Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại các tổ chức tín dụng theo pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (977.65 KB, 94 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGÔ THỊ NHƢ HUẾ



BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG QUYỀN ĐÒI NỢ
TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Minh Tuấn


Hà Nội - 2014



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình


nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƢỜI CAM ĐOAN



Ngô Thị Nhƣ Huế





MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO
ĐẢM TIỀN VAY BẰNG QUYỀN ĐÒI NỢ TẠI TỔ CHỨC TÍN
DỤNG 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền đòi nợ, phân biệt quyền đòi nợ với một số
quyền tài sản khác 6

1.1.1. Khái niệm quyền đòi nợ 6
1.1.2. Đặc điểm quyền đòi nợ 10
1.1.3. Phân biệt quyền đòi nợ với một số quyền tài sản khác 13
1.2. Khái niệm, đặc điểm bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại tổ chức tín
dụng 19
1.2.1. Khái niệm bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại tổ chức tín dụng 19
1.2.2. Đặc điểm của bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại tổ chức tín
dụng 20
1.3. Vai trò của bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại tổ chức tín dụng 26
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY
BẰNG QUYỀN ĐÒI NỢ TẠI TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT
NAM 28
2.1. Nội dung của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại tổ
chức tín dụng 28



2.1.1. Khái quát pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại tổ chức
tín dụng 28
2.1.2. Nội dung của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại tổ
chức tín dụng 29
2.2. Điều kiện, trình tự thủ tục nhận tài sản bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi
nợ tại tổ chức tín dụng 37
2.2.1. Các điều kiện khi tổ chức tín dụng nhận quyền đòi nợ làm tài sản bảo
đảm tiền vay 37
2.2.2. Trình tự, thủ tục nhận tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ tại tổ chức tín
dụng 47
2.3. Phạm vi bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ 50
2.4. Hợp đồng bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại tổ chức tín dụng 55
2.4.1. Loại hợp đồng bảo đảm được ký kết 55

2.4.2. Đối tượng của hợp đồng bảo đảm 56
2.4.3. Nội dung của hợp đồng bảo đảm 58
2.4.4. Các bên chủ thể của hợp đồng bảo đảm 58
2.4.5. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng bảo đảm 59
2.4.6. Hiệu lực của hợp đồng bảo đảm 60
2.4.7. Công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm 62
2.5. Quản lý tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ 64
2.6. Xử lý tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ 65
2.6.1. Phương thức xử lý 65
2.6.4. Kê biên tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ 67
2.7. Tranh chấp và giải quyết tranh chấp về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi
nợ tại tổ chức tín dụng 68



Chƣơng 3: MỘT SỐ PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG QUYỀN
ĐÒI NỢ TẠI TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM 70
3.1. Các yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng
quyền đòi nợ tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam 71
3.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi
nợ tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam 73
3.3. Một số kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng
quyền đòi nợ tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam 74
3.3.1. Sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản pháp luật về bảo đảm tiền
vay bằng quyền đòi nợ tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam 75
3.3.2. Có cơ chế đồng bộ nhằm hỗ trợ, hướng dẫn, quản lý và bảo đảm thực
hiện trên thực tế bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại tổ chức tín dụng ở
Việt Nam 82
KẾT LUẬN 84

TÀI LIỆU THAM KHẢO 86



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS
: Bộ luật Dân sự
NHNN
: Ngân hàng Nhà nước
TCTD
: Tổ chức tín dụng



1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động cho vay của TCTD đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với
đời sống kinh tế xã hội. Việc đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay của
TCTD ở Việt Nam là rất cần thiết, vì hoạt động này tiềm ẩn rủi ro cao và
mang tính hệ thống.
Làm dịch vụ trung gian tiền tệ, TCTD nhận tiền gửi của khách hàng
sau đó cho khách hàng khác vay lại bằng chính nguồn tiền đó, hoạt động của
TCTD chính vì vậy luôn tiềm ẩn rủi ro. Để hạn chế những rủi ro cho hoạt
động của mình, trong quan hệ cho vay, bên cạnh việc kiểm tra, thẩm định,
đánh giá bên vay, TCTD thường yêu cầu bên vay phải có biện pháp bảo đảm
tiền vay. Trong đó, bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ là một trong những
biện pháp bảo đảm được pháp luật công nhận, bảo hộ, được TCTD và bên vay
lựa chọn áp dụng. Tuy nhiên, biện pháp bảo đảm này hiện nay chưa được áp

dụng rộng rãi hay nói đúng hơn các TCTD không “hào hứng” lắm với việc
nhận tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ. Các văn bản pháp luật hiện hành quy
định khá ít và có phần chung chung về quyền tài sản nói chung cũng như
quyền đòi nợ nói riêng. Có thể điểm đến một số văn bản quy định quyền đòi
nợ như sau: BLDS năm 2005, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày
29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm (sau đây gọi tắt là Nghị định
số 163), Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ về sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163 (sau đây gọi tắt là Nghị định
số 11); Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/7/2010 của Chính phủ về đăng
ký giao dịch bảo đảm (sau đây gọi tắt là Nghị định số 83). Thông tư liên tịch
số 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN ngày 06/6/2014 hướng dẫn một số
vấn đề về xử lý tài sản bảo đảm (sau đây gọi tắt là Thông tư liên tịch số 16).
Pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại TCTD còn thiếu những



