Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Chuyển giao quyền yêu cầu trong quan hệ nghĩa vụ dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (743.49 KB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT


TRẦN ĐÌNH CHI


CHUYỂN GIAO QUYỀN YÊU CẦU
TRONG QUAN HỆ NGHĨA VỤ DÂN SỰ


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



HÀ NỘI - 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN ĐÌNH CHI

CHUYỂN GIAO QUYỀN YÊU CẦU
TRONG QUAN HỆ NGHĨA VỤ DÂN SỰ

Chuyên ngành : Luật Dân Sự
Mã số : 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học : TS. Bùi Đăng Hiếu




Hà Nội - 2011


1
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Trần Đình Chi








MỤC LỤC
Lêi cam ®oan
Mục lục
Danh mục cỏc kớ hiệu, cỏc chữ viết tắt
MỞ ĐẦU
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ CÁC QUY ĐỊNH CHUNG
VỀ CHUYỂN GIAO QUYỀN YEU CẦU TRONG QUAN HỆ NGHĨA
VỤ DÂN SỰ. 5

1.1. Nghĩa vụ dan sự. 5
1.1.1. Khỏi niệm nghĩa vụ dõn sự. 5
1.1.2. Cỏc yếu tố của quan hệ phỏp luật về nghĩa vụ dõn sự. 10
1.1.3. Đặc điểm của nghĩa vụ dân sự. 13
1.2. Quyền yờu cầu. 15
1.2.1. Khỏi niệm quyền yờu cầu. 15
1.2.2. Đặc điểm của quyền yêu cầu 17
1.2.3. Phõn loại quyền yờu cầu. 18
1.3. Bản chất phỏp lý và cỏc quy định của BLDS 2005 về chuyển giao
quyền yêu cầu trong quan hệ nghĩa vụ dân sự. 19
1.3.1. Khỏi niệm chuyển giao quyền yờu cầu trong quan hệ nghĩa vụ dõn sự. 19
1.3.2. Đặc điểm của chuyển giao quyền yêu cầu trong quan hệ nghĩa vụ
dân sự. 22
1.3.3. Phõn loại chuyển giao quyền yờu cầu trong quan hệ nghĩa vụ dõn sự. 26
1.3.4. Phân biệt chuyển giao quyền yêu cầu với các giao dịch dân sự khác 27
1.3.5. Các quy định của BLDS 2005 về chuyển giao quyền yêu cầu trong
quan hệ nghĩa vụ dân sự 32
Trang

1
Chƣơng 2. CHUYỂN GIAO QUYỀN YÊU CẦU TRONG MỘT SỐ
TRƢỜNG HỢP CỤ THỂ. 40
2.1. Chuyển giao quyền yêu cầu trong trƣờng hợp thực hiện nghĩa vụ dân
sự liên đới. 40
2.2. Chuyển giao quyền yêu cầu trong hợp đồng bảo lãnh. 42
2.3. Chuyển giao quyền yêu cầu trong hợp đồng bảo hiểm tài sản. 47
2.4. Chuyển giao quyền yêu cầu đối với phần vốn góp trong công ty theo
Luật doanh nghiệp 2005. 54
Chƣơng 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ PHƢƠNG
HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT. 61

3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật 61
3.2. Phƣơng hƣớng và các kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về
chuyển giao quyền yêu cầu. 83
KẾT LUẬN 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 91

Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt
TAND : Tòa án nhân dân
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
CP : Cổ phần
BLDS : Bộ luật dân sự
LDN : Luật doanh nghiệp













1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Luật dân sự là một ngành luật quan trọng của bất kỳ một quốc gia nào
trên thế giới từ cổ đại cho đến hiện đại, vì nó điều chỉnh các quan hệ dân sự

đa dạng thường xuyên phát sinh trong đời sống hàng ngày của chúng ta. Nó
không thể thiếu được dưới bất kỳ một chế độ nào.
Luật dân sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng
xử của mỗi cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác, quyền và nghĩa vụ của các chủ
thể về nhân thân và tài sản trong các quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh
doanh thương mại, lao động (gọi chung là quan hệ dân sự).
Luật dân sự có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức, lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, bảo đảm sự bình đẳng và an
toàn pháp lý trong quan hệ dân sự, góp phần tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu
vật chất và tinh thần của nhân dân, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
Luật nghĩa vụ là một tiểu phân ngành quan trọng của luật dân sự, luật
nghĩa vụ cũng có thể coi là nền tảng của luật thương mại.
Trong bối cảnh phát triển thương mại như hiện nay và việc Việt Nam
có các quan hệ thương mại với thế giới thì việc nghiên cứu về luật nghĩa vụ
là hết sức cần thiết, nhằm mục đích hiểu sâu hơn về luật nghĩa vụ, tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động thực tiễn cũng như đưa ra các kiến nghị nhằm
hoàn thiện luật nghĩa vụ.Tuy nhiên đây là vấn đề lớn và phức tạp cần có
nhiều công trình nghiên cứu.Trong khuôn khổ luận văn này tôi chọn đề tài
“Chuyển giao quyền yêu cầu trong quan hệ nghĩa vụ dân sự ” làm luận văn
thạc sĩ luật học của mình. Đây là lát cắt mỏng trong khoa học luật dân sự.
Nhưng qua đó chúng ta có thể hiểu sâu hơn về nghĩa vụ dân sự, thấy được
nghĩa vụ dân sự là một quan hệ pháp luật và bản chất là quyền yêu cầu của
trái chủ đối với thụ trái, quyền yêu cầu là một loại quyền tài sản- một loại tài

