MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
DANH MỤC BẢNG BIỂU 3
LỜI MỞ ĐẦU 5
CHƢƠNG 1 10
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LÝ VỀ CHĂM SÓC VÀ BẢO VỆ TRẺ EM CÓ
HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN 10
1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ TRONG VIỆC
CHĂM SÓC, BẢO VỆ TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN 10
1.1.1. QUYỀN CON NGƢỜI VÀ QUYỀN TRẺ EM. 10
1.1.2. KHÁI NIỆM CHĂM SÓC VÀ BẢO VỆ TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH
ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN VÀ VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ 17
2. BẢN CHẤT PHÁP LÝ VÀ ĐẶC ĐIỂM CHĂM SÓC VÀ BẢO VỆ TRẺ EM
CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN 22
3. KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT CHĂM SÓC VÀ BẢO VỆ TRẺ EM CÓ HOÀN
CẢNH ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN Ở VIỆT NAM QUA CÁC GIAI ĐỌAN PHÁT
TRIỂN 26
3.1. GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 1980 TRỞ VỀ TRƢỚC 26
3.2. THỜI KỲ SAU NĂM 1980 ĐẾN NAY 28
CHƢƠNG 2 32
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT
VỀ CHĂM SÓC VÀ BẢO VỆ TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN
Ở VIỆT NAM 32
2.1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ CHĂM SÓC VÀ BẢO VỆ
TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN 33
2.1.1. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ 33
2.1.2. NGUYÊN TẮC PHÁP LÝ 40
2.1.3. QUY ĐỊNH VỀ CHĂM SÓC VÀ BẢO VỆ TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH
KHÓ KHĂN 43
2.2. THỰC TIỄN THI HÀNH VÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CHĂM SÓC VÀ
BẢO VỆ TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY 70
CHƢƠNG 3 76
TIẾP TỤC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHĂM SÓC VÀ BẢO VỆ TRẺ EM CÓ
HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN Ở VIỆT NAM 76
3.1. NHU CẦU KHÁCH QUAN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
CHĂM SÓC VÀ BẢO VỆ TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN 76
3.1.1. NHẬN THỨC VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI VÀ QUYỀN TRẺ EM
NÓI RIÊNG 76
3.1.2. TÁC ĐỘNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƢỜNG 77
3.1.3. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ CÁC THIẾT CHẾ CHƢA ĐÁP ỨNG
ĐƢỢC YÊU CẦU CỦA THỰC TIỄN. 78
3.1.4. NHỮNG ĐỊNH HƢỚNG TRONG CÁC CHỦ TRƢƠNG, CHÍNH SÁCH
CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƢỚC 83
3.1.5. TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HÓA, VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ 84
3.2. PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHĂM SÓC VÀ BẢO
VỆ TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN Ở VIỆT NAM 85
PHƢƠNG HƢỚNG THỨ NHẤT 85
PHƢƠNG HƢỚNG THỨ HAI 86
PHƢƠNG HƢỚNG THỨ BA 86
PHƢƠNG HƢỚNG THỨ TƢ 87
3.3. NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHĂM SÓC VÀ BẢO
VỆ TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN Ở VIỆT NAM 87
GIẢI PHÁP 1. SỬA ĐỔI, BỔ SUNG, BAN HÀNH MỚI MỘT SỐ QUY ĐỊNH
PHÁP LUẬT 87
GIẢI PHÁP 2. TUYÊN TRUYỀN, GIÁO DỤC, NÂNG CAO NHẬN THỨC CỦA
CỘNG ĐỒNG, CỦA LÃNH ĐẠO CHÍNH QUYỀN 88
GIẢI PHÁP 3. GIẢI QUYẾT CÁC NGUYÊN NHÂN CHỦ QUAN DẪN ĐẾN
TRẺ RƠI VÀO HOÀN CẢNH KHÓ KHĂN 88
GIẢI PHÁP 4. ĐẦU TƢ HIỆU QUẢ 89
KẾT LUẬN 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 91
DANH MỤC BẢNG BIỂU
TT
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1
Kinh phí dành cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn
giai đoạn 2001 - 2005
69
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam sau 20 năm tiến hành đổi mới đã đạt được những thành tựu
to lớn về kinh tế, chính trị, xã hội và tạo được những chuyển biến rõ rệt trên
mọi mặt đời sống xã hội. Mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa trong đó các quyền con người được quan tâm và là một trong những nội
dung chính của quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay.