2
quy định, hướng dẫn cụ thể dẫn đến gặp rất nhiều khó khăn trong việc áp
dụng pháp luật vào thực tiễn và do đó, biện pháp bảo đảm tiền vay bằng
quyền đòi nợ chưa được sử dụng phổ biến.
Vì vậy, với mong muốn tìm hiểu những vấn đề pháp lý và thực tiễn
của bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ nhằm góp phần hoàn thiện các
quy định pháp luật về vấn đề này để tạo thuận lợi cũng như thúc đẩy các
giao dịch dân sự liên quan tới quyền đòi nợ, tác giả quyết định lựa chọn
nghiên cứu về đề tài "Bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại các tổ chức
tín dụng theo pháp luật Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Dưới góc độ luật học, chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào đề
cập đến pháp luật về quyền đòi nợ và bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ.
Có một số bài trao đổi, nghiên cứu liên quan đến giao dịch bảo đảm

bằng quyền đòi nợ được đăng tải trên một số trang web và tạp chí chuyên
ngành tài chính ngân hàng như:
- Bài viết:"Giao dịch có đối tượng là quyền đòi nợ" của ThS. Bùi Đức
Giang đăng tải trên Web Thông tin pháp luật dân sự ngày 12/11/2013;
- Bài viết: “Quyền ưu tiên thanh toán của Bên nhận thế chấp quyền
đòi nợ” của ThS. Bùi Đức Giang đăng tải trên Tạp chí Ngân hàng, số 17,
tháng 09/2012;
- Bài viết: “Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ” của
ThS. Bùi Đức Giang đăng tải trên Tạp chí Ngân hàng, số 5 (301), năm 2013;
- Bài viết: “Một số hạn chế của chế định thế chấp quyền đòi nợ theo
quy định hiện hành” của ThS. Bùi Đức Giang đăng tải trên Tạp chí Ngân
hàng, số 21, tháng 11/2011.
Ngoài ra, một số khía cạnh pháp lý liên quan đến nghiệp vụ cho vay
trên cơ sở có bảo đảm bằng thế chấp quyền đòi nợ cũng được nhiều bài báo
viết, báo điện tử đăng tải.



3
Nhưng, các bài trao đổi, bài viết trên đây chỉ mới dừng lại ở việc phân
tích quyền đòi nợ là một loại tài sản trong quan hệ pháp luật dân sự. Qua quá
trình tra cứu tài liệu cho thấy, hiện chưa có một công trình khoa học nào nghiên
cứu một cách toàn diện, đầy đủ về biện pháp bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi
nợ. Xuất phát từ những nguyên nhân trên, tác giả đã lựa chọn đề tài nghiên cứu
để tìm hiểu một cách đầy đủ, toàn diện về lý luận và thực tiễn áp dụng bảo đảm
tiền vay bằng quyền đòi nợ tại TCTD ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực
tiễn của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại TCTD, từ đó
thấy được những kết quả cũng như những vấn đề còn tồn tại, nguyên nhân

của những hạn chế, tồn tại đó và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật
về vấn đề này.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng
quyền đòi nợ tại TCTD như: khái niệm, đặc điểm quyền đòi nợ với tư cách là
một tài sản bảo đảm; khái niệm, đặc điểm, vai trò của bảo đảm tiền vay bằng
quyền đòi nợ; nội dung pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ.
- Nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật về bảo đảm
tiền vay bằng quyền đòi nợ tại TCTD ở Việt Nam qua việc đưa ra những nhận
định khái quát và cụ thể những mặt được, những mặt hạn chế, bất cập của
pháp luật hiện hành và thực tế áp dụng bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ
tại TCTD ở Việt Nam.
- Đưa ra định hướng và những kiến nghị, đề xuất, giải pháp cơ bản
nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại TCTD ở
Việt Nam.