2
sản có thể chuyển giao.Tuy nhiên giao dịch chuyển giao quyền yêu cầu có
đặc điểm gì giống và khác biệt với các giao dịch dân sự khác? Trường hợp
nào thì không được chuyển giao quyền yêu cầu, thực tiễn áp dụng có gì
vướng mắc không? và phương hướng hoàn thiện pháp luật về chuyển giao
quyền yêu cầu như thế nào? Đó là những vấn đề đặt ra mà luận văn cần làm

sáng tỏ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Nghĩa vụ dân sự là một lĩnh vực rất rộng, đã có nhiều công trình
nghiên cứu, bài viết có liên quan như:
- Nghĩa vụ dân sự và quan niệm nghĩa vụ dân sự ở Việt Nam của tiến
sĩ Ngô Huy Cương đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 5 tháng 4/2008.
- Nguồn gốc của nghĩa vụ và phân loại nghĩa vụ của tiến sĩ Ngô Huy
Cương đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 8 tháng 6/2008.
- Bình luận khoa học về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong luật dân sự Việt
Nam của tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện (1999)-NXB trẻ thành phố Hồ Chí Minh.
- Bình luận các hợp đồng thông dụng trong luật dân sự Việt Nam của
tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện (2000)-NXB trẻ thành phố Hồ Chí Minh.
- Việt Nam dân luật lược khảo, quyển II: Nghĩa vụ và khế ước lần thứ
nhất, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, Sài gòn (1963) của Vũ Văn Mẫu.
- Bình luận khoa học về tài sản trong luật dân sự Việt Nam của tiến sĩ
Nguyễn Ngọc Điện (2001) –NXB trẻ thành phố Hồ Chí Minh.
- Quyền tài sản- Một loại tài sản theo pháp luật dân sự Việt Nam, luận
văn thạc sĩ luật học của Sỹ Hồng Nam, bảo vệ thành công tại khoa luật- Đại
học quốc gia Hà Nội năm 2007.
- Chuyển giao quyền yêu cầu trong bảo hiểm tài sản của Thạc sĩ
Nguyễn Thị Thủy đăng trên Tạp chí khoa học pháp lý số tháng 11/2008.

3
Do mục đích và cách tiếp cận khác nhau nên các công trình nghiên cứu
chỉ đề cập đến những vấn đề chung về nghĩa vụ dân sự, về chuyển giao quyền
yêu cầu với tư cách là chuyển giao quyền tài sản.
Cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu nào một cách chuyên
sâu về chuyển giao quyền yêu cầu trong quan hệ nghĩa vụ dân sự. Chính vì
vậy việc nghiên cứu khái niệm, bản chất pháp lý của chuyển giao quyền yêu
cầu, những hạn chế của luật thực định, thực tiễn áp dụng pháp luật đồng thời

đưa ra phương hướng hoàn thiện pháp luật là việc làm cần thiết. Với mong
muốn hoàn thiện các quy định có liên quan đến chuyển giao quyền yêu cầu
trong quan hệ nghĩa vụ dân sự đã thúc đẩy tôi chọn đề tài này làm luận văn.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn.
Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề lý
luận về chuyển giao quyền yêu cầu trong quan hệ nghĩa vụ dân sự, đánh giá
thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam về chuyển giao quyền yêu
cầu, trên cơ sơ đó đưa ra một số phương hướng nhằm hoàn thiện pháp luật về
vấn đề này.
Từ những mục đích trên, luận văn đưa ra một số nhiệm vụ và mục đích
nghiên cứu cụ thể như sau:
-Đưa ra khái niệm và phân tích đặc trưng của Nghĩa vụ dân sự, quyền
yều cầu và chuyển giao quyền yêu cầu trong quan hệ nghĩa vụ dân sự.
-Phân biệt giao dịch chuyển giao quyền yêu cầu với các giao dịch dân
sự khác.
-Phân tích nội dung, điều kiện của giao dịch chuyển giao quyền yêu
cầu trong quan hệ nghĩa vụ dân sự.
-Đánh giá tính phù hợp của các quy định về chuyển giao quyền yêu
cầu trong quan hệ nghĩa vụ dân sự theo pháp luật Việt Nam.

4
-Nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật thông qua một số tranh chấp
cụ thể.
-Nêu ra phương hướng hoàn thiện pháp luật và đề xuất một số kiến
nghị cụ thể.

4. Phạm vi nghiên cứu.
Luận văn tập trung phân tích khái niệm, bản chất pháp lý của nghĩa vụ
dân sự, quyền yêu cầu, chuyển giao quyền yêu cầu trong quan hệ nghĩa vụ
dân sự, phân biệt chuyển giao quyền yêu cầu trong quan hệ nghĩa vụ dân sự

với các giao dịch dân sự khác. Luận văn khảo sát các quy định có liên quan
theo pháp luật Việt Nam như: Bộ luật dân sự, Luật doanh nghiệp, Luật đất
đai, Luật kinh doanh bảo hiểm
Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật từ đó phát hiện ra
những điểm chưa phù hợp và phương hướng khắc phục, hoàn thiện.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu và mối liên hệ với các
vấn đề kinh tế xã hội. Ngoài ra trong quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khoa học khác như: So sánh, lịch sử, logic, hệ
thống, phân tích, tổng hợp
6. Những điểm mới của luận văn.
Trong quá trình nghiên cứu các học thuyết pháp lý, pháp luật thực
định, thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp về chuyển giao quyền
yêu cầu trong quan hệ nghĩa vụ dân sự, đồng thời so sánh với pháp luật của
các nước khác trên thế giới, luận văn có một số điểm mới sau:
-Luận văn phân tích một cách khoa học khái niệm về chuyển giao
quyền yêu cầu trong quan hệ nghĩa vụ dân sự.

