Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Bán đấu giá tài sản theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.43 KB, 20 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

BÙI THỊ THU HIỀN

BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN TRONG THI HÀ NH ÁN DÂN SỰ THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

BÙI THỊ THU HIỀN

BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN S Ự
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật Dân sự
Mã số

: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Công Bin
̀ h


HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên
cứu khoa học của riêng tơi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn là trung thực. Các kết
luận trong luận văn chưa từng được công bố trong
các cơng trình nghiên cứu khoa học khác.
Tác giả

Bùi Thị Thu Hiền

i


MỤC LỤC
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
LỜI NÓI ĐẦU ......... …………………………………………………………1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN
THI HÀNH ÁN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ.... ……………………6
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và nguyên tắc của bán đấu giá tài sản
trong thi hành án dân sự…………………………………………….………6
1.1.1. Khái niệm bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự……………......6
1.1.2. Đặc điểm của bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự …………..10
1.1.3. Ý nghĩa của bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự …………..12
1.1.4. Nguyên tắc của bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự………....16

1.2. Cơ sở pháp luật bán đấu giá trong thi hành án dân sự

…………..20

1.2.1. Cơ sở lý luận của bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự………20
1.2.2. Cơ sở thực tiễn của bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự ……23
1.3. Sơ lược sự phát triển của pháp luật Việt Nam về bán đấu giá tài sản
trong thi hành án dân sự…….……………………………………………..26
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước 1975……………….……………...26
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1975 đến trước 1995………………………………26
1.3.3. Giai đoạn từ năm 1995 đến trước 2005………………………………29
1.3.4. Giai đoạn từ 2005 đến nay………………………………..………….31
Kết luận Chương 1………………………………………………………...33
Chương 2. NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
HIỆN HÀNH VỀ BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN TRONG THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ ..…………………………………………………………………..…35

ii


2.1. Chủ thể bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự...…………….35
2.1.1. Tổ chức bán đấu giá tài sản và Đấu giá viên………………………...35
2.1.2. Người có tài sản bán đấu giá và người sở hữu tài sản bán đấu giá…..38
2.1.3. Người tham gia đấu giá tài sản……………………………………….39
2.1.4. Người có quyền và nghĩa vụ liên quan trong bán đấu giá tài sản trong
thi hành án dân sự………..………………………………………………….41
2.2. Đối tượng bán đấu giá là tài sản trong thi hành án dân sự…………42
2.3. Trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự.……44
2.3.1. Hợp đồng bán đấu giá tài sản đã kê biên…………………………….44
2.3.2. Niêm yết, thông báo công khai và trưng bày tài sản bán đấu giá……46

2.3.3. Đăng ký tham gia bán đấu giá………………………………………..48
2.3.4. Trình tự, thủ tục phiên đấu giá……………………………………….48
2.3.5. Hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá………………………………50
2.3.6. Xử lý tài sản bán đấu giá không thành ………………………………53
Kết luận Chương 2………………………………………………………..56
Chương 3. THỰC TIỄN BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN TRONG THI HÀNH
ÁN DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ .................................................................... 58
3.1. Thực tiễn bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự……………...58
3.1.1. Những kết quả đạt được trong bán đấu giá tài sản thi hành án dân sự…...58
3.1.2. Những hạn chế, bất cập trong bán đấu giá tài sản thi hành án dân sự……..61
3.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong bán đấu giá tài sản thi
hành án dân sự………………………………………………………………72
3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả bán đấu giá tài sản trong thi
hành án dân sự..……………………………………………………….......74
3.2.1. Một số kiến nghị về hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản trong thi
hành án dân sự………………………………………………………………74

iii


3.2.2. Một số kiến nghị về thực hiện pháp luật bán đấu giá tài sản trong thi
hành án dân sự…...…………………………………………………………..84
Kết luận Chương 3…………………………………………………………89
KẾT LUẬN………………………………… ................................................ 91
Danh mục tài liệu tham khảo……………………………………………...93

iv


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


Bộ luật dân sự

BLDS

Thi hành án dân sự

THADS

Nghị định số 05/2005/NĐ-CP

Nghị định số 05/2005/NĐ-CP

ngày 18 tháng 01 năm 2005 của
Chính phủ về bán đấu giá tài sản
Nghị định số 17/2010/NĐ-CP
ngày 04 tháng 03 năm 2010 của
Chính phủ về bán đấu giá tài sản

