Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Bán đấu giá tài sản theo pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (811 KB, 86 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ THỊ HOA

BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ THỊ HOA

BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số

: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Minh Tuấn

HÀ NỘI - 2010



MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tình hình thực tế hiện nay, tài sản vừa có giá trị sử dụng vừa có
giá trị kinh tế, trong điều kiện kinh tế thị trường nó trở thành yếu tố quan
trọng trong giao lưu dân sự. Với vai trò và ý nghĩa to lớn đó, theo quy định
của Bộ luật dân sự, để phát huy quyền chủ động của các cơ quan nhà nước và
cá nhân trong quá trình xử lý tài sản, để quản lý tài sản được chặt chẽ, hạn chế
những tiêu cực phát sinh trong quá trình quản lý và sử dụng tài sản cần thiết
phải có những quy đinh chặt chẽ hơn trong quá trình bán đấu giá tài sản. Hơn
nữa, Nghị quyết 08 NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về cải cách tư
pháp, cùng với tiến trình hội nhập quốc tế yêu cầu nghiệp vụ bán đấu giá tăng
cả về số lượng và chất lượng.
Tuy nhiên, trong khoa học pháp lý Việt Nam, nội dung bán đấu giá tài
sản vẫn chưa được quan tâm, nghiên cứu một cách sâu sắc, đầy đủ, có hệ thống
và tồn diện. Chẳng hạn, dưới góc độ khoa học, hàng loạt vấn đề cần được làm
sáng tỏ để có quan điểm thống nhất và đầy đủ như lịch sử, khái niệm, bản chất
pháp lý và các loại tài sản bán đấu giá, lịch sử phát triển của các quy phạm về
lĩnh vực này, tìm hiểu pháp luật các nước có quy định về bán đấu giá tài sản hay
việc tổng kết và đánh giá thực tiễn áp dụng những quy định về bán đấu giá tài
sản, các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng... Mặc dù, Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18/01/2005 về bán đấu giá tài sản (sau đây
gọi tắt là Nghị định 05/2005/NĐ-CP) và Thông tư số 03/2005/TT-BTP ngày
4/5/2005 hướng dẫn một số quy định của Nghị định số 05/2005/NĐ-CP. Tuy
nhiên, sau 3 năm thực hiện Nghị định 05/2005/NĐ-CP đã bộc lộ một số bất cập,
vướng mắc và có nhiều điểm chưa phù hợp với thực tiễn, để đáp ứng yêu cầu
này, gần đây Chính phủ đã ban hành Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 4/3/2010
thay thế Nghị định số 05/2005/2005/NĐ-CP có hiệu lực ngày 1/7/2010 (sau đây


1


gọi tắt là Nghị định 17/2010/NĐ-CP). Nghị định này mới ra đời và chưa có
thơng tư hướng dẫn, điều này dẫn đến việc mức thu phí bán đấu giá đối với
người tham gia đấu giá tài sản ở nhiều địa phương chưa đảm bảo được chi phí
cho các tổ chức đấu giá hoạt động theo cơ chế "tự thu, tự chi"; tình trạng người
bị thi hành án gây khó khăn trong q trình bán đấu giá tài sản... Chính vì vậy,
việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa những vấn đề lý luận và thực tiễn về
bán đấu giá tài sản, sự thể hiện chúng trong các quy định của pháp luật hiện
hành, đồng thời đánh giá việc áp dụng những quy định của pháp luật trong thực
tiễn để đưa ra kiến giải lập pháp, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy phạm về
lĩnh vực này trong giai đoạn hiện nay, khơng những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn
và pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Từ những vấn đề
trên, tác giả luận văn chọn đề tài "Bán đấu giá tài sản theo pháp luật Việt Nam
hiên nay " để làm luận văn thạc sĩ Luật học, chuyên ngành Luật dân sự.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề bán đấu giá tài sản khơng cịn mới về mặt lý luận nhưng ln
mang tính mới mẻ về mặt thực tiễn. Ở nước ta hiện nay, liên quan tới vấn đề
này hiện có một số bài nghiên cứu từ các tạp chí, cụ thể là: ThS. Nguyễn Thị
Nga: "Lý luận và thực tiễn đấu giá quyền sử dụng đất", Tạp chí Luật học, số
5/2004; Đỗ Khắc Trung: "Bán đấu giá tài sản - thực trạng và hướng hồn
thiện", Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 11/2007; Nguyễn Mạnh Cường: : "So
sánh đấu giá hàng hóa trong luật Thương mại với đấu giá tài sản trong Luật
Dân sự", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7/2008; Đặng Thị Bích Liễu:
"Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất ở Việt Nam", Luận án Tiến sĩ Luật
học; Bộ Tư pháp - Vụ Bổ trợ Tư pháp: Các quy định nước ngoài về bán đấu
giá tài sản, Luật về bán đấu giá tài sản của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa,
(Tài liệu dịch tham khảo) tháng 7, 2004.
Như vậy, bán đấu giá tài sản đang được thực hiện khá phổ biến, tuy

nhiên những vấn đề pháp lý về bán đấu giá tài sản vẫn chưa được luận giải
một cách có hệ thống, sâu sắc và đầy đủ của khoa học pháp lý.

2


3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích, đánh giá, tổng kết các quan hệ về bán đấu giá tài
sản để làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý luận và thực tiễn về những
nội dung cơ bản của nghiệp vụ bán đấu giá tài sản theo luật dân sự Việt Nam
và việc áp dụng những quy định này trong thực tiễn, từ đó xác định những bất
cập để đề xuất kiến giải lập pháp.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả luận văn đặt cho mình các
nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau:
Về mặt lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu lịch sử phát triển của nghiệp vụ
bán đấu giá tài sản cho đến nay, phân tích khái niệm, các loại tài sản bán đấu
giá, chủ thể tham gia bán đấu giá, các đơn vị được tiến hành bán đấu giá, trình
tự và thủ tục bán đấu giá trong các quy định hiện hành để làm sáng tỏ bản
chất pháp lý và những nội dung cơ bản của nghiệp vụ bán đấu giá theo quy
định của pháp luật Việt Nam.
Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng các quy phạm
pháp luật về nghiệp vụ bán đấu giá trong thực tiễn nước ta, đồng thời phân
tích những tồn tại xung quanh việc quy định nghiệp vụ bán đấu giá và thực
tiễn áp dụng nhằm đề xuất và luận chứng sự cần thiết phải hoàn thiện và đưa
ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy phạm về nghiệp vụ này
trong pháp luật Việt Nam.
3.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực

tiễn về bán đấu giá tài sản theo pháp luật Việt Nam cụ thể là: lịch sử hình
thành và khái niệm bán đấu giá tài sản, chủ thể tham gia bán đấu giá, hình
thức và trình tự, thủ tục bán đấu giá trong các quy định hiện hành.