5
-Luận văn so sánh những quy định về chuyển giao quyền yêu cầu trong
pháp luật Việt Nam với pháp luật một số nước trên thế giới.
-Luận văn phân tích, đánh giá các quy định hiện hành về chuyển giao
quyền yêu cầu.
-Luận văn nhận xét về việc giải quyết một số tranh chấp cụ thể về
chuyển giao quyền yêu cầu.
-Luận văn đưa ra phương hướng hoàn thiện pháp luật và một số kiến
nghị cụ thể.
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ CÁC QUY ĐỊNH CHUNG

VỀ CHUYỂN GIAO QUYỀN YÊU CẦU TRONG QUAN HỆ
NGHĨA VỤ DÂN SỰ.
1.1. Nghĩa vụ dân sự.
1.1.1. Khái niệm nghĩa vụ dân sự.
Nghĩa vụ hiểu theo nghĩa hẹp hay theo cách hiểu thông thường là những
gì mà một người phải làm hoặc không được làm vì lợi ích của người khác.
Đó cũng chính là hành vi của một bên phải thực hiện theo yêu cầu của
bên kia. Như vậy theo cách hiểu này, nghĩa vụ là mối liên hệ giữa hai hay
nhiều người với nhau, trong đó một bên phải thực hiện những hành vi nhất
định theo yêu cầu của bên kia.
Trong đời sống hàng ngày thuật ngữ nghĩa vụ là sự xử sự mà một
người phải thực hiện vì lợi ích của một hoặc nhiều người khác nhưng sự thực
hiện đó không được bảo đảm bằng pháp luật của nhà nước. Pháp luật không
điều chỉnh những hành vi này, họ thực hiện nghĩa vụ theo lương tâm, thói
quen trong gia đình hay những nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo và để làm tròn
bổn phận làm người của họ, ở phương diện này nghĩa vụ được điều chỉnh bởi
các quy phạm đạo đức.

6
Ví dụ: Nghĩa vụ thờ cúng tổ tiên không được pháp luật bảo đảm thực
hiện. Pháp luật nước ta không cấm cũng không buộc một người phải thờ cúng
tổ tiên, việc thờ cúng này có thể do thói quen trong gia đình thể hiện sự tôn
trọng đối với những người đã khuất, nếu người đó không thờ cúng tổ tiên có
thể bị sự chê trách của gia đình dòng họ.
Tuy nhiên chúng ta cần lưu ý ở nhiều nước trên thế giới nhất là các
nước theo đạo Thiên chúa giáo và tin lành như Anh, Pháp, Đức, Đan mạch,
Phần lan họ chỉ thờ phụng Chúa Jesus, họ không có tục lệ thờ cúng tổ tiên
và người chết mà họ có những cách thể hiện khác đối với tổ tiên và những
người đã khuất. Như vậy trong cuộc sống hàng ngày, nghĩa vụ chịu ảnh
hưởng rất nhiều của phong tục, tập quán, văn hóa và tôn giáo.

Một người làm từ thiện đóng góp tiền để nuôi những đứa trẻ mồ côi
hay ủng hộ những người bị thiên tai như bão lụt, hạn hán, núi lửa, động
đất thì khoản tiền đóng góp hay thời gian đóng góp phụ thuộc vào lòng hảo
tâm và khả năng của họ. Pháp luật cũng không điều chỉnh loại nghĩa vụ này.
Những nghĩa vụ như trên đã phân tích do các quy phạm đạo đức điều chỉnh
và còn được gọi là nghĩa vụ đạo đức.
Các luật gia La mã còn đưa ra một loại nghĩa vụ nữa là nghĩa vụ tự
nhiên cũng là loại nghĩa vụ không có hiệu lực pháp lý, mặc dù không có định
nghĩa chính xác về loại nghĩa vụ này nhưng để phân biệt người ta chia nghĩa
vụ tự nhiên thành hai loại:
Loại thứ nhất là các nghĩa vụ ban đầu do pháp luật điều chỉnh (có hiệu
lực pháp lý) sau đó trở thành nghĩa vụ tự nhiên, ví dụ: nghĩa vụ chi trả một
khoản nợ đã hết thời hiệu, loại nghĩa vụ này ngày càng nhiều ở nước ta khi
thời hiệu khởi kiện được rút ngắn. Điều 427 BLDS 2005 quy định: Thời hiệu
khởi kiện để yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự là hai
năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, các chủ

7
thể khác bị xâm phạm, đây là điểm mới của Bộ luật dân sự 2005 so với Bộ
luật dân sự 1995.
Loại thứ hai là những nghĩa vụ đạo đức đúng đắn đặc biệt rõ ràng và thúc
buộc. “ Chẳng hạn nghĩa vụ trợ giúp những người nghèo khó trong gia đình, bù
đắp những thiệt hại gây ra mà không có lỗi về mặt pháp lý hoặc thực hiện những
dịch vụ đã cam kết mà thiếu nguyên nhân hay khoản đối ứng có giá trị” [5].
Ví dụ : Một người cam kết ngừng bán hàng trong 1 ngày để cho người
hàng xóm liền kề sử dụng mặt bằng vào mục đích dựng phông bạt tổ chức
đám cưới cho con.
Nghĩa vụ hiểu theo nghĩa rộng là một quan hệ theo đó một bên có
quyền yêu cầu, còn bên kia phải thực hiện hành vi nhất định theo yêu cầu đó,
có nghĩa là thể hiện mối quan hệ giữa trái chủ và người thụ trái xác định. Vì