v

Nghị định số 17/2010/NĐ-CP


LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Bán đấu giá tài sản nhằm mục đích đưa tài sản tiếp cận với đại chúng người
mua, qua đó phát huy cao nhất giá trị tài sản của tài sản mà người bán tài sản đấu
giá mong muốn đạt được. Ở Việt Nam, bán đấu giá tài sản được hình thành và phát
triển từ việc bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự (THADS). Các quy định về

bán đấu giá tài sản được xuất hiện lần đầu tiên trong Pháp lệnh THADS ngày
28/8/1989 (Điều 28 quy định về bán đấu giá tài sản đã kê biên). Bán đấu giá tài sản
trong THADS là mô ̣t hin
̀ h thức xử lý tài sản b ị kê biên cưỡng chế. Mục đích đặt ra
khi cơ quan thi hành án thực hiện biện pháp cưỡng chế kê biên, bán đấu giá tài sản
của người phải thi hành án là một biện pháp nghiêm khắc để đảm bảo hiệu lực thực
thi của bản án, quyết định của Tịa án trên thực tế; khơi phục lại quyền và lợi ích
hợp pháp cho người được thi hành án, đồng thời cũng thể hiện tính nghiêm minh
của pháp luật. Thông qua biện pháp bán công khai tài sản phải thi hành án thì
quyền lợi của chính người phải thi hành án cũng được đảm bảo.
Sau 25 năm triển khai hoạt động bán đấu giá tài sản trong THADS ở Việt
Nam, pháp luật điều chỉnh trong lĩnh vực này cũng đang dần được hoàn thiện, hoạt
động bán đấu giá tài sản trong THADS đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận,
hoạt động bán đấu giá tài sản thi hành án nhìn chung đã đạt được những mục đích
ban đầu đề ra. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, hoạt động bán
đấu giá tài sản trong THADS vẫn còn hạn chế. Một trong những nguyên nhân của
hạn chế đó là do hành lang pháp lý cho hoạt động này chưa thực sự hoàn thiện,
đang bộc lộ nhiều điểm bất cập như một số quy định về trình tự, thủ tục bán đấu
giá cịn thiếu cụ thể, không rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, không quy
định số lần các bên đương sự được quyền yêu cầu định giá lại tài sản, chế tài đối
với đội ngũ đấu giá viên vi phạm nguyên tắc nghề nghiệp còn chưa hợp lý v.v... Từ
6


đó dẫn đến tình trạng khách hàng có tâm lý ngại mua tài sản bán đấu giá trong
THADS, nhiều tài sản được đem ra đấu giá nhiều lần nhưng không có ai mua mặc
dù giá trị của nó lớn hơn nhiều so với giá khởi điểm mà doanh nghiệp bán đấu giá
đề xuất. Có nhiều trường hợp tài sản đã bán đấu giá thành công nhưng không bàn
giao được hoặc kéo dài việc bàn giao gây bức xúc trong dư luận xã hội, quyền lợi
của các bên trong quan hệ bán đấu giá tài sản thi hành án chưa đảm bảo và ngay cả

uy tín của các tổ chức bán đấu giá tài sản cũng bị ảnh hưởng. Từ đó cho thấy, việc
nghiên cứu một cách tồn diện và có hệ thống các vấn đề về bán đấu giá tài sản
trong THADS lúc này là cần thiết. Vì vậy, học viên đã chọn “Bán đấu giá tài sản
trong thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu luận
văn tốt nghiệp cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, trước yêu cầu đổi mới đất nước, cải cách hành
chính và cải cách tư pháp đã có nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học pháp lý đề
cập đến vấn đề bán đấu giá tài sản ở Việt Nam nói chung và bán đấu giá tài sản để
THADS nói riêng đã được công bố. Cụ thể về đề tài nghiên cứu có đề tài nghiên
cứu cấp Bộ “Hồn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản nhằm thúc đẩy thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Viện Khoa học pháp
lý, Bộ Tư pháp thực hiện năm 2011. Về luận văn, luận án có đề tài luận án tiến sĩ
luật học “Pháp luật về đấu giá tài sản trong thương mại ở Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Mạnh Cường bảo vệ tại Viện Khoa học xã hội Việt Nam năm 2012; đề tài
luận văn thạc sĩ luật học “Quản lý nhà nước về hoạt động bán đấu giá tài sản từ
thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Phạm Văn Sỹ bảo vệ tại Học viện
Hành chính quốc gia năm 2006. Về các bài tạp chí khoa học có bài “Vướng mắc
trong bán đấu giá tài sản để THADS” của tác giả Lệ Thủy đăng trên Tạp chí Dân
chủ và Pháp luật số chuyên đề tháng 11/2007; bài “Một số bất cập trong việc định
giá, định giá lại tài sản kê biên” của tác giả Vũ Hịa đăng trên Tạp chí Dân chủ và
7