3


4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về nghiệp vụ
bán đấu giá tài sản.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật
biện chứng, phép biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước và pháp luật.
- Các phương pháp cụ thể: phân tích, so sánh, thống kê, tổng hợp.
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về bán đấu giá.
- Phân tích thực trạng bán đấu giá tài sản hiện nay.
- Đánh giá được những điểm mới của Nghị định 17/2010/NĐ-CP.
- Phân tích bình luận trình tự thủ tục bán đấu giá theo Nghị định
17/2010/NĐ-CP, tìm một số bất cập của Nghị định 17/2010/NĐ-CP, trên cơ
sở đó đưa ra hướng hồn thiện Nghị định 17/2010/NĐ-CP và ban hành văn
bản hướng dẫn Nghị định 17/2010/NĐ-CP.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bán đấu giá tài sản.
Chương 2: Trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản theo pháp luật hiện nay.
Chương 3: Thực trạng bán đấu giá và giải pháp hoàn thiện pháp luật
về bán đấu giá tài sản.


4


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN

1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM VỀ BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN

1.1.1. Sơ lược lịch sử đấu giá tài sản trên thế giới
Hiện nay, đấu giá là đã trở thành một hiện tượng phổ biến trong xã
hội. Thậm chí, đấu giá có thể ảnh hưởng gián tiếp tới cuộc sống của chúng ta.
Giá trị của con đường, giá vé máy bay, hay nhà ở đều chịu sự tác động rất lớn
của vấn đề bán đấu giá.
Đấu giá có một lịch sử lâu dài, đã được ghi nhận sớm nhất là năm 500
TCN theo Herodotus, ở Babylon đấu giá phụ nữ để đạt mục đích hơn nhân
được tổ chức hàng năm. Nếu phụ nữ được bán ngồi hình thức bán đấu giá sẽ
bị coi là bất hợp pháp.
Trong suốt thời Đế chế La Mã, sau chiến thắng quân sự, binh sĩ La Mã
thường thu lượm chiến lợi phẩm được để lại để bán đấu giá. Sau đó nơ lệ
thường bị bắt như là chiến lợi phẩm "của" chiến tranh, đã được bán đấu giá tại
các đấu trường, với số tiền thu được sẽ hướng tới dự trữ cho chiến tranh.
Người La Mã cũng sử dụng đấu giá để thanh lý tài sản của người phải thi
hành án mà tài sản đã bị tịch thu.Ví dụ, Marcus Aurelius bán đồ nội thất gia
đình để trả hết nợ, bán hàng kéo dài trong nhiều tháng. Một trong những cuộc
đấu giá lịch sử quan trọng diễn ra vào năm 193 sau công nguyên, khi toàn bộ
Đế chế La Mã đã được đưa vào khối bán đấu giá của Praetorian Guard. Ngày
23/3, Bộ đội Praetorian giết hồng đế đầu tiên Pertinax, sau đó đưa ra đế chế
cho người trả giá cao nhất. Didius Julianus chào bán mọi người khác cho giá
6.250 drachmas (tiền Hy Lạp), một hành động có ý nghĩa khởi xướng cho một

cuộc chiến khơng bom đạn. Didius sau đó bị xử tử hai tháng sau khi
Septimius Severus đã chinh phục La Mã. Thời kỳ cuối của đế quốc La Mã

5


vào thế kỷ 18, các cuộc bán đấu giá không được tán thành ở châu Âu, trong
khi chúng chưa bao giờ được phổ biến rộng rãi ở châu Á.
Thế kỷ 18 ở Trung Quốc, gốm từ lâu đã trở thành một mặt hàng chủ
yếu tại các gian hàng nghệ thuật. Năm 2005, vào thế kỷ 14 gốm Trung Quốc
đã được bán bởi Christie với giá 15.680.000 £ hoặc 30.600.000 $. Nó lập một
kỷ lục đấu giá thế giới cho nghệ thuật gốm. Từ "đấu giá", có nguồn gốc từ
tiếng Latin, có nghĩa là "tăng" hoặc "tăng thêm". Suốt chiều dài lịch sử, bán
đấu giá đã được thực hiện một cách tương đối phổ biến để thỏa thuận việc
trao đổi hàng hóa. Trong thực tế, cả hai đều mặc cả và bán theo giá khởi điểm
càng được phổ biến hơn. Quả thực, trước thế kỷ XVII vài cuộc đấu giá được
tổ chức một cách tản mạn.
Ở Anh vào thế kỷ XVII và XVIII, bán đấu giá đèn cầy đã được sử
dụng cho việc bán hàng hóa và thuê bất động sản. Bán đấu giá theo hình thức
này bắt đầu bằng ánh sáng một ngọn đèn cầy sau đó giá đề nghị được đưa ra
theo thứ tự tăng dần cho đến khi ra ánh đèn lụi dần. Giá đưa ra cao nhất tại
thời điểm tắt ngọn đèn chính là giá bán.
Trong thời gian cuối thế kỷ 18, ngay sau khi Cách mạng Pháp, đấu giá
đã được tổ chức tại quán ăn và những quán cà phê để bán các tác phẩm nghệ
thuật. Những cuộc đấu giá như vậy được tổ chức hàng ngày, và danh mục sản
phẩm được thông báo trước một cách chi tiết đặc biệt đối với các vật phẩm
quý hiếm hoặc những cơng trình nghệ thuật phức tạp.
Ngơi nhà đấu giá lâu đời nhất trên thế giới là Stockholm (Stockholms
Auktionsverk). Nó được thành lập tại Thụy Điển vào năm 1674. Sotheby là
ngôi nhà đấu giá lớn thứ hai của thế giới, đã tổ chức bán đấu giá đầu tiên vào

năm 1744. Cịn Christie là ngơi nhà đấu giá lớn nhất thế giới, được thành lập
khoảng năm 1766. Các ngôi nhà bán đấu giá vẫn còn hoạt động bao gồm
Dorotheum (1707), Bonhams (1793), Phillips de Pury và Company (1796),
Freeman (1805) và Lyon & Turnbull (1826). Trong lịch sử đấu giá thì thế giới

6


còn biết đến bức tượng cổ Artemis ở Hy Lạp được điêu khắc bằng đá cẩm
thạch. Trong năm 2007, một đồng La Mã có điêu khắc "Artemis và Stag" đã
được bán tại Sotheby tại New York ở Hoa Kỳ với giá 28.600.000 $, vượt xa
so với ước tính của nó và thiết lập kỷ lục mới là tác phẩm điêu khắc đắt giá
nhất cũng như được giao bán trong một cuộc bán đấu giá.
Mặc dù những cuộc bán đấu giá ra đời từ rất lâu và lần đầu tiên chúng
đã được phân tích có hệ thống vào năm 1961 bằng cách sử dụng các phương
tiện của cuộc bán đấu giá. Vickrey chứng minh cân bằng đối với những cuộc
bán đấu giá và cũng đã chứng minh làm thế nào để những cuộc bán đấu giá
khác nhau được tính tốn và có thể tạo ra doanh thu bán tương đương.
Vickrey đoạt giải Nobel Kinh tế năm 1996.
Thời kỳ hiện đại của học thuyết có thể được xác định là năm 19931994 với cách mạng đấu giá rộng rãi phổ tần số ở Mỹ, theo Paul Milgrom
trong "học thuyết đấu giá để làm việc". Việc thay đổi đã lôi cuốn được sự
chú ý của công chúng đối với học thuyết bán đấu giá, và nhiều phiên đấu
giá đã diễn ra kể từ đó, kể cả bán đấu giá gỗ, đấu giá khí thải, và bán đấu giá
tài sản.
Đấu giá là một thị trường đặc biệt mà tài sản được bán cho người trả
giá cao nhất. Nhìn chung, có ba thành phần chính để tạo nên một cuộc bán
đấu giá:


Người mua là người có nhu cầu mua sản phẩm




Người bán là người cung cấp một sản phẩm



Tổ chức bán đấu giá đóng vai trị giám sát thị trường

Như vậy, có thể nhận thấy, sẽ tồn tại các kiểu trả giá, các hình thức
của người bán, và các quy tắc bán đấu giá có thể dẫn đến những kết quả cực
kỳ khác nhau, sẽ có một số phiên đấu giá có thể thuận lợi cho người mua,
người bán và tổ chức bán đấu giá. Những cuộc đấu giá khác nhau mang

7


những đặc điểm riêng về chủ thể tham gia. Có rất nhiều biến thể về hình thức
bán đấu giá cơ bản, bao gồm giới hạn thời gian, giới hạn tối thiểu hoặc tối đa
của giá đề nghị, và các quy tắc đặc biệt để xác định người mua được hàng và
giá bán. Những người tham gia đấu giá có thể có hoặc có thể khơng biết nhân
thân hoặc các hành động của người tham gia khác. Tùy thuộc vào đấu giá,
người tham gia có thể tham gia trực tiếp hoặc từ xa thông qua một loạt các
phương tiện, bao gồm cả điện thoại và internet. Người bán thường chi trả hoa
hồng cho tổ chức bán đấu giá hoặc công ty bán đấu giá trên cơ sở một tỷ lệ
phần trăm của giá bán
Tuy nhiên, một thực tế thường xuất hiện trong các cuộc bán đấu giá
đó là sự thơng đồng từ phía những người tham gia. Bất cứ khi nào người tham
gia tại một phiên đấu giá nhận thức được sự đồng nhất với những người tham
gia khác về mặt lợi ích, sẽ xuất hiện nguy cơ là họ sẽ thông đồng để điều

khiển kết quả đấu giá. Bằng cách đồng ý trả giá chỉ đối với người ngồi,
khơng bao giờ chống lại các thành viên của hội, từ đó mức độ cạnh tranh trở
nên yếu hơn, điều này có thể ảnh hưởng đáng kể đến mức giá cuối cùng. Sau
khi kết thúc chính thức phiên đấu giá, đấu giá khơng chính thức sẽ diễn ra
trong vịng giữa thành viên. Sự khác biệt về giá giữa đấu giá sau đó sẽ được
phân chia giữa các thành viên.
Ngược lại, chủ sở hữu của tài sản bán đấu giá có thể tăng cạnh tranh
bằng việc tự mình đóng vai trị là người tham gia trả giá. Ở Anh và nhiều
nước khác và trả giá trên đối tượng của chính mình bị coi là bất hợp pháp.
Trong một phiên đấu giá kín ở Anh, một giá giả mạo là một giá được đưa ra
bởi một người tham gia thông đồng với người bán đấu giá hoặc các nhà cung
cấp, được thiết kế để đánh lừa những người tham gia trả tiền nhiều hơn.
Ở Úc, cị mồi là một tội hình sự nhưng một nhà cung cấp giá hoặc
chào giá là đồng sở hữu khi đưa mức dưới giá khởi điểm là được phép, nếu
được khai báo bởi người bán đấu giá. Tại Thụy Điển và nhiều nước khác

8


khơng có quy định pháp lý, nhưng nó sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới uy
tín của một tổ chức bán đấu giá.
Mỗi hình thức bán đấu giá có đặc tính riêng như độ chính xác giá cả
và thời gian cần thiết để chuẩn bị và tiến hành đấu giá. Tầm quan trọng của số
lượng những người tham gia. Mở phiên đấu giá trong một khoảng thời gian
dài với nhiều người tham gia thì giá cuối cùng đưa ra sẽ sát với giá trị thị
trường. Trường hợp có vài người tham gia và họ chỉ được cho phép đưa ra
một giá, thời gian được lưu, nhưng giá trúng có thể không phản ánh đúng giá
trị thị trường với bất kỳ mức độ chính xác. Giá trị đặc biệt và tầm quan trọng
trong quá trình bán đấu giá thực tế là thời gian trơi qua kể từ thời điểm đó giá
đầu tiên được tiết lộ vào thời điểm kết thúc giá thầu đã trở thành một thỏa

thuận ràng buộc.
Mặc dù hình thức mua bán đấu giá ở nước ngoài đã và đang hết sức
phổ biến như đấu giá nông trại ở Úc, giấy phép sử dụng các phần của quang
phổ điện cho truyền thơng (ví dụ như mạng điện thoại di động). Thị trường
điện tử tư nhân sử dụng các kỹ thuật bán đấu giá tổ hợp để liên tục bán hàng
hóa (than, quặng sắt, ngũ cốc, nước...) cho một nhóm người mua (dựa trên giá
cả và giá các yếu tố phi giá cả); đấu giá gỗ, trong đó các cơng ty mua giấy
phép để kết nối với đất đai của chính phủ; những cuộc đấu giá phân phát gỗ,
trong đó các công ty mua gỗ trực tiếp từ đấu giá rừng của chính phủ; đấu giá
điện, trong đó quy mơ lớn máy phát điện và người tiêu dùng điện vào việc tạo
ra giá thầu hợp đồng; đấu giá môi trường, trong đó cơng ty dự thầu mua các
giấy phép để tránh bị yêu cầu giảm tác động môi trường; hay cơng việc kinh
doanh đồ cổ, ngồi việc đóng vai trị là một cơ hội cho hoạt động thương mại,
chúng cũng phục vụ như là sự kiện xã hội và giải trí với các tài sản như: tem,
tiền xu, xe hơi cổ điển, mỹ thuật…; đấu giá bất động sản bao gồm cả bất động
sản khu dân cư và thương mại, trang trại, lô đất bỏ trống và đất đai; bán đấu
giá các loại hàng cũ, đặc biệt là đối với các thiết bị nông nghiệp hoặc bán máy