4
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu pháp luật hiện hành điều chỉnh về bảo
đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại TCTD ở Việt Nam đặt trong mối quan hệ
với pháp luật về quyền tài sản và các văn bản pháp lý chuyên ngành tài chính
ngân hàng điều chỉnh hoạt động cho vay của TCTD. Từ đó, làm nổi bật các
đặc trưng của bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại TCTD so với các biện
pháp bảo đảm dân sự khác và so với các biện pháp bảo đảm tiền vay khác.
Đồng thời nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề này, để phát hiện
các tồn tại, bất cập và kiến nghị phương hướng khắc phục, hoàn thiện.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Với mục đích triển khai những nội dung cơ bản của luận văn, tác giả

đã vận dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và
các phương pháp cụ thể như phân tích, tổng hợp, giải thích, so sánh … để lý
giải những vấn đề đặt ra.
6. Những đóng góp mới của đề tài
Là công trình nghiên cứu pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền
đòi nợ tại TCTD ở Việt Nam và thực tiễn áp dụng pháp luật một cách cụ thể,
luận văn có những đóng góp mới là:
- Trình bày, phân tích một cách khoa học và có hệ thống các vấn đề lý
luận cơ bản của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại TCTD.
- Nêu và phân tích nguyên nhân, đánh giá thực trạng pháp luật và
thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi tại
TCTD ở Việt Nam;
- Luận văn kiến nghị, đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện
pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại TCTD ở Việt Nam nhằm
góp phần xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, mang tính khả thi.



5
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục các chữ viết tắt và Tài liệu
tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận của pháp luật về bảo đảm tiền vay
bằng quyền đòi nợ tại tổ chức tín dụng.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi
nợ tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam.
Chương 3: Một số phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp
luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam.




6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TIỀN
VAY BẰNG QUYỀN ĐÒI NỢ TẠI TỔ CHỨC TÍN DỤNG
1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền đòi nợ, phân biệt quyền đòi nợ với
một số quyền tài sản khác
1.1.1 Khái niệm quyền đòi nợ
Quyền dân sự là khả năng pháp luật cho phép chủ thể hưởng một lợi
ích vật chất, tinh thần hoặc yêu cầu người khác thực hiện một nghĩa vụ cho
mình. Nghĩa vụ của bên kia có thể phải làm một công việc hoặc không được
thực hiện một công việc hoặc phải chuyển tài sản…
Quyền đòi nợ là một loại tài sản theo quy định của BLDS năm 2005.
Đây là một tài sản vô hình mà chúng ta không thể nắm giữ trực tiếp. Quyền
đòi nợ có tính chất khá đặc biệt vì nó phản ánh việc một nghĩa vụ vừa là một
mối quan hệ về mặt pháp luật, đồng thời lại là một loại tài sản.
Dưới góc độ của pháp luật về tài sản, quyền đòi nợ là một loại quyền
tài sản [24, khoản 1 Ðiều 322] và quyền tài sản lại là một trong bốn loại tài
sản theo quy định hiện hành [24, Ðiều 163]. Như vậy, có thể hiểu quyền đòi
nợ tự thân nó là một tài sản. Ðối tượng của quyền đòi nợ chính là khoản tiền
sẽ được thanh toán vào một thời điểm nhất định. Quyền đòi nợ là một tài sản
đặc biệt. Tài sản đó ở dạng vô hình hay nó là một dạng của quyền tài sản.
Quyền tài sản có rất nhiều nhưng chỉ những quyền tài sản đáp ứng một số
điều kiện nhất định quy định tại Điều 163 BLDS năm 2005 mới trở thành đối
tượng trong các giao dịch dân sự.
Dưới góc độ kế toán, quyền đòi nợ là một “khoản phải thu”. Khoản
phải thu là bộ phận tài sản của doanh nghiệp đang bị các đơn vị hoặc cá nhân
khác chiếm dụng mà doanh nghiệp có trách nhiệm thu hồi. Khoản phải thu có
liên quan đến các đối tác có quan hệ kinh tế đối với doanh nghiệp bao gồm