Pháp luật số chuyên đề tháng 12/2012; bài “Một số vướng mắc về bán đấu giá tài
sản để thi hành án” của Đinh Duy Bằng đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số
chuyên đề tháng 02/2012; bài “Những khó khăn vướng mắc trong cơng tác kiểm
sốt việc bán đấu giá tài sản thi hành án” của tác giả Nguyễn Hồng Sinh đăng trên
Tạp chí Kiểm sát số 23, tháng 12/2011…
Các cơng trình nghiên cứu nêu trên đã giải quyết được một số vấn đề liên

quan đến bán đấu giá tài sản trong THADS. Tuy nhiên, chưa có một cơng trình nào
nghiên cứu một cách hệ thống và tồn diện các vấn đề về bán đấu giá tài sản trong
THADS theo pháp luật Việt Nam hiện hành. Luận văn của học viên là cơng trình
đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống các vấn đề liên quan đến bán
đấu giá tài sản trong THADS theo pháp luật Việt Nam hiện hành.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về bán đấu
giá tài sản trong THADS, nội dung các quy định pháp luật Việt Nam về bán đấu
giá tài sản trong THADS và phát hiện ra những bất cập để qua đó đề xuất một số
giải pháp hoàn thiện pháp luật hoàn thiện chúng.
Từ mục đích nêu trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ cụ thể
như:
- Phân tích các vấn đề về lý luận cơ bản của bán đấu giá tài sản trong
THADS.
- Phân tích và đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về
bán đấu giá tài sản trong THADS.
- Khảo sát thực tiễn thi hành pháp luật Việt Nam về bán đấu giá tài sản
trong THADS.
- Phát hiện những vướng mắc, bất cập của các quy định pháp luật Việt Nam
hiện hành về bán đấu giá tài sản trong THADS và thực tiễn thực hiện từ đó tìm ra
8


các giải pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả của bán đấu giá tài sản trong
THADS.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu đề tài là những vấn đề lý luận về bán đấu giá tài sản
trong THADS, các quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản trong THADS và
thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản trong
THADS.

Trong giới hạn của đề tài luận văn thạc sĩ luật học, việc nghiên cứu tập trung
vào các vấn đề chủ yếu sau đây:
- Khái niệm, ý nghĩa của bán đấu giá tài sản trong THADS và cơ sở của việc
pháp luật quy định bán đấu giá tài sản trong THADS.
- Nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về bán đấu giá
tài sản trong THADS.
- Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam về bán đấu giá tài
sản trong THADS trong những năm gần đây.
Ngoài ra, việc nghiên cứu cũng được tiến hành đối với một số quy định
tương ứng của pháp luật nước ngoài để đối chiếu tham khảo.
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước và pháp luật. Bên cạnh đó, những phương pháp khoa học khác như phương
pháp phân tích, diễn giải, tổng hợp, so sánh cũng được sử dụng để giải quyết
những nhiệm vụ đặt ra đối với việc nghiên cứu đề tài.
7. Cơ cấu của luận văn

9


Ngồi Lời nói đầu, Phần kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được cơ cấu gồm ba chương, như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bán đấu giá tài sản thi hành án trong
THADS.
Chương 2: Nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về bán
đấu giá tài sản trong THADS.
Chương 3: Thực tiễn bán đấu giá tài sản trong THADS và kiến nghị.