9


móc cơng nghiệp khơng sử dụng đến hoặc thơng qua thủ tục phá sản; trong
các ngữ cảnh pháp lý, bán đấu giá buộc phải diễn ra, như khi trang trại hoặc
nhà ở được bán đấu giá theo các bước tòa án; vé du lịch ở Thụy Điển. Các cuộc
đấu giá này được thực hiện với các trang web như ebay.com, Yahoo Auction...
Như vậy, lịch sử về bán đấu giá tài sản đã xuất hiện từ rất lâu gắn liền
với tiến trình phát triển của kinh tế - xã hội của một quốc gia. Ngày nay, khi
kinh tế, khoa học công nghệ phát triển thì hình thức bán đấu giá tài sản cũng
đa dạng, số lượng người tham gia đấu giá ngày càng nhiều, không chỉ công
dân của một quốc gia tham gia mà công dân các nước trên thế giới cũng có

thể tham gia đấu giá tài sản qua mạng INTENET. Điều đó chứng tỏ bán đấu
giá là hình thức mua bán tài sản thông dụng, rộng rãi tạo điều kiện cho việc
bán tài sản với giá cao, đem lại lợi ích tốt nhất cho người bán tài sản.
1.1.2. Sự phát triển của pháp luật Việt Nam về đấu giá tài sản
Bán đấu giá tài sản và nhu cầu mua tài sản đấu giá xuất hiện từ nhu
cầu nội tại của nền kinh tế, của các chủ thể tham gia quan hệ thị trường. Tuy
nhiên, ở nước ta trong thời kỳ nền kinh tế tập trung hầu như khơng có hình
thức bán đấu giá và trong một thời gian dài quan hệ mua bán tài sản đấu giá
chỉ được thực hiện để thi hành án, phục vụ cho hoạt động tư pháp chứ chưa
thực sự là hoạt động mua bán mang tính chất thị trường. Văn bản quy định
việc bán đấu giá tài sản do Thơng tư liên ngành Tịa án, Viện kiểm sát, Bộ Tư
pháp ban hành số 06-89/TTLN ngày 7 tháng 12 năm 1989 hướng dẫn về
việc thi hành án đã quy định về trình tự thủ tục tiến hành bán đấu giá tài
sản để thi hành án. Thông tư trên chưa đề cập đến việc bán đấu giá tài sản khi
có nhu cầu cần thiết của chủ sở hữu tài sản. Hoạt động này đơn thuần là một
giao dịch dân sự nhưng mang tính bắt buộc, nên chưa hướng dẫn một cách
đầy đủ trình tự bán đấu giá một cách cơ bản. Chẳng hạn, Thông tư quy định:
"Việc bán đấu giá nhà được tiến hành tại nơi có nhà. Đối với các tài sản khác
chấp hành viên có thể tiến hành bán đấu giá tại nơi có tài sản hoặc tại một

10


địa điểm thuận lợi khác. Nếu bán đấu giá tại trụ sở Tịa án thì khơng để ảnh
hưởng đến sự hoạt động của cơ quan" [31].
Quy định trên cho thấy chưa có được một địa điểm bán đấu giá ổn
định, chuyên về bán đấu giá mà được tiến hành một cách ngẫu nhiên tùy theo
tài sản và sự lựa chọn của chấp hành viên thậm chí có thể được tiến hành tại
trụ sở của Tòa án.
Để thực thi việc thi hành án dân sự có hiệu quả, ngày 26-4-1993, Pháp

lệnh Thi hành án dân sự ra đời quy định trình tự, thủ tục thi hành án dân sự,
trong đó quy định cụ thể trình tự bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự,
còn việc bán đấu giá tài sản trong giao lưu dân sự chưa được điều chỉnh. Điều
đó phần nào cho thấy cơ chế thị trường vào thời kỳ này chưa phát triển, nhu
cầu bán đấu giá tài sản của nhân dân ta chưa nhiều. Hơn nữa, việc bán đấu giá
tài sản và quản lý bán đấu giá tài sản trong thời kỳ này chưa đạt hiệu quả cao.
Nguyên nhân cơ bản tập trung vào sự thiếu một thể chế hoàn chỉnh, một đội
ngũ Chấp hành viên bán đấu giá đủ năng lực và cơ sở vật chất tương đối đầy
đủ để phục vụ cho việc tiến hành bán đấu giá.
Khi Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 1995 ra đời tạo đã tạo cơ sở pháp
lý cho hoạt động bán đấu giá tài sản tại Việt Nam phát triển (từ Điều 452 Điều 455 Bộ luật Dân sự Việt Nam). Để cụ thể hóa luật về quy chế và tổ chức
bán đấu giá, ngày 19/12/1996 Chính phủ ban hành Nghị định số 86/CP ban
hành Quy chế bán đấu giá tài sản (sau đây gọi tắt là Nghị định 86/CP).
Nghị định 86/CP của Chính phủ bước đầu đã xây dựng khung pháp lý
cụ thể cho hoạt động bán đấu giá tài sản. Do đây là lĩnh vực còn mới mẻ nên
Quy chế chưa xác định rõ nội dung công tác quản lý nhà nước đối với hoạt
động bán đấu giá tài sản. Đối với địa vị pháp lý của người bán đấu giá tài sản
cụ thể là Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản được quy định chung chung là
thành lập theo quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Sở Tư pháp
trực tiếp quản lý chung cịn về chun mơn nghiệp vụ chưa được đề cập đến.

11


Để đáp ứng yêu cầu công tác quản lý nhà nước về hoạt động bán đấu giá
tài sản và hướng dẫn cụ thể chuyên môn nghiệp vụ cho các tỉnh trong việc tổ
chức bán đấu giá tài sản, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 399/PLDSKT ngày
07/4/1997 hướng dẫn cụ thể việc quản lý và tổ chức bán đấu giá tài sản. Bộ luật
Dân sự đầu tiên ở nước ta được Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày
28 tháng 10 năm 1995. Đây là một văn bản pháp luật quan trọng, điều chỉnh một

lĩnh vực rộng lớn các quan hệ xã hội là các giao lưu dân sự của cá nhân, pháp
nhân và các chủ thể khác trong đó có những quy định về bán đấu giá tài sản.
Tuy nhiên, qua quá trình thực hiện nhất là trước sự phát triển toàn diện
của đất nước trong tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực, Bộ luật Dân sự năm 1995 đã bộc lộ hạn chế, không đáp
ứng được những nhu cầu mới của các quan hệ mang yếu tố dân sự. Tương tự
như vậy, sau tám năm thực hiện Nghị định số 86/CP, cũng cịn có nhiều khó
khăn vướng mắc mà nguyên nhân chủ yếu là do các quy định pháp luật điều
chỉnh hoạt động bán đấu giá tài sản không những thiếu, mà nhiều quy định đã
khơng cịn phù hợp với thực tế địi hỏi khách quan của cuộc sống hoặc quy
định chưa cụ thể rõ ràng, gây khó khăn cho việc bán đấu giá như mức tiền đặt
trước, mức phí trong trường hợp bán đấu giá không thành, căn cứ làm thủ tục
chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người mua được tài sản, chuộc lại tài sản, cơ chế ngăn ngừa, xử lý
sự liên kết dìm giá hoặc cản trở cuộc bán đấu giá. Bên cạnh đó việc bán đấu
giá tài sản để thi hành án, tài sản bị xử lý sung công quỹ nhà nước theo quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa tập trung vào một đầu mối.
Vì vậy trên địa bàn một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tồn tại nhiều tổ
chức của nhà nước thực hiện bán đấu giá tài sản dẫn đến tình trạng chồng
chéo về chức năng, nhiệm vụ. Sự phối kết hợp giữa các ban, ngành ở một số
địa phương trong hoạt động bán đấu giá tài sản còn chưa được chặt chẽ và
đồng bộ, cả trong việc ủy quyền, chuyển giao tài sản để bán đấu giá, cũng như

12


việc chuyển quyền sở hữu cho người mua được tài sản đã bán đấu giá, trong
một số trường hợp còn từ chối hoặc chậm trể trong việc cấp giấy chứng nhận
quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản đã bán đấu giá đối với tài sản mà pháp
luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng.