Hoạt động chăm sóc và bảo vệ trẻ em được Đảng và Nhà nước quan
tâm và đã đạt được những thành tựu nhất định, và vị thế của nước ta trên
trường quốc tế ngày càng được khẳng định. Tuy nhiên, sự tác động của quá
trình hội nhập kinh tế thế giới, toàn cầu hóa và đô thị hóa, sự chuyển đổi cơ
chế quản lý và định hướng kinh tế thị trường cũng đồng thời làm nảy sinh
hàng loạt các vấn đề khác như khoảng cách giàu nghèo ngày một tăng… cùng
với nhu cầu thực tiễn của công việc khi thực hiện dự án chăm sóc trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn tại một số địa phương, cho thấy hoạt động chăm
sóc và bảo vệ cho trẻ em, đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn
vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề, chẳng hạn như sử dụng lao động trẻ em mồ côi/
trẻ em khuyết tật…
Để tiếp tục sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền và bảo đảm các
quyền con người, nhu cầu cần thực hiện nghiên cứu để có những giải pháp
pháp lý hữu hiệu trong chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn là rất cần thiết. Nhằm góp phần vào việc nghiên cứu cơ sở thực tiễn và
cơ sở lý luận cho việc xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý của hoạt động
chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, tôi đã chọn đề tài:
“ Chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn: cơ sở lý luận và
thực tiễn pháp lý về dân sự ở Việt Nam hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp cao
học Luật.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học
về các khía cạnh xung quanh vấn đề trẻ em, như: “Bảo vệ quyền trẻ em trong
pháp luật Việt Nam” (1996) của GS Nguyễn Đình Lộc, “ Bảo vệ Quyền trẻ
em trong pháp luật Việt Nam” (2005) của UNICEF, “Quyền trẻ em đối với tài
sản và thừa kế tài sản: một vấn đề lý luận và thực tiễn” (1998) của PGS Hà
Thị Mai Hiên, “Cơ chế pháp ý bảo vệ quyền trẻ em ở Việt Nam” của ThS Chu
Mạnh Hùng (2005)… Nhìn chung, các bài viết, các công trình nghiên cứu
trên đã đề cập đến những vấn đề liên quan đến đề tài của luận văn. Tuy nhiên,
phần lớn những công trình nghiên cứu này mới chỉ đề cập đến quyền trẻ em
nói chung mà chưa có công trình nghiên cứu quan tâm riêng đến khía cạnh lý
luận và thực tiễn pháp lý dành cho đối tượng là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn. Ngoài ra, một số bài viết trên các tạp chí đề cập đến vấn đề trẻ em
có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn nhằm làm rõ một số quy định của pháp luật
cũng đã được tham khảo. Đề tài: “Chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn: cơ sở lý luận và thực tiễn pháp lý về dân sự ở Việt Nam
hiện nay” mong muốn tìm hiểu các quy định hiện hành về chăm sóc và bảo vệ
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn trên cơ sở nghiên cứu bản chất của
quyền trẻ em trong pháp luật dân sự, để từ đó đưa ra một số phương hướng và
giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của hoạt động chăm sóc và
bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn trong thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ những khía cạnh lý luận và
thực tiễn pháp lý về dân sự trong việc chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn trên cơ sở nghiên cứu các quy định của luật thực định,
tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định này; từ đó đề ra một số phương
hướng và giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật chăm sóc và bảo vệ trẻ
em nói chung trong điều kiện hiện nay.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu cơ sở lý luận và thực tiễn pháp lý về dân sự trong chăm sóc,
bảo vệ trẻ em nói chung và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn nói
riêng tại Việt Nam
- Phân tích, làm rõ các quy định của pháp luật Việt Nam về chăm sóc và
bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn cũng như việc thi hành
trong thực tiễn để thấy được những điểm phù hợp và những điểm chưa
phù hợp, làm cơ sở đưa ra các khuyến nghị
- Đề xuất một số giải pháp và phương hướng để các quy định của pháp
luật Việt Nam về chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn có tính khả thi trong thực tiễn
Do điều kiện hạn chế, đề tài chủ yếu được nghiên cứu tập trung trong
phạm vi luật thực định.
4. Cơ sở phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
Quá trình thực hiện đề tài đã sử dụng phép biện chứng duy vật của triết
học Mác – Lênin như: pháp luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã
hội, được hình thành từ một cơ sở hạ tầng phù hợp, nhưng có tác động trở lại
nhất định đối với cơ sở hạ tầng và tư tưởng Hồ Chí Minh làm phương pháp
luận cho việc nghiên cứu. Ngoài ra, luận văn còn vận dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể, phù hợp với từng mặt, từng lĩnh vực của đề tài, như:
phương pháp tổng hợp, so sánh luật, phương pháp phân tích lịch sử, thống kê,
điều tra xã hội học …
Các Nghị quyết của Đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề trẻ em, các quy
định của Hiến pháp trong lĩnh vực dân sự, các quy phạm pháp luật dân sự,
pháp luật hôn nhân và gia đình, pháp luật lao động … được sử dụng với tư
cách là cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý cho quá trình nghiên cứu về các quy định
của hệ thống pháp luật quốc gia về chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn dưới góc độ pháp lý của ngành luật dân sự.
5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo hữu
ích phục vụ cho công tác giảng dạy, học tập khi nghiên cứu những vấn đề về
chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Đồng thời, nó
cũng có giá trị nhất định đối với các nhà hoạch định chính sách, các cơ quan,
tổ chức trong việc nghiên cứu tiếp tục hoàn thiện những quy định về vấn đề
này dưới góc độ pháp luật.
6. Cấu trúc của luận văn
Phù hợp với mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu, ngoài phần mở đầu, kết
luận, và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn về đề tài “Chăm sóc và bảo vệ
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn: cơ sở lý luận và thực tiễn pháp lý về
dân sự ở Việt Nam hiện nay” được chia làm 3 chương như sau:
- Chương 1. Những vấn đề lý luận pháp lý về chăm sóc và bảo vệ trẻ em
có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn
- Chương 2. Thực trạng pháp luật dân sự và thực tiễn thi hành pháp luật
về chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt
Nam
- Chương 3. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về chăm sóc và bảo vệ trẻ em
có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở Việt Nam
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LÝ VỀ CHĂM SÓC VÀ BẢO VỆ
TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN
1. Khái niệm và vai trò của pháp luật dân sự trong việc chăm sóc, bảo vệ
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn
Từ thực tiễn phát triển của Việt Nam, đặc biệt qua hơn 20 năm thực
hiện đường lối đổi mới toàn diện đời sống xã hội, trong đó đề cao hoạt động
bảo vệ quyền con người được coi là nhân tố tạo dựng nên một xã hội dân chủ,
văn minh và tiến bộ. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định : “Chăm lo cho con người, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người, tôn trọng và thực hiện các điều
ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia” [1].
Điều này đã trở thành nền tảng, định hướng chính trị quan trọng trong hoạt
động thực tiễn bảo vệ, thúc đẩy và phát triển quyền con người tại Việt Nam.
1.1.1. Quyền con người và quyền trẻ em.
Quyền con ngƣời
Trẻ em cũng là một con người, một thực thể tự nhiên – xã hội. Nghiên
cứu về trẻ em, trước hết, cần nghiên cứu trẻ em với tiếp cận từ quyền của con
người. Vậy quyền con người là gì?