7
các khoản: khoản phải thu từ khách hàng, khoản ứng trước cho người bán,
khoản phải thu nội bộ, khoản tạm ứng cho công nhân viên, các khoản thế
chấp, ký cược, ký quỹ, các khoản phải thu khác. Có thể nói nôm na “khoản
phải thu” là số tiền khách hàng nợ doanh nghiệp do mua chịu hàng hóa hoặc
dịch vụ. Trong lĩnh vực kế toán, có thể nói hầu hết các công ty đều phát sinh
các khoản phải thu nhưng với mức độ khác nhau, từ mức không đáng kể cho
đến mức không thể kiểm soát nổi. Kiểm soát khoản phải thu liên quan đến
việc đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro. Khoản phải thu của doanh nghiệp phát
sinh nhiều hay ít phụ thuộc vào các yếu tố như tình hình nền kinh tế, giá cả
sản phẩm, chất lượng sản phẩm, và chính sách bán chịu của doanh nghiệp.
Đứng ở góc độ của pháp luật nghĩa vụ thì quyền đòi nợ là một dạng
của quyền yêu cầu quy định tại các điều từ Điều 309 đến Điều 314 của BLDS
năm 2005. Đó là quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện một công
việc, cụ thể là phải thanh toán một khoản tiền cho bên có quyền tại một thời
điểm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng. Thời điểm thỏa thuận này có thể
là một thời điểm nhất định trong tương lai, nhưng quyền đòi nợ có thể được
thanh toán khi bên có quyền yêu cầu hay khi phát sinh một sự kiện tương lai
nhất định mà các bên đã thỏa thuận. Bên có quyền chỉ có thể yêu cầu việc
thanh toán này từ phía bên có nghĩa vụ chứ không thể yêu cầu một bên thứ ba
làm việc này bởi quyền đòi nợ chỉ thiết lập các mối quan hệ giữa bên có
quyền và bên có nghĩa vụ mà thôi. Ðiều này minh họa cho tính chất tương đối
của quyền đòi nợ.
Trong khoa học pháp lý người ta chia quyền tài sản ra ba loại: quyền
đối vật hay còn gọi là vật quyền; quyền đối nhân hay còn gọi là trái quyền;
quyền sở hữu trí tuệ. Quyền đối vật là quyền cho phép một người được hưởng
các quyền năng trực tiếp và ngay lập tức đối với một vật mà không cần vai trò
của một người khác. Quyền đối vật chỉ bao gồm hai yếu tố: chủ thể của quyền

và vật, đối tượng của quyền. Hay quyền đối vật là quyền trực tiếp trên vật.
Còn quyền đối nhân là quyền yêu cầu người có nghĩa vụ phải làm hoặc không



8
làm một việc nào đó. Thông thường, quyền đối nhân phát sinh từ quan hệ hợp
đồng nhưng cũng có thể phát sinh do các căn cứ khác do pháp luật quy định.
Điều 181 BLDS năm 2005 quy định: “quyền tài sản là quyền trị giá được
bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự”. Như vậy, theo luật
Việt Nam, nếu quan hệ trái quyền có thể tính được thành tiền và chuyển giao
được thì trái quyền đó mới là quyền tài sản. Vật quyền và trái quyền có những
sự khác biệt cơ bản sau: thứ nhất, vật quyền mang tính chất tuyệt đối theo
nghĩa tất cả những người khác trong xã hội có nghĩa vụ phải tôn trọng các
quyền năng của người được hưởng vật quyền, và người này được thực hiện
các quyền trực tiếp đối với tài sản. Trái lại, trong quan hệ trái quyền mang
tính chất tương đối, nó chỉ mối quan hệ giữa người có quyền và người có
nghĩa vụ và về mặt nguyên tắc, nó chỉ có hiệu lực tương đối giữa hai người
này mà thôi. Thứ hai, trong quan hệ vật quyền, người có quyền có thể trực
tiếp khai thác tài sản và có quyền đòi lại tài sản dù tài sản đang nằm trong tay
ai. Trái lại, trong quan hệ trái quyền, người có quyền chỉ có thể yêu cầu người
có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ chứ không có quyền cụ thể đối với tài sản này
hay tài sản kia của người có nghĩa vụ. Theo quan niệm này thì quyền tài sản
tương ứng với trái quyền và quyền đòi nợ là một trái quyền.
Xét về mặt ngôn ngữ, bản thân thuật ngữ quyền đòi nợ tự nó "toát lên"
những đặc điểm riêng biệt để nhận biết, trước tiên nó là một quyền, và quyền
này là quyền được yêu cầu người khác phải thực hiện một nghĩa vụ tài chính
đối với mình. Quyền ở đây chính là một quyền năng dân sự chủ quan của chủ
thể được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Nói một các nôm na thì quyền đòi nợ
là một quyền có giá trị tiền tệ nhưng không có đối tượng là một vật hữu hình

nào: người có quyền đòi nợ thực hiện quyền của mình bằng cách yêu cầu
người mắc nợ thực hiện nghĩa vụ trả nợ và tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ
đó dưới hình thức nhận một số tiền.



