3
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
UBCKNN : Uỷ ban chứng khoán nhà nƣớc
SGDCK : Sở giao dịch chứng khoán
TTGDCK : Trung tâm giao dịch chứng khoán
TTCK : Thị trƣờng chứng khoán
4
PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI.
Trong nền kinh tế thị trƣờng, TTCK có vai trò quan trọng, khơi thông
các nguồn vốn trong xã hội và phân bổ một cách có hiệu quả các nguồn vốn
này vào những dự án đầu tƣ mang lại hiệu quả kinh tế cao, đồng thời đem lại
lợi nhuận cho những ngƣời đầu tƣ. Hiện nay, trên thế giới có nhiều quan điểm
khác nhau về việc làm thế nào để tổ chức và quản lý TTCK một cách tối ƣu,
tuy nhiên, các quan điểm đều thống nhất là các ngƣời đầu tƣ luôn phải đƣợc
coi là trọng tâm của thị trƣờng. TTCK sẽ phát huy vai trò là trung tâm huy
động và phân bổ vốn có hiệu quả của nền kinh tế khi các ngƣời đầu tƣ có
niềm tin vào thị trƣờng, quyền lợi của họ đƣợc tôn trọng và bảo vệ.
TTCK Việt Nam hoạt động đã mở ra một kênh huy động vốn mới cho
nền kinh tế. Sau hơn 5 năm hoạt động, tuy quy mô còn nhỏ bé, vai trò tác
động đến nền kinh tế còn chƣa lớn, nhƣng TTCK Việt Nam đã bƣớc đầu thể
hiện đƣợc vai trò của mình là nơi thu hút và luân chuyển nguồn vốn đầu tƣ
trong và ngoài nƣớc, gây dựng một cách thức đầu tƣ mới cho công chúng
nhằm khai thác lƣợng vốn rất lớn trong khu vực dân doanh.
Tuy nhiên, TTCK Việt Nam vẫn chƣa phát huy đƣợc sức mạnh vốn có
của nó, vì rất nhiều nguyên nhân trong đó quan trọng là chƣa đem lại niềm tin
cho ngƣời đầu tƣ, mà niềm tin luôn là vấn đề cốt lõi của TTCK. Thời gian
qua, có lúc niềm tin của công chúng đầu tƣ vào thị trƣờng giảm sút nghiêm
trọng, nhiều ngƣời đầu tƣ tìm cách chuyển hƣớng đầu tƣ đã đe doạ tới sự sống
còn của một TTCK non trẻ ở Việt Nam. Xây dựng và củng cố uy tín của thị
trƣờng là để tạo dựng sự tin tƣởng của ngƣời đầu tƣ vào thị trƣờng, đây là
việc làm cần thiết và đòi hỏi nhiều giải pháp tổng thể, đồng bộ, trong đó xây
dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật là yêu cầu đầu tiên. Trọng tâm
5
của pháp luật về TTCK là phải gây dựng niềm tin nhằm bảo vệ một cách có
hiệu quả lợi ích của ngƣời đầu tƣ.
Nguyên nhân trực tiếp làm nản lòng ngƣời đầu tƣ là rủi ro mà họ gánh
chịu khi đầu tƣ trên TTCK. Lý do chủ yếu dẫn đến những rủi ro, thua lỗ của
nhà đầu tƣ là sự vi phạm các quy định pháp luật của các tổ chức, cá nhân.
Trong khi đó, một số quy định cần thiết bảo vệ ngƣời đầu tƣ nhƣ các điều
khoản về công bố thông tin, phòng chống và xử lý các hành vi vi phạm, các
điều khoản điều chỉnh xung đột lợi ích giữa các chủ thể mặc dù đã có song
vẫn còn sơ sài; hoạt động cƣỡng chế thi hành pháp luật chƣa thực sự có hiệu
quả do các chế tài mà pháp luật quy định chƣa đủ mạnh; thiếu các quy định về
quyền khởi kiện của ngƣời đầu tƣ trƣớc toà để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của họ. Cơ quan quản lý nhà nƣớc chƣa phát huy đƣợc vai trò quản lý
của mình trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK. Yêu cầu đặt ra hiện nay là
nghiên cứu xây dựng, hoàn thiện các quy định này để bảo vệ thoả đáng quyền
và lợi ích hợp pháp của ngƣời đầu tƣ trên TTCK nói chung và nhất là TTCK
tập trung nói riêng.
Uy tín của thị trƣờng đƣợc xây dựng bởi chính những lợi ích mà thị
trƣờng có thể đem lại cho ngƣời đầu tƣ. Để có một môi trƣờng đầu tƣ lành
mạnh, an toàn và hiệu quả, đòi hỏi phải có những cải cách toàn diện từ các
quy định pháp luật công ty, pháp luật kiểm toán, pháp luật về ngân hàng và
các định chế tài chính tới pháp luật về chứng khoán và TTCK, pháp luật bảo
vệ ngƣời đầu tƣ đến tăng cƣờng hiệu lực quản lý của bộ máy quản lý thị
trƣờng, các thiết chế toà án, thi hành án để nhà đầu tƣ có thể sử dụng bảo
vệ mình. Những quy định này sẽ tạo thành một hệ thống đồng bộ, nền tảng
các đảm bảo pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời đầu tƣ.
Xuất phát từ yêu cầu trên, chúng tôi lựa chọn đề tài "Những đảm bảo
pháp lý cho người đầu tư trên thị trường chứng khoán tập trung ở Việt
6
Nam" để làm Luận văn Thạc sĩ Luật học trong thời điểm hiện nay là rất có ý
nghĩa về mặt khoa học và thực tiễn, đồng thời mang tính cấp thiết cao.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU.
Ở Việt Nam, những năm qua đã có nhiều đề tài nghiên cứu về pháp luật
chứng khoán và TTCK, từ các nghiên cứu tổng hợp nhƣ xây dựng khung pháp
lý TTCK Việt Nam đến các nghiên cứu cụ thể nhƣ: hoàn thiện hệ thống công
bố thông tin hay nâng cao hoạt động giám sát thị trƣờng. Trong đó có chứa
đựng những nội dung về bảo vệ quyền và lợi ích của ngƣời đầu tƣ. Đối với
lĩnh vực bảo vệ ngƣời đầu tƣ trên TTCK tập trung, đã có một số đề tài nghiên
cứu trong từng hoạt động cụ thể của TTCK, ví dụ nhƣ đề tài "Khung pháp lý
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tƣ trong giao dịch trên thị
trƣờng chứng khoán tập trung" - Mã số: CS.02.05, Chủ nhiệm đề tài: Tiến sỹ
Lê Vũ Nam - Uỷ ban chứng khoán nhà nƣớc năm 2002. Các nghiên cứu này
mới chỉ đề cập đến những vấn đề cụ thể, trong các hoạt động riêng lẻ của
TTCK tập trung mà chƣa tổng hợp hoàn chỉnh về các đảm bảo pháp lý để bảo
vệ quyền và lợi ích của ngƣời đầu tƣ trên TTCK tập trung.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
Luận văn có mục đích đi sâu nghiên cứu các vấn đề mang tính lý luận,
bản chất, nội dung để trên cơ sở đó đánh giá thực trạng các quy định của pháp
luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời đầu tƣ trên TTCK tập
trung ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở phân tích sự cần thiết phải quy định
vấn đề này, qua tham khảo quy định của một số nƣớc trên thế giới, kết hợp
với phân tích quy định hiện hành và thực tiễn áp dụng để đƣa ra các phƣơng
hƣớng và giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của ngƣời đầu tƣ trên TTCK tập trung ở Việt Nam.
Với mục đích nghiên cứu nhƣ trên, nhiệm vụ cụ thể của Luận văn là:
7
- Nghiên cứu, tiếp cận một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về
biện pháp pháp lý bảo vệ ngƣời đầu tƣ trên TTCK nói chung và TTCK tập
trung nói riêng.
- Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định pháp luật đối với việc bảo
vệ ngƣời đầu tƣ trên TTCK tập trung ở Việt Nam và thực tiễn áp dụng.
- Trên cơ sở giải quyết các nhu cầu đặt ra và thực tiễn đã nêu, Luận văn
đề xuất các giải pháp hoàn thiện quy định pháp lý bảo đảm quyền và lợi ích
của ngƣời đầu tƣ trên TTCK tập trung ở Việt Nam.
4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Trong quá trình nghiên cứu, Luận văn đã sử dụng các phƣơng pháp
nghiên cứu khoa học cơ bản sau: Các phƣơng pháp duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử; tiếp cận đối tƣợng nghiên cứu thông qua thu thập tài liệu, số liệu,
thống kê, khảo sát ; phân tích và tổng hợp; diễn giải và quy nạp; đối chiếu,
so sánh để giải quyết các vấn đề đặt ra.
5. CƠ SỞ LÝ LUẬN.
Đề tài đƣợc nghiên cứu dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác -
Lênin, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện qua các Nghị quyết
các kỳ Đại hội đảng, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và pháp luật.
6. ĐÓNG GÓP KHOA HỌC CỦA LUẬN VĂN.
Những điểm mới của Luận văn thể hiện ở những điểm sau:
- Đây là Luận văn nghiên cứu tổng hợp các đảm bảo về mặt pháp lý để
bảo vệ quyền và lợi ích của ngƣời đầu tƣ trên TTCK tập trung ở Việt Nam.
- Nghiên cứu một cách hệ thống về bản chất, nội dung các biện pháp
pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích của ngƣời đầu tƣ trên TTCK tập trung.
- Căn cứ trên tình hình thực tế các quy định pháp luật điều chỉnh và
thực tế quá trình áp dụng pháp luật. Luận văn chỉ ra những kiến nghị nhằm
hoàn thiện quy định pháp luật và quá trình áp dụng pháp luật cho phù hợp với
8
bản chất của việc bảo vệ quyền và lợi ích của ngƣời đầu tƣ trên TTCK tập
trung.
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
đƣợc kết cấu thành 03 chƣơng với 14 mục.
9
CHƢƠNG 1
SỰ CẦN THIẾT PHẢI BẢO VỆ NGƢỜI ĐẦU TƢ TRÊN
THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN TẬP TRUNG Ở VIỆT NAM
1.1. VAI TRÒ VÀ ẢNH HƢỞNG CỦA THỊ TRƢỜNG CHỨNG
KHOÁN ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ
1.1.1. Khái niệm thị trƣờng chứng khoán
Trong lịch sử phát triển kinh tế, thị trƣờng tài chính hình thành từ sự
vận động các nguồn vốn, trong đó những nhu cầu về vốn rất đa dạng và hình
thành khách quan ở những giai đoạn khác nhau. Ban đầu chủ yếu là nhu cầu
vốn ngắn hạn thiết lập nên thị trƣờng tiền tệ, nơi diễn ra các hoạt động của
cung và cầu về vốn ngắn hạn. Sau đó là nhu cầu về vốn trung và dài hạn để
đầu tƣ phát triển, từ đó hình thành nên thị trƣờng vốn. Thị trƣờng vốn bao
gồm hoạt động cho vay của các ngân hàng và việc phát hành các chứng khoán
của chính phủ và các công ty. Chứng khoán do các chủ thể này phát hành sẽ
đƣợc mua đi, bán lại, trao đổi, từ đó hình thành nên thị trƣờng đƣợc gọi là thị
trƣờng chứng khoán. TTCK là thị trƣờng mà ở đó có giao dịch chứng khoán.
TTCK đã hình thành từ hàng trăm năm nay, là nơi chuyển vốn từ
những chủ thể không có cơ hội đầu tƣ sang chủ thể có cơ hội đầu tƣ trong thời
gian ngắn nhất, góp phần vào việc tích luỹ và huy động vốn của nền kinh tế
xã hội.
Do tính phức tạp của TTCK, ngay khái niệm cơ bản "thị trƣờng chứng
khoán" đến nay còn có nhiều quan điểm khác nhau.
Có quan điểm nhìn nhận TTCK một cách trực diện, cho rằng "TTCK là
nơi giao dịch chứng khoán và công cụ tài chính có liên quan đến chứng
khoán" [8, tr.151]. Nếu hiểu nhƣ vậy thì TTCK là một bộ phận của thị trƣờng
tài chính.
10
Dƣới góc độ ngôn ngữ học, TTCK đƣợc nhìn nhận là thuật ngữ chung
để chỉ hoạt động giao dịch có tổ chức đối với chứng khoán thông qua các Sở
giao dịch và thị trƣờng phi tập trung [45, tr.288]. Cách giải thích này nhấn
mạnh TTCK với tƣ cách là nơi trao đổi loại hàng hoá đặc biệt nhƣ cổ phiếu,
trái phiếu và công cụ tài chính phái sinh.
TTCK còn đƣợc định nghĩa là nơi các chứng khoán đƣợc phát hành và
trao đổi. TTCK là một bộ phận của thị trƣờng vốn do đặc tính của chứng
khoán trong việc huy động vốn dài hạn" [39, tr.10].
Qua nghiên cứu những định nghĩa về TTCK, chúng tôi đồng ý với quan
điểm: "TTCK là một thị trƣờng mà ở đó ngƣời ta mua, bán, chuyển nhƣợng,
trao đổi chứng khoán theo quy định nhằm mục đích kiếm lời" [36, tr.12].
Những quan điểm khác nhau nêu trên cho thấy có nhiều cách nhìn nhận
về TTCK. Về cơ bản, một thị trƣờng nói chung bao giờ cũng diễn ra các hoạt
động mua, bán, trao đổi hàng hoá, do đó TTCK tất nhiên phải có các hoạt
động này. TTCK có hàng hoá là chứng khoán, giá cả của loại hàng hoá này,
cũng nhƣ hàng hoá thông thƣờng khác, đƣợc hình thành trên cơ sở cung cầu
theo quy luật của thị trƣờng. TTCK đƣợc xem xét ở các khía cạch gồm: các
yếu tố của thị trƣờng nhƣ cung, cầu hàng hoá, giá cả, chỉ số, dịch vụ trung
gian (môi giới, tƣ vấn, bảo lãnh, tạo lập thị trƣờng), dịch vụ hỗ trợ (thanh
toán, bù trừ, lƣu ký, kiểm toán, định mức tín nhiệm ), quản lý; các chủ thể
tham gia thị trƣờng: ngƣời đầu tƣ, các trung gian kinh doanh chứng khoán,
đối tƣợng hỗ trợ cung cấp dịch vụ, tổ chức cung cấp phƣơng tiện giao dịch,
các tổ chức cung cấp hàng hoá và các tổ chức quản lý thị trƣờng. Nhƣ vậy,
TTCK là một hệ thống các yếu tố và mối quan hệ của các chủ thể nói trên.
TTCK có những đặc điểm đặc thù khác biệt với thị trƣờng hàng hoá
thông thƣờng. Về bản chất thì TTCK là nơi tập trung và phân phối các nguồn
vốn tiết kiệm cho đầu tƣ; về nguyên tắc hoạt động các giao dịch chứng khoán
diễn ra trên TTCK phải có sự tham gia của các trung gian tài chính làm môi
11
giới; về tầm quan trọng nó có thể ảnh hƣởng rất lớn đến tình hình kinh tế,
chính trị, xã hội của mỗi quốc gia và có tính đặc biệt do hàng hoá đƣợc mua
bán, trao đổi trên thị trƣờng này là chứng khoán -"một loại hàng hoá đặc
biệt".