Khái niệm quyền con người có thể được xem xét dưới nhiều góc độ
khác nhau (kinh tế, triết học, chính trị học…), vì vậy, đây là khái niệm rộng
và phức tạp. Căn cứ vào những cách tiếp cận khác nhau đó nên cũng tồn tại
những cách xử lý, thái độ khác nhau khi giải quyết các vấn đề về quyền con
người. Hiện đang tồn tại 3 quan điểm về quyền con người: 1) nhìn con người
như một thực thể tự nhiên và quyền con người là quyền lợi “bẩm sinh” và là
quyền tự nhiên không thể tách rời gắn với mỗi cá nhân con người; 2) con
người và quyền của con người có được trong các mối quan hệ xã hội nhất
định. Quan điểm 1 tuyệt đối hóa quyền con người với tư cách là quyền của
thực thể sinh học – tự nhiên thuần túy, dẫn đến tuyệt đối hóa cá nhân trong
mối quan hệ với cộng đồng xã hôi, coi quyền con người là bất biến, không
phụ thuộc vào không gian, thời gian, quốc gia, dân tộc; đồng thời, phủ nhận
tính xã hội, tính giai cấp của quyền con người. Trong khi đó, quan điểm thứ 2
chỉ quan niệm con người là một thực thể xã hội, và quyền con người được xác
định trong mối quan hệ với các thành viên khác trong xã hội và được nhà
nước, pháp luật ghi nhận. Quan điểm 2 đã khắc phục được nhược điểm của
quan niệm thứ nhất bằng cách ghi nhận tính xã hội và tính giai cấp của quyền
con người, tuy nhiên, dường như quyền con người đã trở thành một sản phẩm
của Nhà nước, do nhà nước và giai cấp thống trị định đoạt.
Quan điểm thứ 3 là quan điểm biện chứng của triết học Mác – Lê nin.
Triết học Mác – Lênin xem xét con người với tư cách là sản phẩm của tự
nhiên và xã hội. Con người vừa là một thực thể tự nhiên, đồng thời cũng là
một thực thể tự nhiên trong cộng đồng xã hội loài người. Quan điểm này phù
hợp với bản chất của con người. Bởi con người chính là sản phẩm được sinh
ra từ quá trình tiến hóa lịch sử - tự nhiên, đồng thời cũng là sản phẩm của lịch
sử - xã hội. Con người biến đổi tự nhiên và xã hội, nhưng ngược lại, cũng
chịu sự tác động trở lại của tự nhiên – xã hội. Chính vì vậy, quyền con người
bên cạnh tính tự nhiên, còn mang tính xã hội, tính giai cấp. Tính xã hội và
tính giai cấp của quyền con người theo tác giả Jacques Mourgon quan niệm:
“ quyền của con người là những đặc quyền được các quy tắc điều khiển, mà
con người giữ riêng lấy trong các quan hệ của mình với những cá nhân và
chính quyền” [22].
Tuyên ngôn toàn thế giới về Quyền con người năm 1948 không đưa ra
khái niệm hay định nghĩa “quyền con người”, tuy nhiên, tuyên ngôn đã quy
định các quyền của con người được hưởng như: quyền sống, quyền tự do và
an toàn cá nhân, quyền được công nhận tư cách là con người trước pháp luật ở
mọi nơi, quyền tự do đi lại và tự do cư trú trong lãnh thổ của quốc gia, quyền
được các tòa án quốc gia có thẩm quyền bảo vệ, quyền có quốc tịch… [21].
Việt Nam đã tham gia, ký kết Công ước quốc tế liên quan đến quyền con
người như: Hiến chương Liên Hợp Quốc năm 1945, Tuyên ngôn toàn thế
giới về quyền con người năm 1948… như một minh chứng cho lý tưởng thực
hiện và bảo đảm quyền con người tại nước ta. Trong sự nghiệp đổi mới hiện
nay, đường lối nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam là đặt con người vào
vị trí trung tâm của các chính sách kinh tế - xã hội, trong đó thúc đẩy và bảo
vệ quyền con người là nhân tố quan trọng để phát triển bền vững, để thực hiện
sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước một cách thắng lợi. Báo
cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản
Việt Nam nêu rõ: “ Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mọi người; tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con
người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia”. Đây là cơ sở chính trị vững
chắc để tiến hành những hành động thực tiễn nhằm bảo vệ và thúc đẩy các
quyền con người nói chung và quyền trẻ em nói riêng ở Việt Nam trong
những năm đầu tiên của thế kỷ 21.
Quyền trẻ em
Tùy thuộc vào cách tiếp cận của từng ngành và từng lĩnh vực nghiên
cứu sẽ có những định nghĩa khác nhau về trẻ em. Trẻ em dưới góc độ tâm lý
học được xác định căn cứ vào độ tuổi và tâm lý theo từng giai đoạn phát triển.
Việc phân chia tùy thuộc vào mức độ phát triển về thể chất, trí tuệ tâm lý,
cũng như yếu tố hạ tầng văn hóa – kinh tế- xã hội của từng quốc gia. Mặc dù
vậy, nhìn chung, theo các nhà tâm lý học thì giai đoạn trẻ em trở thành người
trưởng thành là tuổi 18.