vậy khi nói hợp đồng làm căn cứ phát sinh ra nghĩa vụ thì có nghĩa là hợp
đồng làm căn cứ phát sinh ra quan hệ giữa trái chủ và người thụ trái xác định.
Những quan hệ nghĩa vụ dân sự mà được pháp luật dân sự điều chỉnh thì còn
được gọi là nghĩa vụ pháp lý hay nghĩa vụ dân sự. Đây là loại quan hệ nghĩa
vụ được nghiên cứu trong khuôn khổ luận văn này.
Trên thế giới có một số định nghĩa về nghĩa vụ như sau: “ Nghĩa vụ là
một quan hệ pháp luật được xác lập giữa hai chủ thể theo đó một chủ thể (chủ
thể quyền- người có quyền) có quyền yêu cầu chủ thể kia (chủ thể nghĩa vụ –
người có nghĩa vụ) phải hoàn thành một yêu cầu nhất định’’ [3]. “ Ở đây các
đặc điểm chính của quan hệ nghĩa vụ được đề cập tới và đối tượng của nghĩa
vụ được trừu tượng hóa để làm rõ bản chất là quyền yêu cầu” [4].
Cuốn từ điển của Pháp mang tên Petit Dictionaire de Droit định nghĩa:
“ Nghĩa vụ là một mối quan hệ pháp lý theo đó một người được gọi là trái
chủ, có thể sử dụng phương cách cưỡng chế của quyền lực công theo sự lựa
chọn của anh ta để buộc người khác, người thụ trái xác định, chuyển giao tài

8
sản, làm hoặc không làm việc gì đó’’[4]. Điều 421 Bộ luật dân sự Cộng hòa
liên bang Đức quy định: “ Hiệu lực của nghĩa vụ là việc trái chủ có quyền
yêu cầu sự thực hiện từ người thụ trái, sự thực hiện này bao gồm việc không
hành động”[4].
Điều 194 Bộ luật dân sự Thái Lan cũng có quy định như sau: “ Đối với
một nghĩa vụ, trái chủ có quyền yêu cầu sự thực hiện từ người thụ trái. Sự
thực hiện bao gồm việc không hành động’’[4].
Ở Việt Nam có một số quan niệm về nghĩa vụ như sau:
Trong cuốn Việt Nam dân luật lược khảo, quyển II. Nghĩa vụ và khế ước Vũ
Văn Mẫu định nghĩa: “ Nghĩa vụ là mối liên hệ pháp lý giữa hai người nhờ
đó một người là trái chủ (hay chủ nợ) có quyền đòi người kia là người thụ trái
(hay con nợ) phải thi hành một cung khoản có thể trị giá bằng tiền’’ [11].
Giáo trình luật dân sự Việt Nam của Học Viện Tư Pháp năm 2007 đưa ra

định nghĩa:
Nghĩa vụ dân sự được hiểu là quan hệ pháp luật về tài sản và nhân
thân của các chủ thể, theo đó chủ thể mang quyền có quyền yêu
cầu chủ thể mang nghĩa vụ chuyển giao một tài sản, thực hiện một
công việc hoặc không thực hiện một công việc vì lợi ích của mình
hay lợi ích của người thứ ba, phải bồi thường một thiệt hại về tài
sản hoặc nhân thân do có hành vi gây thiệt hại, vi phạm lợi ích hợp
pháp của bên có quyền. Chủ thể mang nghĩa vụ có nghĩa vụ thực
hiện yêu cầu của chủ thể mang quyền. Các quyền dân sự và nghĩa
vụ dân sự của các bên chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ theo quy
định của pháp luật hoặc theo thỏa thuận của các bên xác lập quan
hệ nghĩa vụ [9].
Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, tập 2 của Trường Đại học luật Hà
Nội năm 2008 có định nghĩa:

9
Nghĩa vụ là một quan hệ pháp luật dân sự, trong đó một bên chủ
thể là một hoặc nhiều người phải làm hoặc không được làm một
hoặc một số công việc nhất định vì lợi ích của chủ thể bên kia.
Bên phải làm hoặc không được làm những công việc được gọi là
người có nghĩa vụ (thụ trái). Bên được hưởng lợi ích có quyền yêu
cầu bên kia thực hiện công việc hoặc không được thực hiện công
việc nào đó vì quyền lợi của mình được gọi là người có quyền (trái
chủ) [22].
Điều 280 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:
Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau
đây gọi chung là bên có nghĩa vụ phải chuyển giao vật, chuyển
giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc khác
hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một
hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền)[15].

Về thuật ngữ “nghĩa vụ’’ có hai nghĩa. Một nghĩa chỉ hành vi phải
thực hiện của một bên theo yêu cầu của bên kia (nghĩa hẹp). Một nghĩa khác
chỉ một quan hệ mà theo đó bên có quyền yêu cầu, còn bên kia phải thực hiện
hành vi nhất định theo yêu cầu đó. Có nghĩa là chỉ mối quan hệ giữa trái chủ
và thụ trái xác định (nghĩa rộng).
Định nghĩa về nghĩa vụ như điều 280 BLDS 2005 nói trên chỉ xuất
phát từ hành vi của bên phải thực hiện một đối tượng vì lợi ích của người
khác. Định nghĩa này chưa thể hiện được rõ nghĩa vụ dân sự là một quan hệ
pháp luật mà trong đó có hai chủ thể đối lập nhau về mặt lợi ích, chưa nêu lên
vai trò chủ động của bên có quyền yêu cầu. Do vậy cần đưa ra một định
nghĩa chính xác hơn về nghĩa vụ dân sự.
Như vậy từ những phân tích và những quan niệm về nghĩa vụ như trên
chúng ta có thể đưa ra được khái niệm về nghĩa vụ dân sự như sau: Nghĩa vụ