TTCK đƣợc xem xét và phân loại dựa theo những tiêu chí khác nhau:
- Căn cứ vào phƣơng thức tổ chức và giao dịch, TTCK đƣợc phân
thành thị trƣờng tập trung và thị trƣờng phi tập trung:
TTCK tập trung (SGDCK hay TTGDCK) là thị trƣờng trong đó việc
giao dịch mua bán chứng khoán đƣợc thực hiện tại một điểm tập trung gọi là
sàn giao dịch của TTGDCK hay SGDCK.
TTCK phi tập trung gồm: thị trƣờng giao dịch qua quầy (thị trƣờng
OTC: Over the counter) trong đó việc giao dịch không diễn ra tại một địa
điểm tập trung mà thông qua hệ thống nối mạng giữa các thành viên, không
có ngày giờ hay thủ tục nhất định mà do sự thoả thuận giữa ngƣời mua và
ngƣời bán; TTCK "trao tay" - "chợ đen" là thị trƣờng hoạt động mua bán tự
do, phân tán không qua thị trƣờng giao dịch chứng khoán tập trung và OTC,
việc mua bán diễn ra trực tiếp, trao tay giữa ngƣời mua và ngƣời bán.
- Ngoài ra, căn cứ vào kỳ hạn giao dịch, TTCK đƣợc phân thành thị
trƣờng trao tay và thị trƣờng giao dịch kỳ hạn; căn cứ vào đặc điểm các loại
chứng khoán lƣu thông, TTCK gồm thị trƣờng trái phiếu, thị trƣờng cổ phiếu
và thị trƣờng các công cụ tài chính có nguồn gốc chứng khoán; căn cứ vào
tính chất luân chuyển vốn, TTCK đƣợc phân thành thị trƣờng sơ cấp và thị
trƣờng thứ cấp.
Đề tài này tập trung vào việc bảo vệ quyền lợi của ngƣời đầu tƣ trên
TTCK tập trung, ở đó các hoạt động có tổ chức, tuân theo các quy định của
pháp luật, thời gian biểu của việc giao dịch đƣợc quy định rõ, các chứng
khoán đƣợc niêm yết thƣờng là chứng khoán của những công ty lớn, có danh
tiếng và phải đáp ứng những yêu cầu xác định.
12
Để hiểu đƣợc bản chất của TTCK, cần nghiên cứu "chứng khoán" -
hàng hoá của thị trƣờng này. "Chứng khoán" là khái niệm phức tạp nên có
nhiều quan điểm và cách hiểu khác nhau.
Theo quan điểm truyền thống "chứng khoán là phƣơng tiện xác nhận
quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời sở hữu chứng khoán đối với tài sản hoặc
vốn của tổ chức phát hành" [35, tr.9].
Chứng khoán còn đƣợc định nghĩa là "chứng chỉ ghi rõ quyền tài sản
thể hiện quyền chủ nợ và quyền sở hữu và trên cơ sở xác nhận đó có thể thực
hiện việc chuyển giao hoặc thực hiện quyền đối với tài sản" [36, tr.144]
Theo quy định của pháp luật Việt Nam: "Chứng khoán là chứng chỉ
hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận các quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời sở
hữu chứng khoán đối với tài sản hoặc vốn của tổ chức phát hành, gồm: cổ
phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tƣ chứng khoán, các loại chứng khoán
khác theo quy định của pháp luật" [16, Điều 3]. Về bản chất, chứng khoán có
đặc trƣng là xác nhận quyền chủ nợ hoặc quyền sở hữu đối với chủ thể phát
hành nó.
Mặc dù có nhiều loại chứng khoán và hình thức thể hiện ngày càng đa
dạng nhƣng chứng khoán có một số đặc tính cơ bản sau:
- Tính giá trị: Chứng khoán thể hiện quyền tài sản hay lợi ích tài sản
của ngƣời sở hữu nó đối với chủ thể phát hành. Chứng khoán xác nhận quyền
chủ nợ hoặc quyền sở hữu phần tài sản của chủ thể phát hành nên nó luôn có
những giá trị nhất định. Giá trị của chứng khoán đƣợc thực hiện khi bán các
chứng khoán và khi nhận các khoản thanh toán khi đến hạn đối với các chứng
khoán nợ. Ngoài ra, chứng khoán còn có thể đƣợc sử dụng nhƣ tài sản bảo
đảm trong các giao dịch kinh tế, dân sự. Trong một số trƣờng hợp cũng có
những chứng khoán không có giá trị khi công ty phát hành đã bị phá sản.
- Tính sinh lợi: Thể hiện ở việc ngƣời phát hành ra chúng phải trả cho
ngƣời sở hữu chứng khoán một khoản lợi tức trong tƣơng lai để nhận về mình
quyền sử dụng vốn. Mỗi chứng khoán có một khả năng thu lợi khác nhau cho
13
chủ sở hữu, nhƣng nói chung lợi ích mà một chứng khoán đem lại thƣờng bao
gồm hai bộ phận là lợi tức và chênh lệch mệnh giá.
- Tính thanh khoản: Chứng khoán dễ dàng chuyển đổi thành tiền nên nó
có sức hút đối với ngƣời đầu tƣ. Sau khi phát hành, chứng khoán đƣợc mua đi
bán lại nhiều lần trên TTCK. Mỗi chứng khoán có khả năng thanh khoản khác
nhau, nhƣng nhìn chung chứng khoán nào cũng có khả năng thanh khoản nhất
định. Trong những thời điểm nhất định cũng có những chứng khoán mất khả
năng thanh khoản và sẽ nhanh chóng bị loại bỏ khỏi thị trƣờng.
- Tính rủi ro: Việc mua bán chứng khoán có thể gây ra thất thoát tài sản
cho chủ sở hữu chứng khoán (ngƣời đầu tƣ), thể hiện bản chất rủi ro tiềm tàng
của hoạt động đầu tƣ vốn. Mức độ rủi ro tiềm tàng phụ thuộc vào nhiều yếu tố
nhƣ thời gian đầu tƣ, chủ thể nhận vốn … Những rủi ro thƣờng gặp gồm: rủi
ro thanh toán, là khả năng không thu hồi đƣợc vốn đầu tƣ bỏ ra; rủi ro về
thanh khoản, là khả năng chứng khoán do ngƣời đầu tƣ nắm giữ không bán
đƣợc hoặc chỉ đƣợc bán với giá trị thật; rủi ro khác nhƣ rủi ro về pháp luật, về
lạm phát, về lãi suất …
Chứng khoán có nhiều loại khác nhau đƣợc phân chia dựa trên những
căn cứ khác nhau. Một số loại chứng khoán tiêu biểu đang đƣợc phát hành và
giao dịch phổ biến hiện nay là: Chứng khoán vốn, là loại chứng khoán xác
nhận sự góp vốn và quyền liên quan đến phần vốn góp của chủ sở hữu chứng
khoán đối với đối tƣợng phát hành ra nó, bao gồm cổ phiếu và chứng chỉ quỹ
đầu tƣ. Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp
pháp đối với thu nhập và tài sản của một công ty cổ phần, cũng nhƣ quyền
tham gia quản lý công ty. Chứng chỉ quỹ đầu tƣ là loại chứng khoán do công
ty quản lý quỹ hoặc các quỹ đầu tƣ phát hành, xác nhận phần vốn góp và
quyền hƣởng lợi của ngƣời đầu tƣ đối với quỹ. Trái phiếu, là phƣơng tiện vay
nợ, theo đó, chủ thể phát hành ra nó cam kết sẽ trả lại cả gốc và lãi vào một
thời gian nhất định trong tƣơng lai cho ngƣời sở hữu trái phiếu. Ngoài ra còn
14
có những loại chứng khoán khác nhƣ chứng quyền cho phép ngƣời nắm giữ
nó có quyền mua một khối lƣợng cổ phiếu phổ thông nhất định theo mức giá
đã đƣợc xác định trƣớc trong thời kỳ nhất định [16, Khoản 2 Điều 3]; hợp
đồng lựa chọn là một bản hợp đồng đƣợc soạn ra giữa hai ngƣời xác định cho
ngƣời mua "quyền mua" đƣợc mua một loại chứng khoán với số lƣợng và giá
cả đã đƣợc ấn định trong một thời gian nhất định, và ngƣời mua "quyền bán"
đƣợc bán một loại chứng khoán với số lƣợng, giá cả và thời gian đã ấn định,
hợp đồng giao sau thƣờng chỉ đƣợc giao dịch ở các thị trƣờng phát triển.