Những trở ngại nêu trên đã làm cho quyền và lợi ích hợp pháp của
người mua được tài sản bán đấu giá khơng được đảm bảo, làm giảm uy tín
của các Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản. Trước tình hình và những u
cầu mới đó, việc ban hành Nghị định về bán đấu giá tài sản thay thế Nghị
định số 86/CP là một yêu cầu cấp thiết.
Qua thực tiễn gần 10 năm áp dụng Quy chế bán đấu giá tài sản và kinh
nghiệm học tập từ các nước có thể chế bán đấu giá phát triển, hoàn thiện,
ngày 14/6/2005 Quốc hội thông qua Bộ luật Dân sự năm 2005 (từ Điều 456
đến Điều 469 liên quan đến bán đấu giá tài sản) và Chính phủ ban hành Nghị
định số 05/2005/NĐ - CP ngày 18/01/2005 thực sự là một bước phát triển mới
trong công tác bán đấu giá tài sản, là cơ sở pháp lý quan trọng để phát triển
dịch vụ bán đấu giá tài sản trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Nghị định 05/2005/NĐ-CP đã đáp ứng yêu cầu về nâng cao hiệu quả
hoạt động và xã hội hố cơng tác bán đấu giá tài sản. Nghị định 05/2005/NĐ-CP
được xây dựng trên quan điểm kế thừa và phát triển các quy định pháp luật về
bán đấu giá tài sản còn phù hợp để giải quyết các vấn đề bức xúc mà thực tế
đòi hỏi, tháo gỡ các khó khăn vướng mắc về bán đấu giá tài sản. Ngay sau khi
Nghị định 05/2005/NĐ-CP có hiệu lực thi hành, Bộ Tư pháp đã ban hành
Thông tư số 03/2005/TT-BTP hướng dẫn một số quy định của Nghị định, Bộ
Tài chính cũng ban hành Thơng tư số 34/2005/TT-BTC hướng dẫn việc xác
định giá khởi điểm và chuyển giao tài sản nhà để bán đấu giá và các công văn
liên quan. Ngoài các văn bản luật, pháp lệnh, nghị định, thơng tư, Cơng văn
hướng dẫn, các tỉnh cịn có Quy chế đấu giá quyền sử dụng đất, Quy chế bán
đấu giá nhà thuộc sở hữu nhà nước.

13


Tình hình tổ chức thực hiện Nghị định số 05/2005/NĐ-CP cho thấy,
xã hội hoá hoạt động bán đấu giá tài sản nhằm tạo điều kiện thu hút ngày càng

mạnh mẽ các loại doanh nghiệp bán đấu giá thuộc các thành phần kinh tế
khác nhau nhằm tiến tới giảm bớt và xoá hẳn bao cấp của nhà nước đối với
hoạt động bán đấu giá tài sản. Mục tiêu trên cũng nhằm quán triệt chủ trương
cải cách hành chính của nhà nước ta là bộ máy cần sắp xếp gọn nhẹ, tinh giản
biên chế, đầu mối các cơ quan giảm thiểu tối đa, tránh tình trạng một việc
giao cho nhiều cơ quan thực hiện. Điều đó đồng nghĩa với việc tập trung đầu
mối là Trung tâm bán đấu giá của tỉnh tồn tại song song với các doanh nghiệp
tham gia bán đấu giá tài sản thuộc các thành phần kinh tế khác. Tránh tình
trạng các cơ quan khơng có chức năng bán đấu giá tài sản tự tổ chức bán đấu
giá sẽ khó đảm bảo được trình tự, thủ tục chặt chẽ thống nhất dễ dẫn đến tình
trạng "vơ tổ chức" trong lĩnh vực này.
Sau 4 năm thực hiện Nghị định 05/2005/NĐ-CP đó bộc lộ một số bất
cập, vướng mắc và có nhiều điểm chưa phù hợp với thực tiễn:
Thứ nhất, do sự không đồng bộ trong các quy định của pháp luật hoặc
quy định còn chưa rõ ràng nên trong thực tế hoạt động bán đấu giá tài sản ở
mỗi địa phương rất khác nhau, thực hiện không thống nhất và khó quản lý.
Đặc biệt, ngồi các doanh nghiệp, các địa phương thành lập khá đa dạng tổ
chức bán đấu giá tài sản tại địa phương. Trên toàn quốc, nhiều tổ chức có
chức năng bán đấu giá tài sản được thành lập theo các quy định pháp luật
khác nhau, ví dụ: Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản (theo Nghị định số
05/2005/NĐ-CP), Hội đồng đấu giá quyền sử dụng đất cấp tỉnh, huyện (theo
Quyết định số 216/2005/QĐ-TTg), Trung tâm phát triển quỹ đất (theo Thông
tư liên tịch số 38/2004/TTLT/BTNMT-BNV), Hội đồng bán đấu giá do Ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố quyết định thành lập để bán đấu giá tài sản của
Nhà nước tại địa phương.

