ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THANH TÙNG
CHUYỂN GIAO QUYỀN SỬ DỤNG NHÃN HIỆU
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành: LUẬT DÂN SỰ
Mã số: 60 38 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Thị Quế Anh
HÀ NỘI - 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Thanh Tùng
MỤC LỤC
Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng
Danh mục biểu đồ
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 4
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5
5. Phương pháp nghiên cứu 5
6. Kết cấu của luận văn 6
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN SỞ
HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU VÀ CHUYỂN
GIAO QUYỀN SỬ DỤNG ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU 7
1.1 Nhãn hiệu và khái quát quyền sở hữu công nghiệp đối với
nhãn hiệu 7
1.1.1 Khái niệm về nhãn hiệu 7
1.1.2 Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp và quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu 13
1.1.3 Nội dung quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 18
1.2 Khái quát chung về chuyển giao quyền sử dụng đối với
nhãn hiệu 23
1.2.1 Khái niệm chuyển giao quyền sử dụng đối với nhãn hiệu 23
1.2.2 Nội dung và hình thức chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu 25
1.2.3 Ý nghĩa của việc chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu 27
1.2.4 So sánh chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu với chuyển
nhượng quyền sở hữu nhãn hiệu và với chuyển giao quyền sử
dụng đối với một số đối tượng SHCN khác 28
1.3 Các quy định về chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu
trong các điều ước quốc tế và pháp luật ở một số nước 36
1.4 Sự hình thành và phát triển của pháp luật về chuyển giao
quyền sử dụng nhãn hiệu tại Việt Nam 39
Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ CHUYỂN GIAO QUYỀN SỬ DỤNG NHÃN HIỆU 44
2.1 Khái niệm quyền sử dụng nhãn hiệu 44
2.1.1 Phân biệt với quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý 44
2.1.2 Phân biệt với quyền sử dụng tên thương mại 46
2.2 Cách thức chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu 47
2.2.1 Chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu độc lập 48
2.2.2 Chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu đi cùng với các đối
tượng khác 48
2.3 Hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu 49
2.3.1 Khái niệm hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu 50
2.3.2 Chủ thể của hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu 51
2.3.3 Đối tượng của hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu 52
2.3.4 Nội dung của hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu 53
2.3.5 Phân loại hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu 59
2.3.6 Hiệu lực của hợp đồng 60
Chương 3: THỰC TRẠNG CHUYỂN GIAO QUYỀN SỬ DỤNG
NHÃN HIỆU TẠI VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 62
3.1 Thực trạng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu tại Việt Nam 62
3.1.1 Vấn đề xác định giá trị sử dụng của nhãn hiệu trong hoạt động
chuyển giao quyền sử dụng 68
3.1.2 Vấn đề khai thác, duy trì và phát triển nhãn hiệu sau khi
chuyển giao 69
3.1.3 Tính nghiêm túc trong hoạt động chuyển giao quyền sử dụng
nhãn hiệu 71
3.1.4 Về số phận của hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu
trong trường hợp bên chuyển giao là doanh nghiệp phá sản 72
3.1.5 Về vấn đề chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu trong trường
hợp nhãn hiệu đó trùng với tên thương mại 72
3.1.6 Về vấn đề giải quyết tranh chấp trong quan hệ hợp đồng
chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu 73
3.2 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về chuyển
giao quyền sử dụng nhãn hiệu tại Việt Nam 73
KẾT LUẬN 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS : Bộ luật dân sự
CGCN : Chuyển giao công nghệ
HĐTM : Hiệp định thương mại
KDCN : Kiểu dáng công nghiệp
License : Chuyển quyền sử dụng
LDN : Luật Doanh nghiệp
NQTM : Nhượng quyền thương mại
NHHH : Nhãn hiệu hàng hóa
SHTT : Sở hữu trí tuệ
SHCN : Sở hữu công nghiệp
WTO : Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
3.1 Số lượng đơn đăng ký hợp đồng chuyển quyền sử 65
dụng đối tượng SHCN và hợp đồng chuyển quyền
sử dụng đối tượng SHCN đã được đăng ký tại Cục
SHTT từ năm 2000 đến 2010
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Số hiệu bản đồ Tên biểu đồ Trang
3.2 Số lượng hợp đồng chuyển quyền sử dụng các đối 66
tượng SHCN đã được đăng ký tại Cục SHTT từ
năm 2000 đến 2010
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Theo quan niệm truyền thống, tài sản hữu hình thường là bộ phận chủ
yếu trong tổng số tài sản và đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện tình
hình tài chính của doanh nghiệp. Tài sản hữu hình trong doanh nghiệp bao
gồm tiền mặt, nhà xưởng, máy móc, vật kiến trúc, nguyên nhiên vật liệu, bán
thành phẩm hoặc thành phẩm tồn kho…Ngày nay, dưới nhận thức của các nhà
kinh doanh trên thế giới, tài sản của mỗi một doanh nghiệp không chỉ còn là
các tài sản hữu hình mà còn là các tài sản vô hình như giá trị quyền sử dụng
đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, bí quyết kinh doanh, trình độ của người lao
động…Trong số các tài sản vô hình đó, với xu thế phát triển của nền kinh tế
tri thức như hiện nay, giá trị quyền sở hữu trí tuệ mà đặc biệt là giá trị quyền
sở hữu công nghiệp trong đó có giá trị của nhãn hiệu được các doanh nghiệp
và các nhà làm luật quan tâm hơn cả.