10
dân sự là một quan hệ pháp luật dân sự về tài sản trong đó bên có quyền (trái
chủ) có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ (thụ trái) phải thực hiện yêu cầu đó.
Sự thực hiện bao gồm cả việc không hành động.
1.1.2. Các yếu tố của quan hệ pháp luật về nghĩa vụ dân sự.
1.1.2.1. Chủ thể.
Chủ thể của một quan hệ pháp luật nói chung là những người tham gia
quan hệ pháp luật đó. Nghĩa vụ là một quan hệ pháp luật dân sự. Do vậy, chủ
thể của những quan hệ này bao gồm: Cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia
đình, Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các chủ thể này có
những quyền và nghĩa vụ dân sự phát sinh từ những quan hệ nghĩa vụ mà họ
tham gia.
Các chủ thể khi tham gia quan hệ nghĩa vụ sẽ thiết lập mối liên hệ pháp
lý về quyền và nghĩa vụ giữa hai bên. Trong đó một bên được gọi là người có
quyền, một bên được gọi là người có nghĩa vụ.
Ví dụ: Nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng vay tài sản, khi đến hạn trả, bên

vay phải có nghĩa vụ hoàn trả cho bên cho vay tài sản, nếu là tiền thì phải trả
đủ tiền, nếu là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác. Bên cho vay là bên có quyền yêu cầu đối với
bên vay hoàn trả tài sản.
Sự đa dạng của các quan hệ trong giao lưu dân sự làm cho các quan hệ
về nghĩa vụ phát sinh trong đời sống thực tế cũng hết sức đa dạng và phong
phú. Có những quan hệ dân sự mà trong đó một bên chỉ có quyền yêu cầu mà
không phải gánh vác một nghĩa vụ nào, còn một bên có nghĩa vụ phải thực
hiện cho bên kia một công việc nhất định mà không có quyền yêu cầu như
các quan hệ dân sự phát sinh từ hợp đồng đơn vụ.
Phần lớn các quan hệ dân sự, mỗi bên chủ thể đều có quyền yêu cầu
bên kia thực hiện những hành vi nhất định nhằm đem lại lợi ích cho mình,

11
ngược lại họ cũng phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định nhằm đáp ứng lợi
ích cho phía bên kia như các quan hệ dân sự phát sinh từ hợp đồng song vụ.
Ví dụ: Nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng mua bán tài sản, bên bán có
quyền yêu cầu bên mua trả tiền, bên mua có nghĩa vụ trả tiền cho bên bán
(quan hệ nghĩa vụ trả tiền), ngược lại bên mua có quyền yêu cầu bên bán
chuyển giao quyền sở hữu vật, bên bán có nghĩa vụ chuyển giao quyền sở
hữu vật cho bên mua (quan hệ nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu vật).
Vậy chủ thể của nghĩa vụ là những người được phép tham gia vào một
quan hệ nghĩa vụ và họ có các quyền, nghĩa vụ do pháp luật điều chỉnh đồng
thời họ phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ
đó.

1.1.2.2. Nội dung của nghĩa vụ.
Khi tham gia các quan hệ nghĩa vụ dân sự, các bên luôn hướng tới
những lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần nhất định. Lợi ích đó chỉ đạt
được khi các bên thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình để thỏa mãn yêu

cầu của bên kia. Muốn thực hiện tốt nghĩa vụ của các bên thì phải xác định rõ
các quyền và các nghĩa vụ của các bên tham gia các quan hệ nghĩa vụ đó.
Trong một quan hệ nghĩa vụ cụ thể thì các quyền dân sự và các nghĩa vụ dân
sự là yếu tố cấu thành nội dung của quan hệ nghĩa vụ dân sự đó.
Nội dung của quan hệ pháp luật về nghĩa vụ dân sự là tổng hợp các quyền và
nghĩa vụ của các bên chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ. Các quyền và nghĩa vụ
của các chủ thể phụ thuộc vào các quy định của pháp luật và các điều kiện do
các bên thỏa thuận để thực hiện quyền và nghĩa vụ.
Quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự trong nội dung của quan hệ nghĩa vụ
được thể hiện dưới dạng sau đây:

12
- Quyền yêu cầu: Bên có quyền được phép yêu cầu bên có nghĩa vụ
phải thực hiện một số hành vi nhất định hoặc yêu cầu bên có nghĩa vụ không
được thực hiện một số hành vi nhất định vì lợi ích của mình. Trong trường
hợp đã yêu cầu trực tiếp nhưng bên có nghĩa vụ vẫn không thực hiện nghĩa
vụ đó thì bên có quyền có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc
bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ đó.
- Nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu: Đối lập với bên có quyền yêu cầu, bên có
nghĩa vụ phải thực hiện hoặc không được thực hiện những hành vi nhất định
theo yêu cầu của bên có quyền hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền vì lợi ích của bên có quyền.
1.1.2.3. Khách thể của quan hệ nghĩa vụ.
Khách thể của quan hệ nghĩa vụ là cái mà các chủ thể luôn hướng tới
và nhằm đạt được. Nghĩa vụ là một quan hệ pháp luật dân sự, cho nên khách
thể của nó là cách xử sự của các chủ thể nhằm tác động lẫn nhau để đạt được
mục đích của mình. Quan hệ nghĩa vụ có đặc trưng cơ bản là quyền và nghĩa
vụ của các bên đối lập nhau một cách tương ứng. Vì vậy, trong các quan hệ
nghĩa vụ, chủ thể có quyền luôn hướng tới hành vi thực hiện nghĩa vụ của
chủ thể bên kia. Nếu các bên đều thực hiện tốt nghĩa vụ của mình thì lợi ích

của các chủ thể đều được thỏa mãn.
Hành vi thực hiện nghĩa vụ là một phương tiện mà thông qua đó,
quyền lợi ích của các chủ thể được đáp ứng. Vì vậy trong các quan hệ nghĩa
vụ, hành vi là cái mà các chủ thể đều hướng tới, là khách thể của mọi quan hệ
nghĩa vụ. Hành vi của chủ thể bao giờ cũng tác động vào một tài sản hoặc
hành vi thực hiện một công việc nào đó (hoặc không thực hiện một công việc
nào đó).Vật được gắn liền với hành vi trong quan hệ nghĩa vụ được gọi là đối
tượng của nghĩa vụ. Có những quan hệ nghĩa vụ mà trong đó hành vi của chủ
thể không gắn liền với một vật nhưng hành vi đó vẫn mang đến cho chủ thể

