức tiền gửi thanh toán, hình thức tiền gửi tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi,
các hình thức tiền gửi đặc biệt khác
12
. Có thể xem đây là một cách tiếp cận thiên về tính kinh tế và
mang nặng tính nghiệp vụ nhưng thiết nghĩ đôi lúc có khả năng gây tâm lí thiên lệch đối với các
chủ thể tiếp nhận. Vẫn biết rằng khi tiếp cận từ khía cạnh này, quan điểm của nhà nghiên cứu đang
cố nhấn mạnh tính lợi nhuận trong hoạt động của các ngân hàng thương mại. Có nghĩa rằng , nếu
loại trừ các hình thức khác (ví dụ như các khoản vay trong thị trường liên ngân hàng) trong việc
đảm bảo nguồn vốn, đảm bảo khả năng thanh khoản của các ngân hàng thương mại, vô hình chung
đã bỏ qua một trong những kênh quan trọng nhất trong việc đảm bảo sự hoạt động bình thường, an
toàn của các ngân hàng.
13
Với vai trò là một đề tài nghiên cứu thuộc chuyên ngành khoa học pháp lí, đối với vấn đề này,
tác giả chủ động tiếp cận dưới khía cạnh pháp lí. Trong các Giáo trình Luật Ngân hàng cũng như
các văn bản luật hiện nay đều chưa đưa ra một khái niệm cụ thể về vấn đề này nhưng thông qua các
quy định của pháp luật cũng cho ta phần nào hình dung một cách chính xác nhất nội hàm của khái
niệm này. Cụ thể, tại Chương 3 Mục 1 Luật Các tổ chức tín dụng quy định 4 hình thức của hoạt
động huy động vốn:
1. Nhận tiền gửi;
2. Phát hành giấy tờ có giá;
3. Vay vốn giữa các tổ chức tín dụng;
11
Nguồn vốn cấp 2 được hình thành thông qua các thành phần như:
• 50% giá trị tăng thêm của tài sản cố định.
• 40% giá trị tăng thêm của các loại chứng khoán đầu tư (kể cả cổ phiếu đầu tư, góp vốn).
• Trái phiếu chuyển đổi hoặc cổ phiếu ưu đãi do tổ chức tín dụng phát hành có kì hạn ban đầu, thời hạn còn lại trước
khi chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông tối thiểu là 5 năm;
• Các công cụ khác thỏa mãn điều kiện có kì hạn ban đầu tối thiểu trên 10 năm;
• Dự phòng chung tối đa bằng 1,25% tổng tài sản có rủi ro.
12

Khoa Kế toán – Tài chính – Ngân hàng, Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, Đề cương hướng dẫn nghiệp vụ
ngân hàng thương mại.
13
Tác giả đề cập đến nguồn vốn từ trên thị trường liên ngân hàng (dù đây chỉ là nguồn vốn mang tính cứu cánh hổ trợ
cho các ngân hàng khi gặp những khó khăn vì thiếu tiền mặt thanh toán tạm thời trong một giai đoạn rất ngắn) vì trên
thực tế, các ngân hàng muốn đảm bảo được sự ổn định của nguồn vốn này (tức sẽ vay được bất cứ khi nào ngân hàng
cần đến – dĩ nhiên là với một lãi suất hợp lí) thì luôn phải có một sự chú trọng thích đáng. Trước đây, điều kiện để có
thể tiếp cận nguồn vốn này nhanh chóng, thuân lợi thường dựa trên mối quan hệ giao hảo giữa các ngân hàng trong
những khoản thời gian nhất định, tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, các ngân hàng khi muốn đảm bảo được sự ổn
định của nguồn vốn này cũng như muốn xây dựng một môi trường tài chính an toàn hơn thường kí kết trước các hợp
đồng tín dụng tương lai rang buộc đối tác hoặc bản thân mình sẽ cung cấp một nguồn vốn tức thời cho một ngân hàng
khi được yêu cầu và với laĩ suất tương thích nào đó. Chính vì vậy, theo quan điểm của tác giả, đảm bảo sự ổn định
của nguồn vốn này cũng quan trọng không kém và muốn có sự đảm bảo đó cần có sự đầu tư dài hạn và hợp lí.
SVTH: Nguyễn Thanh Thùy Linh – MSSV: 3020103
11
4. Vay vốn của Ngân hàng nhà nước.
Theo triết học Mác Lê – nin, khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ảnh
những đặc tính bản chất của sự vật, chính vì vậy, nó là “điểm nút”, là nền tang của hoạt động tư
duy. Hiểu rõ, xác định chính xác khái niệm rất quan trọng. Vì thế, trước khi đi vào các vấn đề cụ
thể, tác giả sẽ thử xác định tính hợp lí trong việc xác định nội hàm của khái niệm hoạt động huy
động vốn dưới các hình thức được liệt kê trên, có so sánh với các quan điểm được đề cập ở trên.
Thông thường để xác định một hoạt động nào đó có thuộc một nội hàm khái niệm được xác
định trước hay không thì về cơ bản hoạt động đó phải thể hiện đầy đủ các thuộc tính được thể hiện
trong khái niệm đó. Cụ thể, trong trường hợp này muốn xác định một hoạt động nào đó có nên
được xem là một hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại hay không trước tiên cần xác
định được các thuộc tính cơ bản nhất của khái niệm và chúng sẽ được xem như là các tiêu chí để
trên đó làm căn cứ cho việc xác định hoạt động đó. Rõ ràng việc liệt kê một loạt các hành vi không
thể nói lên bản chất của hoạt động đó, tuy nhiên, đối với một văn bản pháp lí thì đây lại là cách thể
hiện tương đối tiện dụng và không gây tranh cãi. Tuy nhiên, yếu điểm của phương pháp này là
mang tính khiêng cưỡng và dễ dàng bị lạc hậu khi cơ sở hạ tầng có những thay đổi. Nếu có thể đưa

ra một khái niệm thể hiện chính xác bản chất của hiện tượng rõ ràng tính bền vững của quy định sẽ
lâu dài hơn. Dù phát sinh những nghiệp vụ hiện đại hơn thì nó vẵn luôn thể hiện đúng bản chất của
hoạt động đó.
Đối với khái niệm này, tác giả tiếp cận dưới các khía cạnh sau:
Thứ nhất, về mặt chủ thể: Vấn đề này đã được xác định khá cụ thể ngay trong tên của khái
niệm, ở đây hành động này đựơc giới hạn ở các chủ thể là các ngân hàng thương mại. Tuy khá rõ
ràng nhưng cũng tồn tại khá nhiều những mâu thuẩn. Nếu căn cứ vào mặt chủ thể thực hiện hành
vi, rõ ràng hành vi này chỉ có thể được xác định khi có sự tồn tại của một ngân hàng thương mại.
Vậy căn cứ vào khía cạnh này ta có thể khẳng định hoạt động huy động vốn nhằm tạo lập nguồn
vốn điều lệ trong giai đoạn hình thành ngân hàng thương mại không thuộc nội hàm khái niệm này
(vì thực tế trong giai đoạn này, ngân hàng thương mại chưa được hình thành). Tuy nhiên, xét ở khía
cạnh này, không thể loại trừ tất cả các hoạt động liên quan đến việc tạo lập nguồn vốn tự có của các
ngân hàng, vì như đã được trình bày ở trên, nguồn vốn tự có cấu thành từ rất nhiều thành phần và
có thể được hình thành qua nhiều giai đoạn, những nguồn vốn được tạo lập sau khi hình thành ngân
hàng thương mại (chẳng hạn nguồn vốn cấp 2) thì không thể bị loại trừ.
Thứ hai, về đối tượng chiụ tác động: Vấn đề không có quá nhiều sự tranh cãi đó chính là nguồn
vốn – tiền tệ, bởi vì đó chính là công cụ hoạt động, là “hàng hóa”, là “phương tiện” kinh doanh của
ngân hàng thương mại, cũng giống như máy móc đối với các công xưởng. Tuy nhiên, vấn đề ở đây
chính là trước đến nay chưa từng sự phân định trong thành phần các nguồn vốn này với mục đích
xây dựng một khái niệm hoàn thiện về hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại. Như đã
được nhắc đến nhiều lần như ở trên, ngân hàng đầu tiên vẫn là một doanh nghiệp, nhưng là một
doanh nghiệp có đối tượng kinh doanh là tiền tệ. Cũng giống như mọi doanh nghiệp thông thường
SVTH: Nguyễn Thanh Thùy Linh – MSSV: 3020103
12
khác, nó luôn có một nguồn vốn thuộc sở hữu tự thân của nó (vốn tự có) làm cơ sở cho hoạt động
kinh doanh của mình. Đây là nguồn vốn của doanh nghiệp, đối với ngân hàng là nguồn vốn tự có,
nó là nguồn vốn theo đúng nghĩa của nó đối với hoạt động của một doanh nghiệp và khi này, thuật
ngữ nguồn vốn đồng nghĩa với tài sản của doanh nghiệp. Tuy nhiên thuật ngữ nguồn vốn được
để cập ở đây đối với các ngân hàng thương mại trong trường hợp này nên được hiểu dưới một khía
cạnh hoàn toàn khác, nó không phải là nguồn vốn mà chủ doanh nghiệp bỏ ra để kinh doanh. Ngân

hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, nếu nguồn vốn như được nói ở trên nguồn tiền mà chủ
doanh nghiệp bỏ ra để đầu tư vào kinh doanh thì nguồn vốn của ngân hàng ở đây là “hàng hóa” của
ngân hàng thương mại, ngân hàng như một người cung ứng dịch vụ, cụ thể hơn, nó giống như một
đại lí, lấy “hàng hóa” – tức nguồn tiền từ nơi này (nơi thừa tiền) để cung ứng cho nơi có nhu cầu.
Tuy không có một sự hoạch toán rõ ràng giữa nguồn vốn của tự có và nguồn vốn này trong hoạt
động của các ngân hàng thương mại nhưng trên thực tế có thể nhận thấy vai trò đó được thể hiện
khá rõ ràng. Nguồn vốn tự có của ngân hàng chỉ chiếm 5% - 10% nguồn vốn của ngân hàng thương
mại và chủ yếu dùng vào việc mua tài sản cố định làm cơ sở cho hoạt động sản xuất kinh doanh,
lập các quỹ dự trữ và vai trò chính yếu của nó là như vật làm tin, tạo lập niềm tin cho sự tồn tại bền
vững của ngân hàng đó. Việc thuật ngữ nguồn vốn được sử dụng cho cả hai loại nguồn vốn (vốn
của doanh nghiệp nói chung và vốn – như một hàng hóa của ngân hàng) vì người ta căn cứ vào vai
trò của nó đối với cả nền kinh tế nói chung, vốn hay tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư và
quan trọng nhất là vì nó cùng là tiền tệ mà không quan tâm nhiều đến vai trò thực sự của nó đối với
các chủ thể sử dụng nó (một hệ quy chiếu mới). Tóm lại, khái niệm nguồn vốn được đề cập trong
nội hàm khái niệm này là theo nghĩa thứ hai, tức như là một “hàng hóa” của riêng các tổ chức tín
dụng nói chung và các ngân hàng thương mại nói riêng. Lúc này, hoạt động huy động vốn của các
ngân hàng thương mại có thể được hình dung một cách dễ hiểu hơn là hoạt động “tìm kiếm các
nguồn hàng” cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mình.
Việc khẳng định lại khái niệm sẽ cho ta thấy rõ vì sao huy động vốn lại được xem như một loại
nghiệp vụ của ngân hàng thương mại, cũng giống như các loại hình kinh doanh khác cũng có những
nghiệp vụ riêng của mình phục vụ riêng cho hoạt động kinh doanh. Hiểu rõ khái niệm nguồn vốn
trong hoạt động huy động vốn giúp ta tiến thêm một bước trong việc xác định khái niệm, bản chất
của hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại. Có thể khẳng định, một hoạt động chỉ
có thể được xem là hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại khi nhằm mục đích thu hút,
tìm kiếm, gia tăng nguồn vốn không thuộc sở hữu của ngân hàng. Chính vì vậy, căn cứ vào tiêu chí
này, các nổ lực gia tăng nguồn vốn tự có không thuộc nhóm hành vi huy động vốn của các ngân
hàng thương mại được đề cập trong phạm vi đề tài này.
Thứ ba, về khía cạnh khách thể của hành vi, một cách trực tiếp hơn, đó chính là mục đích, cái
mà chủ thể thực hiện hành vi muốn đạt được. Mục đích chính của kinh doanh là lợi nhuận, vai trò
của nguồn vốn ngân hàng – tư bản cũng là lợi nhuận. Vì vậy, loại hình doanh nghiệp đặc biệt này –

các ngân hàng thương mại cũng hoạt động vì mục tiêu chính là lợi nhuận, và chính vì vậy, các hoạt
động “tìm kiếm nguồn hàng”, cụ thể là hoạt động huy động vốn cũng xuất phát vì mục tiêu lợi
nhuận, đây vẫn luôn là mục tiêu tiên quyết. Tuy nhiên, không những chịu ràng buộc bởi các quy
SVTH: Nguyễn Thanh Thùy Linh – MSSV: 3020103
13
định của pháp luật, ràng buộc ở bản thân vai trò mà nó nắm giữ, mà còn vì sự tồn tại của chính nó,
khác biệt với các loại hình doanh nghiệp khác, hoạt động của nó còn hướng đến mục tiêu quan
trọng không kém chính là sự an toàn, cụ thể ở đây là đảm bảo khả năng thanh toán, đây là yêu
cầu sống còn đối với sự tồn tại của các ngân hàng thương mại và cả các đối tượng khác hoạt động
trong cùng lĩnh vực. Chính vì vậy, theo quan điểm của tác giả, xuất phát từ đặc tính của các ngân
hàng thương mại, hoạt động huy động vốn theo nghĩa rộng cũng đồng thời hướng đến cả 2 mục tiêu
trên. Như được đề cập ở trên, một số quan điểm, đặc biệt thuộc chuyên ngành kinh tế, khi đề cập
đến nghiệp vụ huy động vốn chỉ đề cập đến các nghiệp vụ mà mang lại hiệu quả kinh tế còn các
hoạt động huy động vốn nhằm đảm bảo khả năng thanh toán, đảm bảo tỉ lệ an toàn tín dụng của các
ngân hàng thường không được đề cập. Thiết nghĩ, các nghiệp vụ huy động vốn này (vay trên thị
trường liên ngân hàng, vay ngân hàng trung ương,…) tuy không trực tiếp mang lại lợi nhuận nhưng
thực sự nó cũng đảm bảo nguồn tiền thanh toán cho các ngân hàng, đảm bảo cho sự hoạt động bình
thường và thông suốt của nó. Đối với các nguồn vốn này, trong một giới hạn nhất định về thời gian,
nó không mang lại nguồn thu, thậm chí đôi khi còn âm lợi nhuận nhưng đó là yêu cầu thiết yếu và
là đặc trưng của loại hình hoạt động này. Về đặc tính, nguồn tiền này cũng được các ngân hàng sử
dụng như một công cụ, một hàng hóa phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. Sự khác biệt về
chủ thể (cho vay) và vai trò mang tính tức thời của nó không làm thay đổi bản chất của một nguồn
vốn tín dụng.
Căn cứ vào tiêu chí này, có thể khẳng định việc xếp các hoạt động huy động vốn khá đặc trưng
như: vay vốn của Ngân hàng nhà nước, vay vốn của các tổ chức tín dụng khác vào nhóm các hoat
động huy động vốn của tổ chức tín dụng là hợp lí.
Thông quan một số những phân tích trên tác giả chỉ cố xây dựng một số các tiêu chí nhằm xác
định một hoạt động có được xem là hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại hay không.
Các tiêu chí này được xây dựng dựa trên bản chất của hoạt động, hoàn toàn không căn cứ trên
những thể hiện cụ thể của hành vi. Chính vì vậy, với sự phát triển của thị trường tài chính ngày

càng đa dạng và phong phú như hiện nay, dù các hình thức thể hiện nó đa dạng, thay đổi nhanh
chóng đến mức nào, vẫn có thể vận dụng làm căn cứ để xác định.
Có thể tạm thời đưa ra định nghĩa như sau: “Hoạt động huy động vốn của các ngân hàng
thương mại là hoạt động mà trong đó các ngân hàng này tìm kiếm nguồn vốn khả dụng từ các chủ
thể khác nhằm mục đích kinh doanh và đảm bảo sự vận hành bình thường, hiệu quả của bản thân
nó theo đúng các quy định pháp luật”.
Theo quan điểm của tác giả, các hình thức huy động vốn được đề cập ở trên là khá đầy đủ trong
giai đoạn này, vì vậy, trong phạm vi đề tài này, nội hàm khái niệm huy động vốn sẽ được xác định
bao gồm các hành vi được liệt kê ở trên (chương 3 mục 1 Luật Các tổ chức tín dụng).
1.1.4. Phân loại các phương thức huy động vốn của các ngân hàng thương mại.
Như đã được đề cập ở trên, các hình thức huy động vốn cũng đã được đề cập và phân loại khá
cụ thể theo quy định tại Chương 3 Luật Các tổ chức tín dụng, về cơ bản cũng dựa trên những phân
SVTH: Nguyễn Thanh Thùy Linh – MSSV: 3020103
14
loại trên, tác giả một lần nữa phân loại các phương thức huy động vốn của các tổ chức tín dụng một
cách cụ thể hơn. Ở mục này, tác giả sẽ chỉ tiến hành phân tích các phương thức huy động này ở
những khía cạnh chung nhất, tức vấn đề sẽ không chỉ được phân tích dưới khía cạnh luật học mà
còn mở rộng ra ở những khía cạnh rộng hơn, đặc biệt là những vấn đề mang tính nghiệp vụ trong
hoạt động của một ngân hàng và các vấn đề liên quan đến tính kinh tế trong từng nghiệp vụ được
phân tích.
Để tiện cho quá trình phân tích cũng như do những đặc tính khá khác biệt về mặt chủ thể cũng
như những vấn đề khác liên quan đến các thủ tục thực hiện và vai trò của chúng trong tổng thể hoạt
động của một ngân hàng, ở đây, các phương thức huy động vốn sẽ được chia thành hai nhóm: 1)
nhóm các phương thức huy động vốn hướng đến mục tiêu lợi nhuận; 2) và nhóm các phương thức
huy động vốn xuất phát từ mục đích đảm bảo an toàn trong hoạt động của các ngân hàng thương
mại.
14
1.1.4.1. Nhóm các phương thức huy động vốn hướng đến mục tiêu lợi nhuận.
Căn cứ vào sự phân loại của Luật Các tổ chức tín dụng, về cơ bản, nhóm các phương thức huy
động vốn này bao gồm 2 hoạt động chính:

• Hoạt động nhận tiền gửi: Theo quy định của khoản 1 điều 45 luật này, ngân hàng được
huy động các loại tiền gửi của tổ chức, cá nhân và tổ chức tín dụng khác.
• Hoạt động phát hành giấy tờ có giá: Cũng theo điều 46 của luật này, quy định: “Tổ chức
tín dụng được phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của
tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước theo quy định của Ngân hàng nhà nước.”
Đây là những quy định khá chung và toàn diện về nhóm các hoạt động này, dưới đây sẽ là
những phân tích khái quát nhất về những loại hình nghiệp vụ cụ thể:
a) Hoạt động nhận tiền gửi.
Trong các hình thức huy động vốn của tổ chức tín dụng, đây là phương thức huy động vốn cổ
xưa nhất và cho đếm hiện nay nó vẫn là hình thức huy động vốn quan trọng nhất về mặt kinh tế và
chiếm tỉ lệ lớn nhất trong tổng nguồn vốn huy động ở mỗi tổ chức tín dụng. Việc huy động vốn
bằng nhận tiền gửi là một hình thức huy động vốn đặc trưng riêng có của các tổ chức tín dụng và
của các tổ chức khác được nhà nước cho phép hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, tùy thuộc vào các
loại hình hoạt động mà các tổ chức này được phép thực hiện các loại hình huy động vốn bằng tiền
gửi khác nhau.
Tuy pháp luật không có định nghĩa nào về hoạt động nhận tiền gửi của các ngân hàng, nhưng
theo quy định tại khoản 9 điều 20 Luật Các tổ chức tín dụng, đã đưa ra một định nghã khá cụ thể
về tiền gửi, cụ thể: “Tiền gửi là số tiền của tổ chức, cá nhân gửi tại tổ chức tín dụng hoặc các tổ
chức khác có hoạt động ngân hàng dưới hình thức tiền gửi không kì hạn, tiền gửi có kì hạn, tiền
14
Việc phân loại này về cơ bản mang tính tương đối, trên thực tế, mục tiêu kinh tế và mục tiêu lợi nhuận là 2 mục
tiêu luôn đặt song hành trong mọi hoạt động của ngân hàng thương mại, đó là đặc trưng lớn nhất của hoạt động ngân
hàng. Chính vì vậy, mọi hoạt động huy động vốn trên thực tế ít nhiều đều hướng đến hai mục đích này, tuy nhiên, tùy
từng loại phương thức huy động khác nhau mà mục tiêu nào được đề cao, và là mục tiêu chính yếu. Có thể dễ dàng
nhận thấy rõ vấn đề này thông qua việc hoạch toán lợi nhuận của các ngân hàng, và dấu hiệu điển hình nhất đó là lãi
suất huy động của ngân hàng so với lãi suất thực trên thị trường vào cùng một thời điểm (dĩ nhiên cũng phải tính đến
các vấn đề về chi phí huy động vốn và tính ổn định của nguồn vốn).
SVTH: Nguyễn Thanh Thùy Linh – MSSV: 3020103
15
gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi được hưởng lãi hoặc không hưởng lãi và phải được

hoàn trả cho người trả tiền”.
Căn cứ vào các loại hình tiền gửi này có thể tạm phân chia thành các hình thức huy động vốn
như sau:
• Huy động tiền gửi không kỳ hạn (là loại huy động mà không có sự thỏa thuận giữa
khách hàng và NHTM về thời hạn rút tiền)
Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi được khách hàng gửi vào các tổ chức tín dụng để thực
hiện các khoản chi trả, thanh toán hoặc vì mục đích đảm bảo an toàn cho tài sản của họ
15
. Tiền gửi
không kì hạn là khoản tiền gửi đang chờ thanh toán hoặc nhằm đáp ứng nhu cầu rút tiền tức thời
của khách hàng, đây không phải là số tiền mà khách hàng để dành nên khách hàng có thể rút hoặc
sử dụng để thanh toán bất kì lúc nào theo yêu cầu. Loại tiền gửi này thường cũng được chia thành
2 loại:
 Tiền gửi giao dịch (còn gọi là tiền gửi thanh toán). Mục đích chính của khoản tiền gửi
này là tạo ra phương tiện thanh toán cho khách hàng. Thường loại tiền gửi này được quản lí ở các
tổ chức tín dụng trên một tài khoản thanh toán
16
hoặc tài khoản vãng lai
17
. Vì tính không ổn định
của nó nên tài khoản này thường không được trả lãi hoặc được trả lãi nhưng với lãi suất rất thấp và
cũng chính vì tính không ổn định này mà để đảm bảo an toàn tín dụng các ngân hàng phải có một tỉ
lệ dự trữ khá cao để thực hiện thanh toán. Đối với khản tiền gửi này, khách hàng được sử dụng các
công cụ thanh toán để chi trả như ủy nhiệm chi, séc và các lệnh khác,…
 Tiền gửi phi giao dịch (tiền gửi không kì hạn có trả lãi): là khoản tiền gửi nhàn rỗi mang
tính tạm thời. Mục đích chính của khoản tiền gửi này là khách hàng gửi tiền để đảm bảo an toàn,
thuận tiện cho tài sản của họ mà không nhằm mục đích thực hiện các dịch vụ thanh toán của ngân
hàng thương mại.
Điểm chung của cả 2 loại hình tiền gửi này là chúng đều có mức độ thay đổi rất lớn và do đó
cần có mức dự trữ cao. Tuy nhiên, đây là nguồn vốn có chi phí khá thấp, nếu các ngân hàng có một

kế hoạch tài chính tốt cùng với những hoạch toán hợp lí thì đây cũng là một trong những nguồn vốn
khá lớn mang lại lợi ích kinh tế cao đối với hoạt động của các ngân hàng thương mại. Các ngân
hàng thường không trả lãi cho các khoản tiền gửi này nhưng để thu hút nguồn vốn này các ngân
hàng thường cung cấp cho ngân hàng một số những dịch vụ miễn phí và thậm chí có thể trả một
khoản lãi nhỏ. Về cơ bản, đây không phải là một nguồn vốn ổn định, tuy nhiên, nếu thu hút được số
lượng lớn và có một chu kì ổn định, vẫn có thể là một nguồn vốn rất khả dụng và lợi nhuận cao hơn
hẳn so với các nguồn vốn khác.
• Tiền gửi có kì hạn là loại huy động tiền gửi có sự thỏa thuận của khách hàng và ngân
hàng về thời hạn rút tiền (bản chất của nó là tiền tích lũy).
Mục đích của khách hàng đối với loại tiền gửi này là đầu tư kiếm lời. Về nguyên tắc, người gửi
tiền chỉ được rút tiền khi đến hạn thanh toán. Tuy nhiên, trên thực tế để thu hút khách hàng gửi lọai
15
Ở mỹ gọi khoản tiền gửi này là tiền gửi theo yêu cầu, ở pháp thì gọi tiền gửi này là tài khoản séc.
16
Tài khoản tiền gởi thanh toán (hay còn gọi là tài khoản giao dịch hặc tài khoản séc), tài khoản này dư có, khách
hàng này chỉ được sử dụng trong phạm vi tiền gửi của mình. Tài khoản séc hay tài khoản thanh toán hiện nay ở việt
nam gồm 2 loại: a) tài khoản thanh toán dùng cho doanh nghiệp; b) tài khoản thanh toán dùng cho cá nhân.
17
Tài khoản này có thể dư có hoặc dư nợ, nghĩa là khách hàng ngoài sử dụng số tiền gửi của mình còn được dùng
khoản tiền do ngân hàng cho vay theo sự thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng.
SVTH: Nguyễn Thanh Thùy Linh – MSSV: 3020103
16
tiền gửi này, các tổ chức tín dụng có thể cho phép khách hàng được rút tiền trước hạn (nếu số tiền
rút ra lớn thì phải thông báo trước với tổ chức tín dụng một vài ngày) trong trường hợp này người
gửi tiền được hưởng mức lãi suất thấp, đôi lúc là lãi suất phạt. Tiền gửi có kì hạn là loại tiển gửi
mang tính ổn định, nên các tổ chức tín dụng thường chú trọng các biện pháp kích thích để huy
động loại tiền gửi này. Phổ biến nhất vẫn là phương thức làm đa dạng hóa các loại hình tiền gửi
này, đặc biệt việc đưa ra nhiều kì hạn thanh toán để đáp ứng nhu cầu khách hàng, đối với mỗi loại
kì hạn áp dụng các mức lãi suất khác nhau, thường thì kì hạn càng dài, lãi suất càng cao. Phương
thức thứ hai đó là kèm theo các hợp đồng này là các dịch vụ hậu mãi của các ngân hàng thương mại