Cùng với sự tìm tòi, sáng tạo, cải tiến, đổi mới về công nghệ sản xuất,
các doanh nghiệp ngày càng tạo ra được các sản phẩm có chất lượng tốt, mẫu
mã đẹp, tiện ích cho người tiêu dùng. Ban đầu, để phân biệt sản phẩm, dịch
vụ do mình làm ra với các sản phẩm, dịch vụ của những chủ thể kinh doanh
khác, các doanh nghiệp đã gắn lên mỗi loại sản phẩm, dịch vụ của mình nhãn
hiệu đặc trưng riêng có. Khi sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp ngày càng
được nhiều người tiêu dùng biết đến và sử dụng thì cũng đồng nghĩa với việc
doanh thu của doanh nghiệp sẽ không ngừng tăng lên, thị phần doanh nghiệp
ngày càng lớn, uy tín doanh nghiệp ngày càng được khẳng định. Chính từ đó,
nhãn hiệu của sản phẩm, dịch vụ không còn chỉ đơn thuần là dùng để phân
biệt nữa mà giá trị của nó đã được định hình trong tâm trí người tiêu dùng,
trong các đối thủ cạnh tranh và nó có thể định giá được bằng tiền mặt. Thế
2
giới đã được biết đến những nhãn hiệu nổi tiếng, mang lại cho doanh nghiệp
sở hữu nhãn hiệu một giá trị tài sản khổng lồ như nhãn hiệu Coca Cola có giá
gần 72 tỉ USD, Google (55,317 tỷ USD), Apple (33,492 tỉ USD), hp (28,479
tỉ USD) [1]…Còn ở thị trường Việt Nam, rất nhiều nhãn hiệu nổi tiếng cũng
được nhắc đến như cà phê Trung Nguyên, kem đánh răng P/S, võng xếp Duy
Lợi, phở 24, VINATABA.
Trong rất nhiều thương vụ, giá trị của nhãn hiệu (thể hiện uy tín của
doanh nghiệp) lại được định giá cao hơn các tài sản cố định khác của doanh
nghiệp. Thí dụ, trong khi góp vốn liên doanh xây dựng nhà máy sản xuất kem
đánh răng Elida P/S, giá trị nhà xưởng và quyền sử dụng đất của phía Việt
Nam được định giá chưa đến 1 triệu USD, trong khi đó nhãn hiệu P/S được
mua với giá hơn 4 triệu USD. Tất cả những điều này đều thể hiện giá trị to lớn
mà nhãn hiệu mang lại cho doanh nghiệp, từ đó đặt ra yêu cầu cấp thiết là vừa
phải bảo vệ nhãn hiệu không bị xâm phạm (đăng ký bảo hộ) vừa phải mở
rộng thị trường sử dụng sản phẩm, dịch vụ để tăng doanh thu và đặc biệt là
quảng bá nhãn hiệu một cách rộng rãi đến người tiêu dùng. Tuy nhiên, không
phải lúc nào doanh nghiệp cũng có đủ năng lực về tài chính, nhân sự, thời
gian …để cùng lúc làm được các điều này. Do đó, một giải pháp được các
doanh nghiệp sử dụng đó là tiến hành chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu
cho những doanh nghiệp mà mình tin tưởng. Với việc chuyển giao quyền sử
dụng nhãn hiệu của mình, bên chuyển giao sẽ có được một số lợi ích cơ bản
như: mở rộng được thị trường tiêu thụ các sản phẩm, dịch vụ của mình mà
không cần phải tốn nhiều tiền của, công sức đầu tư xây dựng mạng lưới chi
nhánh, văn phòng đại diện tại nhiều nơi (trong nước cũng như trên thế giới);
tăng doanh thu cho bên chuyển giao; nhãn hiệu được quảng bá ra nhiều thị
trường và được người tiêu dùng biết đến nhiều hơn; có khả năng bảo vệ nhãn
hiệu cho sản phẩm của mình tốt hơn trước các hành vi xâm phạm nhãn hiệu
3
bởi bên nhận chuyển giao sẽ là “tai mắt” cho bên chuyển giao trong việc thu
thập các thông tin liên quan đến việc xâm phạm nhãn hiệu…Bên nhận chuyển
giao sẽ được hưởng lợi rất lớn từ việc các sản phẩm của mình được phép gắn
nhãn hiệu nổi tiếng. Chẳng hạn: một chiếc áo sơ mi giá bình thường chỉ cỡ
100.000 đồng, khi được gắn nhãn hiệu Pierre Cardin thì giá của nó được
khách hàng toàn thế giới chấp nhận sẽ tương đương 60 – 70 USD (khoảng
hơn 1 triệu đồng). Các mặt hàng điện tử gia dụng ngày nay gần như tất cả đều
là Sanyo, Toshiba, … nhưng made in China, Thailand, Malaysia, Vietnam,…
phần lớn chúng được sản xuất từ các quốc gia đó nhưng được phép mang
những nhãn hiệu Nhật Bản nổi tiếng. Chất lượng của những sản phẩm này
nhìn chung là tốt (tuy có thể ít nhiều thua kém sản phẩm chính hãng). Tuy
nhiên, vẫn còn rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa nhận thức được nhãn
hiệu cũng là một tài sản của doanh nghiệp, vì vậy không nhận thức được giá
trị của nhãn hiệu và việc chuyển giao nhãn hiệu nên ít đầu tư cho nó. Phần lớn
doanh nghiệp sẵn sàng đầu tư số tiền rất lớn cho thiết bị hay công nghệ mới,
song còn rất khiêm tốn khi đầu tư cho việc xây dựng, bảo vệ và quảng bá
nhãn hiệu. Mặt khác, khoa học pháp lý của nước ta tuy có rất nhiều công trình
nghiên cứu về quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu công nghiệp
nói riêng nhưng chưa có nhiều công trình nghiên cứu một cách toàn diện, sâu
sắc về vấn đề chuyển giao quyền sử dụng đối với nhãn hiệu. Do đó, các vấn
đề lý luận cũng như các vấn đề pháp lý liên quan đến chuyển giao quyền sử
dụng đối với nhãn hiệu chưa được làm rõ, dẫn đến có nhiều cách hiểu không
thống nhất, nhiều doanh nghiệp còn nhầm lẫn nó với các hình thức chuyển
giao một số đối tượng sở hữu công nghiệp khác.