13
bên kia một lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần nhất định như hành vi thực
hiện dịch vụ tư vấn pháp lý và các loại dịch vụ khác. Lúc này đối tượng của
nghĩa vụ không được thể hiện rõ nét mà đã đồng nhất với hành vi thực hiện
nghĩa vụ, có nghĩa là đối tượng của nghĩa vụ cũng chính là khách thể của
nghĩa vụ. “ Đối tượng’’ hay “ Khách thể’’ đều được tiếng Anh gọi là
“Object’’[4]. Trong cuốn từ điển Deluxe Black’s Law Dictionary định nghĩa
“ Object’’ là mục đích được hướng tới tức cũng là khách thể [4]. Từ điển
thuật ngữ pháp lý Việt- Pháp giải nghĩa thuật ngữ “ Object’’ như sau: “ Đối
tượng của một nghĩa vụ là chủ đích của nghĩa vụ đó’’ nghĩa là “ Đối tượng’’
đã đồng nhất với “Khách thể’’[4].
Hành vi (xử sự của chủ thể) có thể được thể hiện ở dạng hành động
nhưng cũng có thể được thực hiện ở dạng không hành động. Nếu hành vi đó
được thể hiện ở dạng hành động và kết quả được tạo thành ra từ hành vi đó là
một vật cụ thể thì hành này được gọi là hành vi được vật chất hóa, nếu kết
quả đó không phải là một vật cụ thể thì hành vi này là hành vi không được
vật chất hóa.
1.1.3. Đặc điểm của nghĩa vụ dân sự.
Thứ nhất, nghĩa vụ dân sự là một quan hệ pháp luật dân sự, được các
quy phạm pháp luật dân sự điều chỉnh.

Đặc điểm này nói lên tính cưỡng chế thi hành của pháp luật khi điều
chỉnh quan hệ nghĩa vụ và để phân biệt nó với nghĩa vụ tự nhiên và nghĩa vụ
đạo đức.
Thứ hai, nghĩa vụ dân sự là một quan hệ đối nhân.
Đặc điểm này nói lên trong một quan hệ nghĩa vụ thì bên có quyền yêu
cầu chỉ có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ chứ không được
quyền yêu cầu thi hành trên bất cứ một tài sản cụ thể nào. Quan hệ đối nhân
là một quan hệ có tính chất tương đối trong đó một bên có quyền áp đặt một

14
nghĩa vụ đối với một người xác định, khác với quan hệ đối vật là một quan hệ
có tính chất tuyệt đối trong đó một bên có quyền áp đặt một nghĩa vụ đối với
mọi người nói chung; có nghĩa là hoặc đối với tất cả thế giới hoặc đối với tất
cả thế giới trừ một số người xác định. Đặc điểm này nói lên sự khác biệt của
quan hệ nghĩa vụ dân sự so với quan hệ sở hữu một vật cụ thể.
Thứ ba, nghĩa vụ dân sự là một quan hệ tài sản.
Đặc điểm này xuất phát từ việc nghĩa vụ có thể trị giá bằng tiền, khi
thực hiện nghĩa vụ, thì người có nghĩa vụ phải bỏ thời gian, chi phí, công sức
ra để thực hiện trong khi đó bên có quyền được hưởng lợi ích từ việc thực
hiện nghĩa vụ đó. Ví dụ: Nghĩa vụ dân sự phát sinh từ hợp đồng mua bán nhà
ở. Đây là một hợp đồng song vụ. Bên mua có nghĩa vụ trả tiền cho bên bán
và bên bán có nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu nhà cho bên mua. Trong
quan hệ nghĩa vụ dân sự trả tiền, bên mua đã phải chi phí tài sản của mình và
bên bán được hưởng lợi ích từ việc nhận tiền. Trong quan hệ nghĩa vụ chuyển
giao quyền sở hữu nhà, bên bán đã phải chuyển giao tài sản của mình cho bên
mua, bên mua được hưởng lợi ích từ việc sở hữu nhà được chuyển giao. Có
một số quan niệm cho rằng Nghĩa vụ dân sự là quan hệ pháp luật về tài sản
và nhân thân như Giáo trình luật dân sự Việt Nam của Học Viện Tư Pháp
năm 2007 đã định nghĩa: “ Nghĩa vụ dân sự được hiểu là quan hệ pháp luật về
tài sản và nhân thân của các chủ thể…”[9].Nhưng giáo trình này không đưa

ra giải thích tại sao nghĩa vụ dân sự là quan hệ nhân thân.
Trong trường hợp bồi thường thiệt hại về tài sản do danh dự, nhân
phẩm uy tín bị xâm phạm. Chúng ta thấy việc bồi thường thiệt hại ở trên là
một nghĩa vụ phát sinh ngoài ý chí của bên có nghĩa vụ do hành vi trái pháp
luật. Người xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác phải bồi
thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu
cùng với chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại và thu nhập thực tế bị