9
Pháp luật thực định không đưa ra một định nghĩa cụ thể về quyền đòi
nợ. Trước đây, Thông tư số 04/2007/TT-BTP ngày 17/5/2007 của Bộ Tư
pháp hướng dẫn về thẩm quyền, trình tự và thủ tục đăng ký, cung cấp thông
tin về hợp đồng mua trả chậm, trả dần, hợp đồng thuê tài sản, hợp đồng cho
thuê tài chính và hợp đồng chuyển giao quyền đòi nợ đã định nghĩa quyền đòi
nợ theo hướng liệt kê gồm quyền đòi nợ phát sinh từ hợp đồng vay, hợp đồng
mua bán, hợp đồng thuê tài sản, hợp đồng dịch vụ hoặc phát sinh từ các căn
cứ hợp pháp khác. Song, danh sách này đã bị hủy bỏ bởi Thông tư số
05/2011/TT-BTP của Bộ Tư pháp ngày 16/02/2011 hướng dẫn một số vấn đề
về đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo
việc kê biên tài sản thi hành án theo phương thức trực tiếp, bưu điện, fax, thư
điện tử tại Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia
giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp, nên hiện nay chưa có văn bản nào quy
định rõ quyền đòi nợ là gì. Vì pháp luật thực định chưa đưa ra một định
nghĩa cụ thể về quyền đòi nợ, chưa quy định cụ thể các tiêu chí, đặc điểm
để nhận biết về quyền đòi nợ, nên các TCTD gặp nhiều khó khăn trong
việc xác định quyền đòi nợ để nhận thế chấp. Liệu có phải bất kỳ quyền
đòi một khoản tiền phát sinh từ bất kỳ loại hợp đồng nào cũng được coi là
quyền đòi nợ và đều được nhận làm tài sản thế chấp, trong khi pháp luật
thực định đặt ra cho Bên nhận thế chấp nghĩa vụ chứng minh quyền được
đòi nợ đối với bên có nghĩa vụ trả nợ.
Nghị định số 163 là văn bản có các quy định riêng cho việc thế chấp
quyền đòi nợ (chủ yếu là Điều 22, Điều 59 và Điều 66). Nghị định số 163 đã

được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 11. Nghị định số 11 có hiệu lực kể từ
ngày 10/4/2012. Tuy vậy, các quy định tại Nghị định số 163 chưa đề cập hết
các khía cạnh của loại hình giao dịch bảo đảm có đối tượng là quyền đòi nợ
này và phải áp dụng các quy định chung của BLDS và Nghị định số 163 về
giao dịch bảo đảm nói chung và về thế chấp tài sản đối với các vấn đề không
được xử lý một cách riêng biệt bởi các quy định này.



10
Các văn bản luật hiện không đưa ra khái niệm thế nào là “quyền đòi
nợ”. Tuy nhiên, theo những phân tích ở trên, có thể rút ra khái niệm sau về
Quyền đòi nợ: Quyền đòi nợ là một quyền tài sản có đối tượng là một khoản
nợ theo đó nó mang tới cho người sở hữu quyền này có quyền yêu cầu bên có
nghĩa vụ phải thực hiện một nghĩa vụ tài chính đối với bên có quyền. Quyền
đòi nợ là một loại quyền tài sản có đối tượng là một khoản nợ, tức là một
khoản tiền. Quyền đòi nợ được liệt kê tại Điều 322 của BLDS năm 2005 như
một trong số các quyền tài sản có thể dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
sự. Không chỉ là đối tượng của giao dịch bảo đảm, quyền đòi nợ còn được mua,
bán theo quy định tại Điều 449 BLDS năm 2005 về mua bán quyền tài sản.
Nói chung, cho dù dưới góc độ nào, việc nhận thức chính xác khái
niệm về quyền đòi nợ đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc thiết lập và
thực hiện các giao dịch liên quan đến quyền đòi nợ, cũng như trong việc xây
dựng quy định pháp luật liên quan đến quyền đòi nợ. Theo tác giả, quyền đòi
nợ là một quyền tài sản có đối tượng là một khoản nợ theo đó nó mang tới
cho người sở hữu quyền này có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện
một nghĩa vụ tài chính đối với bên có quyền.
1.1.2 Đặc điểm quyền đòi nợ
Là một quyền tài sản, quyền đòi nợ cũng có đầy đủ những đặc điểm
của một quyền tài sản. Hai điều kiện để được coi là quyền tài sản cũng chính

là hai đặc điểm của quyền đòi nợ. Điều 181 BLDS năm 2005 quy định:
“quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao được
trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ”. Theo đó, quyền đòi nợ có
hai đặc điểm: Thứ nhất, quyền đòi nợ phải trị giá được bằng tiền hay là phải
tương đương với một đại lượng vật chất nhất định; Thứ hai, quyền đòi nợ đó
có thể chuyển giao được trong giao dịch dân sự.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về quyền đòi nợ nhưng cho dù được
hiểu theo cách nào thì quyền đòi nợ vẫn phải mang những đặc điểm đặc trưng,
những thuộc tính cơ bản để nhận biết đó là một quyền tài sản và để phân biệt