1.1.2. Chức năng, vai trò và ảnh hƣởng của thị trƣờng chứng
khoán đối với nền kinh tế
TTCK có chức năng, vai trò to lớn trong nền kinh tế của mỗi quốc gia
có nền kinh tế thị trƣờng, kể cả các quốc gia có nền kinh tế phát triển và đang
phát triển. Trong giai đoạn hiện nay, TTCK còn đƣợc coi là biểu tƣợng của
nền kinh tế hiện đại.
* Chức năng của TTCK:
- TTCK là kênh dẫn vốn trực tiếp từ những chủ thể có khả năng cung
vốn đến chủ thể cần vốn. TTCK giúp cho cung cầu vốn gặp nhau thông qua
hoạt động mua bán chứng khoán, đồng thời TTCK cung cấp môi trƣờng đầu
tƣ cho công chúng.
- TTCK cung cấp khả năng thanh khoản cho các chứng khoán vì nó là
nơi các chứng khoán đƣợc mua bán, trao đổi. Chức năng này là một trong
những yếu tố quyết định tính hấp dẫn của chứng khoán đối với nhà đầu tƣ và
bảo đảm cho TTCK hoạt động năng động và có hiệu quả.
- TTCK cung cấp thông tin kinh tế và đánh giá giá trị của doanh
nghiệp. TTCK là nơi cung cấp kịp thời, chính xác các nguồn thông tin cần
thiết có liên quan đến việc mua bán các chứng khoán cho mọi thành viên trên
thị trƣờng nhƣ: cung cấp chứng khoán, về sự phát triển kinh tế, về chính sách
tài chính tiền tệ, thông tin về kinh tế thế giới
15
TTCK phản ánh tính hiệu quả của nền kinh tế, phản ánh các xu hƣớng
phát triển kinh tế thông qua sự biến động của chỉ số giá chứng khoán. Chỉ số
giá chứng khoán đƣợc coi là hàn thử biểu của một nền kinh tế. Do thị giá
chứng khoán chịu ảnh hƣởng của nhiều nhân tố trong đó có nhân tố nội tại
của chủ thể phát hành tức tình hình và kết quả sản xuất kinh doanh của một
doanh nghiệp. Thông qua giá cổ phiếu của một doanh nghiệp ngƣời ta có thể
đánh giá giá trị của một doanh nghiệp.
- TTCK tạo môi trƣờng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách vĩ mô.
* Vai trò, ảnh hưởng của TTCK đến nền kinh tế:
Sự ra đời của TTCK là một tất yếu khách quan của nền kinh tế thị
trƣờng và khi đã thực sự hình thành thì TTCK, đến lƣợt nó, lại có vai trò to
lớn trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
- TTCK có vai trò quan trọng trong huy động vốn trung và dài hạn để
đầu tƣ vào sản xuất kinh doanh:
TTCK đóng vai trò là kênh huy động các nguồn vốn góp phần tài trợ
cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, khuyến khích tiết kiệm và đầu tƣ. Hàng
hoá trên TTCK đa dạng về chủng loại, có thời hạn khác nhau, khả năng sinh
lời, rủi ro khác nhau phù hợp với tâm lý và nhu cầu của các đối tƣợng đầu tƣ
khác nhau. Nhờ có TTCK, việc mua bán chứng khoán diễn ra thuận tiện,
nhanh chóng. TTCK giúp cho việc thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi, nhỏ bé,
phân tán trong xã hội thành những nguồn vốn lớn tài trợ cho đầu tƣ phát triển.
TTCK biến các khoản vốn ngắn hạn thành các khoản vốn trung và dài hạn
cho đầu tƣ, một ƣu thế mà không có hình thức huy động vốn nào có thể làm
đƣợc. Ngay cả ngƣời có tiền vốn nhàn rỗi tạm thời cũng có thể tham gia
TTCK để tài trợ cho các doanh nghiệp đầu tƣ dài hạn mà không lo bị đọng
vốn vì tính thanh khoản của chứng khoán. Mặt khác, sự xuất hiện của các quỹ
đầu tƣ với vai trò làm trung gian đầu tƣ chứng khoán, thu hút từng nguồn vốn
tiết kiệm nhỏ nhất tập trung lại để kinh doanh chứng khoán với nguồn vốn lớn
16
làm giảm tối đa chi phí giao dịch trên TTCK đã giúp ngay cả ngƣời dân có
khoản tiền rất nhỏ cũng có thể tham gia đầu tƣ sinh lời trên TTCK. Nhờ vai
trò này mà vốn trong nền kinh tế quốc dân đƣợc tích tụ lại đầu tƣ cho các dự
án lớn, dài hạn để phát triển, cũng nhƣ tạo ra các doanh nghiệp có quy mô vốn
lớn với sức cạnh tranh trên thị trƣờng rất cao. Nếu TTCK hoạt động an toàn,
hiệu quả nó sẽ giảm bớt nhu cầu tiêu dùng và dành vốn cho đầu tƣ phát triển.
- Nhờ vào trào lƣu quốc tế hoá TTCK quốc gia cho nên TTCK có vai
trò nhƣ là công cụ thu hút vốn đầu tƣ từ nƣớc ngoài vào trong nƣớc:
Sự hiện diện của TTCK tạo điều kiện cho các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài có
nguồn vốn nhàn rỗi có thể đầu tƣ vào chứng khoán một cách dễ dàng. Từ đó
nguồn vốn đầu tƣ nƣớc ngoài đƣợc chuyển vào trong nƣớc mà không cần phải
có thủ tục phức tạp và không cần số vốn lớn nhƣ các hình thức đầu tƣ trực
tiếp. TTCK minh bạch còn giúp cho ngƣời đầu tƣ nƣớc ngoài theo dõi nhận
định hoạt động của các ngành, các doanh nghiệp trong nƣớc, từ đó có định
hƣớng đầu tƣ đúng đắn.
- TTCK có vai trò thúc đẩy việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, điều
tiết vốn từ nơi sử dụng vốn không có hiệu quả sang nơi có hiệu quả. Nó là
một trong những tác nhân thúc đẩy nền tài chính minh bạch.
Nhà nƣớc chỉ cho phép những doanh nghiệp có đủ các điều kiện nhƣ
kinh doanh hợp pháp, tình hình tài chính lành mạnh và có doanh lợi đƣợc phát
hành chứng khoán. Ngƣời đầu tƣ cũng chỉ mua chứng khoán của những
doanh nghiệp hoạt động hiệu quả. Sự lựa chọn của ngƣời đầu tƣ chứng khoán
là buộc các doanh nghiệp phải tính toán sao cho vốn đƣợc sử dụng có hiệu
quả. Với chế độ bắt buộc công bố thông tin áp dụng đối với các chủ thể phát
hành chứng khoán và các công ty niêm yết, ngƣời đầu tƣ sẽ có điều kiện để
phân tích, đánh giá từ đó có những quyết định đầu tƣ đúng đắn. Nhƣ vậy, vốn
sẽ vận động đến nơi mà chúng đƣợc sử dụng có hiệu quả hơn.