dành cho khách hàng, hoặc cũng có thể là các giải thưởng rút thăm,… Phương thức thứ ba thường
hạn chế hơn nhưng rất thịnh hành trong giai đoạn gần đây của thị trường tài chính Việt Nam là cạnh
tranh về lãi suất huy động vốn. Đây là phương thức dễ dàng thu hút sự quan tâm của khách hàng
nhất nhưng cũng khá nguy hiểm và khó khăn cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương
mại, đặc biệt là trong giai đoạn mà thị trường vốn khan hiếm, vấn đề này sẽ được phân tích cụ thể
hơn ở chương 2.
Đặc tính quan trọng nhất của khoản tiền gửi này là có tính an toàn cao, tính ổn định khá cao do
thời gian hoàn vốn đã được xác định trước, các ngân hàng sẽ có cơ sở rất chắc chắn cho việc hoạch
định chiến lược quản trị nguồn vốn của mình. Chính vì vậy, các ngân hàng thương mại thường chủ
động hơn khi sử dụng nguồn vốn này, dự trữ thấp, nhiều lợi nhuận hơn và ngân hàng thương mại
có thể dùng khoản tiền này để cấp các hạn mức tín dụng dài hạn hơn,… Tuy nhiên, hạn chế lớn
nhất của nó là chi phí cao do sự cạnh tranh lãi suất, lãi suất này cao hơn nhiều so với lãi suất tiền
gửi không kì hạn.
• Tiền gửi tiết kiệm.
Theo quy định của khoản 1 Điều 6 Quyết định số 1160/2004/QĐ-NHNN về viêc ban hành Quy
chế về tiền gửi tiết kiệm vào ngày 13 tháng 9 năm 2004 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt
Nam: “Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền của cá nhân được gửi vào tài khoản tiền gửi tiết kiệm, được
xác nhận trên thẻ tiết kiệm, được hưởng lãi theo quy định của tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm và
được bảo hiểm theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi.”
Nhìn chung, tiền gửi tiết kiệm là loại tiền gửi chỉ dành cho cá nhân
18
, nó là khoản tiền gửi chỉ
dành cho cá nhân chứ không phải để thanh toán, nó được kí gởi vào tổ chức tín dụng nhằm mục
đích cất giữ hộ hoặc hưỡng lãi theo định kì. Đây là loại hình kí thác rất đa dạng và phổ biến trong
nền kinh tế trên toàn thế giới.
Tiền gửi tiết kiệm được chia thành 2 loại tiền gửi tiết kiệm có kì hạn và tiền gửi tiết kiện không
kì hạn.
 Tiền gửi tiết kiệm không kì hạn là tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền có thể rút tiền
theo yêu cầu mà không cần báo trước vào bất kì ngày giờ làm việc nào của tổ chức nhận tiền gửi
18

Tại điều Điều 3 quyết định số 1160/2004/QĐ-NHNN về viêc ban hành quy chế về tiền gửi tiết kiệm quy định về
Đối tượng gửi tiền gửi tiết kiệm là :
1. Đối tượng gửi tiền gửi tiết kiệm bằng đồng Việt Nam là các cá nhân Việt Nam và cá nhân nước ngoài đang sinh
sống và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam.
2. Đối tượng gửi tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ là các cá nhân người cư trú.
SVTH: Nguyễn Thanh Thùy Linh – MSSV: 3020103
17
tiết kiệm
19
. Tuy nhiên, tiền gửi tiết kiệm không kì hạn khác với tiền gửi tiết kiệm có kì hạn ở chổ:
tài khoản tiền gửi tiết kiệm không được sử dụng để phát hành séc và thực hiện các công cụ dịch vụ
thanh toán bằng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt để chi trả cho người khác, trừ trường
hợp tài khoản tiền gửi tiết kiệm bằng đồng Việt Nam của người cư trú được sử dụng để chuyển
khoản thanh toán tiền vay của Chính chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm hoặc đồng chủ sở hữu tiền gửi
tiết kiệm tại tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm đó; hoặc chuyển khoản sang tài khoản khác do chính
chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm hoặc đồng chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm là chủ tài khoản tại tổ chức
nhận tiền gửi tiết kiệm đó.
20
 Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền chỉ có thể rút tiền
sau một kỳ hạn gửi tiền nhất định theo thỏa thuận với tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm
21
. Tiền gửi tiết
kiệm có kì hạn khác với tiền gửi có kì hạn chỉ ở chổ khách hàng gửi tiền gửi tiết kiệm có kì hạn chỉ
có thể là cá nhân.
Có thể nói, xét về giá trị, các khoản tiết liệm thường nhỏ hơn so với các tài loại tiền gửi khác
nhưng số lượng khá nhiều, vì vậy, nếu xét về tổng thể, đây vẫn là một nguồn vốn khá tiềm năng
của các ngân hàng thương mại. Trên thực tiễn, các sản phẩm tiền gửi tiết kiệm rất phong phú và đa
dạng, đây là một phương cách thu hút lượng khách hàng của các ngân hàng thương mại, đáp ứng
nhu cầu đa dạng và biến đổi thường xuyên của nhóm khách hàng đông đảo này. Nhìn chung, đặc
trưng chính của nguồn vốn này là có độ ổn định cao, tuy nhiên, mặt trái kèm theo của nó là chi phí

huy động vốn khá cao (chi phí giao dịch bình quân, chi phí trả lãi, chi phí thiết lập mạng lưới chi
nhánh,…)
b) Huy động thông qua phát hành giấy tờ có giá.
Phát hành giấy tờ có giá là loại hình giao dịch huy động vốn khá thông dụng của các tổ chức tín
dụng và thường được quy định một cách rõ ràng, cụ thể trong pháp luật của nhiều nước trên thế
giới. Trong nền kinh tế thị trường, phát hành giấy tờ có giá là giải pháp huy động vốn khá dễ dàng
và thuận lợi của các tổ chức kinh tế nói chung và tổ chức tín dụng nói riêng từ công chúng. Các
giấy tờ có giá do tổ chức tín dụng phát hành là một công cụ vay nợ trên thị trường tiền tệ, thi trường
vốn dưới hình thức giấy nhận nợ hoặc chúng chỉ tiền gửi, trong đó tổ chức tín dụng cam kết trả gốc,
lãi cho người mua sau một thời gian nhất định.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Quy chế phát hành giấy tờ có giá ban hành kèm theo Quyết
định số 07/2008/QĐ-NHNN ngày 24 tháng 03 năm 2008 của Ngân hàng nhà nước Việt Nam:
“Giấy tờ có giá” là chứng nhận của tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn trong đó xác
nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều
khoản cam kết khác giữa tổ chức tín dụng và người mua.”
Các giấy tờ có giá do tổ chức tín dụng phát hành có thể thể hiện dưới hình thức chứng chỉ hoặc
ghi sổ, có thể là loại có ghi danh hoặc không ghi danh. Hình thức chứng chỉ ghi danh áp dụng đối
19
Khoản 8 điều 6 quyết định số 1160/2004/QĐ-NHNN về viêc ban hành quy chế về tiền gửi tiết kiệm.
20
Khoản 2 Điều 11 Quy chế về tiền gửi tiết kiệm ban hành kèm Quyết định số 1160/2004/QĐ-NHNN.
21
Khoản 9 Điều 6 Quy chế về tiền gửi tiết kiệm ban hành kèm Quyết định số 1160/2004/QĐ-NHNN.
SVTH: Nguyễn Thanh Thùy Linh – MSSV: 3020103
18
với người mua là cá nhân. Hình thức chứng chỉ vô danh
22
áp dụng đối với người mua là cá nhân và
tổ chức. Hình thức ghi sổ áp dụng đối với người mua là tổ chức có tài khoản tiền gửi tại tổ chức tín
dụng phát hành giấy tờ có giá đó. Trường hợp phát hành giấy tờ có giá bằng hình thức ghi sổ, tổ