11
quyền đòi nợ với các loại quyền tài sản khác. Mặc dù, BLDS năm 2005 không
hề có điều khoản nào quy định về khái niệm cũng như các đặc điểm của
quyền đòi nợ để phân biệt với các loại tài sản khác. Tuy nhiên, từ việc phân
tích tại Mục 1 phần này, có thể thấy rằng quyền đòi nợ có hai đặc điểm, thuộc
tính cơ bản là: (1) Trị giá được bằng tiền; (2) Có thể chuyển giao quyền sở
hữu cho chủ thể khác trong giao dịch dân sự.
Thứ nhất, quyền đòi nợ trị giá được bằng tiền.
Một trong những đặc điểm nổi bật của quyền tài sản nói chung cũng
như quyền đòi nợ nói riêng đó là có thể trị giá được bằng tiền, nghĩa là phải
tương đương với một đại lượng vật chất nhất định. Thật vậy, qua khái niệm về
quyền đòi nợ như đã phân tích ở trên có thể thấy rằng vì bản thân quyền đòi
nợ là xác nhận quyền yêu cầu trả nợ, quyền yêu cầu thanh toán một khoản
tiền trong một thời hạn nhất định và khoản tiền đó đã được xác định rõ trên
văn bản phát sinh ra nó. Hiện nay, pháp luật dân sự Việt Nam công nhận một
số quyền tài sản là tài sản như: quyền sử dụng đất, quyền khai thác tài nguyên
thiên nhiên, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với tài sản bị xâm phạm,
quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối

với giống cây trồng, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm đối với
vật bảo đảm, quyền tài sản đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp, quyền
tài sản phát sinh từ hợp đồng [24, Điều 322]. Trong đó, nhận tài sản bảo đảm
là các quyền tài sản này đều phải tuân thủ quy định pháp luật dân sự và các
quy định của pháp luật chuyên ngành, ví dụ nhận tài sản bảo đảm là quyền sử
dụng đất hay quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên thì ngoài việc phải tuân
thủ các quy định chung của pháp luật dân sự còn phải tuân thủ các quy định
của luật đất đai, luật khoáng sản…
Quyền đòi nợ luôn phát sinh từ hợp đồng, có thể là hợp đồng mua bán
hàng hóa, hợp đồng thi công, xây dựng, hợp đồng dịch vụ…các hợp đồng này
tuy khác nhau về nội dung nhưng có một điểm chung đó đều là hợp đồng
song vụ. Có nghĩa, quyền của bên này tương ứng là nghĩa vụ của bên kia và
ngược lại. Vì vậy, nghĩa vụ trong hợp đồng được xác định cụ thể. Có thể nhận



12
thấy dù phát sinh từ hợp đồng nào thì quyền đòi nợ luôn được xác định cụ thể:
bên có nghĩa vụ trả nợ, bên có quyền và số tiền bên có nghĩa vụ phải trả cho
bên có quyền. Trong mối quan hệ giữa người có quyền đòi nợ với người có
nghĩa vụ trả nợ, khi đến hạn thanh toán đã được xác định trong hợp đồng,
người có quyền đòi nợ có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ trả nợ phải thanh
toán số tiền nợ đã ghi trên hợp đồng. Như vậy, đến ngày thực hiện nghĩa vụ
thanh toán, quyền đòi nợ đã được quy ra một khoản tiền và người có nghĩa vụ
trả nợ có nghĩa vụ trả cho người sở hữu số tiền đó.
Trong giao dịch bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ, mức cho vay
được xác định dựa trên giá trị của khoản nợ và sự xem xét, đánh giá của các
TCTD. Mức cho vay thường không vượt quá giá trị của khoản nợ.
Thứ hai, người có quyền đòi nợ có thể chuyển giao quyền đòi nợ ấy
cho chủ thể khác trong giao dịch dân sự.

Đặc điểm đặc trưng khác của quyền đòi nợ đó là quyền đòi nợ có thể
được chuyển nhượng, tức là người có quyền đòi nợ có thể chuyển giao quyền
yêu cầu thanh toán (quyền được nhận khoản nợ) cho chủ thể khác trong giao
dịch dân sự. Pháp luật hiện hành xem quyền đòi nợ là một loại tài sản, vì vậy,
chủ thể của quyền đòi nợ được quyền chuyển nhượng quyền đòi nợ cho chủ
thể khác theo cách thức và thông qua các hình thức giao dịch phù hợp với quy
định của pháp luật như mua, bán, cho, tặng, trao đổi, thừa kế,
Việc chuyển nhượng quyền đòi nợ có liên hệ chặt chẽ với việc chuyển
giao quyền yêu cầu được quy định tại các Điều từ 309 đến Điều 314 của
BLDS năm 2005. Theo đó, chuyển giao quyền yêu cầu trong quan hệ nghĩa
vụ dân sự là việc bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự chuyển giao
quyền yêu cầu đó cho người thế quyền theo thỏa thuận. Pháp luật hạn chế một
số trường hợp bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự không được
chuyển giao quyền đó cho người khác [24, Điểm a, b, c khoản 1, Điều 309].
Điểm a, khoản 1 Điều 309 BLDS năm 2005 quy định những trường hợp