17
- TTCK có vai trò giúp Nhà nƣớc thực hiện các chính sách tài chính
tiền tệ quốc gia.
Thông qua TTCK, Nhà nƣớc dễ dàng vay vốn trong dân để bù đắp bội
chi. TTCK là nơi cung cấp các dữ liệu giúp nhà nƣớc có biện pháp điều hoà
lƣu thông tiền tệ, điều hoà vốn đầu tƣ giữa các ngành, các vùng nhằm đạt mục
tiêu của chính sách tài chính tiền tệ quốc gia. Chẳng hạn, việc Chính phủ phát
hành chứng khoán ra công chúng (trái phiếu chính phủ) với lãi suất cao sẽ tạo
khả năng thu hút tiền đang lƣu thông vào Chính phủ, làm giảm bớt lƣợng tiền
lƣu thông và sẽ làm giảm lạm phát khi cần thiết.
- Thông qua TTCK, các chủ thể kinh tế đều có thể đầu tƣ trực tiếp vào
nền kinh tế quốc dân và khi đầu tƣ vào cổ phiếu họ trở thành những ngƣời chủ
sở hữu một phần giá trị của doanh nghiệp. Nhƣ vậy, TTCK có tác dụng: thúc
đẩy cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nƣớc; hình thành chế độ đa sở hữu về tƣ
liệu sản xuất và tài sản trong nền kinh tế; phân bổ quyền lợi và rủi ro cho các
thành viên trong xã hội, do đó tạo mối quan tâm chung của xã hội đối với nền
kinh tế đất nƣớc.
Qua những đặc điểm trên cho thấy TTCK rất nhạy cảm với các yếu tố
kinh tế, chính trị, xã hội; việc ổn định và phát triển các yếu tố đó chính là cơ
sở quan trọng để TTCK ổn định và phát triển. TTCK cũng tác động trở lại với
những tính chất tích cực và tiêu cực nhất định. Trong đó, đáng lƣu ý là các
hiện tƣợng tiêu cực làm ảnh hƣởng đến ngƣời đầu tƣ, nền kinh tế và cả xã hội
nhƣ: thông tin sai sự thật, tạo cung cầu giả về chứng khoán; sử dụng thông tin
nội bộ của nhà phát hành, của công ty niêm yết để giành lợi thế trong mua bán
chứng khoán nhằm kiếm lời bất chính …
1.2. BẢO VỆ NGƢỜI ĐẦU TƢ - VẤN ĐỀ CỐT YẾU TRONG QUÁ
TRÌNH XÂY DỰNG THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM
1.2.1. Khái niệm ngƣời đầu tƣ chứng khoán
18
Tham gia hoạt động trên TTCK có rất nhiều chủ thể nhƣ: tổ chức phát
hành; ngƣời đầu tƣ chứng khoán; các tổ chức thực hiện hoạt động kinh doanh,
dịch vụ trên TTCK nhƣ các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, ngân
hàng; cơ quan quản lý nhà nƣớc đối với TTCK; các tổ chức khác tham gia
TTCK nhƣ SGDCK, TTGDCK, tổ chức lƣu ký chứng khoán và thanh toán ,
trong đó "ngƣời đầu tƣ chứng khoán" luôn đƣợc coi là chủ thể trung tâm của
thị trƣờng.
Trong các văn bản pháp luật hiện hành chƣa có một quy định nào giải
thích cụ thể khái niệm "ngƣời đầu tƣ chứng khoán" (hay còn gọi là nhà đầu
tƣ). Hiện còn có nhiều quan điểm khác nhau về ngƣời đầu tƣ chứng khoán.
Có quan điểm cho rằng "nhà đầu tƣ chứng khoán là những ngƣời thực
sự mua và bán chứng khoán trên TTCK" [46].
Cũng lại có quan điểm cho rằng: "nhà đầu tƣ là những chủ thể có nhu
cầu đầu tƣ bằng cách mua các loại chứng khoán trên TTCK" [35, tr.21].
Trƣớc đây, khoản 22, điều 2, Nghị định số 48/1998/NĐ-CP về chứng
khoán và TTCK đã quy định "ngƣời đầu tƣ là ngƣời sở hữu chứng khoán,
ngƣời mua hoặc dự kiến mua chứng khoán cho mình". Theo đó, ngƣời đầu tƣ
chứng khoán có thể bao gồm ngƣời đã mua chứng khoán và đang nắm giữ
chứng khoán hoặc ngƣời có ý định mua chúng.
Theo chúng tôi, có thể xem ngƣời đầu tƣ chứng khoán bao gồm những
ai quan tâm đến việc kiếm lời từ chứng khoán, họ bỏ tiền ra mua chứng
khoán, đầu tƣ nhằm thu lời trong tƣơng lai, mục đích của họ là thu lợi nhuận,
hạn chế rủi ro, tổn thất tài chính.
Hiện cũng có nhiều cách phân loại khác nhau về ngƣời đầu tƣ chứng
khoán: Phân biệt theo quốc tịch thì có ngƣời đầu tƣ chứng khoán trong nƣớc,
ngƣời đầu tƣ chứng khoán nƣớc ngoài; nếu căn cứ vào tính chất đầu tƣ thì
ngƣời đầu tƣ chia thành ngƣời đầu tƣ chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp;
ngƣời đầu tƣ cũng thƣờng đƣợc phân loại theo tiêu chí tổ chức hoặc cá nhân.
19
- Ngƣời đầu tƣ cá nhân là những cá nhân tham gia mua bán chứng
khoán trên TTCK với mục đích lợi nhuận. Ngƣời đầu tƣ cá nhân là những
ngƣời có vốn tạm thời nhàn rỗi và có nhu cầu đầu tƣ để thu đƣợc các khoản
lợi từ sự tăng trƣởng kinh tế thông qua việc đầu tƣ vào TTCK. Mặc dù vậy, sự
tham gia của ngƣời đầu tƣ cá nhân còn hạn chế bởi vì đại đa số họ không có
sự am hiểu về TTCK và họ phải nhờ đến sự tƣ vấn của các công ty chứng
khoán. Đặc biệt ở nƣớc ta, TTCK còn là một lĩnh vực đầu tƣ mới mẻ đối với
các cá nhân, không tránh khỏi tâm lý e ngại, rụt rè và sợ gặp phải rủi ro. Vì
vậy, lƣợng vốn của các cá nhân đầu tƣ vào TTCK còn ít.
- Ngƣời đầu tƣ có tổ chức là các tổ chức thƣờng xuyên mua bán chứng
khoán với số lƣợng lớn trên thị trƣờng. Các tổ chức này thƣờng có nhiều
chuyên gia có kinh nghiệm chuyên nghiên cứu thị trƣờng để đƣa ra các quyết
định đầu tƣ. Một số ngƣời đầu tƣ có tổ chức trên TTCK hiện nay: Quỹ đầu tƣ
chứng khoán (quỹ tín thác) đƣợc thành lập nhằm thu hút vốn của nhiều ngƣời
đầu tƣ cá nhân để đầu tƣ chứng khoán; các tổ chức tài chính nhƣ công ty bảo
hiểm, các tổ chức tín dụng, các quĩ hƣu trí và quĩ bảo hiểm xã hội, đây là
những tổ chức có tiềm lực tài chính và có thể tham gia với khối lƣợng vốn
lớn.
Đối với mỗi loại ngƣời đầu tƣ, do có những đặc thù khác nhau, dẫn đến
có lợi ích, khả năng bị xâm hại lợi ích, khả năng tự bảo vệ cũng sẽ khác
nhau, nên việc nghiên cứu chính xác, phân loại khoa học sẽ giúp cho việc đƣa
ra các quy định điều chỉnh, nhất là có những cách thức bảo vệ riêng, phù hợp
cho từng loại. Ví dụ: đối với ngƣời đầu tƣ chuyên nghiệp, có tổ chức thì mức
độ bảo vệ ít hơn so với ngƣời đầu tƣ không chuyên nghiệp, cá nhân vì họ hiểu
biết và có khả năng chuyên nghiệp hơn trong việc tự bảo vệ lợi ích của mình.