Trên cơ sở những phân tích nêu trên và với mong muốn tìm hiểu,
nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam về lĩnh vực chuyển giao
quyền sử dụng nhãn hiệu, tác giả lựa chọn thực hiện đề tài “Chuyển giao
quyền sử dụng nhãn hiệu theo pháp luật Việt Nam.”
4
2. Mục tiêu nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài: “Chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu theo
pháp luật Việt Nam” nhằm các mục tiêu sau:
Về mặt khoa học:
- Quá trình thực hiện luận văn sẽ góp phần hệ thống hóa những quy
định của pháp luật Việt Nam hiện hành cũng như một số quy định cơ bản
của các điều ước quốc tế cũng như pháp luật một số nước quy định về vấn
đề chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu.
- Góp phần làm rõ cũng như bổ sung và hoàn thiện về mặt lý luận của
vấn đề chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu trong khoa học pháp lý.
Về mặt thực tiễn:
- Giúp nâng cao kiến thức, sự hiểu biết của mọi người mà đặc biệt là
các doanh nghiệp Việt Nam về vấn đề chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu.
Từ đó giúp họ phân biệt giữa chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu với
chuyển giao tên thương mại, tránh những nhầm lẫn đáng tiếc có thể xảy ra,
đồng thời vận dụng có hiệu quả hơn trên thương trường.
- Trên cơ sở tìm hiểu thực trạng của việc chuyển giao quyền sử dụng
nhãn hiệu tại Việt Nam, luận văn chỉ rõ những tồn tại, vướng mắc trong quá
trình thực hiện chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu từ đó đề xuất một số
kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về chuyển giao quyền sử dụng nhãn
hiệu tại Việt Nam.
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Khoa học pháp lý của nước ta tuy có rất nhiều công trình nghiên cứu về
quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu công nghiệp nói riêng nhưng
chưa có nhiều công trình nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc về vấn đề
chuyển giao quyền sử dụng đối với nhãn hiệu. Do đó, các vấn đề lý luận cũng
như các vấn đề pháp lý liên quan đến chuyển giao quyền sử dụng đối với nhãn
5
hiệu chưa được làm rõ, dẫn đến có nhiều cách hiểu không thống nhất. Chính
vì vậy, tác giả mong muốn luận văn sẽ đóng góp một cách nhìn toàn diện,
chuyên sâu hơn về vấn đề này, chỉ rõ những tồn tại, vướng mắc trong quá
trình thực hiện chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu từ đó đề xuất một số
kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu
tại Việt Nam. Tác giả hy vọng luận văn sẽ trở thành một trong những nguồn
tài liệu tham khảo cho những đọc giả quan tâm đến vấn đề này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn có đối tượng nghiên cứu chủ yếu là cơ sở lý luận về nhãn
hiệu mà trong đó tập trung vào vấn đề chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu
và thực trạng của việc chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu tại Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: cơ sở lý luận và thực trạng của việc
chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu tại Việt Nam. Tuy nhiên luận văn cũng
có đề cập đến vấn đề chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu theo pháp luật quốc
tế, so sánh giữa chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu với chuyển giao tên
thương mại để nhằm tăng tính phong phú, đa dạng, toàn diện của luận văn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn, tác giả đã sử dụng đến các phương pháp chủ
yếu như:
- Phương pháp tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng để tìm kiếm,
tập hợp lại toàn bộ các tài liệu có liên quan đến đối tượng nghiên cứu nhằm
phục vụ cho quá trình nghiên cứu thực hiện luận văn.
- Phương pháp phân tích: Phương pháp này giúp làm rõ các vấn đề lý
luận về vấn đề cần nghiên cứu.
- Phương pháp so sánh, đánh giá: Phương pháp này giúp cho luận
văn có được cái nhìn đa chiều, toàn diện, đúng đắn và sâu sắc về vấn đề
cần nghiên cứu từ đó rút ra được những kết luận, kiến nghị có tính chính
6
xác cao và khoa học, thể hiện rõ tư duy, tính mới, tính sáng tạo và cách lập
luận của tác giả.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận chung về quyền sở hữu công nghiệp
đối với nhãn hiệu và chuyển giao quyền sử dụng đối với nhãn hiệu
Chương 2. Những quy định của pháp luật Việt Nam về chuyển giao
quyền sử dụng nhãn hiệu.