chức tín dụng phát hành phải cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu giấy tờ có giá cho người mua. Các
giấy tờ có giá do tổ chức tín dụng phát hành được chuyển nhượng quyền sỏ hữu dưới hình thức
mua bán, tặng cho, trao đổi hoặc thừa kế, hoặc người sở hữu giấy tờ có giá cũng có thể làm vật thế
chấp
23
.
Về cơ bản, huy động vốn thông qua phát hành giấy tờ có giá gồm có hai hình thức chính, phát
hành kì phiếu ngân hàng và trái phiếu.
 Kì phiếu ngân hàng (còn gọi là chứng chỉ tiền gửi) là giấy nợ ngắn hạn mà ngân hàng
thương mại phát hành để huy động vốn ngắn hạn (thời hạn dưới 1 năm). Loại công cụ này có khả
năng tạo cho ngân hàng thương mại một nguồn vốn ổn định trong một thời gian ngắn. Kì phiếu
ngân hàng là một loại giấy tờ có giá có tính thanh khoản cao, chủ thể sở hữu nó có thể dễ dàng
chuyển đổi nó thành tiền mặt thông qua các giao dịch trên thị trường tiền tệ. Loại chứng khoán này
khá thông dụng, rất dễ chuyển đổi, tính rủi ro thấp vì chủ thể phát hành nó là các ngân hàng thương
mại, những chủ thể có tiềm lực về tài chính khá ổn định. Tuy nhiên, lãi suất khá thấp chính vè vậy
lợi nhuận không cao so với các loại chứng khoán khác. Đây thường là lựa chọn đầu tư mang tính
bền vững. Nhờ vào tính thanh khoản này mà loại hình huy động vốn này thu hút được một lượng
lớn nguồn vốn đầu tư. Có thể nói, đây là một công cụ tương đối chủ động và linh hoạt của các ngân
hàng thương mại và phương thức phát hành có thể nói là không quá phức tạp.
 Trái phiếu là giấy nợ mà ngân hàng thương mại phát hành để huy động nguồn vốn ở
trung và dài hạn. Nếu căn cứ vào đối tượng khách hàng, có thể tạm chia loại hình trái phiếu thành
hai nhóm, trái phiếu thuộc vốn huy động và trái phiều thuộc vốn tự có. Trái phiều thuộc vốn huy
động là trái phiếu có thời hạn linh hoạt, người mua là chủ nợ thường (được ưu tiên thanh toán nợ
trước). Trái phiếu thuộc vốn tự có là trái phiếu có thời hạn từ 10 năm trở lên, người mua là chủ nợ
thứ cấp. Loại hình trái phiều thường có hai phương thức phát hành, hoặc là phát hành theo mệnh
giá (tức hình thức trả lãi sau) hoặc phát hành theo hình thức chiết khấu (tức trả lãi trước). Nhìn
chung, đối với các ngân hàng thương mại, đây là nguồn vốn có tính ổn định cao nhất và đặc biệt
với hình thức huy động này, ngân hàng luôn ở vị thế chủ động khi huy động vốn: chủ động về thời
gian, quy mô vốn, thời gian,… tuy nhiên, điểm hạn chế của loại hình huy động này là chi phí huy
động cao hơn các loại hình khác, cụ thể đó là lãi suất huy động, đây cũng chính là điểm hấp dẫn các

nhà đầu tư lựa chọn loại chứng khoán này, ít rủi ro và cũng có một lợi nhuận đáng kể
24
.
22
“Giấy tờ có giá vô danh” là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng chỉ không ghi tên người sở hữu. Giấy tờ
có giá vô danh thuộc quyền sở hữu của người nắm giữ giấy tờ có giá. (khoản 5 điều 4 quyết định số 1160/2004/QĐ-
NHNN về viêc ban hành quy chế về tiền gửi tiết kiệm)
23
Điều 14, 15 Quy chế phát hành giấy tờ có giá ban hành kèm theo quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN.
24
ở các nước trên thế giới, tiền gửi tạm thơi chia thành 2 loại, tiền gửi có kì hạn vè tiền gửi không kì hạn, tiền gửi
không kì hạn về cơ bản bao gồn các loại: tiền gởi dùng séc, tiền gửi rút tiền tự dộng hay tiền gửi thông dụng, tài
khoản ATS, tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có thông tri, và ký thác đặc biệt.
SVTH: Nguyễn Thanh Thùy Linh – MSSV: 3020103
19
Tổ chức tín dụng muốn được huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá phải thỏa mãn những
điều kiện mà pháp luật quy định và tuân theo các quy trình thủ tục luật định.
1.1.4.2. Nhóm các phương thức huy động vốn xuất phát từ mục đích đảm bảo an toàn
trong hoạt động của các ngân hàng thương mại.
a) Vay vốn giữa các tổ chức tín dụng.
Vấn đề này được quy định tại điều 47 Luật Các tổ chức tín dụng: “Các tổ chức tín dụng được
vay vốn của nhau và của tổ chức tín dụng nước ngoài.” Ngoài ra nó cũng được quy định cụ thể tại
Quyết định của thống đốc Ngân hàng nhà nước số1310/2001/QĐ-NHNN ngày 15 tháng 10 năm
2001 về việc ban hành Quy chế vay vốn giữa các tổ chức tín dụng.
Nguồn vốn đóng vai trò sống còn đối với sự tồn tại của các ngân hàng thương mại nói riêng và
với cả các định chế tài chính bởi vì nó chính là kênh lưu chuyển nguồn vốn của toàn nền kinh tế,
một nguyên nhân khác cũng không kém phần quan trọng là vì tính nhạy cảm của thị trường loại
hàng hóa này. Mỗi ngân hàng là một kênh lưu chuyển vốn, các dòng vốn này thông nhau qua sự
tương quan của nó với ngân hàng trung ương và thị trường tài chính. Khác với tính độc lập mang
tính cá thể của các loại hình doanh nghiệp khác, sự tồn tại của các ngân hàng nằm trong mối quan

hệ ràng buộc lẫn nhau, cũng giống như dòng nước lưu chuyển giữa các con kênh, hoạt động của
mỗi ngân hàng sẽ dễ dàng chịu sự tác động của các ngân hàng khác, nếu một ngân hàng nào trong
hệ thống gặp sự cố, sẽ có khả năng tác động xấu tới tất cả các ngân hàng còn lại, nếu không được
giải quyết một cách cẩn trọng, nguy cơ sụp đổ hệ thống là hoàn toàn có khả năng xảy ra, vấn đề này
đã diễn ra rất nhiều lần trong lịch sử thị trường tài chính của nhiều quốc gia trên thế giới. Chính vì
mối tương quan trên, các ngân hàng cần tồn tại trong một môi trường lành mạnh và giữ gìn mối
tương quan tốt với các định chế tài chính khác để đảm bảo cho chính sự tồn tại của mình. Nghiệp
vụ vay vốn giữa các tổ chức tín dụng xuất phát từ mục tiêu và mối tương quan trên.
Lẽ sống của các ngân hàng thương mại là nhận kí thác và cho vay. Ngân hàng thương mại phải
cho vay tới mức mà ngân hàng trung ương cho phép để tối đa hóa lợi nhuận. Nhưng không phải lúc
nào hoạt động của các ngân hàng đều thuận lợi. Dầu thận trọng cách mấy trong việc cho vay, ngân
hàng thương mại cũng khó tránh khỏi có lúc thiếu khả năng chi trả hoặc quá kẹt tiền mặt. Lúc đó,
các ngân hàng thương mại thường cần có một nguồn vốn khá lớn và đặc biệt là tức thời, trong tình
cảnh đó, vay của các tổ chức tín dụng khác là một trong những lựa chọn.
Quan hệ vay vốn này được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng. Đối tượng vay và cho vay
thường là các tổ chức tín dụng hoạt động hợp pháp. Cũng như các hợp đồng vay vốn thông thường
khác, về nguyên tắc, khi thực hiện cho vay, đi vay các bên phải đảm bảo nguyên tắc: bên vay phải
hoàn trả nợ gốc, lãi tiền vay và các loại phí (nếu có) đúng hạn cho bên vay. Việc cho vay, đi vay
cũng phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật và các thông lệ quốc tế tương ứng. Về thời hạn
vay, các bên có thể thỏa thuận, tuy nhiên, đây thường là các khoản vay ngắn hạn (chẳng hạn vay
SVTH: Nguyễn Thanh Thùy Linh – MSSV: 3020103
20
qua đêm). Về biện pháp bảo đảm, các bên thỏa thuận áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp bảo
đảm trong từng trường hợp cụ thể. Hình thức bảo đảm tiền vay có thể là bảo đảm bằng tài sản hoặc
bảo lãnh của các tổ chức tín dụng khác, tuy nhiên, một biện pháp bảo đảm tiền vay khá thông dụng
là bảo lãnh của ngân hàng trung ương. Về phương thức cho vay, các bên có thể áp dụng phương
thức cho vay từng lần, theo hạn mức tín dụng hoặc các phương thức khác phù hợp với quy định của
pháp luật.
Trên thực tế từ trước đến nay, các hợp đồng vay vốn giữa ngân hàng và các tổ chức tín dụng
theo dạng này thường được thiết lập trên mối quan hệ hợp tác lâu dài, thân tình giữa các tổ chức