14


Có địa phương, bán đấu giá quyền sử dụng đất do Ban quản lý cơ sở

hạ tầng hoặc Trung tâm phát triển quỹ đất của tỉnh thực hiện, có nơi thành lập
Hội đồng cấp tỉnh, cấp huyện để bán đấu giá, có nơi giao cho Trung tâm dịch
vụ bán đấu giá tài sản thực hiện. Có nơi, các tài sản như ô tô, nhà, xưởng dôi
dư đều do tổ chức quản lý tài sản tự tổ chức bán, không đảm bảo tính khách
quan, minh bạch.
Đối với tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu
sung quỹ nhà nước do các cơ quan có thẩm quyền ra quyết định tịch thu, thì
một số các cơ quan đó vẫn thành lập Hội đồng bán đấu giá tài sản tổ chức bán
đấu giá tài sản, mặc dù Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính quy định rất rõ
việc bán các loại tài sản đó do Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản, hoặc
Hội đồng bán đấu giá tài sản cấp huyện bán. Việc chuyển giao loại tài sản này
sang cho Trung tâm dịch vụ bán đấu giá theo quy định của Pháp lệnh Xử lý vi
phạm hành chính ở một số nơi chưa được thực hiện nghiêm túc.
Thứ hai, do sự không đồng bộ, thống nhất trong các quy định của
pháp luật nên hiện nay có nhiều loại tổ chức thực hiện việc bán đấu giá tài sản
và bán đấu giá theo các trình tự, thủ tục rất khác nhau, không chặt chẽ dẫn
đến việc khó quản lý, kiểm sốt hoạt động và gây thất thốt tài sản, chủ yếu là
tài sản cơng. Đặc biệt là việc bán đấu giá của các Hội đồng bán đấu giá tài
sản. Hội đồng bán đấu giá tài sản được thành lập ở địa phương có nhiều bất
cập, hạn chế. Các Hội đồng này được thành lập để bán đấu giá theo vụ việc,
khơng mang tính thường xun, chun nghiệp. Khi kết thúc cuộc bán đấu
giá, Hội đồng tự giải thể. Do đó, khi có tranh chấp xảy ra liên quan đến quyền
và lợi ích hợp pháp của những người tham gia đấu giá, người trúng đấu giá,
các bên khơng có cơ sở pháp lý để khiếu nại Hội đồng. Ngoài ra, do cơ chế
hoạt động (bao gồm cả cơ chế tài chính) và trách nhiệm pháp lý của Hội đồng
bán đấu giá tài sản không rõ ràng, nên khó kiểm sốt, dẫn đến thất thốt, thiệt
hại về vật chất trong việc bán đấu giá các loại tài sản của Nhà nước. Có nhiều

15



Hội đồng bán với số tiền chênh lệch rất thấp như: Hội đồng bán đấu giá tỉnh
Lạng Sơn bán tài sản tịch thu do vi phạm hành chính với giá khởi điểm
2.628.606.760 đồng, giá bán 2.629.174.760 đồng, chênh lệch 568.000đồng.
Thứ ba, Nghị định số 05/2005/NĐ-CP chưa quy định rõ ràng và cụ thể
về phạm vi điều chỉnh, chưa xác định rõ những loại tài sản nào Nhà nước quy
định bắt buộc phải bán đấu giá và bán theo trình tự, thủ tục nào. Đối với việc
bán đấu giá tài sản thuộc sở hữu của cá nhân, tổ chức theo quy định của Luật
Thương mại thực tế thi hành khơng có nhiều vướng mắc, bức xúc. Bất cập lớn
nhất hiện nay trong hoạt động bán đấu giá là bán đấu giá tài sản công, những
tài sản buộc phải bán đấu giá như tài sản thi hành án, tài sản là tang vật phương
tiện vi phạm hành chính, tài sản nhà nước, tài sản là quyền sử dụng đất
Thứ tư, một số quy định của Nghị định số 05/2005/NĐ-CP còn chưa
đầy đủ, chưa đảm bảo tính thống nhất, chưa rõ ràng, gây khó khăn cho địa
phương trong q trình triển khai thực hiện, thậm chí có nhiều kẽ hở, dẫn đến
hiện tượng tiêu cực và hiện tượng "cò" trong việc tổ chức bán đấu giá tài sản.
Ví dụ như: quy định về khoản tiền đặt trước khi tham gia đấu giá, quy định về
việc người mua được tài sản từ chối mua, quy định về mức chênh lệch giữa
các lần trả giá, về việc đăng ký mua tài sản nhưng không tham gia cuộc bán
đấu giá; quyền và trách nhiệm của người có tài sản bán đấu giá, người tham
gia đấu giá, người mua tài sản bán đấu giá chưa được xác định rõ ràng, trình
tự, thủ tục bán đấu giá chưa được quy định chặt chẽ, chế tài xử lý chưa
nghiêm. Đây là những kẽ hở từ pháp luật đã bị nhiều đối tượng lợi dụng.
Thứ năm, năng lực đội ngũ đấu giá viên còn hạn chế, cơ sở vật chất,
trang thiết bị của nhiều Trung tâm, doanh nghiệp còn hạn chế, thiếu thốn chưa
đáp ứng nhu cầu, nhiệm vụ chuyên môn. Quy định hiện hành về điều kiện cấp
Thẻ đấu giá viên, điều kiện hoạt động của doanh nghiệp bán đấu giá quá đơn
giản, đăng ký hành nghề đối với đấu giá viên chưa chặt chẽ, việc quản lý đấu
giá viên còn lỏng lẻo dẫn đến hoạt động bán đấu giá chưa mang tính chuyên


16


nghiệp, dễ phát sinh tiêu cực. Ngồi ra, do khơng có yêu cầu về bồi dưỡng
nghiệp vụ bán đấu giá tài sản nên, cán bộ, viên chức của Trung tâm, doanh
nghiệp chưa được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ bán đấu giá tài sản một cách
bài bản, phải vừa học vừa làm. Ngoài ra, do quy định của pháp luật không rõ
ràng nên trong thực tế nhiều cuộc bán đấu giá khơng do đấu giá viên điều
hành. Vì vậy, khi có tranh chấp phát sinh về quyền và nghĩa vụ của các bên
liên quan đến vụ việc bán đấu giá rất khó giải quyết.
Thứ sáu, khi bán đấu giá tài sản thi hành án, tài sản tịch thu do vi
phạm hành chính, tổ chức bán đấu giá gặp rất nhiều khó khăn. Khách hàng có
tâm lý khơng thích mua tài sản thi hành án, bởi lẽ nhiều trường hợp không
giao được tài sản cho người trúng đấu giá do có sự tranh chấp, khiếu kiện kéo
dài. Do đó, hiệu quả bán đấu giá tài sản thi hành án không cao, tỷ lệ bán đấu
giá thành so với hợp đồng ủy quyền thấp (khoảng 31%). Ngoài ra, trong
trường hợp bán đấu giá không thành đối với tài sản thi hành án, tài sản tịch
thu do vi phạm hành chính thì khơng có cơ chế rõ ràng về việc thanh tốn các
chi phí thực tế.
Thứ bảy, các quy định về quản lý nhà nước trong Nghị định số
05/2005/NĐ-CP còn thiếu, lỏng lẻo dẫn đến các cơ quan chức năng chưa đủ
căn cứ để áp dụng biện pháp xử lý đối với các tổ chức bán đấu giá tài sản và
các tổ chức khơng có chức năng bán đấu giá tài sản mà vẫn bán đấu giá.
Trong thực tế, các doanh nghiệp đăng ký hoạt động bán đấu giá một cách tràn
lan, cơ quan quản lý nhà nước không nắm được cụ thể tình hình tổ chức, hoạt
động của các tổ chức bán đấu giá tài sản, đấu giá viên và kết quả hoạt động
bán đấu giá tài sản.
Thứ tám, nhận thức của các cơ quan nhà nước về quản lý hoạt động
bán đấu giá tài sản còn chưa thống nhất. Sự phối hợp giữa các Bộ có liên
quan, các ban, ngành ở một số địa phương trong hoạt động bán đấu giá tài sản