Chương 3. Thực trạng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu tại Việt
Nam và một số kiến nghị.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN SỞ HỮU
CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU VÀ CHUYỂN GIAO
QUYỀN SỬ DỤNG ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU
1.1 Nhãn hiệu và khái quát quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
1.1.1 Khái niệm về nhãn hiệu
Thuật ngữ nhãn hiệu “brand” xuất phát từ người Aixơlen cổ đại với
nghĩa là đốt cháy “to burn”. Theo một số nghiên cứu cho thấy, từ thời xa xưa
con người đã biết sử dụng nhãn hiệu để nhận biết nguồn gốc, xuất xứ của
hàng hóa, dịch vụ. Đối với gia súc, người chăn nuôi gia súc khi trao đổi, mua
bán gia súc của mình với người khác đã dùng biện pháp đánh dấu thông qua
các vết cắt, xiên lỗ trên tai các con gia súc. Đối với các đồ thủ công mỹ nghệ
như đồ gốm sứ, tơ lụa, gia thú con người đã biết dùng chữ ký hoặc biểu tượng
để phân biệt sản phẩm do họ làm ra với sản phẩm của người khác. Trải qua
các cuộc cách mạng công nghiệp, nền sản xuất hàng hóa, dịch vụ có nhiều
bước phát triển vượt bậc. Khi hàng hóa được tạo ra ngày càng nhiều, dịch vụ
ngày càng phong phú, đa dạng thì nhãn hiệu đã trở thành một công cụ hữu
hiệu để nhận biết cũng như phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các chủ thể sản
xuất kinh doanh khác nhau. Các sản phẩm cùng loại do các chủ thể khác nhau
sản xuất ra đều có nhãn hiệu khác nhau. Chính vì thế, thông qua nhãn hiệu,
người tiêu dùng có thể nhận biết và lựa chọn tiêu thụ các sản phẩm có nhãn
hiệu mà mình ưa dùng hoặc muốn mua mà không sợ bị nhầm lẫn và mất
nhiều thời gian. Hiện nay, nhãn hiệu chiếm lĩnh một vị trí quan trọng trong
hoạt động thương mại, nó không chỉ là dấu hiệu để nhận biết và phân biệt như
đã nói ở trên mà nó còn có giá trị kinh tế và trở thành tài sản vô hình quý giá
của chủ thể sản xuất kinh doanh, đôi khi giá trị kinh tế mà nhãn hiệu mang lại
8
còn lớn hơn rất nhiều so với các tài sản hữu hình khác. Chính vì vậy, nhãn
hiệu có thể được mua bán hoặc có thể cho thuê quyền sử dụng.
Về khái niệm nhãn hiệu hiện có rất nhiều cách hiểu khác nhau về nhãn
hiệu. Dưới góc độ luật pháp quốc tế, trước đây Công ước Paris về bảo hộ sở
hữu công nghiệp không đưa ra khái niệm nhãn hiệu là gì. Việc không đưa ra
khái niệm cụ thể về nhãn hiệu là do muốn tạo điều kiện để các nước thành
viên Công ước tự đưa ra những khái niệm về nhãn hiệu cho phù hợp với đặc
điểm của nước mình. Tuy nhiên, đến khi Hiệp định TRIPS 1994 về các khía
cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ ra đời thì khái niệm
nhãn hiệu đã được định rõ. Theo Điều 15.1 hiệp định TRIPS, khái niệm
nhãn hiệu hàng hóa được quy định như sau: “Bất kỳ một dấu hiệu, hoặc tổ
hợp dấu hiệu nào, có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của các
doanh nghiệp khác đều có thể làm nhãn hiệu hàng hóa. Các dấu hiệu đó,
đặc biệt là các từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình họa
và tổ hợp các sắc màu cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó phải có
khả năng được đăng ký là nhãn hiệu hàng hóa”. Có thể thấy khái niệm nhãn
hiệu hàng hóa trong hiệp định TRIPS được quy định một cách khái quát,
việc xác định một đối tượng bất kỳ có phải là nhãn hiệu hàng hóa hay không
sẽ căn cứ vào mục đích sử dụng và “bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng phân
biệt hàng hóa này với hàng hóa khác” thì đều có thể xem là yếu tố cấu thành
của một nhãn hiệu hàng hóa.
Còn dưới góc độ pháp luật trong nước, trước đây, theo quy định tại
Điều 785 Bộ Luật Dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1995
thì: “Nhãn hiệu hàng hóa là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa,
dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu
hàng hóa có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp của các yếu tố đó được
thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc”. Nhưng đến Bộ luật Dân sự 2005 thì
9
lại không có quy định như thế nào là nhãn hiệu mà chỉ quy định nhãn hiệu là
một trong những đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp (Điều 750). Hiện
nay, khái niệm nhãn hiệu được quy định cụ thể tại Khoản 16 Điều 4 Luật Sở
hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung 2009 (sau đây gọi tắt là Luật sở hữu trí tuệ),
điều đặc biệt là Luật Sở hữu trí tuệ không có quy định về nhãn hiệu hàng hóa
riêng và nhãn hiệu dịch vụ riêng mà chỉ đưa ra một khái niệm nhãn hiệu dùng
chung cho cả hai loại đó. Theo đó nhãn hiệu được hiểu “là dấu hiệu dùng để
phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau”. Dấu hiệu
được nhắc đến trong khái niệm này phải là dấu hiệu nhìn thấy được dưới các
dạng như: chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết
hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc. Mặt khác, các
dấu hiệu này còn phải có khả năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ của chủ sở
hữu nhãn hiệu với hàng hoá, dịch vụ của chủ thể khác.