này với nhau, đó là mối quan hệ “có đi có lại”. Khi thị trường tài chính phát triển hoàn thiện hơn,
cạnh tranh gay gắt hơn, rủi ro gia tăng, các ngân hàng đã chủ động hơn trong việc tiếp cận nguồn
vốn mang tính “bảo hiểm” này. Các ngân hàng không chờ đến khi lâm vào tình trạng thiếu hụt
nguồn vốn mới tìm kiếm các hợp đồng vay vốn này mà chủ động thiết lập các cam kết với các đối
tác khác (thường là mang tính hai chiều), cam kết này có thể ở dạng một hợp đồng tương lai có điều
kiện. Chẳng hạn, một ngân hàng thỏa thuận với một tổ chức tín dụng khác khi ngân hàng cần vốn
hoặc lâm vào một tình trạng cụ thể nào đó, tổ chức tín dụng đó phải cấp cho ngân hàng một lượng
tín dụng nhất định với một mức lãi suất có thể được xác định trước hoặc tùy thuộc vào tình trạng
thị trường. Với một cam kết như vậy, khả năng đảm bảo nguồn vốn của các ngân hàng chắc chắn sẽ
cao hơn.
Các ngân hàng phải tổng hợp, báo cáo, Ngân hàng nhà nước tình hình cho vay và đi vay với các
tổ chức tín dụng khác theo quy định của Ngân hàng nhà nước. Ngoài ra, khi một ngân hàng thỏa
mãn các điều kiện mà pháp luật quy định thì có thể vay vốn của các tổ chức tín dụng nước ngoài.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của thị trường tài chính, các nghiệp vu vay vốn giữa các tổ
chức tín dụng ngày càng đa dạng và phong phú hơn, các ngân hàng đang tận dụng tối đa những ích
lợi của thi trường tiền tệ để tìm kiếm nguồn vốn khả dụng. Với những nghiệp vụ mới này, vấn đề
vay vốn giữa các tổ chức tín dụng không đơn thuần dựng lại ở mục đích đảm bảo khả năng thanh
toán hay an toàn trong hoạt động ngân hàng như trước nữa. Dưới đây là một số nghiệp vụ cụ thể:
 Vay ngắn hạn dự trữ tại ngân hàng trung ương.
Để chuẩn bị cho các hoạt động thanh toán bù trừ và chuyển nhượng lẫn nhau, kể cả quy định dự
trữ bắt buộc do ngân hàng trung ương áp đặt, tất cả các ngân hàng thương mại đều phải kí gởi
những khoản tiền mặt tại kho của ngân hàng trung ương, khoản dự trữ này thường không sinh lời.
Trong quá trình hoạt động của mình, có lúc ngân hàng thương mại gặp những tình huống thiếu hụt
dự trữ hoặc quá kẹt tiền mặt, đây là điều khá thường xuyên. Trong khi đó, có những ngân hàng thừa
dự trữ. Để đảm bảo dự trữ theo quy trình của ngân hàng trung ương, các ngân hàng cho vay lẫn
nhau để bù đắp thiếu hụt này, thủ tục cho vay được tiến hành thường qua kí phát hoặc điện tín.
Trong vòng vài phát sau, ngân hàng thừa dự trữ trong ngày hôm đó sẽ viết séc hoặc gửi điện tín đến
chi nhánh ngân hàng trung ương tại địa phương , yêu cầu chuyển một phần tiền từ dự trữ của ngân
SVTH: Nguyễn Thanh Thùy Linh – MSSV: 3020103
21

hàng mình qua cho dự trữ của ngân hàng xin vay. Việc cho vay qua vay lại như thế này diễn ra
thường ngày trong hệ thống các ngân hàng thương mại, tuy nhiên các khoản nợ này thường rất
ngắn, thường chỉ là một vài ngày.
 Chiết khấu giấy tờ có giá: thường khi thiếu nguồn vốn thanh toán tức thời, các ngân hàng
thương mại thường tìm sự cứu cánh của mình trên thị trường tiền tệ, họ bán các chứng khoán mà
mình đang nắm giữ cho các tổ chức tín dụng khác để giải quyết nhu cầu về tiền mặt. như đã được
đề cập ở trên, các giấy tờ có giá luôn được xem là một hình thức của tiền tệ và khá dễ dàng chuyển
hóa thành tiền mặt. các hợp đồng này có thể là hợp đồng mua bán đứt đoạn hoặc hợp đồng mua bán
có cam kết mua lại trong một khoản thời gian được thỏa thuận trước.
 Cầm cố giấy tờ có giá: đây thực tế là hợp đồng vay tiền trong đó cầm cố giấy tờ có giá là
một hình thức bảo đảm.
Như đã được trình bày ở trên, nguồn vốn này thường chiếm tỉ trọng không lớn trong tổng
nguồn vốn của ngân hàng thương mại nhưng nó đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với sự an
toàn và hoạt động bình thường của các ngân hàng, có thể ví như “kênh bảo hiểm”. Các ngân hàng
nên chỉ xem nó là cứu cánh mang tính tạm thời và tuyệt đối không lệ thuộc vào nó, chính vì vậy,
nguồn vốn này chỉ nên được sử dụng để đáp ứng những mục tiêu thanh toán mang tính tức thời, tức
ngân hàng không có khả năng dự tính được khả năng phát sinh của nó. Vì thực tế, nguồn vốn này
thường có chi phí khá cao, mức lãi suất lại thường vô cùng nhạy cảm với diễn biến của lãi suất thị
trường. Tuy nhiên, nhìn chung tính ưu điểm của nguồn vốn này là nó có độ ổn định cao hơn nhiều
so với nguồn vốn huy động (dĩ nhiên nếu ngân hàng có một kế hoạch tài chính rõ ràng), có khả
năng đáp ứng tức thời, với số lượng lớn và thời hạn rất ngắn (ngày, tuần). Xét từ phía chính sách
tiền tệ quốc gia, với phương thức này, không làm thay đổi lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế,
chính vì vậy, sẽ không ảnh hưởng đến việc điều chỉnh chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương.
b) Vay vốn của Ngân hàng nhà nước.
Ngân hàng trung ương là nơi phát hành tiền, là nơi thực thi và điều hành chính sách tín dụng
quốc gia và là ngân hàng của các ngân hàng. Chính vì vậy, khi các ngân hàng thương mại lâm vào
tình trạng khó khăn về tài chính, ngân hàng trung ương trở thành cứu cánh cuối cùng. Thông
thường tất cả các ngân hàng thương mại (hay có thể gọi là ngân hàng trung gian trong mối quan hệ
tương quan với ngân hàng trung ương) và một số tổ chức tài chính khác được hưởng quyền vay tiền
tại ngân hàng trung ương trong những tình huống thiếu hụt dự trữ hoặc quá kẹt vốn. cho dù ngân