Dưới góc độ nghiên cứu pháp lý, trẻ em là người chưa thành niên. Khái
niệm trẻ em theo TS Trần Thị Thanh Thanh là “một thuật ngữ nhằm chỉ một
nhóm xã hội thuộc về một độ tuổi nhất định trong giai đoạn đầu của sự phát
triển con người” [33]. Theo quy định tại Điều 1 Công ước về Quyền Trẻ em
năm 1989 của Liên Hợp Quốc thì “trẻ em có nghĩa là bất kỳ người nào dưới
18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể được áp dụng với trẻ em đó quy định
tuổi thành niên sớm hơn”. Việc xác định rõ thời điểm bắt đầu và thời điểm kết
thúc thời kỳ trẻ em của một người rất quan trọng, đặc biệt dưới góc độ pháp
lý. Bởi dưới góc độ pháp lý, mỗi người đều được xem xét như một chủ thể
của pháp luật, nghĩa là gắn liền với những quyền và nghĩa vụ khi tham gia vào
một quan hệ pháp luật cụ thể. Công ước nhấn mạnh: “trẻ em, do còn non nớt
về thể chất và trí tuệ, cần được chăm sóc và bảo vệ đặc biệt, kể cả bảo vệ
thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời”. Như vậy, quốc tế
quy định thời điểm bắt đầu được tính từ khi còn là bào thai. Trong hệ thống
pháp luật Việt Nam, Pháp lệnh về Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em do ủy
ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày 14/11/1979 đã định nghĩa trẻ em
“bao gồm các em từ mới sinh đến 15 tuổi”. Tiếp nối Pháp lệnh trên, Luật Bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1991 và năm 2004 định nghĩa trẻ em tại
Điều 1: “Trẻ em quy định trong Luật này là công dân Việt Nam dưới mười
sáu tuổi”. Với thời gian, thời điểm kết thúc giai đoạn trẻ em đã thay đổi từ 15
tuổi thành 16 tuổi, nhưng rõ ràng pháp luật Việt Nam không thừa nhận chủ
thể của pháp luật khi còn là bào thai, mà chỉ thực sự được công nhận từ thời
điểm được sinh ra. Xét từ góc độ tâm sinh lý – xã hội thì “trẻ em” là những
người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần - tức là còn đang trưởng
thành và chưa phải là người lớn, do đó về mặt xã hội cũng chưa có những
nhận thức đầy đủ, đúng đắn và toàn diện.
- Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, có thuật ngữ “người chưa thành
niên”. Bộ luật Dân sự 2005 quy định: “ Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là
người thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên”.
Người chưa thành niên cũng là những người chưa trưởng thành và chưa có
quyền công dân đầy đủ. Vị thành niên là giai đoạn phát triển của dậy thì,
chuyến tiếp từ trẻ em lên người lớn, theo Công ước, những người ở độ tuổi từ
11- 19 tuổi. Chia làm 3 giai đoạn: vị thành niên sớm (từ 11- 14 tuổi), vị thành
niên trung (14-16 tuổi) và vị thành niên lớn (16-19 tuổi). Như vậy, vị thành
niên bao gồm một phần của tuổi trẻ em (11-16 tuổi).
Theo Từ điển luật học [27, tr.568], thuật ngữ vị thành niên và người chưa
thành niên được hiểu như sau: “Vị thành niên (chƣa thành niên) là ngƣời
chƣa đến tuổi đƣợc pháp luật coi là đủ khả năng sử dụng quyền, làm nghĩa vụ
và chịu trách nhiệm. Ngƣời chƣa đủ 18 tuổi là vị thành niên”.
Như vậy, khái niệm người chưa thành niên trong hệ thống pháp luật
Việt Nam bao hàm cả khái niệm trẻ em, cụ thể là những người từ 16 tuổi đến
18 tuổi tuy chưa phải là người thành niên nhưng cũng không phải là trẻ em,
và tư cách chủ thể của nhóm trẻ em (dưới 16 tuổi) và nhóm từ 16 tuổi đến 18
tuổi cũng không đồng nhất về quyền và nghĩa vụ.
Quyền trẻ em là một khái niệm được hình thành từ sau Chiến tranh thế
giới thứ nhất (1914 – 1918) với việc thành lập các tổ chức Cứu trợ trẻ em ở
Anh và Thụy Điển trong năm 1919. [37,tr.153]. Ngày 20/11/1989, Đại hội
đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua Công ước về quyền trẻ em và Công ước
này có hiệu lực kể từ ngày 2/9/1990, với 54 điều khoản và được các quốc gia,
cộng đồng quốc tế công nhận. Trẻ em là nhóm dễ bị tổn thương trong xã hội,
“do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, cần được chăm sóc và bảo vệ đặc biệt,
kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời” [26].
Và trẻ em với tư cách là một con người, được công nhận có đầy đủ các quyền
con người như người đã trưởng thành, trong đó được chia ra thành 5 nhóm:
dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa. Trên cơ sở đó, bên cạnh quy định
về quyền con người của trẻ em như quyền được sống và phát triển, quyền
được bảo vệ khỏi bị áp bức và tổn thương về thể chất và tinh thần , thì nhóm
chủ thể này có những quyền khác đặc trưng cho lứa tuổi. Những quyền đặc
trưng đó bao gồm: quyền được sống cùng cha mẹ, quyền được chăm sóc và
nuôi dưỡng, quyền được nhận làm con nuôi được cụ thể hóa cho phù hợp
với nhu cầu, đặc trưng phát triển và tính chất cuộc sống của trẻ. Có thể tập
hợp các quyền của trẻ em thành 4 nhóm quyền như sau:
a) quyền sống còn: quyền của trẻ em được sống va được đáp ứng
những nhu cầu để tồn tại (mức sống đủ, có nơi ở và được chăm
sóc sức khỏe )
b) quyền được bảo vệ: trẻ phải được bảo vệ chống lại tất cả các hình
thức lạm dụng, sao nhãng và bóc lột (lạm dụng khi vi phạm pháp
luật hình sự, không bị tham gia vào các cuộc xung đột vũ trang,
bảo vệ đặc biệt khỏi nạn tra tấn, lao động trẻ em, nghiện ma túy
và lạm dụng tình dục )
c) quyền được phát triển: những điều kiện mà trẻ em cần có để có
thể phát triển đầy đủ nhất (quyền được học tập, vui chơi, tiếp cận
thông tin, tự do tín ngưỡng tôn giáo )
d) quyền tham gia: trẻ đóng vai trò tích cực trong cộng đồng và đất
nước của mình (tự do bày tỏ ý kiến về những vấn đề có liên quan
đến cuộc sống của các em )
Trẻ em cũng có những quyền khác như những thành viên trong xã hội
ví dụ: quyền chính trị - kinh tế - xã hội với tư cách là một công dân của quốc
gia và với tư cách là một thành viên của cộng đồng người. Tuy nhiên, những
nhóm quyền này được quy định bởi mỗi quốc gia căn cứ trên những quy định
chính của Công ước quốc tế về quyền con người của Liên Hợp Quốc. Từ đó
có thể thấy quyền trẻ em luôn gắn liền với bối cảnh chính trị, kinh tế, xã hôi
và văn hóa của từng quốc gia. Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời luôn nhấn
mạnh: “Thiếu niên, nhi đồng là người chủ tương lai của nước nhà. Vì vậy,
chăm sóc và giáo dục tốt các cháu là nhiệm cụ của toàn Đảng, toàn dân. Công
tác đó phải làm kiên trì, bền bỉ…Vì tương lai của con em ta, dân tộc ta, mọi
người, mọi ngành phải có quyết tâm chăm sóc và giáo dục các cháu bé cho
tốt” [3, tr.467-468]. Việc chăm sóc, giáo dục trẻ em thường xuyên được
Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Đặc biệt, khi đất bước vào công nghiệp hóa –
hiện đại hóa của quá trình đổi mới, bắt đầu từ năm 1986, khi Đại hội Đảng lần
thứ VI đã đề cập đến quyền của công dân, tập trung vào một số chương trình
xã hội như: tạo công ăn việc làm, chăm sóc sức khỏe ban đầu, kế hoạch hóa
gia đình, giáo dục trẻ thơ, giáo dục tiểu học, trung học và đại học cũng như
dạy nghề, bảo hiểm an toàn xã hội và quan tâm đặc biệt đến dân tộc thiểu số.