Tuy nhiên, các nước khác nhau lại định nghĩa về nhãn hiệu có phần
khác nhau. Theo quy định tại Điều L711-1 Bộ luật Sở hữu trí tuệ Pháp, thì
“nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ là các dấu hiệu có thể thể hiện
được dưới dạng chữ viết dùng để phân biệt sản phẩm, dịch vụ của một thể
nhân, pháp nhân.
Dấu hiệu quy định tại đoạn trên chủ yếu bao gồm:
a. Tên gọi được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào như: Từ, tập hợp từ,
tên người, tên địa lý, biệt hiệu, bút danh, chữ cái, chữ số, chữ viết tắt;
b. Dấu hiệu âm thanh như: âm thanh, lời nhạc;
c. Dấu hiệu hình ảnh như: hình vẽ, nhãn sản phẩm, con dấu, đường
viền, hình nổi, ảnh chụp giao thoa laze, biểu tượng, hình ảnh tổng hợp, hình
thức, đặc biệt là hình thức sản phẩm, hình thức bao bì sản phẩm, hình thức
đặc trưng của dịch vụ, cách bố trí kết hợp màu sắc, sắc thái màu".
Về cơ bản, khái niệm nhãn hiệu theo quy định của Pháp cũng được
10
định nghĩa theo mục đích sử dụng: là các dấu hiệu nhằm phân biệt sản phẩm
dịch vụ của thể nhân và pháp nhân, bên cạnh đó đã liệt kê một cách cụ thể
các loại dấu hiệu được sử dụng làm nhãn hiệu và phạm vi các dấu hiệu mở
rộng hơn rất nhiều so với quy định của Việt Nam. Nhiều dấu hiệu từ ngữ và
hình ảnh đã được bảo hộ tại Pháp mà Việt Nam chưa quy định như biệt hiệu,
bút danh, chữ viết tắt, nhãn sản phẩm, con dấu, đường viền, ảnh chụp giao
thoa laze, hình thức bao bì sản phẩm, hình thức đặc trưng của dịch vụ và
ngoài các loại dấu hiệu thông thường như từ ngữ, hình ảnh, màu sắc thì dấu
hiệu âm thanh cũng có thể được sử dụng làm nhãn hiệu. Tuy nhiên, luật của
Pháp quy định rất chặt chẽ là các dấu hiệu này phải có khả năng thể hiện được
dưới dạng chữ viết "graphisme" nghĩa là phải thể hiện được trên giấy - phải
có khả năng nhìn thấy được, kể cả với dấu hiệu âm thanh. Nhãn hiệu âm
thanh phải được thể hiện thành nốt nhạc và tiết tấu nhạc trên giấy và bảo hộ
nhãn hiệu âm thanh là bảo hộ giai điệu nhạc gắn lên hàng hoá dịch vụ thông
qua những nốt nhạc mà người nộp đơn thể hiện trên giấy. [6, 13]
Các dấu hiệu như âm thanh cũng như một số dấu hiệu từ ngữ và hình
ảnh được sử dụng làm nhãn hiệu theo quy định của Pháp chưa được quy
định trong pháp luật hiện hành của Việt Nam nhưng cùng với việc tiếp cận
và giao lưu với những hệ thống pháp luật tiên tiến trong quá trình hội nhập,
khái niệm về nhãn hiệu của Việt Nam đã được hoàn thiện và gần với chuẩn
mực quốc tế hơn, điển hình là khái niệm nhãn hiệu quy định trong Hiệp định
thương mại (HĐTM) Việt Nam – Hoa Kỳ tại khoản 1 Điều 6: “Nhãn hiệu
hàng hóa được cấu thành bởi dấu hiệu bất kỳ hoặc sự kết hợp bất kỳ của các
dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một người với
hàng hóa hoặc dịch vụ của người khác, bao gồm từ ngữ, tên người, hình
ảnh, chữ cái, chữ số, tổ hợp mầu sắc, các yếu tố hình hoặc hình dạng của
hàng hóa hoặc hình dạng của bao bì hàng hóa. Nhãn hiệu hàng hóa bao
11
gồm cả nhãn hiệu dịch vụ, nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận”. Có
thể thấy, khái niệm nhãn hiệu trong HĐTM Việt Nam – Hoa Kỳ đã có sự mở
rộng hơn về phạm vi các yếu tố có thể được đăng ký và bảo hộ nhãn hiệu
hàng hóa tại Việt Nam trong thời gian tới.