hàng trung ương áp dụng mức lãi suất chiết khấu hoặc lãi suất phạt cao hay thấp như thế nào đi
nữa, nó vẫn phải cho các ngân hàng trung gian vay khi họ kẹt thanh khoản để tránh những khủng
hoảng tài chính xảy ra cho hệ thống.
Về phía ngân hàng trung gian, vay mượn tại ngân hàng trung ương là một nghiệp vụ hết sức
tiện lợi vào mỗi khi nó hạ lãi suất chiết khấu trong chính sách cung ứng tiền nới lỏng để kích thích
cho vay đầu tư. Những lúc đó, tiền trở nên dồi dào. Trường hợp không may là khi ngân hàng trung
SVTH: Nguyễn Thanh Thùy Linh – MSSV: 3020103
22
gian đến vay giữa khi ngân hàng trung ương không muốn khuyến khích sự bành trướng tín dụng,
hoặc thậm chí nó đang có chính sách thắt chặc cung tiền để chống lạm phát hay vì mục tiêu già
khác. Lúc đó lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn được đưa lên cao và với những khoản lỗ trông
thấy khi vay vốn của ngân hàng trung ương, các ngân hàng chỉ miễn cưỡng vay trong những tình
huống thật sự ngặt nghèo và cần thanh toán những khoản nợ tức thời. Dù vay ít hay nhiều, vay từ
ngân hàng trung ương vẫn là một khoản mục hiển nhiên trong tài sản nợ của các ngân hàng thương
mại. thời gian vay ngắn hay dài, hiệu quả của tiền vay cao hay thấp phụ thuộc chính vào tương
quan giữa lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn của ngân hàng trung ương và lãi suất cho vay của
ngân hàng thương mại, mức tiền mà ngân hàng thương mại muốn vay, và khả năng quản trị nguồn
vốn của ngân hàng thương mại đó.
Về phía ngân hàng trung ương, tái cấp vốn là một trong những nghệp vụ quan trọng của nó
nhằm thực hiện chính sách tiền tệ của mình. Với tư cách là ngân hàng của các ngân hàng, ngân
hàng trung ương luôn là chủ nợ của các ngân hàng. Với vai trò là chủ nợ, ngân hàng trung ương dễ
dàng điều kiển và giám sát hệ thống ngân hàng trung gian. Với nhiệm vụ này, nó dễ dàng kiểm soát
lượng cung tiền trong lưu thông. Một vấn đề khác cũng đóng vai trò chủ đạo đối với khả năng điều
tiết của ngân hàng trung ương là việc ngân hàng trung ương chỉ được phép cho các ngân hàng
thương mại vay ngắn hạn. Đây là một vấn đề mang tính nguyên tắc, vì chỉ có vậy ngân hàng trung
ương mới có thể phản ứng nhanh trước những rối loạn có thể xay ra trong hệ thống tiền tệ bằng
cách thay đổi chi phí tái cấp vốn. Hơn nữa, ngân hàng thương mại là các ngân hàng sống bằng
nghiệp vụ cho vay, nếu ngân hàng trung ương cho các ngân hàng thương mại vay vốn dài hạn, các
ngân hàng thương mại có thể lợi dụng nguồn vốn này để cấp tín dụng, đó là mục tiêu mà ngân hàng
trung ương không hướng đến. Hơn nữa nếu ngân hàng trung ương có những khoản nợ phải đòi dài

hạn, thì khác nào họ tự chôn vùi tiềm năng điều tiết của họ và thúc đẩy những bất ổn tiềm tàng
trong hệ thống ngân hàng mà nó quản lí. Do vậy, tiền đề đối với một hệ thống ngân hàng hai cấp có
hiệu lực là thiết lập một cơ chế cạnh tranh của các ngân hàng trung gian, đặc biệt là trong việc huy
động nguồn vốn.
Ngân hàng thương mại có thể vay vốn của các ngân hàng trung ương thông qua các công cụ
như: tái cấp vốn (tái chiết khấu hoặc chiết khấu giấy tờ có giá), cho vay lại theo hồ sơ tín dụng, cầm
cố, thế chấp hay ứng trước có bảo đảm nhằm duy trì khả năng thanh toán
25
.
Cũng có tính chất tương tự như nguồn vốn từ việc vay vốn của các tổ chức tín dụng khác, đây
là nguồn vốn có thể huy động với số lượng lớn, đáp ứng nhu cầu tức thời của hoạt động các ngân
hàng thương mại, mang tính cứu cánh, chi phí huy động thường cao, thường chỉ được sử dụng
trong những hoàn cảnh thật sự khó khăn. Và nguyên tắc cơ bản là tuyệt đối không được lạm dụng
25
Thế chấp khác với chiết khấu ở hai điểm cơ bản:
- Trong thế chấp chủ nợ không bán phiếu nợ cho ngân hàng, mà chỉ đem gởi phiếu ấy làm vật bảo đảm cho việc vay
tiền. Khi phiếu nợ đáo hạn, đích thân chủ nợ phải thâu hồi số nợ. Trong kĩ thuật chiết khấu, có sự chuyển quyền sở
hữu trên món nợ ghi trong thương phiếu từ người chủ nợ sang ngân hàng.
- Thời hạn thế chấp thường rất ngắn, có khi không quá một tuần. Kĩ thuật này thích hợp cho ngân hàng nào chỉ vay
trong một vài ngày, như cuối tháng, cuối năm, những ngày đặc biệt,…
SVTH: Nguyễn Thanh Thùy Linh – MSSV: 3020103
23
nhằm mục đích cấp tín dụng vì mục tiêu lợi nhuận. Nhưng khác với phương thức huy động vốn từ
việc vay vốn của các tổ chức tín dụng, việc vay vốn từ ngân hàng trung ương sẽ làm thay đổi cơ số
tiền tệ trong nền kinh tế, chính vì vậy, ngân hàng trung ương phải luôn cân nhắc kĩ càng khi thực
hiện nghiệp vụ này.
Ngân hàng trung ương là ngân hàng không bao giờ thiếu tiền, không bao giào lâm vào tình
trạng mất khả năng thanh toán (vì thực tế, nếu thiếu nó chỉ mất vài giờ để in tiền), rất hợp lí khi
ngân hàng này được xem là cứu cánh cho vay cuối cũng của các ngân hàng thương mại.
Kết luận: trên đây là những vấn đề khái quát nhất về các hình thức huy động vốn của các ngân

hàng thương mại. cùng là hoạt động huy động vốn, cùng phục vụ cho hoạt động bình thường của
các ngân hàng thương mại, tuy nhiên, các hình thức huy động vốn hướng đến hai nhóm mục tiêu
khác nhau, mục tiêu kinh tế và mục tiêu an toàn. Như đã được nói đến trong phần lời nói đầu, do
tính hạn chế của đề tài cũng như mục đích của tác giả khi nghiên cứu đề tài này, những phân tích
chuyên sâu của tác giả trong đề tài này chỉ hướng đến nhóm các hoạt động huy động vốn phục vụ
cho mực tiêu lợi nhuận (tức hoạt động huy động vốn bằng nhận tiền gửi và phát hành giấy tờ có
giá).
1.2. Những vấn đề pháp lí về hoạt động huy động vốn.
1.2.1.Bản chất pháp lí của hoạt động huy động vốn.
Ở phần 1 chương này chúng ta đã tìm hiểu những vấn đề chung nhất, mang tính bản chất thực
(bản chất kinh tế, điều kiện nó phát sinh và tồn tại) của các hoạt động huy động vốn của ngân hàng
thương mại, trong phần này, chúng ta sẽ tiến hành xem xét các vấn đề này dưới góc độ pháp lí, làm
cơ sở lí luận cho những phân tích sẽ được trình bày ở chương 2.
1.2.1.1. Hoạt động nhận tiền gửi.
Chúng ta sẽ bắt đầu bằng nghiệp vụ cơ bản, sơ khai nhất của các ngân hàng thương mại là nhận
tiền gửi. Hoạt động nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ
thanh toán là nội dung thường xuyên của hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ của các ngân
hàng, các hoạt động này nằm trong mối qua hệ liên hoàn, ràng buộc lẫn nhau, và có thể nói không
thể tồn tại độc lập, cái này làm tiền đề cho cái kia tồn tại, nó là các giai đoạn của quá trình chu
chuyển dòng tiền, tạo vốn và cấp vốn. Vì thế, khi nói đến hoạt động ngân hàng, người ta nói đến
hai hoạt động quan trọng, nhận tiền gửi (đầu vào) và cho vay (đầu ra), cũng giống như đối với một
doanh nghiệp mà hàng hóa của doanh nghiệp “ngân hàng” là “tiền”. Khi ngân hàng cấp tín dụng
cho khách hàng, người ta vẫn đương nhiên hiểu, cấp tín dụng ở đây đồng nghĩa với hoạt động cho
vay, hay nói cách khác, bản chất pháp lí của hoạt động đó là một hợp đồng cho vay (cụ thể là hợp
đồng cho vay tài sản theo Điều 471 Bộ luật Dân sự 2005 với đối tượng hợp đồng là tiền)
26
. Tuy
nhiên, khi nói đến hoạt động nhận tiền gửi thì ít ai nghĩ đến bản chất pháp lí của hoạt động này là
gì, nó thuộc loại nào trong các loại hình giao dịch, loại hình hợp đồng được quy định trong Bộ luật
Dân sự.