1.2.2. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi ngƣời đầu tƣ trên thị
trƣờng chứng khoán tập trung ở Việt Nam
1.2.2.1. Sự cần thiết phải bảo vệ người đầu tư
20
Nhƣ đã nêu trên, tham gia hoạt động trên TTCK có rất nhiều loại chủ
thể khác nhau, nhƣng xét cho đến cùng thì các quan hệ chính phát sinh trên
TTCK là quan hệ mua bán chứng khoán giữa tổ chức phát hành với ngƣời đầu
tƣ và giữa ngƣời đầu tƣ với nhau. Để cho các quan hệ mua bán chứng khoán
trên đƣợc thực hiện một cách thuận lợi cần có sự tham gia của các tổ chức hỗ
trợ nhƣ các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, ngân hàng, SGDCK,
tổ chức lƣu ký chứng khoán và thanh toán. Nhƣ vậy, có thể nói, trong các loại
chủ thể tham gia TTCK thì ngƣời đầu tƣ chứng khoán là loại chủ thể trung
tâm, là nhân vật chính của thị trƣờng, nếu không có ngƣời đầu tƣ thì sẽ không
thể có TTCK. Đó là loại chủ thể có số lƣợng tham gia đông đảo nhất và cũng
chính họ là đối tƣợng có nguy cơ gặp phải rủi ro cao nhất. Sở dĩ có thể khẳng
định nhƣ vậy là vì lợi ích của họ dễ bị các chủ thể khác xâm hại, xuất phát từ
việc ngƣời đầu tƣ là ngƣời bỏ tiền vốn của mình ra để mua lấy một loại hàng
hoá đặc biệt trên thị trƣờng đó là "chứng khoán". Tính chất đặc biệt của loại
hàng hoá chứng khoán thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, nếu chỉ nhìn vào chứng khoán, khó có thể nhận biết đƣợc
chứng khoán đó tốt, xấu, khó có thể xác định đƣợc giá trị của chứng khoán
bằng cách quan sát chúng. Đối với hàng hoá thông thƣờng, do giá trị và giá trị
sử dụng của nó đã đƣợc kết tinh ngay trong kết cấu lý hoá của nó, ngƣời mua
trong nhiều trƣờng hợp có thể bằng giác quan kiểm tra đánh giá chất lƣợng
của hàng hoá, ngƣời mua ít có khả năng bị ngƣời bán lừa dối. Khác với hàng
hoá thông thƣờng, chứng khoán chỉ đóng vai trò làm bằng chứng để ngƣời
mua chứng khoán có quyền yêu cầu chủ thể phát hành trả lãi suất và tiền vốn
mà họ đã bỏ ra sau một thời gian nhất định (nếu là trái phiếu) hoặc yêu cầu
chủ thể phát hành chia lợi nhuận từ kết quả kinh doanh (nếu là cổ phiếu). Cho
nên, việc đánh giá giá trị và định giá chứng khoán phải căn cứ vào khả năng
trả nợ (nếu là trái phiếu) hoặc thực trạng và triển vọng phát triển của chủ thể
phát hành ra công chúng (nếu là cổ phiếu). Muốn đánh giá đƣợc chính xác giá
21
trị của chứng khoán để mua hoặc để bán phải có đủ thông tin cần thiết, đáng
tin cậy và cần có đủ trình độ đánh giá, phân tích thông tin. Nếu không có đủ
thông tin hoặc thông tin không đáng tin cậy thì ngƣời đầu tƣ có thể có quyết
định đầu tƣ sai lầm hoặc không dám đầu tƣ nếu họ nhận thức đƣợc thông tin
không đáng tin cậy. Do tính chất đặc biệt này của chứng khoán, hiện tƣợng
thông tin sai sẽ gây tổn hại cho nhà đầu tƣ. Làm thế nào để chứng khoán khi
phát hành, mua bán trên thị trƣờng phải là hàng hoá có thể định giá tƣơng đối
chính xác đƣợc rõ ràng phụ thuộc vào hoạt động công bố thông tin, bởi ngƣời
đầu tƣ thƣờng gặp một số rủi ro sau đây:
+ Rủi ro thị trƣờng: Là rủi ro làm cho ngƣời đầu tƣ mất một phần vốn
khi giá cả trên thị trƣờng có khả năng biến đổi do chênh lệch trong quan hệ
cung cầu hay do tác động của các yếu tố tâm lý, tin đồn thất thiệt, hành vi
lũng đoạn, mua bán nội gián Từ đó, thị trƣờng có thể xảy ra hai xu hƣớng
với hai khả năng rủi ro khác nhau: Thứ nhất, giá chứng khoán tăng nhanh và
liên tục trong thời gian dài, vƣợt xa giá trị thực của nó. Hiện tƣợng này
thƣờng đƣợc gọi là "bong bóng chứng khoán". Thứ hai, khi giá chứng khoán
xuống, ngƣời đầu tƣ thi nhau bán tháo đi làm cho chứng khoán sụt giá nhanh
và dƣới mức giá trị của nó khiến thị trƣờng bị chao đảo.
+ Rủi ro về thông tin: thông tin là yếu tố quan trọng luôn ảnh hƣởng
đến giá và khối lƣợng giao dịch của các chứng khoán. Khi có thông tin, tin
đồn tốt về một loại chứng khoán nào đó thì ngƣời ta mua chứng khoán đó vào
và ngƣợc lại thì bán ra. Ngoài ra, các thông tin liên quan đến tình hình tài
chính, hoạt động kinh doanh của công ty, ngƣời đầu tƣ nhất thiết phải có đƣợc
để có quyết định đầu tƣ đúng đắn.
Hàng hoá thông thƣờng sau khi sản xuất ra, qua khâu lƣu thông đến
ngƣời tiêu dùng, chỉ tồn tại trên thị trƣờng trong thời gian ngắn. Nhƣng đối
với chứng khoán, sau khi đƣợc phát hành và đƣợc bán cho ngƣời đầu tƣ, vẫn
tiếp tục tồn tại trên thị trƣờng và sẵn sàng tham gia vào lƣu thông. Ngƣời đầu
22
tƣ mua chứng khoán không phải để khai thác giá trị sử dụng, không phải để
tiêu dùng mà để hƣởng lợi tức từ chứng khoán đem lại, thậm chí chỉ đơn
thuần nhằm bán lại chứng khoán đó để kiếm lời. Chứng khoán tồn tại trên thị
trƣờng lâu dài và nó đƣợc mua đi, bán lại nhiều lần. Vì vậy, mỗi lần mua, bán
chứng khoán ngƣời đầu từ cần phải có đủ thông tin để xác định giá trị chứng
khoán, có nhƣ thế lợi ích từ việc mua bán chứng khoán của họ mới đƣợc bảo
đảm. Nhƣ vậy, phải đảm bảo dòng thông tin tin cậy về tình hình kinh doanh -
tài chính và nhân sự đã, đang diễn ra tại các tổ chức phát hành, các công ty
niêm yết đến với ngƣời đầu tƣ. Bên cạnh đó, rất cần có cơ chế bảo đảm quyền
lợi cho ngƣời đầu tƣ chứng khoán xét từ góc độ thông tin trên TTCK.