Còn đối với Cộng đồng Châu Âu nói chung, do số lượng các quốc gia
thành viên tương đối nhiều và mỗi nước đều có những nét đặc thù riêng biệt
nên pháp luật về nhãn hiệu của các quốc gia thành viên cũng khác nhau. Do
đó, nếu muốn bảo vệ lợi ích chung của khối, Cộng đồng Châu Âu nhất thiết
phải có những bước điều chỉnh, định hướng chung cho các quốc gia thành
viên. Chỉ thị 89/104/EEEC3 và Quy định 40/944 của Cộng đồng Châu Âu
được xem là những văn bản pháp lý đầu tiên quy định các vấn đề liên quan
đến nhãn hiệu ở cấp độ cộng đồng, được áp dụng chung thống nhất trên toàn
Châu Âu. Mục đích của những quy định này là nhằm đảm bảo điều kiện đăng
ký nhãn hiệu hài hòa ở tất cả các quốc gia thành viên. Theo quy định tại Điều
2 Chỉ thị 89/104/EEEC3 và Điều 4 Quy định 40/944 của Cộng đồng Châu Âu
nhãn hiệu được định nghĩa như sau: “Một nhãn hiệu cộng đồng có thể gồm
bất kỳ dấu hiệu nào được trình bày một cách rõ ràng và chi tiết, đặc biệt là
các từ, bao gồm tên riêng, các phác họa hình ảnh, chữ viết, chữ số, hình dáng
của hàng hóa hoặc bao bì của sản phẩm với điều kiện là những dấu hiệu đó
phải có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của chủ thể kinh doanh
này với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể kinh doanh khác”. Theo định nghĩa
này, nhãn hiệu phải đáp ứng ba điều kiện: thứ nhất, phải là “dấu hiệu”; thứ
hai, phải “được trình bày rõ ràng và chi tiết”; thứ ba, phải “có khả năng
phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của chủ thể kinh doanh này với hàng hóa,
dịch vụ của chủ thể kinh doanh khác” [2, 26].
Đoạn 1127 Lanham Act (đạo luật điều chỉnh về nhãn hiệu của Hoa
Kỳ), lại thiên về định nghĩa nhãn hiệu hàng hóa là chủ yếu. Theo đó, nhãn
12
hiệu hàng hóa được hiểu như sau: “Thuật ngữ nhãn hiệu hàng hóa bao gồm
bất kỳ từ, tên gọi, biểu tượng hay hình vẽ hoặc sự kết hợp giữa chúng mà
được sử dụng bởi một người, hoặc được một người có ý định chân thành là sử
dụng nó trong thương mại và xin đăng ký theo quy định tại luật này để xác
định và phân biệt hàng hóa của người đó, bao gồm cả các hàng hóa đặc
chủng với hàng hóa được sản xuất hoặc được bán bởi những người khác và
chỉ ra nguồn gốc của hàng hóa thậm chí cả khi không xác định được nguồn
gốc đó”. Định nghĩa này kết hợp hai chức năng khác nhau của nhãn hiệu đó là
vừa chỉ ra nguồn gốc hàng hóa vừa phân biệt hàng hóa của chủ thể này với
hàng hóa của chủ thể khác.
Ngoài ra, theo Philip Kotler một chuyên gia marketing hàng đầu của
thế giới thì: “Nhãn hiệu sản phẩm là tên, thuật ngữ, dấu hiệu, biểu tượng,
hình vẽ hay sự phối hợp giữa chúng, có công dụng dùng để xác nhận hàng
hóa hay dịch vụ của một người bán hay một nhóm người bán và phân biệt
chúng với các hàng hóa, dịch vụ của các đối thủ cạnh tranh”.
Trên cơ sở những luận cứ nêu ở trên, chúng ta có thể đưa ra khái niệm
về nhãn hiệu như sau: “Nhãn hiệu là những dấu hiệu có thể nhận biết được
dùng để phân biệt hàng hóa (dịch vụ) của nhà sản xuất, kinh doanh này (của
nhà cung ứng dịch vụ này) với hàng hóa (dịch vụ) của nhà sản xuất, kinh
doanh khác (của nhà cung ứng dịch vụ khác) và chỉ ra nguồn gốc của hàng
hóa (dịch vụ). Như vậy, dù được định nghĩa như thế nào đi chăng nữa thì
nhãn hiệu vẫn được xác định bởi hai yếu tố cơ bản là hình thức nhãn hiệu
(dấu hiệu) và chức năng phân biệt của nhãn hiệu. Nhãn hiệu luôn là dấu hiệu
được gắn liền với hàng hóa, dịch vụ và có ba chức năng cơ bản nhất: là tài sản
vô hình vô cùng quý giá của nhà sản xuất kinh doanh; là dấu hiệu để phân biệt
hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau giúp người tiêu dùng dễ
dàng lựa chọn; là công cụ để quảng bá hàng hóa, dịch vụ của nhà sản xuất
13
kinh doanh với người tiêu dùng, với hi vọng rằng khách hàng sẽ mua lại trong
những lần sau hay giới thiệu với người khác. Nhãn hiệu được phân chia thành
các loại: nhãn hiệu thông thường (bao gồm cả nhãn hiệu hàng hóa và nhãn
hiệu dịch vụ), nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu liên kết, nhãn hiệu chứng nhận và
nhãn hiệu nổi tiếng.
1.1.2 Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp và quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu
Thuật ngữ “sở hữu công nghiệp” được sử dụng chính thức trong các
văn bản pháp luật đầu tiên trên thế giới là ở nước Pháp vào thế kỷ XVIII.