26
Xem thêm “Cần sử đổi quy định về lãi suất vay trong Bộ luật Dân sự 2005”, Nguyễn Phương Linh, Ngân Hàng
Ngoại Thương Việt Nam, trên website: http//thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2008/01/08/23145/
SVTH: Nguyễn Thanh Thùy Linh – MSSV: 3020103
24
Sự không rõ ràng này nguyên nhân khởi điểm có lẻ là do sự thay đổi về bản chất nội tại của
quan hệ này qua quá trình phát triển kéo dài cùng với sự ra đời và thay đổi vai trò của các ngân
hàng thương mại. Trong giai đoạn đầu, ngân hàng đơn thuần là nơi nhận và gìn giữ các tài sản có
giá của khách hàng (trong đó có tiền, hay các hình thái đầu tiên của tiền như kim loại quý, vàng,
…). Có thể nhận thấy, hình thái đầu tiên của hoạt động này là hợp đồng gửi giữ, tiền lúc này đối
với ngân hàng cũng giống như các vật có giá không có khả năng chuyển đổi khác, vì thế, “nhận tiền
gửi” là một cách gọi đối với nghiệp vụ này của ngân hàng cũng giống như “nhận gửi các vật có giá
khác”. Qua quá trình phát triển, các ngân hàng cũng nhận tiền gửi nhưng không có trách nhiệm
hoàn trả đúng đồng tiền đặc định đã nhận, không thu phí giữ hộ tài sản mà ngân hàng còn phải trả
lãi hoặc cung cấp các tiện ích cho khách hàng, đổi lại ngân hàng được quyền khai thác công dụng
tài sản đang chiếm hữu, tức sử dụng tiền gửi. Như vậy có thể thấy, bản chất pháp lí của hoạt động
này đã thay đổi, tuy vậy, có lẽ theo thói quen người ta vẫn gọi nó với cái tên quen thuộc: “nhận tiền
gửi”. Như vậy, việc nhận tiền gửi với nội dung trên không thuần túy là giao dịch gửi – giữ tài sản
như trong quá khứ. Vậy nó là gì?
Khi gửi tiền vào ngân hàng để nhận được một khoản lãi suất nhất định, ít ai cho rằng mình đang
cho ngân hàng vay tiền, nhưng với những biều hiện cơ bản nhất của hoạt động này, nó gần với một
hợp đồng vay vốn nhất mà trong đó khách hàng là chủ nợ và ngân hàng là con nợ. Hãy cùng xem
xét một vài đặc trưng và khác biệt của 2 loại hợp đồng này để tìm hiều bản chất pháp lí của hoạt
động nhận tiền gửi của các ngân hàng.
Về cơ bản, hai loại giao dịch này đều là hợp đồng, tức phát sinh trên thỏa thuận của hai bên chủ
thể, và kèm theo đó là những quyền và nghĩa vụ tương ứng của hai bên
27
. Còn sự khác nhau giữa
hợp đồng gửi giữ tài sản và hợp đồng vay tài sản chính là sự khác nhau về quyền và nghĩa vụ của
các chủ thể và quan trọng nhất là hệ quả pháp lí của giao dịch.

Cụ thể, theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005:
• Hợp đồng gửi giữ tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên giữ nhận tài sản của
bên gửi để bảo quản và trả lại chính tài sản đó cho bên gửi khi hết thời hạn hợp đồng, còn bên gửi
phải trả tiền công cho bên giữ, trừ trường hợp gửi giữ không phải trả tiền công.
28
• Hợp đồng vay tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho
bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số
lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định.
29
Căn cứ vào các định nghĩa trên và các quy định cụ thể khác của Bộ luật Dân sự về hai loại hợp
đồng này, có thể nhận định:
Đầu tiên, việc gửi giữ tài sản chỉ là sự chuyển giao quyền chiếm hữu tài sản từ bên gửi sang bên
giữ, tài sản gửi giữ vẫn thuộc quyền sở hữu của bên gửi, bên giữ không tự có quyền sử dụng, định
đoạt tài sản nhận giữ và sự chuyển giao trên nhằm đến nội dụng bên giữ có trách nhiệm nhận tài
27
Căn cứ vào Điều 388 Bộ Luật Dân Sự: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận của các bên về việc xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”
28
Điều 559 Bộ Luật Dân Sự.
29
Điều 471 Bộ Luật Dân Sự.
SVTH: Nguyễn Thanh Thùy Linh – MSSV: 3020103
25
sản để bảo quản và có nghĩa vụ trả lại chính tài sản ấy, được thu tiền công, tức phí giữ hộ tài sản,
trừ khi có thoả thuận không thu phí.
Đồng thời, việc vay tài sản không đặt ra vấn đề trách nhiệm hoàn trả đúng tài sản đặc định đã
nhận mà bên vay chỉ phải trả tài sản cùng chủng loại, cùng số lượng, chất lượng và có nghĩa vụ trả
lãi theo thoả thuận (căn cứ vào định nghã được nêu trên) trong thời hạn vay bên vay là chủ sở hữu
tài sản vay nên được khai thác công dụng của tài sản để sinh lợi
30

nghĩa là trong giao dịch vay tài
sản bên cho vay đã có sự chuyển giao cả 3 quyền năng chủ sở hữu (chiếm hữu, sử dụng, định đoạt)
và ngay lập tức trở thành chủ nợ của bên vay
31
.
Đối với các ngân hàng ngày nay, tiền gửi chính là nguồn sống chính của các ngân hàng, chính
vì vậy, khi tiếp nhận tiền gửi, ngân hàng thương mại và khách hàng đã mặc nhiên thỏa thuận nội
dung (thông qua hợp đồng), ngân hàng thương mại được tòan quyền sử dụng tiền gửi để đầu tư cho
các mục đích kinh doanh hợp pháp của mình với điều kiện có hoàn trả phí theo phương thức thỏa
thuận (lãi, dịch vụ khác,…), số dư trên tài khoản tiền gửi là khoản nợ phải trả của ngân hàng đối
với khách hàng
32
. Rõ ràng, đối với ngân hàng quyền sử dụng tiền gửi để đầu tư là một quyền năng
của quyền sở hữu được xác lập theo hợp đồng nhận tiền gửi, hay nói cách khác, xuất phát từ hợp
đồng nhận tiền gửi ngân hàng và khách hàng đã thoả thuận để chuyển giao, xác lập cho nhau quyền
sở hữu (cho ngân hàng) và quyền chủ nợ (cho khách hàng). Thậm chí đối với trường hợp mở tài
khoản tiền gửi thanh toán hoặc tài khoản tiết kiệm không kỳ hạn, mặc dù khách hàng được quyền
yêu cầu ngân hàng thực hiện thanh toán hoặc trả lại tiền tại bất kỳ thời điểm nào (mà không bị chế
tài) thì điều đó cũng không phải là dấu hiệu để loại trừ quyền sở hữu của ngân hàng trong trường
hợp này
33
. Về tính chất, hành vi phát lệnh thanh toán hay rút tiền khỏi ngân hàng chẳng qua là việc
chủ nợ đang thực hiện quyền thanh toán, quyền đòi nợ đã được dự liệu theo điều kiện đã thoả thuận
trong hợp đồng mở tài khoản với ngân hàng là sự xác lập lại quyền sở hữu cho mình và khi tất toán
tài khoản thì quyền chủ nợ sẽ tự mất đi. Mặt khác, theo cơ cấu sử dụng tiền gửi của mình ngân hàng
luôn dự liệu nguồn hoàn trả thay thế và hơn nữa các quyền trên của khách hàng không phải là
quyền đặc trưng, không phải là thuộc tính riêng chỉ thuộc về quyền định đoạt của chủ sở hữu mà rõ
ràng nó còn có thể thuộc về quyền của chủ nợ tuỳ theo loại hợp đồng gửi tiền đã xác lập.
Tuy nhiên, vấn đề chính quy định tính chất của quan hệ này chính là đối tượng của nó – tiền tệ,
nó là vật cùng loại, và đóng vai trò đại diện cho giá trị được thiết lập bởi quyền lực nhà nước. Đồng

tiền cụ thể là vật đặc định, song trong quan hệ gửi tiền, các bên trong quan hệ rõ ràng chỉ quan tâm
đến giá trị của đồng tiền, số lượng tiền sẽ thu về, giá trị và tiện ích của dịch vụ được cung ứng, hay
30
Điều 472 Bộ Luật Dân Sự.
31
Cần lưu ý rằng quyền chủ nợ là một loại quyền tài sản và trong vị trí ấy chủ nợ sẽ có một số quyền cụ thể tương tự
quyền của chủ sở hữu như: Chuyển nhượng, để lại thừa kế, dùng bảo đảm nghĩa vụ dân sự… Nhưng bởi đối tượng
của quyền là khác nhau nên không bao giờ có thể xem chúng là một.
Và một quyền năng quan trọng khác của chủ nợ là quyền đòi lại tài sản khi con nợ vi phạm mục đich vay (Điều 475
Bộ luật Dân sự)
32
Trong các thuật ngữ chuyên ngành kinh tế vẫn thường ví “vốn tư bản” hay “tiền tệ” là một loại “hàng hóa đặc biệt”
và chính vì vậy thường ví lãi suất là giá cả của tín dụng, cụ thể là giá cả của việc mau và bán quyền sử dụng vốn hay
nói cách khác, lãi suất chính là giá cả của tiền. cách hiểu này thực chất xuất phát từ bản chất kinh tế của hoạt động
huy động vốn và từ những đặc tính khác biệt của “tiền tệ”, thực chất không có gì mâu thuẩn với bản chất pháp lí của
hoạt động này đang được đề cập ở trên.
33
Tuy nhiên, đây cũng là một quyền năng của chủ nợ được Bộ luật Dân sự quy định. (Điều 477)
SVTH: Nguyễn Thanh Thùy Linh – MSSV: 3020103

×