Thứ hai, đối với hàng hoá thông thƣờng ngƣời mua có thể trực tiếp
kiểm tra chất lƣợng để đánh giá giá trị của chúng. Điều này dẫn tới ngay cả
ngƣời trong nội bộ công ty (thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc, Ban
kiểm soát ) nơi trực tiếp sản xuất ra hàng hoá cũng không có ƣu thế hơn
ngƣời tiêu dùng trong việc xác định giá trị hàng hoá đó. Chứng khoán thì
không nhƣ vậy, ngƣời tiếp cận đƣợc với thông tin nội bộ bao giờ cũng có đầy
đủ thông tin đáng tin cậy, thậm chí cả những thông tin chƣa đƣợc công bố để
đánh giá giá trị của chứng khoán một cách chính xác hơn hẳn những ngƣời
đầu tƣ khác. Vì thế, phải ngăn cấm ngƣời tiếp cận những thông tin nội bộ
không đƣợc lợi dụng ƣu thế của mình về thông tin để mua, bán chứng khoán
nhằm trục lợi cho mình và làm tổn hại ngƣời đầu tƣ khác. Trên thực tế, hiện
tƣợng mua bán nội gián đã từng xảy ra ở nhiều TTCK và nhiều ngƣời đầu tƣ
phải chịu hậu quả của những trò lừa đảo một cách tinh vi, xảo quyệt. Hiện
tƣợng này làm mất niềm tin ở ngƣời đầu tƣ, có thể gây ra sự sụp đổ TTCK.
Thứ ba, đối với hàng hoá thông thƣờng, ngƣời mua có thể không cần sự
trợ giúp của các chuyên gia kỹ thuật mà tự mình quyết định trên cơ sở kinh
nghiệm và hiểu biết của mình. Đối với chứng khoán thì rất khó, muốn xác
định đúng giá trị của chứng khoán phải có đủ thông tin về chủ thể phát hành
23
trong quá khứ, hiện tại và xu hƣớng phát triển trong tƣơng lai, phải phân tích,
đánh giá, giải mã các thông tin trong các báo cáo tài chính, bản cáo bạch. Bên
cạnh đó, ngƣời đầu tƣ còn gặp phải rủi ro trong kinh doanh, đó là việc ngƣời
đầu tƣ không đánh giá đúng khả năng triển vọng phát triển ngành, lĩnh vực
mà công ty hoạt động, từ đó ảnh hƣởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh
doanh cũng nhƣ giá cổ phiếu của công ty trên TTCK. Đối với ngƣời đầu tƣ
bình thƣờng thì việc này là quá sức của họ, vì thế cần một chủ thể trung gian
có đội ngũ chuyên gia làm công việc lƣu giữ, cập nhật thông tin về các tổ
chức phát hành, đồng thời thực hiện việc xử lý, cung cấp thông tin cho ngƣời
đầu tƣ. Họ là những ngƣời tƣ vấn đầu tƣ chứng khoán, ngƣời môi giới chứng
khoán, thiếu họ thì TTCK không thể vận hành đƣợc. Những lời tƣ vấn hoặc
những thông tin họ cung cấp cho ngƣời đầu tƣ ảnh hƣởng lớn đến quyết định
đầu tƣ của ngƣời đầu tƣ và đến cung cầu chứng khoán trên thị trƣờng. Nếu
nhƣ công ty chứng khoán không trung thực sẽ gây hại rất lớn cho ngƣời đầu
tƣ. Hơn nữa trong nhiều trƣờng hợp công ty chứng khoán và ngƣời đầu tƣ ở
vào thế xung đột lợi ích nên công ty thƣờng đặt lợi ích của mình lên trên lợi
ích của khách hàng. Vậy cần phải đảm bảo tính trung thực, đạo đức nghề
nghiệp, ràng buộc trách nhiệm, ngăn chặn những hành vi tiêu cực có thể xảy
ra từ phía các công ty chứng khoán, làm tổn hại tới ngƣời đầu tƣ.
Nhƣ vậy, đầu tƣ vào chứng khoán là một hình thức đầu tƣ có thể đem
lại nhiều lợi nhuận nhƣng mặt khác cũng có thể mang lại rủi ro cho ngƣời đầu
tƣ. Ngƣời đầu tƣ bỏ ra một tài sản có thực là tiền để đổi lấy một tờ giấy cam
kết mà giá trị của nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố rủi ro, có thể làm cho nó
trở thành không có chút giá trị nào, nhƣng cũng có thể có giá trị rất lớn. Vì
thế, khi tham gia đầu tƣ trên TTCK, ngƣời đầu tƣ phải đặc biệt quan tâm chú
ý, cân nhắc cẩn thận để mua chứng khoán phù hợp với chiến lƣợc đầu tƣ và
khả năng tài chính của mình. Những rủi ro trong đầu tƣ chứng khoán rất đa
24
dạng, phức tạp, nhƣng theo các chuyên gia về kinh doanh chứng khoán, có thể
nêu một số rủi ro phổ biến sau đây:
+ Rủi ro thanh toán: là nguy cơ mất toàn bộ hay một phần vốn đầu tƣ
do tổ chức phát hành chứng khoán không có khả năng thanh toán lại nếu làm
ăn thua lỗ hoặc lâm vào tình trạng giải thể, phá sản mỗi chứng khoán có
mức độ rủi ro khác nhau: cổ phiếu rủi ro về vốn cao hơn trái phiếu, trái phiếu
doanh nghiệp rủi ro cao hơn trái phiếu chính phủ.
+ Rủi ro về lạm phát: khi tỷ lệ sinh lời của việc đầu tƣ vào chứng khoán
thấp hơn tỷ lệ lạm phát của đồng tiền thì vốn của ngƣời đầu tƣ bỏ ra mua
chứng khoán có nguy cơ giảm dần theo thời gian.
+ Rủi ro về môi trƣờng pháp lý: là khi luật pháp thay đổi sẽ có tác động
nhất định đến chứng khoán. Chẳng hạn nhƣ rủi ro khi có sự thay đổi luật
pháp, chính sách của nhà nƣớc liên quan đến ngành nghề sản xuất kinh doanh
của công ty phát hành hay thay đổi chính sách chung về chứng khoán và
TTCK.
+ Rủi ro không thanh toán đƣợc giao dịch (đối với cả bên nhận và bên
giao): rủi ro này liên quan đến việc không có khả năng thanh toán đƣợc tiền
và khả năng không nhận đƣợc tiền của ngƣời đầu tƣ.
+ Rủi ro do nhầm lẫn của nhân viên công ty chứng khoán: trong quá
trình tiếp nhận, xử lý, truyền và nhận lệnh của các nhân viên công ty chứng
khoán rất có thể diễn ra sự nhầm lẫn về số hiệu tài khoản, lệnh mua thành bán
và ngƣợc lại, sai sót khối lƣợng, giá và loại giá chứng khoán giao dịch làm
ảnh hƣởng đến quyền lợi của ngƣời đầu tƣ.
Nhƣ vậy, xung quanh hoạt động đầu tƣ của ngƣời đầu tƣ chứng khoán
có những rủi ro khách quan liên quan đến những vấn đề ngoài ý muốn của
ngƣời tham gia thị trƣờng và rủi ro chủ quan, mang tính chủ định, cố ý xâm
hại lợi ích của ngƣời đầu tƣ, có nguồn gốc từ những xung đột lợi ích với các
đối tƣợng khác. TTCK là thị trƣờng vốn dài hạn tập trung các nguồn vốn cho
25
đầu tƣ phát triển kinh tế, do đó nó có tác động rất lớn đến môi trƣờng đầu tƣ
nói riêng và nền kinh tế nói chung. Thị trƣờng này sẽ không thể phát triển hay
sẽ không có ngƣời đầu tƣ nếu không đƣợc tạo ra những luật chơi, không có cơ
chế quản lý, giám sát, thanh tra, xử lý vi phạm có hiệu quả và phƣơng tiện
giảm thiểu những rủi ro kể trên, có thể làm tiêu huỷ lòng tin của ngƣời đầu tƣ.