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN THI HÀNH

ÁN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
10


1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và nguyên tắc của bán đấu giá tài sản
trong thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự
Bán đấu giá tài sản là phương thức trao đổi tài sản đã có lịch sử hình thành
từ rất lâu đời trên thế giới. Theo ghi chép của những người Hy Lạp cổ đại thì từ
khoảng năm 500 năm trước cơng ngun, hình thức bán đấu giá đã xuất hiện tại
Babylon với đối tượng được mua bán là người phụ nữ như một sự cưới hỏi. Theo
đó thì “những người phụ nữ xinh đẹp được đưa đến những cuộc đấu giá cao cấp,
còn những phụ nữ xấu phải kèm theo của hồi môn và mang tới những cuộc đấu giá
để đợi được chấp nhận. Bất cứ người con gái nào bị gả bán ngoài cuộc đấu giá đều
là bất hợp pháp” [45]. Trong đế chế La Mã, phương thức bán đấu giá tiếp tục được
sử dụng để bán tất cả chiến lợi phẩm của chiến tranh mà chủ yếu là nô lệ và tài sản
con nợ bị tịch thu [45].
Hiện nay, phương thức bán đấu giá tài sản được sử dụng như một phương
thức mua bán thông thường, phổ biến và rộng khắp trên thế giới. Cùng với sự phát
triển của thương mại điện tử, bán đấu giá tài sản mở rộng hơn rất nhiều và phát triển
lên một bước mới. Việc bán đấu giá tài sản được tổ chức bằng các hình thức cơng
khai (open cry) hoặc theo hồ sơ niêm phong (sealed bid), theo phương thức đấu giá
lên hoặc đặt giá xuống (điển hình là kiểu Hà Lan và kiểu Anh).
Theo hình thức cơng khai thì tài sản chào bán tại một mức giá xác định,
người bán tiếp tục nâng mức giá lên cách mức giá cũ một khoảng nhất định cho
đến khi khơng cịn người nào đưa ra mức giá cao hơn. Người đã trả mức giá cao
nhất cuối cùng chính là người thắng cuộc. Đây là hình thức vẫn thường được áp
dụng nhiều nhất để giao dịch hàng hóa, sản phẩm, đặc biệt với các tài sản là cổ vật,
các bộ sưu tập tem, tiền, xe cổ, tác phẩm nghệ thuật…
Theo hình thức niêm phong thì người tham gia cùng nộp giá một lúc mà

không được biết giá của người khác cũng như giữ kín giá mà mình đã trả cho hàng
11


hóa, sản phẩm muốn mua. Thơng thường người trả giá cao nhất sẽ là người thắng
cuộc, mua được tài sản.
Tại Hà Lan, người bán có thể đưa ra một mức giá rất cao cho hàng hóa, sản
phẩm muốn bán. Mức giá này thường là mức giá “trên trời” và không ai có thể
mua nổi. Mức giá được hạ dần trong khoảng thời gian nhất định (thường theo thời
gian của một chiếc đồng hồ). Nếu người tham gia trả giá chấp nhận ở mức giá nào
đó thì cần ấn nút chấp nhận ngay, nếu không sẽ mất cơ hội. Phương thức này
thường áp dụng tại các chợ hoa và đặc biệt với sản phẩm hoa tulip.
Tại Anh thì bán đấu giá có nét đặc trưng riêng. Người bán đấu giá điều khiển
cuộc bán đấu giá sao cho người trả giá thắng được mức giá hiện tại. Giá chào mới
cao hơn giá chào cũ một khoảng cho trước. Cuộc bán đấu giá chấm dứt khi khơng
cịn người nào đưa ra mức giá cao hơn. Người trả giá hiện tại sẽ thắng và trả số tiền
theo mức giá đã chào [21, tr.120]. Kiểu bán đấu giá này còn được gọi là bán đấu
giá mức thứ hai.
Ngoài ra, cũng với sự phát triển của thương mại điện tử, hiện nay còn xuất
hiện phương thức đấu giá ngược. Đây là một loại hình đấu giá đặc biệt, theo đó
người trả giá thấp nhất và duy nhất sau khi kết thúc mỗi phiên đấu sẽ trở thành
người được mua tài sản bán đấu giá. Ở phương thức này nếu bên bán đưa ra giá
khởi điểm thì giá khởi điểm là mức giá lớn nhất (ngược với phương thức trả giá lên
– phương thức đấu giá xuôi).
Cùng với sự phát triển của xã hội, có thể nói rằng đến nay bán đấu giá phát
triển với tư cách là một phương thức mua bán tài sản thông thường, phổ biến và
không thể thiếu trong thương mại, kinh doanh của thế giới. Khái niệm bán đấu giá
đưa ra dưới nhiều góc độ khác nhau.
Theo bách khoa tồn thư mở Wikipedia thì “Đấu giá là quá trình mua và
bán tài sản hoặc dịch vụ bằng cách đưa món hàng cần đấu giá, ra giá và sau đó