15
mất hoặc bị giảm sút. Như vậy nghĩa vụ dân sự trong trường hợp này là nghĩa
vụ tài sản.Việc xâm phạm quyền nhân thân của người khác chỉ là căn cứ phát
sinh ra quan hệ nghĩa vụ dân sự. Cũng cần lưu ý người xâm phạm danh dự,
nhân phẩm, uy tín của người khác còn phải chịu các chế tài khác như phải
chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi , cải chính công khai, nếu không thực hiện
thì người bị vi phạm có quyền yêu cầu cơ quan tổ chức có thẩm quyền buộc
người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai bằng
các quyết định hành chính.Từ những phân tích trên cho thấy nghĩa vụ dân sự
là một quan hệ tài sản.
1.2. Quyền yêu cầu.
1.2.1. Khái niệm quyền yêu cầu.
Quyền hiểu theo nghĩa thông thường được hiểu là điều mà xã hội cho
được hưởng, được làm, được hỏi.
Khi tham gia các giao dịch dân sự thì quyền dân sự được hiểu là cách xử sự
được phép của người có quyền năng.
Quyền dân sự của các chủ thể trong các quan hệ pháp luật dân sự cụ
thể khác nhau thì có nội dung khác nhau, đó là những xử sự khác nhau phù
hợp với nội dung của quan hệ đó. Chủ thể quyền trong các quan hệ dân sự có
thể thực hiện những hành vi khác nhau phù hợp với nội dung, mục đích của
quyền năng đó như chủ sở hữu có quyền sử dụng, định đoạt những tài sản
thuộc quyền sở hữu của mình, người sở hữu cổ phần của công ty có quyền

được hưởng cổ tức, có quyền chuyển nhượng cổ phần cho người khác theo
quy định của pháp luật. Người mua bảo hiểm có quyền yêu cầu cơ quan bảo
hiểm chi trả tiền bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra
Thông qua hành vi của mình thỏa mãn quyền của mình hoặc quyền yêu
cầu người khác( người có nghĩa vụ) thực hiện những hành vi nhất định. Chủ
sở hữu cũng có thể thực hiện quyền của mình thông qua hành vi của người

16
khác (trong trường hợp ủy quyền). Khi quyền dân sự bị vi phạm, chủ thể
quyền có thể sử dụng các biện pháp bảo vệ mà pháp luật cho phép Ví dụ:
Làm đơn khởi kiện đến tòa án kiện đòi tài sản trong trường hợp người khác
xâm phạm đến quyền sở hữu của mình.
Trong khoa học pháp lý tồn tại khái niệm quyền chủ quan và quyền
khách quan. Quyền khách quan là quyền dân sự được pháp luật quy định cho
các chủ thể, là nội dung năng lực pháp luật của chủ thể (khả năng có thể có
của chủ thể) Quyền chủ quan là quyền dân sự của chủ thể trong một quan hệ
dân sự cụ thể đã được xác lập. Quyền chủ quan phải phù hợp với quyền
khách quan mà pháp luật đã quy định.
Quyền dân sự chỉ phát sinh trong mối quan hệ giữa người này với
người khác. Quyền yêu cầu cũng chỉ phát sinh trong một quan hệ nghĩa vụ
dân sự nhất định, quyền yêu cầu là yếu tố cấu thành nội dung của quan hệ
nghĩa vụ dân sự, bên có quyền yêu cầu được phép yêu cầu bên có nghĩa vụ
phải thực hiện hoặc không được thực hiện một số hành vi nhất định. Người
có quyền yêu cầu chỉ có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ xác định thực hiện
yêu cầu đó chứ không có quyền yêu cầu đối với bất kỳ một tài sản nào hay
yêu cầu đối với bất kỳ ai khác. Trong trường hợp đã yêu cầu trực tiếp nhưng
bên có nghĩa vụ vẫn không thực hiện nghĩa vụ đó thì bên có quyền có quyền
khởi kiện đến tòa án buộc bên có nghĩa vụ phải thực hiện. Người có quyền
yêu cầu khi yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ sẽ thỏa mãn một số
lợi ích vật chất hoặc tinh thần nhất định. Khi họ không muốn thụ hưởng

những lợi ích này hoặc để đổi lấy một lợi ích khác thì có thể thỏa thuận
chuyển giao quyền yêu cầu cho người khác.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về quyền yêu cầu như
sau: Quyền yêu cầu là quyền của bên có quyền trong quan hệ nghĩa vụ dân sự

17
xác định, có tính chất tài sản, có thể được chuyển giao và được pháp luật dân
sự điều chỉnh.
1.2.2. Đặc điểm của quyền yêu cầu
Thứ nhất, quyền yêu cầu là một quyền pháp lý, nó được pháp luật công
nhận và có tính cưỡng chế.
Đặc điểm này cũng phân biệt quyền yêu cầu với quan hệ nghĩa vụ dân
sự vì quan hệ nghĩa vụ dân sự là một quan hệ pháp lý còn quyền yêu cầu là
quyền pháp lý, là quyền năng của chủ thể, là yếu tố cấu thành nội dung của
quan hệ pháp luật về nghĩa vụ.
Thứ hai, quyền yêu cầu là quyền đối nhân, có tích chất tương đối.
Khác với quyền đối vật có tính chất tuyệt đối. Người có quyền yêu cầu
chỉ có quyền yêu cầu một người nhất định thực hiện yêu cầu trong một quan
hệ nghĩa vụ xác định. Còn quyền đối vật là một quyền áp một nghĩa vụ đối
với mọi người nói chung. Ví dụ : A có quyền sở hữu một thửa đất thì A có
quyền loại trừ tất cả mọi người từ thửa đất đó, mọi người đều phải có nghĩa
vụ tôn trọng quyền sở hữu của A. B có quyền yêu cầu C thực hiện một công
việc thì B chỉ có quyền đối với C và B không có quyền gì đối với những
người khác. Đặc điểm này của quyền yêu cầu cũng cho phép phân biệt quyền
yêu cầu với quyền nhân thân, vì quyền nhân thân là một quyền tuyệt đối, tức
là tất cả mọi người đều có nghĩa vụ tôn trọng bảo đảm, không được xâm
phạm quyền nhân thân của một người nhất định.
Thứ ba, quyền yêu cầu là một quyền tài sản.
Đặc điểm này của quyền yêu cầu xuất phát từ việc quyền yêu cầu
mang đến cho người thụ hưởng một lợi ích nhất định, từ đó quyền yêu cầu có