Ngƣời đầu tƣ chỉ có thể bỏ tiền vào thị trƣờng khi anh ta thấy rằng đang tham
gia vào một cuộc chơi công bằng, minh bạch và lợi ích đƣợc hƣởng đƣợc đảm
bảo. TTCK luôn phát triển trong quá trình không ngừng hoàn thiện cơ chế bảo
vệ lợi ích của ngƣời đầu tƣ, đó là cơ chế mang tính sống còn để thị trƣờng tồn
tại và phát triển. "Trọng tâm của pháp luật và thể chế cần thiết cho một thị
trƣờng chứng khoán, suy cho cùng, là nhằm bảo vệ một cách có hiệu quả lợi
ích của cổ đông thiểu số trƣớc những luồng thông tin bất cân xứng; thiếu
những thiết chế đó thì không ai dám "chung voi với nhà chúa""[18, tr.332].
1.2.2.2. Những quyền và lợi ích hợp pháp cơ bản của người đầu tư
trên thị trường chứng khoán
- Quyền đƣợc quyết định mua hoặc bán chứng khoán: Đây là một trong
những quyền cơ bản của ngƣời đầu tƣ đƣợc quy định trong các văn bản pháp
luật. Quyền này xuất phát từ quyền tự do kinh doanh của mọi công dân đƣợc
ghi nhận tại điều 57 Hiến pháp nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001. Luật Doanh nghiệp năm 1999 có quy
định cho phép các tổ chức, cá nhân đƣợc tiến hành hoạt động sản xuất kinh
doanh trong những lĩnh vực ngành nghề mà pháp luật không cấm [11]. Xét về
bản chất, việc mua bán chứng khoán là một hành vi kinh doanh vì mục đích
chủ yếu mà ngƣời đầu tƣ hƣớng tới là lợi nhuận. Việc mua, bán chứng khoán
đƣợc hiểu là một quyền, do ngƣời đầu tƣ tự quyết định.
- Quyền nhận và đƣợc cung cấp thông tin: Công bố và công khai hoá
các thông tin là một trong những nguyên tắc hoạt động cơ bản, là tiêu chí để
xác định tính hiệu quả của TTCK. Việc công bố thông tin tác động trực tiếp
26
đến lợi ích của ngƣời đầu tƣ, vì nhƣ đã phân tích, ngƣời đầu tƣ căn cứ vào
những thông tin đƣợc công bố để phân tích, xử lý và đƣa ra quyết định đầu tƣ
nên mua hoặc bán một loại chứng khoán theo hƣớng có lợi nhất cho mình và
giảm thiểu tối đa các rủi ro. Chính vì vậy, việc đƣợc nhận thông tin kịp thời,
chính xác và trung thực - quyền đƣợc thông tin cân xứng - là một trong những
quyền cơ bản của ngƣời đầu tƣ và cũng là lợi ích chính đáng của họ.
- Quyền đƣợc nhận các khoản lợi nhuận hợp pháp gắn liền với chứng
khoán thuộc quyền sở hữu của mình: Kết quả cuối cùng của việc mua, bán
chứng khoán suy cho cùng là mục đích mà ngƣời đầu tƣ hƣớng tới, đó là nhận
tiền trong trƣờng hợp bán chứng khoán, nhận chứng khoán trong trƣờng hợp
mua, hƣởng cổ tức, lãi suất trái phiếu, cổ phiếu thƣởng … Nếu việc giao dịch,
thanh toán diễn ra chậm hoặc có bất kỳ sự cố nào sẽ làm hạn chế tính thanh
khoản của chứng khoán và tác động trực tiếp đến lợi ích của ngƣời đầu tƣ. Vì
vậy, ngƣời đầu tƣ luôn đƣợc quyền thanh toán các giao dịch chứng khoán.
- Quyền hƣởng các lợi ích từ việc đầu tƣ chứng khoán: ngƣời đầu tƣ có
quyền hƣởng lợi từ việc đầu tƣ chứng khoán và có toàn quyền quyết định việc
sử dụng các khoản lợi này theo nhu cầu của mình. Họ có quyền thực hiện các
quyền hợp pháp của ngƣời sở hữu chứng khoán nhƣ quyền biểu quyết của cổ
đông, quyền của chủ sở hữu trái phiếu với tƣ cách là chủ nợ.
- Quyền đƣợc sử dụng các dịch vụ do các chủ thể khác của TTCK cung
cấp: Quyền yêu cầu các công ty chứng khoán xác nhận giao dịch kịp thời;
đƣợc sử dụng dịch vụ tƣ vấn đầu tƣ trên cơ sở trả phí cho các công ty tƣ vấn;
đƣợc quyền yêu cầu đóng, mở tài khoản tại các công ty chứng khoán; yêu cầu
tổ chức đăng ký, lƣu ký, bù trừ thực hiện các nghiệp vụ theo quy định; yêu
cầu rút chứng chỉ chứng khoán hoặc xác nhận việc nắm giữ chứng khoán.
- Quyền đƣợc hƣởng những ƣu đãi của pháp luật liên quan đến các hoạt
động trên TTCK nhƣ miễn, giảm thuế thu nhập; trong các thủ tục mở tài
khoản, về chuyển tiền và lợi nhuận liên quan đến đầu tƣ chứng khoán …
27
- Quyền đƣợc yêu cầu các cơ quan chức năng bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình: Hoạt động mua, bán, đầu tƣ chứng khoán là các hoạt
động phức tạp, dễ phát sinh tranh chấp do những hành vi không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của các chủ thể trên thị trƣờng. Các hành
vi vi phạm pháp luật ảnh hƣởng, thiệt hại đến các chủ thể trong đó phổ biến là
ngƣời đầu tƣ. Vì vậy, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời đầu tƣ,
pháp luật cho phép họ có toàn quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền can
thiệp đối với những hành vi vi phạm bằng việc khiếu nại, tố cáo, yêu cầu xem
xét lại quyết định hay khởi kiện ra toà án để xét xử theo quy định của pháp
luật.
1.2.2.3. Các cơ chế xâm hại quyền lợi của người đầu tư trên thị
trường chứng khoán
Để đƣa ra đƣợc những biện pháp, cơ chế bảo vệ lợi ích của ngƣời đầu
tƣ trên TTCK, trƣớc hết cần phải hiểu đƣợc những cơ chế xâm hại lợi ích
ngƣời đầu tƣ xảy ra trên TTCK. Thông thƣờng, việc xâm hại lợi ích có nguồn
gốc từ những mâu thuẫn, xung đột lợi ích giữa các chủ thể tham gia thị trƣờng
nhƣ giữa những ngƣời đầu tƣ với nhau, giữa ngƣời đầu tƣ với các tổ chức
phát hành, tổ chức cung cấp dịch vụ trung gian Trên TTCK tập trung hiện
nay thƣờng diễn ra một số cơ chế xâm hại lợi ích ngƣời đầu tƣ nhƣ sau:
- Lợi ích bị xâm hại từ các tổ chức phát hành: Khi ngƣời đầu tƣ mua
chứng khoán của một tổ chức phát hành, anh ta là chủ sở hữu hoặc là chủ nợ
của tổ chức đó, nên anh ta có đƣợc các quyền làm chủ sở hữu, chủ nợ trực
tiếp hoặc gián tiếp. Có rất nhiều cách thức mà nếu không đƣợc lƣu ý thì các
quyền và lợi ích của ngƣời đầu tƣ sẽ bị xâm phạm nhƣ hiện tƣợng mất lợi thế
thông tin của ngƣời đầu tƣ thiểu số, giao dịch nội gián
- Xâm phạm từ phía các tổ chức trung gian thị trƣờng: Khi các tổ chức
hành nghề môi giới, tƣ vấn đầu tƣ, quản lý quỹ, quản lý danh mục đầu tƣ và
bảo lãnh phát hành thực hiện việc cung cấp thông tin, tƣ vấn, tổ chức mua bán