bán món hàng cho người trả giá cao nhất” [45].
12


Trong kinh tế học hiện đại, nhà kinh tế học người Anh - David W. Pearce đã
đưa ra định nghĩa: “Đấu giá là một thị trường trong đó người mua tiềm tàng đặt
giá cho tài sản chứ không phải đơn thuần trả giá theo giá công bố của người bán”
và thị trường đấu giá là “một thị trường có tổ chức, tại đó giá cả được điều chỉnh
liên tục theo biến đổi của cung và cầu” [10, tr.102].
Tại Việt Nam khái niệm bán đấu giá tài sản cũng được xem xét, đưa ra trong
nhiều tài liệu khác nhau. Theo Từ điển Luật học thì “Bán đấu giá tài sản là hình
thức bán cơng khai một tài sản, một khối tài sản; theo đó có nhiều người muốn
mua tham gia trả giá, người trả giá cao nhất nhưng không thấp hơn giá khởi điểm
là người mua được tài sản” [42, tr.31]. Theo Đại Từ điển Bách khoa Việt
Nam“Đấu giá là hình thức bán những tài sản hoặc tài sản thường thuộc loại đắt
tiền, hàng quý hiếm. Người bán đặt mức giá chuẩn, những người mua trả giá từ
thấp đến cao, tài sản được bán cho người mua trả cao nhất” [16, tr.136].
Như vậy, cả trên thế giới và ngay tại Việt Nam cũng đang tồn tại khá nhiều
quan điểm, định nghĩa khác nhau về bán đấu giá tài sản. Mặc dù cịn có sự khác biệt
giữa Việt Nam so với thế giới về hình thức, phương thức bán đấu giá nhưng nhìn
chung đều cho thấy bán đấu giá tài sản là hình thức mua bán đặc biệt, bản chất là
một phương thức mua bán cơng khai tài sản, có nhiều người tham gia trả giá, được
tổ chức theo những nguyên tắc và trình tự, thủ tục nhất định. Theo đó, người mua tự
trả giá dựa trên giá khởi điểm do bên bán đưa ra. Người nào trả giá đáp ứng điều
kiện quy định trước của phiên bán đấu giá sẽ được quyền mua tài sản đấu giá.
Trong hoạt động THADS, khi người phải thi hành án và người được thi hành
án không thỏa thuận được về việc nhận tài sản kê biên để thi hành án thì Chấp
hành viên căn cứ vào quy định của pháp luật về loại tài sản, giá trị tài sản để xác
định có thực hiện phương thức bán đấu giá hay không. Căn cứ trên kết quả định giá
tài sản mà Chấp hành viên ký hợp đồng với tổ chức bán đấu giá tài sản hoặc tự


13


đứng ra tổ chức bán đấu giá tài sản nhằm bảo đảm thi hành bản án, quyết định của
Tòa án.
Để có thể bán đấu giá một tài sản thì cần thiết phải có tài sản để mang bán
hay về danh nghĩa phải nắm giữ được tài sản đó. Do đó, quá trình bán đấu giá tài
sản thi hành án được bắt đầu kể từ khi Chấp hành viên kê biên tài sản, định giá tài
sản và kết thúc khi tài sản đem bán đấu giá được bàn giao xong xuôi cho người
thắng cuộc trong phiên đấu giá.
Việc bán đấu giá tài sản trong THADS về bản chất vẫn là một phương thức
bán tài sản đặc biệt, được tổ chức công khai tại một nơi nhất định, theo trình tự, thủ
tục bán đấu giá pháp luật quy định. Trong quan hệ giữa người mua và người bán
tài sản thì chỉ có một người bán nhưng lại có rất nhiều người mua. Tất cả người
mua đều muốn mua tài sản nên sẽ cạnh tranh với nhau, tăng giá của tài sản lên và
đẩy giá tài sản lên đến mức cao nhất có thể và người sở hữu tài sản có thể thu được
số tiền cao nhất cho tài sản mà mình phải bán. Tuy nhiên, bán đấu giá tài sản trong
THADS khác với bán đấu giá tài sản thông thường ở thủ tục trước và sau khi tổ
chức bán đấu giá. Trước khi tổ chức bán đấu giá, sự khác biệt thể hiện ở thủ tục
chuyển giao tài sản bán đấu giá được thực hiện giữa tổ chức thực hiện bán đấu giá
với cơ quan THADS. Cơ quan THADS tiến hành thủ tục định giá tài sản, ký hết
hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản… Sau khi kết thúc việc bán đấu giá tài sản thì
cơ quan THADS tiến hành thủ tục bàn giao, thanh tốn chi phí bán đấu giá, phối
hợp làm thủ tục trong chuyển quyền sở hữu tài sản cho người mua được tài sản bán
đấu giá.
Như vậy, bán đấu giá tài sản trong THADS là hình thức mua bán đặc biệt,
công khai đối với tài sản bị kê biên để thi hành án, theo nguyên tắc và trình tự, thủ
tục do pháp luật quy định, người mua trả giá dựa trên khởi điểm do cơ quan thi
hành án xác định, người nào trả giá cao nhất sẽ được quyền mua tài sản đấu giá.