thể trị giá được thành tiền và có thể được chuyển giao .Ví dụ: Khi bên có
quyền yêu cầu giao vật thì bên có nghĩa vụ phải thực hiện giao đúng vật đó,
nếu vật không còn hoặc bị hư hỏng thì phải thanh toán giá trị của vật. Trong

18
trường hợp quyền yêu cầu là yêu cầu thực hiện một công việc mà bên có
nghĩa vụ không thực hiện thì bên có quyền có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ
tiếp tục thực hiện công việc hoặc giao cho người khác thực hiện hoặc tự mình
thực hiện công việc đó và yêu cầu bên có nghĩa vụ thanh toán chi phí hợp lý
và bồi thường thiệt hại.Như vậy quyền yêu cầu là một quyền tài sản cho nên
nó cũng là một loại tài sản có giá trị và có thể chuyển giao quyền yêu cầu,
trừ một số trường hợp pháp luật quy định không được chuyển giao.
1.2.3. Phân loại quyền yêu cầu.
Quyền yêu cầu là quyền của bên có quyền trong một quan hệ nghĩa vụ
dân sự xác định nên tùy thuộc vào từng loại quan hệ nghĩa vụ dân sự ta sẽ có
các quyền yêu cầu khác nhau, có nghĩa là tùy thuộc vào cách phân loại nghĩa
vụ ta sẽ có các loại quyền yêu cầu tương ứng. Hiện nay các nhà khoa học đưa
ra rất nhiều tiêu chí để phân loại.
Căn cứ vào đối tượng của nghĩa vụ dân sự ta sẽ có đối tượng của nghĩa
vụ dân sự có thể là tài sản, công việc phải thực hiện hoặc không được thực
hiện. Tương ứng ta sẽ có các quyền yêu cầu là: quyền yêu cầu chuyển giao tài
sản, quyền yêu cầu thực hiện một công việc, quyền yêu cầu không được thực
hiện một công việc. Ví dụ: Trong hợp đồng mua bán ôtô, người mua có
quyền yêu cầu người bán chuyển giao ôtô và các giấy tờ liên quan cho mình
để đăng ký quyền sở hữu, quyền yêu cầu trong trường hợp này là quyền yêu
cầu chuyển giao tài sản (ô tô). Người bán có quyền yêu cầu người mua trả
tiền, quyền yêu cầu ở đây cũng là quyền yêu cầu chuyển giao tài sản (tiền
mua ô tô).
Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh ta sẽ có: quyền yêu cầu phát sinh từ
hợp đồng, quyền yêu cầu phát sinh từ hành vi pháp lý đơn phương, quyền

yêu cầu đối với người chiếm hữu, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp
luật, quyền yêu cầu đối với người thực hiện hành vi trái pháp luật phải bồi

19
thường thiệt hại. Ví dụ: Trong hợp đồng xây dựng nhà ở đã phát sinh quyền
yêu cầu của một bên yêu cầu bên kia phải xây dựng nhà ở, bên xây dựng nhà
ở có quyền yêu cầu bên kia trả tiền công.
Căn cứ vào mức độ ta sẽ có: quyền yêu cầu đối với người có nghĩa vụ
thành quả và quyền yêu cầu đối với người có nghĩa vụ mẫn cán trung thực.
(Trong nghĩa vụ mẫn cán trung thực, người thụ trái chỉ cam kết thi hành
nghĩa vụ một cách mẫn cán trung thực nhưng không cam kết mang đến một
kết quả nhất định nào. Còn trong nghĩa vụ thành quả, người thụ trái cam kết
về một kết quả nhất định). Ví dụ: A và B ký kết hợp đồng trong đó A thuê B
tìm kiếm và trục vớt tàu bị chìm đắm do ảnh hưởng của bão trên biển với
một số tiền công nhất định. Nếu B không cam kết mang đến một kết quả nào
thì B chỉ cần thực hiện nghĩa vụ một cách mẫn cán và trung thực, nghĩa vụ
của B trong trường hợp này là nghĩa vụ mẫn cán trung thực. Nếu B muốn trả
tiền công cao hơn và B đã cam kết sẽ tìm thấy và trục vớt thành công thì B
phải thực hiện để đạt được kết quả đó, nghĩa vụ của B trong trường hợp này
là nghĩa vụ thành quả.
Căn cứ vào từng lĩnh vực cụ thể ta sẽ có: quyền yêu cầu là quyền đòi
nợ, quyền yêu cầu là quyền mua cổ phần, quyền yêu cầu là quyền ưu tiên
mua nhà chung cư, quyền yêu cầu là quyền được mua hóa giá nhà ở và quyền
sử dụng đất, quyền yêu cầu của người bảo lãnh sau khi thực hiện nghĩa vụ
bảo lãnh, quyền yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm sau khi trả tiền bảo
hiểm
1.3. Bản chất pháp lý và các quy định của BLDS 2005 về chuyển giao
quyền yêu cầu trong quan hệ nghĩa vụ dân sự.
1.3.1. Khái niệm chuyển giao quyền yêu cầu trong quan hệ nghĩa vụ dân
sự.

×