Trong năm 1989, Việt Nam phê chuẩn công ước quốc tế về quyền trẻ em và
đây là bước tiến quan trọng ghi nhận những nỗ lực của Việt Nam cho sự phát
triển thế hệ tương lai của đất nước. Sau đó Việt Nam tiếp tục phê chuẩn công
ước số 182 của ILO về chống lại các hình thức tồi tệ nhất của lao động trẻ
em…
Những biến đổi sâu sắc trên phạm vi toàn xã hội cũng như đối với mỗi
gia đình đã trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến trẻ em. Triển khai thực hiện
quyền trẻ em cũng góp phần vào thực hiện quyền con người. Chính phủ Việt
Nam khẳng định: “ Công ước về quyền trẻ em là một trong những điều ước
Liên hợp quốc quan trọng về quyền con người mà Việt Nam đã phê chuẩn.
hiện tại, thực hiện quyền trẻ em là một trong những trọng tâm của quyền con
người ở Việt Nam”.
1.1.2. Khái niệm chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn
và vai trò của pháp luật dân sự
Khái niệm chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh khó khăn
Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn
Theo Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc, trên cơ sở những quy định của
công ước về Quyền trẻ em về một nhóm trẻ cần sự bảo vệ đặc biệt. Nhóm trẻ
cần sự bảo vệ đặc biệt gồm: trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em mồ côi, trẻ em khuyết tật,
trẻ em tàn tật, trẻ em làm con nuôi, trẻ em nghiệm ma túy, trẻ em bị nhiễm
HIV/ AIDS, trẻ em bị xâm hại tình dục, trẻ em bị bắt cóc và bị buôn bán…
Điều 3 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 giải thích:
“ Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh không bình thường về
thể chất hoặc tinh thần, không đủ điều kiện để thực hiện quyền cơ bản và hòa
nhập với gia đình, cộng đồng” [12]. Để làm rõ hơn, Điều 40 của Luật Bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 liệt kê đối tượng là trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt, đó là: trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi; trẻ em
khuyết tật, tàn tật; trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học; trẻ em nhiễm
HIV/AIDS; trẻ em phải làm việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc
hại; trẻ em phải làm việc xa gia đình; trẻ em lang thang; trẻ em bị xâm hại
tình dục; trẻ em nghiện ma túy; trẻ em vi phạm pháp luật. Những đối tượng
trẻ em có hoàn cảnh không bình thường về thể chất hoặc tinh thần, không đủ
điều kiện thực hiện quyền cơ bản và hòa nhập với gia đình, với cộng đồng.
Khi so sánh với quy định của Công ước quốc tế về quyền trẻ em về khái niệm
trẻ em nói chung, khái niệm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn nói riêng
và quy định về độ tuổi của trẻ em, những quy định của pháp luật Việt Nam
khá tương đồng, tuy nhiên, về đối tượng và độ tuổi trong quan niệm của Liên
Hợp Quốc rộng hơn.
Các nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn: Luật Bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn đã quy định trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn là chủ thể của mình. Căn cứ vào đặc điểm của
từng nhóm, có thể khái quát đối tượng này thành 2 nhóm:
- nhóm 1 (trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt): bao gồm trẻ em mồ côi không
nơi nương tựa, trẻ em lang thang, trẻ em khuyết tật, trẻ em làm trái
pháp luật, trẻ em gái bị lợi dụng, trẻ em lao động bị bóc lột, trẻ em hồi
hương…
- nhóm 2 (trẻ em có hoàn cảnh khó khăn): bao gồm trẻ em chưa học hết
tiểu học, trẻ em bỏ học giữa chừng, trẻ em phải theo cha mẹ du canh du
cư để kiếm sống, trẻ em phải theo cha mẹ sống trên sông trên biển để
làm nghề cá, trẻ em lao động sớm….
Với quan niệm này, nhóm đối tượng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn cần được chăm sóc đã được mở rộng hơn so với quy định của Luật Bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004.
Tóm lại, có thể khái quát rằng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn là
trẻ em có hoàn cảnh không bình thường về thể chất hoặc tinh thần, không đủ
điều kiện thực hiện các quyền cơ bản của trẻ em và hòa nhập với gia đình,
cộng đồng.
Chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn
Chăm sóc trẻ em hiểu theo nghĩa thông thường, là những hoạt động
nhằm nhận biết và đáp ứng nhu cầu về mặt vật chất và tinh thần để đảm bảo
sự phát triển hài hòa của trẻ em (nhu cầu về ăn mặc, về học hành, về vui chơi
giải trí, nhu cầu được gia đình yêu thương, chăm sóc, nhu cầu được tôn
trọng Bảo vệ trẻ em được hiểu là thực hiện những hành động, những biện
pháp phòng ngừa, khắc phục hậu quả do những hành vi vi phạm gây ra làm
cản trở sự phát triển bình thường của trẻ.
Dưới góc độ pháp luật dân sự, chăm sóc và bảo vệ trẻ em là những hoạt
động, hình thức pháp lý mà các cơ quan, tổ chức và cá nhân áp dụng nhằm
đảm bảo cho trẻ em được thụ hưởng và thực hiện các quyền cơ bản về nhân
thân và tài sản của mình.
Chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn là một bộ
phận, một chế định pháp luật hỗn hợp, với ý nghĩa đó là tổng hợp các quy
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa các chủ thể trong
quá trình thực hiện chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn.
Đặc điểm của trẻ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn
Thực tế, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt có mức độ khó khăn hơn nhiều so
với trẻ em khác, biểu hiện ở các khía cạnh kinh tế, sức khỏe, điều kiện gia
đình….
Về kinh tế, đa số các em thuộc nhóm thiếu hoặc mất nguồn nuôi dưỡng.
Về sức khỏe, với các yếu tố về thể chất – tinh thần, các em là đối tượng có
hạn chế về sức khỏe như khuyết tật, tâm thần, tổn thương tâm lý…làm giảm
hoặc mất khả năng nhận thức, lao động. Do đó, các em cần được sự giúp đỡ
và bảo vệ của nhà nước, của pháp luật và của cộng đồng. Tùy điều kiện kinh
tế - xã hội của các quốc gia, hoặc từng giai đoạn phát triển của quốc gia mà
pháp luật quốc gia sẽ xác định cụ thể phạm vi đối tượng trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn. Trong giai đoạn hiện nay, một trong những tư tưởng cơ
bản của Đảng là coi con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự nghiệp
phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, chăm sóc và
bảo vệ trẻ em nói chung và trẻ em có hoàn cảnh khó khăn nói riêng luôn là
mối quan tâm hàng đầu không chỉ của Nhà nước mà của toàn xã hội.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII năm 1996 đã nhấn
mạnh: “tăng trƣởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bƣớc và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội
phải thể hiện… ở việc tạo điều kiện cho mọi ngƣời đều có cơ hội phát triển và
sử dụng tốt năng lực của mình”. Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn với
những khó khăn về kinh tế, sức khỏe, điều kiện sống, không được chăm sóc
trong môi trường gia đình hoặc được sống trong gia đình nhưng không được
chăm sóc đầy đủ, phải sống trong cảnh nghèo đói. Các em sống thiếu thốn
tình thương của gia đình, phải tự kiếm sống để lo cho bản thân, thậm chí có
em còn phải nuôi gia đình mình. Những khó khăn đó ảnh hưởng tới khả năng
tồn tại và phát triển của các em.
Với điều kiện sinh hoạt và hoàn cảnh sống như vậy, trình độ văn hóa
của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn có mức thấp hơn nhiều so với trẻ
em bình thường cùng lứa tuổi. Việc học tập là ước mơ xa vời và dường như
không có tác động trực tiếp tới đời sống của các em. Trong khi đó, giáo dục là
điều kiện có tính chất tiên quyết giúp hình thành nên một công dân với nền
tảng cơ bản của xã hội. Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn phần lớn
không dược học hành đầy đủ, trong đó, tỷ lệ trẻ em tàn tật, khuyết tật ít được
tiếp xúc với giáo dục là cao nhất.
Tình trạng sức khỏe của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn cũng là
vấn đề đáng báo động, đặc biệt là trẻ tàn tật vì cần có chi phí cho việc chữa
trị. Đối với trẻ em lao động sớm, nghiện ma túy, mại dâm phải lao động làm
việc quá sức nên thường hay đau ốm. Phần lớn trẻ em mại dâm mắc các bệnh
lây qua đường tình dục… ốm đau, ăn uống thiếu thốn, không thể trả phí chữa
trị, thiếu kiến thức chăm sóc sức khỏe là những nguyên nhân chính.
Trước tình trạng đó, Chính phủ đã có những hoạt động mạnh mẽ, đặc
biệt là Chương trình 134 “ bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt” với các đối
tượng cụ thể. Kết quả thực tế là đã đạt được 70% mục tiêu trẻ em mồ côi, trẻ
em có hoàn cảnh khó khăn được chăm sóc, giúp đỡ, trong đó 40% được chăm
sóc tại gia đình, cộng đồng; 30% trẻ em bị chất độc hoá học, trẻ em mồ côi
không nơi nương tựa được chăm sóc tại các Trung tâm bảo trợ xã hội, được
hưởng chính sách thường xuyên của Nhà nước. 100% trẻ em hồi hương hợp
pháp được chăm sóc, tái hòa nhập; trên 80% trẻ em sứt môi, hở hàm ếch được
phẫu thuật nụ cười. Số trẻ em bị buôn bán, bị xâm hại, trẻ em lang thang đang
có chiều hướng gia tăng…
Hoạt động chăm sóc và bảo vệ trẻ em đã được đánh dấu bằng một mốc
quan trọng là việc gia nhập và phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền trẻ em
năm 1989 của Liên Hợp Quốc. Thực tế nhiều mô hình chăm sóc trẻ em có
hoàn cảnh khó khăn đã được xây dựng và hoạt động trên phạm vi toàn quốc
nhưng với con số 1,2 triệu trẻ em tàn tật, 140.000 trẻ em mồ côi, 21.000 trẻ
em lang thang, 1.700 trẻ em bị xâm hại tình dục… và những trẻ em thuộc
nhóm trẻ em nghèo cho thấy còn rất hạn chế. Và chất lượng của hoạt động
chăm sóc và bảo vệ đang gặp những trở ngại về kinh tế - xã hội - hành chính –
pháp lý.