1.1.2. Đặc điểm của bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự
14


1.1.2.1. Về ý chí của người có tài sản bán đấu giá trong thi hành án dân sự
Trong bán đấu giá thơng thường thì người có tài sản chủ động mang tài sản,
hàng hóa của mình tham gia đấu giá với mong muốn thu được lợi nhuận cao nhất
từ hàng hóa, tài sản đó do đó họ tham gia với vai trị tích cực, chủ động để việc bán
đấu giá nhanh chóng thành cơng. Tuy nhiên, bán đấu giá tài sản THADS với tư
cách là một biện pháp tiếp nối trong quá trình cưỡng chế tài sản của người phải thi
hành án nhằm bảo đảm thi hành án nên người có tài sản bán đấu giá khơng tự
nguyện mang tài sản của mình đến bán đấu giá mà bị cưỡng chế bởi cơ quan có
thẩm quyền (cơ quan THADS).
References.
1. Bộ Chính trị (02/6/2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020.
2.

Bộ Chính trị (24/5/2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW về chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến
năm 2020.

3. Bộ Tư pháp (18/7/2014), Báo cáo số 180/BC-BTP sơ kết 4 năm thi hành Nghị
định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về bán đấu giá
tài sản.
4. Bộ Tư pháp (2009), Pháp luật về bán đấu giá tài sản, tài liệu Hội thảo – thành
phố Hồ Chí Minh.
5. Chính phủ (04/3/2010), Nghị định số 17/2010/NĐ-CP của Chính phủ về bán
đấu giá tài sản.
6. Chính phủ (18/01/2005), Nghị định số 05/2005/NĐ-CP của Chính phủ về bán

đấu giá tài sản.
7. Chính phủ (19/12/1986), Nghị định số 86/1996/CP về việc ban hành quy chế
bán đấu giá tài sản.

15


8. Hồ Quân Chính (2012), Một số vấn đề về định giá, định giá lại và bán đấu giá
tài sản kê biên để thi hành án, Dân chủ và pháp luật, (12).
9. Cục thi hành án dân sự tỉnh Tiền Giang (2005), Hồ sơ vụ việc bán đấu giá tài
sản thi hành án của ông Nguyễn Thanh Tiến, Tiền Giang.
10. David W. Pearce (1999), Từ điển kinh tế học hiện đại, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Hải Dương (2011), Cần sớm khắc phục một số bất cập về bán đấu giá tài sản trên
địa bàn tỉnh Hải Dương, Dân chủ và pháp luật, (5).
13. Nguyễn Xuân Đồng (2011), Những vướng mắc trong công tác bán đấu giá
quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất,
Dân chủ và pháp luật, (10).
14. Nguyễn Hồng Hải (2012), Một số ý kiến về đấu giá tài sản theo quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành và một số đề xuất, Tài liệu hội nghị Vụ Bổ
trợ tư pháp - Bộ Tư pháp, Hà Nội.
15. Nguyễn Quang Hòa (2012), Bán đấu giá tài sản - Một số nét về thực trạng,
Dân chủ và pháp luật, (12).
16. Hội đồng quốc gia (1995), Đại Từ điển bách khoa Việt Nam, NXB Trung tâm
biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam, tr 136.
17. Khoa Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2004), Tài
liệu học tập và nghiên cứu môn học lý luận chung về nhà nước và pháp luật,
tập 1, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