còn chưa được chặt chẽ và đồng bộ. Một số cơ quan nhà nước có thẩm quyền

17


đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản trong một số trường hợp còn từ
chối hoặc chậm trễ trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử
dụng tài sản đã bán đấu giá đối với tài sản mà pháp luật quy định phải đăng
ký quyền sở hữu, quyền sử dụng. Việc giao tài sản thi hành án đã được bán
đấu giá bị chậm trễ, kéo dài làm ảnh hưởng đến uy tín của các tổ chức bán
đấu giá tài sản. Đồng thời quyền, lợi ích hợp pháp của người mua được tài sản
bán đấu giá không được bảo đảm, làm giảm uy tín của dịch vụ bán đấu giá tài
sản trong xã hội.
Để lĩnh vực bán đấu giá tài sản ngày càng phát triển, ổn định, phục vụ
tốt cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội thì rất cần phải sớm khắc phục
những hạn chế nêu trên. Để đáp ứng yêu cầu này, gần đây Chính phủ đã ban
hành nghị định số 17/2010/NĐ-CP thay thế nghị định số 05/2005/NĐ-CP có
hiệu lực ngày 1/7/2010.
1.1.3. Khái niệm bán đấu giá tài sản
Bán đấu giá là một giao dịch mua bán tài sản giữa tổ chức bán đấu giá
và các chủ thể khác theo trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Đây là một
giao dịch dân sự, nên có đầy đủ nội dung của hợp đồng mua bán tài sản. Tuy
nhiên, trình tự thủ tục, mua bán và thực hiện hợp đồng do pháp luật quy định,
do vậy khái niệm bán đấu giá được nghiên cứu theo quan niệm truyền thống
và quy định của pháp luật
Theo quan niệm truyền thống thì bán đấu giá là việc bán hàng hố
hoặc tài sản cơng khai có nhiều người cùng muốn mua một tài sản, cho nên
mỗi người trả một giá theo nhu cầu, điều kiện kinh tế của mình, người trả giá
cao nhất phù hợp với nhu cầu của người bán sẽ được mua tài sản.
Trên thế giới, các quốc gia có thể chế đấu giá hồn thiện đều thừa

nhận bán đấu giá là hình thức bán và mua tài sản cơng khai, theo đó các tài
sản và quyền tài sản được bán cho người trả giá cao nhất (Điều 3, Luật về bán

18


đấu giá tài sản của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa) hay là việc bán công
khai một tài sản cho người trả giá cao nhất (Quy chế của Ủy ban đấu giá bang
Alabama). Còn đạo luật Floriada năm 2003 đưa ra khái niệm "Bán đấu giá
tuyệt đối" là cuộc bán đấu giá không yêu cầu giá khởi điểm tối thiểu mà hàng
hoá sẽ được bán cho người trả giá cao nhất.
Ở Việt Nam theo Từ điển Luật học thì "Bán đấu giá tài sản là hình
thức bán cơng khai một tài sản, một khối tài sản; theo đó có nhiều người
muốn mua tham gia trả giá, người trả giá cao nhất nhưng không thấp hơn giá
khởi điểm là người mua được tài sản" [39].
Theo khoản 1 Điều 2 Nghị định 17/2010/NĐ-CP thì:
Bán đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản công khai theo
phương thức trả giá lên, có từ hai người trở lên tham gia đấu giá
theo nguyên tắc và trình tự, thủ tục được quy định tại Nghị định
này. Phương thức trả giá lên là phương thức trả giá từ thấp lên cao
cho đến khi có người trả giá cao nhất [17].
Đồng thời Nghị định 17/2010/NĐ-CP cũng xác định các loại tài sản
bán đấu giá chỉ bao gồm:


Tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu sung

quỹ nhà nước theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính;



Tài sản bảo đảm trong trường hợp pháp luật về giao dịch bảo đảm

quy định phải xử lý bằng bán đấu giá;


Tài sản nhà nước được xử lý bằng bán đấu giá theo quy định của

pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; tài sản là quyền sử dụng đất
trong trường hợp Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất
được bán đấu giá theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;


Các tài sản khác phải bán đấu giá theo quy định của pháp luật.

19




Trong trường hợp cá nhân, tổ chức lựa chọn tổ chức bán đấu giá

chuyên nghiệp để bán tài sản thuộc sở hữu của mình thì áp dụng nguyên tắc,
trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản quy định của Nghị định.
Khác với quy định ở Việt Nam, Trung Quốc xem bán đấu giá tài sản
như một trong những hình thức mua bán tài sản thông thường. Điều 6, Luật
bán đấu giá tài sản của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định: "Tài
sản bán đấu giá là tài sản hoặc quyền tài sản do người ủy quyền bán đấu giá
sở hữu hoặc có quyền xử lý theo quy định pháp luật" [41]. Đồng thời, tại Điều 7
và Điều 8 của Luật này cũng quy định những tài sản không được bán đấu giá
và tài sản bán đấu giá hạn chế. Trong khi đó, pháp luật về bán đấu giá ở nước

ta quy định các loại tài sản không được bán đấu giá hoặc đấu giá hạn chế thì
được quy định trong các luật chuyên ngành như các loại ma túy theo quy định
của Luật Phòng chống ma túy năm 2005; sửa đổi, bổ sung năm 2008; Luật
Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước năm 2008…
Thơng qua hình thức bán đấu giá tài sản, quyền lợi của người có tài
sản được thỏa mãn một cách tốt nhất, cịn người mua sẽ mua được tài sản với
giá cả phù hợp, các quyền lợi của người mua liên quan đến tài sản đã mua
được đáp ứng một cách nhanh chóng.
Vậy, bán đấu giá sản là một hình thức mua bán tài sản cơng khai theo
trình tự thủ tục do pháp luật quy định, giữa tổ chức bán đấu giá và những
người tham gia. Người trả giá cao nhất không thấp hơn giá khởi điểm sẽ được
mua tài sản, tổ chức bán đấu giá có nghĩa vụ làm các thủ tục chuyển giao tài
sản và quyền sở hữu tài sản cho người được mua tài sản. Pháp luật về bán đấu
giá tài sản là phương tiện tạo khung pháp lý cho tổ chức và hoạt động bán đấu
giá tài sản. Vì lẽ đó, các quy định pháp luật liên quan đến lĩnh vực bán đấu giá
tài sản càng đầy đủ, cụ thể, rõ ràng, minh bạch thì hoạt động bán đấu giá tài
sản càng đạt kết quả cao, công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này ngày
càng được chặt chẽ.