Vai trò của luật dân sự :
Luật Dân sự với tư cách là luật chung quy định về địa vị pháp lý chung
của cá nhân, pháp nhân cũng như các chủ thể khác; đồng thời, quy định quyền
và nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thân và tài sản trong các quan hệ về dân
sự, hôn nhân và gia đình Trong lĩnh vực chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn, luật dân sự được thể hiện ở những vai trò như sau:
- Cụ thể hóa các quyền con người, quyền trẻ em về mặt dân sự: Pháp
luật dân sự đã xác định quy chế nhân thân cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn với tư cách chủ thể của pháp luật dân sự, trên cơ sở những quyền
hiến định được quy định trong Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Các quy chế về nhân thân bao gồm các quyền hiến định như
quyền được khai sinh và có quốc tịch; quyền được chăm sóc nuôi dưỡng;
quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng thân thể, nhân phẩm và danh dự
- Ghi nhận và xác định các hình thức pháp lý đảm bảo và thực hiện các
quyền dân sự. Do trẻ em là đối tượng còn non nớt và chưa phát triển toàn diện
về thể lực và trí lực, nên pháp luật đã quy định những hình thức nhằm đảm
bảo các quyền về dân sự của trẻ được thực hiện như: chế định giám hộ đối với
trẻ em trong các quan hệ pháp luật, sự quan tâm và bảo trợ từ phía các chủ thể
khác (nhà nước, cộng đồng), nuôi con nuôi, bảo vệ trẻ trước những hành vi vi
phạm bằng cách thực hiện các thủ tục tố tụng với Toà án và các cơ quan tư
pháp
- Xác định các phương thức bảo vệ và đảm bảo thực thi các quyền củs
trẻ em. Các phương thức bảo vệ được xác định dựa vào từng thiết chế: gia
đình, gia đình thay thế, cơ sở trợ giúp, nhà trường, nhà nước, cộng đồng,chế
tài: dân sự, hành chính, hình sự và cũng tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng
nhóm trẻ ở từng độ tuổi theo quy định của pháp luật.
2. Bản chất pháp lý và đặc điểm chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn
Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt thường rất nhạy cảm với những tác động
của xã hội đối với cuộc sống thường nhật của các em. Vì vậy, công tác chăm
sóc và bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn cũng có những điểm
khác biệt với chăm sóc trẻ em nói chung. Điều này đã được quy định tại
Chương IV của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004. Cụ thể
là: “…coi trọng việc phòng ngừa, ngăn chặn trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc
biệt; kịp thời giải quyết, giảm nhẹ hoàn cảnh đặc biệt của trẻ em; kiên trì giúp
đỡ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt phục hồi sức khỏe….”.
Xét trên khía cạnh pháp luật, các em chưa có đủ năng lực hành vi nói
chung và năng lực hành vi dân sự nói riêng. Năng lực pháp luật dân sự được
quan niệm là khả năng mà pháp luật quy định hay ghi nhận cho công dân có
quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự. Như thế, năng lực pháp luật dân sự của trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn xuất hiện trên cơ sở các quy định của
pháp luật dân sự. Các quy định này có được thực hiện hay không lại phụ
thuộc vào khả năng của mỗi công dân hay năng lực hành vi của họ. Năng lực
hành vi dân sự của công dân là khả năng bằng chính hành vi của bản thân họ
tham gia trực tiếp vào quan hệ do ngành luật dân sự điều chỉnh, tự hoàn thành
mọi nhiệm vụ, tạo ra và thực hiện quyền, hưởng mọi quyền lợi của mình. Nói
cách khác, năng lực hành vi dân sự của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn
chính là khả năng tham gia các quan hệ pháp luật dân sự của trẻ em. Pháp luật
xác định khả năng này dựa trên các 2 yếu tố tuổi và sức khỏe (bao gồm sức
khỏe thể lực và sức khỏe trí lực). Điều kiện sức khỏe về thể lực công dân cần
phải có là tình trạng sức khoẻ bình thường để có thể thực hiện được các công
việc trong sinh hoạt và lao động sản xuất nhất định theo yêu cầu chung của xã
hội. Điều kiện sức khỏe về trí lực là khả năng nhận thức của công dân đối với
hành vi mà họ thực hiện. Để có sức khoẻ và trình độ nhận thức như trên, công
dân phải đạt đến một độ tuổi nhất định và phát triển bình thường, khi đó công
dân mới có năng lực hành vi dân sự như quy định tại Điều 19 Bộ luật Dân sự
“Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ…”.
Trong quan hệ dân sự, năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi
dân sự xuất hiện không đồng thời. Năng lực pháp luật dân sự có từ khi cá
nhân được sinh ra và chấm dứt khi người đó chết, và năng lực này không bị
hạn chế, trừ những trường hợp do pháp luật quy định; trong khi đó, năng lực
hành vi dân sự được xác định có từ khi đủ 18 tuổi, trừ trường hợp cá nhân bị
hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự - Điều 19 Bộ luật dân sự 2005. Hệ
thống pháp luật Việt Nam cũng ghi nhận sự khác nhau về năng lực hành vi
của cá nhân, mặc dù Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy
định trẻ em là người dưới 16 tuổi; tuy nhiên, tùy thuộc vào việc cá nhân tham
gia vào quan hệ pháp luật nào thì sẽ do ngành luật đó điều chỉnh, ví dụ theo
Luật Dân sự thì người thành niên và có đầy đủ năng lực hành vi dân sự là đủ
18 tuổi, dưới 18 tuổi sẽ phải có người đại diện theo pháp luật; hoặc Luật Lao
động quy định: “Người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả năng lao
động và có giao kết hợp đồng lao động” (Điều 6). Như vậy, trẻ em chưa đủ 15
tuổi được người sử dụng lao động nhận vào làm việc ở một số nghề và công
việc thuộc danh mục do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội quy định, có sự
đồng ý và theo dõi của cha mẹ hoặc người đỡ đầu thì cũng được coi là người
lao động, và người sử dụng lao động không vi phạm quy định cấm sử dụng
lao động trẻ em. Trong quan hệ pháp luật lao động này, những chủ thể nói
trên được coi là người có năng lực hành vi lao động không đầy đủ, năng lực
hành vi lao động một phần. Hoặc theo quy định của Luật Hình sự, trẻ em từ
đủ 14 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm nguy hiểm và gây hậu
quả nguy hiểm cho xã hội. Vì đối tượng là trẻ em, chưa phát triển đầy đủ và
chưa có đủ năng lực hành vi nên pháp luật đã quy định chế định về người
giám hộ/ người đại diện theo pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của trẻ em.