18. Đặng Thị Bích Liễu (2010), Vấn đề: người có tài sản bán đấu giá" và "người
bán đấu giá tài sản" trong pháp luật về đấu giá ở Việt Nam, Nhà nước
và pháp luật, (2).
19. Đặng Trần Hoàng Linh (2012), Nhận diện những bất cập từ thực tiễn hoạt
động bán đấu giá tài sản, Dân chủ và pháp luật (12).
16


20. Nguyễn Thị Mai (2009), Những bất cập trong hoạt động đấu giá tài sản, Dân
chủ và pháp luật, (11).
21. Thanh Minh, Mai Hoa và Huyền Trang (2012), Kinh nghiệm bán đấu giá tài
sản theo pháp luật một số quốc gia trên thế giới, Dân chủ và pháp luật,
(12).
22. Nguyễn Thị Minh (2012), Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật
bán đấu giá ở Việt Nam, Dân chủ và pháp luật, (12).
23. Nhà Pháp luật Việt – Pháp (1998), Bộ luật dân sự của nước cộng hòa Pháp,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Nguyễn Hồng Sinh (2011), Những khó khăn vướng mắc trong cơng tác kiểm
sốt việc bán đấu giá tài sản thi hành án, Tạp chí Kiểm sát (23).
25. Nguyễn Hồng Sinh (2012), Những vướng mắc trong công tác kiểm sát hoạt
động bán đấu giá tài sản thi hành án, Dân chủ và pháp luật, (12).
26. Tiến Hiểu, Minh Hiếu (08/7/2013), Khổ vì mua đấu giá đất, Báo Pháp luật
( />27. Vũ Văn Tiến, Ngọc Cương (30/07/2012), Hà Nội: Cục Thi hành án dân sự bị
“tố” gây thiệt hại tài sản cơng dân, Báo Dân trí
( />28. Lệ Thuỷ (2007), Vướng mắc trong bán đấu giá tài sản để thi hành án dân sự,
Tạp chí dân chủ và pháp luật, (11).
29. Thụy Trang (16/08/2011), Khổ vì mua nhà bán đấu giá, Báo Lâm Đồng online
( />30. Đỗ Khắc Trung (2007), Bán đấu giá tài sản thực trạng và hướng hồn thiện,
Tạp chí dân chủ và pháp luật, (11).
31. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1995), Bộ luật dân sự.

32. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Bộ luật dân sự.
17


33. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Luật thi hành án
dân sự.
34. Văn phòng luật sư Gia Bảo (2012), Hồ sơ vụ việc thi hành án của ông Nguyễn
Văn C. Bắc Ninh – hồ sơ thụ lý, Hà Nội.
35. Võ Đình Tồn (2012), Một số vấn đề lý luận về bán đấu giá và pháp luật bán đấu
giá, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số chun đề 2012.
36. Võ Đình Tồn, Vũ Văn Cương, Nguyễn Mạnh Cường (2011), Hoàn thiện pháp
luật về bán đấu giá tài sản nhằm thúc đẩy thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
37. Tổ chức hợp tác quốc tế Nhật Bản (2000), Luật Nhật Bản, Nhà Xuất bản Thanh
niên, Hà Nội.
38. Uỷ ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1989),
Pháp lệnh thi hành án dân sự.
39. Uỷ ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1993),
Pháp lệnh thi hành án dân sự.
40. Uỷ ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004),
Pháp lệnh thi hành án dân sự.
41. Nguyễn Thị Vinh (2010), Thực tiễn thi hành luật thi hành án dân sự trên địa
bàn thành phố Hà Nội, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (12).
42. Viện Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp,
Hà Nội.
43. Vụ Bổ trợ tư pháp - Bộ Tư pháp (2004), Luật Bán đấu giá tài sản của Trung
Quốc, (tài liệu tham khảo).
44. Vụ Bổ trợ tư pháp - Bộ Tư pháp (2004), Các quy định pháp luật nước ngoài về
bán đấu giá tài sản, (tài liệu tham khảo).
(2014), Auction, Từ điển Bách

( />
45. Wikipedia

18

khoa

toàn

thư

mở



×