20


1.1.4. Đặc điểm của bán đấu giá tài sản
* Chủ thể bán đấu giá tài sản chuyên nghiệp là Trung tâm dịch vụ
bán đấu giá hoặc doanh nghiệp bán đấu giá tài sản
Hoạt động bán đấu giá tài sản hình thành trên cơ sở đề xuất của chủ
sở hữu và chủ sở hữu ủy quyền hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu
cầu tổ chức có chức năng bán đấu giá tài sản. Như vậy, tổ chức bán đấu giá
tài sản không phải là chủ sở hữu của tài sản. Pháp luật quy định những điều
kiện cần thiết để bảo đảm quyền lợi của chủ sở hữu bằng cách cho họ tham

gia định giá khởi điểm của tài sản nhưng không trực tiếp đứng ra bán tài
sản, người mua phải trả bằng hoặc cao hơn giá khởi điểm thì tài sản mới
được bán.
Theo quy định của Luật Thương mại và pháp luật dân sự thì chủ thể
trong bán đấu giá hàng hoá và đấu giá tài sản đều bao gồm có người bán tài
sản, hàng hố, người tổ chức đấu giá, người điều hành giá và người trúng giá.
Tuy nhiên, về tổ chức, thẩm quyền của người tổ chức bán đấu giá trong hai
loại hình bán đấu giá này lại có những điểm khác nhau:
- Trong bán đấu giá tài sản, người tổ chức bán đấu giá lại chỉ có thể là:
Doanh nghiệp bán đấu giá tài sản, Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản.
- Trong bán đấu giá hàng hoá, người tổ chức đấu giá là thương nhân
có đăng k‎ kinh doanh dịch vụ đấu giá hoặc là người bán hàng của mình trong
í
trường hợp người bán hàng tự tổ chức đấu giá.
Như vậy, nếu trong đấu giá hàng hoá, người tổ chức bán đấu giá có
thể là cá nhân hoặc các chủ thể khác tự bán tài sản của mình thì trong bán đấu
giá tài sản, người tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp phải là một trong hai
loại hình tổ chức được pháp luật quy định. Hơn thế nữa, pháp luật dân sự còn
quy định rất chặt chẽ về điều kiện của các tổ chức này.

21


* Về phương thức đấu giá tài sản có nhiều người tham gia (từ hai
người trở lên)
Bán đấu giá tài sản được tổ chức bán cơng khai, có nhiều người tham
gia trả giá để cho những người có nhu cầu có thể tham gia đấu giá để mua tài
sản. Pháp luật dân sự quy định đấu giá là hình thức cơng khai lựa chọn người
mua nên mọi vấn đề có liên quan đến cuộc bán đấu giá và những thông tin về
tài sản, bán đấu giá phải được công khai cho tất cả những người muốn mua

biết bằng hình thức: niêm yết, thông báo, trưng bày, giới thiệu về tài sản; công
khai về thời gian, địa điểm tiến hành bán đấu giá; tên loại tài sản bán đấu giá;
số lượng, chất lượng, giá khởi điểm; địa điểm trưng bày, các hồ sơ tài liệu liên
quan đến tài sản; công khai họ tên người bán hàng, tên tổ chức bán đấu giá và
cá nhân, tổ chức đăng kí mua và tại phiên đấu giá, người điều hành bán đấu
giá phải công khai các mức giá được trả và họ tên người mua trả giá cao nhất
của mỗi lần trả giá...
* Nội dung bán đấu giá tài sản
Bán đấu giá tài sản theo phương thức trả giá cao nhất. Đây là hình
thức mà tại cuộc bán đấu giá, nhân viên điều hành bán đấu giá nêu lên giá
khởi điểm thấp nhất của tài sản bán đấu giá. Sau đó những người mua sẽ trả
giá nâng dần lên theo từng mức mặc cả nhất định. Người trả giá cao nhất theo
sự kết luận của nhân viên điều hành đấu giá sẽ được quyền mua tài sản đó.
Hình thức này được áp dụng phổ biến nhất trong các cuộc đấu giá vì nó có lợi
cho cả bên mua và bên bán. Bên mua được chủ động đề xướng giá đặt mua
nên quan hệ mua bán mang tính tự nguyện rất cao. Cịn bên bán thường được
lợi về giá cả vì ln có sự trả giá cao hơn giá khởi điểm mà mình đưa ra.
Đấu giá tài sản về cơ bản khác biệt so với đấu giá hàng hóa ở chỗ, nếu
như ở bán đấu giá tài sản chỉ thừa nhận phương thúc trả giá lên thì bán, đấu
giá hàng hóa được thựchiện theo hai phương thức là phương thức trả giá lên
và phương thức trả giá xuống. Đấu giá theo phương thức đặt giá xuống là

22


hình thức mà tại cuộc bán đấu giá, nhân viên điều hành đấu giá nêu lên mức
giá khởi điểm cao nhất, rồi sau đó hạ dần từng nấc một để người mua đặt giá.
Nếu khơng có người mua nào đặt giá thì lại hạ tiếp xuống mức thấp hơn. Cứ
như thế cho đến khi có người chấp nhận mua ở một mức giá nào đó thì hàng
hố được bán cho người đó. Hình thức này chỉ áp dụng đối với một số loại

hàng hố và thực sự nó khơng hấp dẫn với cả người mua lẫn người bán hàng.
* Phương thức đề nghị giao kết giao kết hợp đồng được thể hiện
bằng miệng (lời nói), hoặc bằng hành vi
- Bắt đầu phiên đấu giá, nhân viên điều hành đấu giá dùng lời nói của
mình để đưa ra giá khởi điểm. Những người mua sẽ đặt giá cũng bằng lời nói
hoặc bằng việc làm dấu hiệu để người điều hành đấu giá biết. Phương thức đề
nghị giao kết hợp đồng trong đấu giá dùng lời nói có ưu điểm là sự trả giá của
mọi người mua đều công khai, người trả giá cao nhất được xác định ngay mà
không phải mất nhiều thời giờ để so sánh, vì thế mà cuộc đấu giá nhanh
chóng kết thúc.
- Phương thức trả giá (đề nghị) bằng văn bản của người mua được viết
ra giấy. Nhân viên điều hành sẽ thông báo mức giá cao nhất qua mỗi lần trả
giá trên cơ sở so sánh các mức giá chấp nhận mà họ được thông báo. Việc đấu
giá kéo dài cho tới lần trả giá liền trước đó. Tuy thủ tục có phức tạp và làm
mất nhiều thời gian hơn nhưng hình thức này hạn chế được tình trạng chạy
đua của những người mua nâng giá lên một cách quá cao so với giá trị. Sau
khi người trả giá cao nhất được mua tài sản sẽ ký hợp đồng với tổ chức bán
đầu giá bằng văn bản. Nếu tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng thì văn
bản bán đấu giá phải cơng chứng.
Tài sản trong đấu giá rất đa dạng tuỳ theo nhu cầu của chủ sở hữu và
theo quy định của pháp luật. Mọi tài sản đều có thể bán đấu giá như: Đồ cổ,
tác phẩm nghệ thuật, đồ sưu tầm, phương tiện giải trí, bất động sản, đồ dùng
gia đình, hàng tiêu dùng, đồ văn phịng, máy tính, tài sản cơng… Các tài sản

23


×