Xét trên khía cạnh kinh tế - xã hội: trẻ em luôn được coi là sống phụ
thuộc vào gia đình từ nhỏ, và không phải là thành phần lao động chính trong
gia đình cũng như xã hội. Mặc dù trên thực tế, trẻ em vẫn tham gia vào các
hoạt động tạo thu nhập ở gia đình, đặc biệt ở nông thôn. Với trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn thì nhiều em là lao động chính nuôi sống bản thân và
gia đình mình nhưng những công việc các em đang làm lại không được điều
chỉnh bởi pháp luật như: nhặt rác, bán báo… và chịu sự thua thiệt khi tham
gia các “giao dịch” với người lớn. Bên cạnh đó, quan niệm truyền thống con
phải theo cha: “ con phải làm việc để gia đình thêm giàu có…” [28, tr.39]
vẫn còn phổ biến trong xã hội, nhiều gia đình thay vì khuyến khích con đến
trường lại bắt con phải ở nhà lao động giúp cha mẹ - nghĩa là đứa trẻ phải
thực hiện nghĩa vụ lao động trước khi được hưởng quyền học tập. Những em
mồ côi hoặc bị bỏ rơi tuy không được yêu thương chăm sóc nhưng vẫn có thể
tự mình làm một số công việc để kiếm sống, còn những em bị khuyết tật bị
coi là “đồ vô tích sự, bỏ đi, ăn bám” gặp nhiều khó khăn hơn nữa. Khả năng
tự vệ của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn rất yếu khi phải trực tiếp
tham gia và các mối quan hệ xã hội. Với tuổi đời còn nhỏ, trí tuệ và thể lực
chưa phát triển đầy đủ, thêm vào đó trình độ nhận thức kém, nên dễ bị lạm
dụng, bị cưỡng bức, xâm hại của người lớn.
Quy định trong Bộ luật Dân sự, Luật Hôn nhân gia đình, Luật Bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, cũng như các văn bản pháp luật liên
quan khác cho thấy việc chăm sóc, bảo vệ trẻ được thực hiện chủ yếu mang
tính cứu trợ, và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn là đối tượng được thụ
hưởng từ các cơ quan – tổ chức – cá nhân, còn bản thân đối tượng này dường
như mất vai trò chủ động tự chăm sóc, tự bảo vệ bản thân khi tham gia các
quan hệ xã hội do ngành luật dân sự điều chỉnh. Chính vì lẽ đó, các quyết
định liên quan được đưa ra căn cứ trên cơ sở một quyết định của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền hoặc sự tự nguyện của gia đình/ thân nhân của trẻ. Sự tự
nguyện hay ý chí của trẻ trong trường hợp này gần như không được xem xét,
nguyên nhân xuất phát từ việc trẻ em chưa có đủ năng lực hành vi trước pháp
luật. Do đó, chế định về giám hộ đã ra đời nhằm giúp trẻ thực hiện những
quyền đó, nhưng hiệu quả hoạt động của giám hộ vẫn còn chưa thuyết phục.
3. Khái quát pháp luật chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn ở Việt Nam qua các giai đọan phát triển
3.1. Giai đoạn từ năm 1980 trở về trước
Với truyền thống nhân văn “thương người như thể thương thân” của
dân tộc Việt Nam, việc tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng người
Việt đã ra đời. Trong lịch sử Việt Nam, trẻ em đã được quan tâm đến từ khá
sớm, ví dụ Bộ luật Hồng Đức đã có quy định về trách nhiệm của xã hội đối
với một nhóm đối tượng đặc biệt trong xã hội – đó là trẻ em tàn tật, mồ côi
như sau: “Những ngƣời góa vợ, góa chồng, mồ côi và ngƣời tàn tật nặng,
nghèo khổ không có ngƣời thân thích để nƣơng tựa, không thể tự mình mƣu
sống đƣợc, quan sở tại phải thu nuôi họ, mà lại bỏ rơi họ thì bị xử đánh 50
roi, biếm 1 tƣ. Nếu họ đƣợc cấp cơm áo, mà quan lại ăn bớt đi, thì phải khép
vào tội nhƣ ngƣời giữ kho ăn trộm của công”[24, tr.116].
Pháp luật phong kiến thời kỳ Hồng Đức đã đưa ra quy định đối với một
nhóm những đối tượng đặc biệt trong xã hội, tuy nhiên mới chỉ hạn chế về
diện hưởng sự chăm sóc đặc biệt bao gồm góa vợ/ chồng, mồ côi, tàn tật
nặng, nghèo khổ phải được sự chăm sóc, giúp đỡ của nhà nước. Tiến bộ hơn
nữa khi ngay từ thời kỳ này, đã có quy định chế tài đối với hành vi không
thực hiện chăm sóc các đối tượng đặc biệt nói trên sẽ bị coi là phạm tội bỏ rơi
và phải chịu hình phạt. Đồng thời, để ngăn chặn quan lại tham nhũng, bớt xén
phần hỗ trợ của nhà nước cho những đối tượng trên sẽ bị quy tội “ăn trộm của