Theo đó, quan điểm thừa nhận và bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp cũng như
quyền tác giả cũng được bắt nguồn tư nước Pháp. Tất cả đều xuất phát từ lý
luận về quyền tự nhiên do hai nhà triết học nỗi tiếng nước Pháp Vonte và
Rutxo khởi xướng. Dựa theo lý luận này, quyền của người tạo ra một tác
phẩm văn học nghệ thuật, một sáng chế, nhãn hiệu…đối với những sản phẩm
đó là quyền tự nhiên, không thể tách rời và không phụ thuộc vào sự công
nhận hay không công nhận từ phía Nhà nước [10, 9]. Quan điểm này đã được
cụ thể hóa trong Luật Sáng chế 1791 của Pháp với nội dung: “Bất kỳ ý tưởng
mới nào, mà việc công bố và thực hiện có thể có lợi cho xã hội, sẽ thuộc về
người sáng tạo ra ý tưởng đó; sẽ là sự hạn chế nhân quyền nếu không coi một
sáng chế công nghiệp mới là sở hữu của người đã tạo ra sáng chế đó”. Ngày
nay, thuật ngữ “sở hữu công nghiệp” đã được sử dụng một cách phổ biến trên
thế giới và theo Điều 1 Công ước Paris 1883 tổng sửa đổi 1979 thì: “Sở hữu
công nghiệp phải được hiểu theo nghĩa rộng nhất, không những chỉ áp dụng
cho công nghiệp và thương mại theo đúng nghĩa của chúng mà cho cả các
ngành sản xuất nông nghiệp, công nghiệp khai thác và tất cả các sản phẩm
chế biến hoặc sản phẩm tự nhiên như rượu vang, ngũ cốc, lá thuốc lá, hoa
quả, gia súc, khoáng sản, nước khoáng, bia, hoa và bột”. Thuật ngữ này cũng
14
cần phải được phân biệt với thuật ngữ quyền tác giả. Tuy cùng là sản phẩm trí
tuệ nhưng nếu sản phẩm nào không liên quan đến việc tạo ra của cải vật chất
cho xã hội thì được bảo hộ dưới hình thức quyền tác giả, ngược lại, những sản
phẩm trí tuệ nào gắn liền với hoạt động sản xuất, kinh doanh, có khả năng áp
dụng để tạo ra của cải vật chất cho xã hội thì sẽ được bảo hộ dưới hình thức
quyền sở hữu công nghiệp.
Các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp cùng với tiến trình phát
triển mạnh mẽ của nền kinh tế hàng hóa trên thế giới đã dần dần trở thành tài
sản vô hình vô cùng quý giá đối với những ai sở hữu chúng. Do đó, quyền sở
hữu hợp pháp đối với các đối tượng này cần phải được pháp luật bảo vệ và đó
chính là quyền sở hữu công nghiệp. Công ước Paris đã liệt kê một loạt các đối
tượng được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, bao gồm: sáng chế, nhãn hiệu,
kiểu dáng công nghiệp, mẫu hữu ích, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý (chỉ dẫn
nguồn gốc và tên gọi xuất xứ) và chống cạnh tranh không lành mạnh. Sau đó,
danh sách này đã được pháp luật một số nước bổ sung thêm một số đối tượng
mới, đó là: Bí mật kinh doanh, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn.
Còn ở Việt Nam, theo khoa học pháp lý hiện nay, quyền sở hữu công
nghiệp được nhìn nhận dưới hai phương diện là phương diện khách quan và
phương diện chủ quan. Trên phương diện khách quan, quyền sở hữu công
nghiệp được hiểu là pháp luật về sở hữu công nghiệp hay nói cách khác là
tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh sau
khi con người sáng tạo ra sản phẩm trí tuệ và được pháp luật coi là các đối
tượng sở hữu công nghiệp. Với nghĩa này, quyền sở hữu công nghiệp là
quyền sở hữu đối với tài sản vô hình, mặt khác, quyền sở hữu công nghiệp
còn bao gồm các quy định trong các hiệp định, điều ước quốc tế song phương
và đa phương mà Việt Nam là thành viên như Hiệp định TRIPS 1994, Hiệp
định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ năm 2000, Công ước Paris về Sở hữu
15
Công nghiệp 1967, Trên phương diện chủ quan, quyền sở hữu công nghiệp
là quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân đối với các đối tượng sở hữu công
nghiệp. Theo quy định tại khoản 4 Điều 4 Luật SHTT thì quyền sở hữu công
nghiệp là “quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công
nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ
dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền
chống cạnh tranh không lành mạnh”. Không những thế, Khoản 1 Điều 750
BLDS 2005 cũng quy định: “Ðối tượng quyền sở hữu công nghiệp bao gồm
sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí
mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý”. Từ những quy
định này, chúng ta có thể suy luận quyền sở hữu công nghiệp là quyền, nghĩa
vụ của các chủ thể liên quan đến việc sử dụng, chuyển dịch các đối tượng sở
hữu công nghiệp. Ngoài ra, quyền sở hữu công nghiệp còn được hiểu dưới
góc độ là quan hệ pháp luật với đầy đủ các yếu tố hội tụ như chủ thể, khách
thể, nội dung. Theo đó, chủ thể của quyền sở hữu công nghiệp là tất cả các cá
nhân, tổ chức như tác giả hay chủ sở hữu các đối tượng sở hữu công nghiệp
hoặc tổ chức, cá nhân được chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp chuyển
giao quyền sở hữu công nghiệp. Khách thể của quyền sở hữu công nghiệp là
các kết quả của hoạt động sáng tạo trí tuệ hoặc chuyển giao quyền sở hữu
được áp dụng trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh như sáng chế, giải
pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn,
nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh. Nội dung của
quyền sở hữu công nghiệp được pháp luật ghi nhận và bảo hộ. Tuy nhiên, một
điều hạn chế của BLDS 2005 lẫn Luật SHTT là đã quy định đối tượng quyền
sở hữu công nghiệp bằng phương pháp liệt kê nhưng lại theo hướng đóng,
trong khi khả năng sáng tạo của con người là vô tận và do đó đối tượng của
quyền sở hữu công nghiệp trong tương lai có thể không chỉ dừng lại ở những
đối tượng như hai văn bản này đã liệt kê.
16
Hầu hết pháp luật của các nước trên thế giới, các điều ước quốc tế, hiệp
định song phương và đa phương đều quy định nhãn hiệu là một trong các đối
tượng của quyền sở hữu công nghiệp. Còn ở nước ta, theo quy định tại khoản
2 Điều 3 Luật SHTT thì đối tượng quyền sở hữu công nghiệp bao gồm: “sáng
chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh
doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý”. Mặt khác, theo quy định
của pháp luật về sở hữu trí tuệ, các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học có
thể được bảo hộ quyền tác giả. Còn trong các đối tượng quyền sở hữu công
nghiệp thì chỉ có sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích
hợp bán dẫn là được bảo hộ quyền tác giả (Điều 122 Luật SHTT) (tức là các
đối tượng này là sản phẩm có được bằng sức lao động sáng tạo của con
người) còn các đối tượng không được bảo hộ quyền tác giả bao gồm nhãn
hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại, bí mật kinh doanh. Từ đó, chúng ta có
thể chia các đối tượng sở hữu công nghiệp thành hai nhóm là nhóm đối tượng
có tính sáng tạo bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí
mạch tích hợp bán dẫn và nhóm đối tượng mang tính chỉ dẫn thương mại gồm
nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại. Sở dĩ không chỉ Việt Nam mà nhiều
nước trên thế giới không xếp nhãn hiệu vào nhóm đối tượng có tính sáng tạo
mà lại được xếp vào nhóm đối tượng có tính chỉ dẫn thương mại trong khi
nhãn hiệu ít nhiều cũng do con người sáng tạo ra là do hàm lượng sáng tạo
thường không nhiều, cái làm cho nhãn hiệu được mọi người biết đến và tin
dùng chính là chất lượng, mẫu mã, công năng của sản phẩm được gắn nhãn
hiệu chứ không phải là bản thân nhãn hiệu. Một nhãn hiệu cho dù có đặt tên
hay, màu sắc có bắt mắt bao nhiêu đi chăng nữa mà chất lượng sản phẩm
không đảm bảo thì cũng chẳng có ai dùng đến sản phẩm đó và lúc này nhãn
hiệu đó cũng chỉ là một thứ nhãn mác tầm thường không đem lại lợi ích kinh
tế cho chủ sở hữu. Ngược lại, nếu chất lượng sản phẩm tốt, mẫu mã đẹp cộng
17
với chiến lược maketing hiệu quả thì nhãn hiệu được gắn lên sản phẩm đó sẽ
tự động in sâu vào trí nhớ của người tiêu dùng, nhãn hiệu đó nhanh chóng
được mọi người biết đến, từ đó giá trị kinh tế của nhãn hiệu sẽ bắt đầu định
hình và ngày càng được nâng lên mang lại lợi ích lớn cho chủ sở hữu. Thế
giới ngày nay khi nhắc đến một số các ngành hàng, lĩnh vực thì người tiêu
dùng thường nghĩ ngay đến các nhãn hiệu nỗi tiếng, ví dụ: nói đến lĩnh vực
phần mềm máy tính thì có Microsoft; máy tính xách tay thì có Sony vaio, hp,
Apple; điện thoại di động thì có Nokia, Samsung; ti vi thì có Samsung, LG,
Sony; tủ lạnh thì có Toshiba, Sharp; áo quần thì có Pierre Cardin, Cavil clein;
lĩnh vực ngân hàng có HSBC; lĩnh vực bảo hiểm có Prudential, AAA,…
Nhãn hiệu không phải tự nhiên mà có, bất kỳ một nhãn hiệu nào cũng
đều do con người tạo ra. Do đó, chủ sở hữu nhãn hiệu có những quyền nhất
định đối với nhãn hiệu. Hầu hết pháp luật các nước đều ghi nhận chủ sở hữu
đối tượng sở hữu công nghiệp là cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc được chuyển giao văn bằng bảo
hộ. Từ đó, chúng ta có thể hiểu chủ sở hữu nhãn hiệu là tổ chức, cá nhân được
cơ quan có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu hoặc có nhãn hiệu nỗi
tiếng. Nói như thế không có nghĩa là luật buộc tất cả các nhà sản xuất kinh
doanh đều phải đi đăng ký bảo hộ nhãn hiệu của mình và nó cũng không có
nghĩa là nếu không đăng ký bảo hộ thì nhãn hiệu đó không phải là của nhà sản
xuất kinh doanh mà việc đăng ký bảo hộ tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền
có thể sẽ mang lại cho chủ sở hữu nhãn hiệu những quyền năng nhất định mà
người khác không có được. Đặc biệt, khi có tranh chấp về quyền sở hữu nhãn
hiệu xảy ra, lúc đó văn bằng bảo hộ sẽ là cơ sở pháp lý vững chắc để chứng
minh quyền sở hữu nhãn hiệu thuộc về bên nào. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý
rằng, nếu người tạo ra nhãn hiệu cho sản phẩm không tiến hành đăng ký bảo
hộ mà một người khác dù tạo ra nhãn hiệu đó sau nhưng lại đăng ký bảo hộ