13
quyền yêu cầu là những quyền gắn liền với nhân thân của chủ thể có quyền
thì không được chuyển giao. Ví dụ như: quyền yêu cầu cấp dưỡng, yêu cầu
bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, uy tín. Vì quyền đòi nợ đã loại trừ các quyền liên quan đến nhân thân
như trên, do đó, trừ khi các bên có thỏa thuận khác, quyền đòi nợ được
chuyển giao. Đặc trưng cơ bản của luật dân sự là tôn trọng sự thỏa thuận của
các bên, vì vậy tại Điểm b, khoản 1, Điều 309 BLDS năm 2005 quy định một
trong những trường hợp bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự
không được chuyển giao quyền yêu cầu đó cho người khác nếu giữa Bên có
quyền và bên có nghĩa vụ có thoả thuận không được chuyển giao quyền yêu
cầu. Bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự không được chuyển

giao quyền yêu cầu đó cho người khác trong trường hợp mà pháp luật quy
định. Như vậy, việc chuyển giao quyền yêu cầu của bên có quyền yêu cầu
thực hiện nghĩa vụ dân sự cho một chủ thể thế quyền khác chỉ bị hạn chế bởi
3 điều kiện như đã liệt kê trên.
Như vậy, quyền đòi nợ bản thân nó là một loại tài sản có đủ hai đặc
điểm đặc trưng cơ bản của quyền tài sản là trị giá được bằng tiền và có thể
chuyển giao quyền sở hữu cho chủ thể khác trong giao dịch dân sự. Đây là hai
đặc điểm để nhận biết quyền đòi nợ.
1.1.3. Phân biệt quyền đòi nợ với một số quyền tài sản khác
Điều 322 BLDS năm 2005 quy định các quyền tài sản thuộc sở hữu
của bên bảo đảm bao gồm quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở
hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng, quyền đòi nợ, quyền được
nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm, quyền tài sản đối với phần vốn
góp trong doanh nghiệp, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng và các quyền tài
sản khác thuộc sở hữu của bên bảo đảm đều được dùng để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự.
1.1.3.1. Phân biệt quyền đòi nợ với quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng
Pháp luật hiện hành không quy định cụ thể các loại quyền tài sản phát
sinh từ hợp đồng nào khác có thể trở thành tài sản bảo đảm ngoài quyền đòi



14
nợ và quyền được nhận số tiền bảo hiểm. Trong khuôn khổ pháp luật giao
dịch bảo đảm, Ðiều 322 của BLDS năm 2005 phân biệt quyền đòi nợ với
quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng theo hướng đây là hai loại quyền tài sản
độc lập với nhau. BLDS năm 2005 công nhận một khái niệm pháp lý khác là
quyền yêu cầu [24, Ðiều 309 đến Ðiều 314]. Khoản 4 và 5, Ðiều 22, Nghị
định số 163 coi quyền đòi nợ là một loại quyền yêu cầu. Trước đây, quyền đòi
nợ được định nghĩa theo hướng liệt kê gồm quyền đòi nợ phát sinh từ hợp

đồng vay, hợp đồng mua bán, hợp đồng thuê tài sản, hợp đồng dịch vụ hoặc
phát sinh từ các căn cứ hợp pháp khác [1, điểm d khoản 1.1]. Song, Ðiều 2,
khoản 2, điểm 2.4 Thông tư 05/2011/TT-BTP quy định “Hợp đồng chuyển
giao quyền đòi nợ bao gồm quyền đòi nợ hiện có hoặc quyền đòi nợ hình
thành trong tương lai”. Dường như các nhà làm luật muốn mở rộng hơn căn
cứ phát sinh quyền đòi nợ khi không giới hạn ở các hợp đồng nhất định nữa.
Tuy nhiên, không có quy định nào của BLDS năm 2005 giải thích nội hàm
của các quyền phát sinh từ hợp đồng. Có thể hiểu quyền đòi nợ là một quyền
yêu cầu mang tính chắc chắn có thể được thực thi trong khi quyền phát sinh từ
hợp đồng là quyền yêu cầu ít chắc chắn hơn, có tính chất ngẫu nhiên hơn, tức
là phụ thuộc vào các tình huống nhất định để chuyển một quyền tiềm năng
thành một quyền có thể thực thi được. Quyền phát sinh từ hợp đồng bao gồm
rất nhiều loại quyền, chẳng hạn như quyền chọn, quyền phát sinh từ một hợp
đồng cho thuê tàu biển, quyền phát sinh từ vận đơn, quyền phát sinh từ hợp
đồng bảo hiểm nhân thọ, quyền phát sinh từ hợp đồng sử dụng đối tượng sở
hữu công nghiệp hay quyền thuê phát sinh từ hợp đồng thuê: Quyền đòi nợ và
quyền phát sinh từ hợp đồng là hai loại quyền yêu cầu tiêu biểu.
1.1.3.2. Phân biệt quyền đòi nợ với quyền sở hữu trí tuệ
Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí
tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở



15
hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng. Khác với quyền tài sản
hữu hình có đối tượng là các vật, quyền sở hữu trí tuệ có đối tượng mang tính
chất trừu tượng – thành quả của hoạt động tư duy sáng tạo của con người. Các
quyền liên quan đến các sản phẩm của trí tuệ vừa mang tính chất nhân thân,
vừa mang tính tài sản. Quyền sở hữu trí tuệ là nhóm quyền đặc biệt, không
thuộc nhóm vật quyền và cũng không thuộc nhóm trái quyền. Nó không phải

trái quyền bởi lẽ chủ sở hữu thực hiện quyền năng sở hữu một cách trực tiếp
chứ không phải thông qua người khác. Quyền sở hữu trí tuệ được hiểu là một
tập hợp các độc quyền khai thác một ý tưởng, một tác phẩm, một sáng chế ở
điểm này, quyền sở hữu trí tuệ có phần giống như một vật quyền, tuy nhiên,
nếu như vật quyền là quyền đối vật là đối tượng tồn tại một các vật chất, hiện
hữu thì đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ không phải là một vật mà là kết
quả của sáng tạo tư duy, yếu tố không tồn tại một cách vật chất. Trong luật
Việt Nam, đối tượng của quyền tác giả bao gồm mọi tác phẩm sáng tạo trong
các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học.
Mặc dù Điều 322 BLDS năm 2005 liệt kê rõ ràng các quyền sở hữu trí
tuệ được sử dụng làm tài sản bảo đảm, Luật sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11
ngày 29/11/2005 được sửa đổi năm 2009 không đề cập tới việc thế chấp các
quyền sở hữu trí tuệ này. Luật sở hữu trí tuệ chỉ quy định việc chuyển nhượng
quyền tác giả, việc định đoạt đối tượng sở hữu công nghiệp thông qua việc
chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp và việc chuyển giao quyền đối với
giống cây trồng. Cũng không có bất cứ quy định nào về việc xác lập và hệ quả
pháp lý của giao dịch bảo đảm có đối tượng là quyền sở hữu trí tuệ trong các
văn bản hướng dẫn thi hành luật này như Nghị định 100/2006/NĐ-CP của
Chính phủ ngày 21/09/2006 về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của BLDS, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên
quan được sửa đổi năm 2011, Nghị định 103/2006/NĐ-CP của Chính phủ



16
ngày 22/09/2006 về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp được sửa đổi năm 2010 hay
Nghị định 88/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16/08/2010 quy định chi tiết,
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ và Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về quyền đối với giống cây trồng.

Hơn nữa, theo quy định tại khoản 6, điều 3, Thông tư số 05/2011/TT-BTP của
Bộ Tư pháp ngày 16/02/2011 hướng dẫn một số vấn đề về đăng ký, cung cấp
thông tin về giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo việc kê biên tài sản thi
hành án theo phương thức trực tiếp, bưu điện, fax, thư điện tử tại Trung tâm
Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc
Bộ Tư pháp, việc đăng ký giao dịch bảo đảm đối với quyền sở hữu trí tuệ
được thực hiện tại Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký
quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp chứ không phải tại Cục sở hữu
trí tuệ như thông lệ tại nhiều nước trên thế giới.
1.1.3.3. Phân biệt quyền đòi nợ với quyền tài sản đối với phần vốn
góp trong doanh nghiệp
Điều 322 BLDS năm 2005 quy định có thể dùng quyền tài sản đối với
phần góp vốn trong doanh nghiệp làm tài sản bảo đảm. Trong thực tế, chính
cách quy định như thế lại dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng chế định này
bởi tính chất khá trừu tượng của khái niệm quyền tài sản đối với phần vốn
góp trong doanh nghiệp. Có thể hiểu quyền tài sản đối với phần vốn góp trong
doanh nghiệp gồm các quyền mà thành viên góp vốn có được sau khi thực
hiện việc góp vốn vào doanh nghiệp được quy định tại điều 41 của Luật
doanh nghiệp (quyền biểu quyết thông qua các quyết định của công ty, quyền
được chia lợi nhuận, quyền được ưu tiên góp thêm vốn, v.v…). Tuy nhiên khi
nhận thế chấp, ngân hàng sẽ thích nhận phần vốn góp hơn là nhận các quyền
của thành viên góp vốn vì pháp luật doanh nghiệp không quy định việc định



17
đoạt quyền của thành viên góp vốn mà chỉ quy định việc định đoạt phần vốn
góp. Điều 140 của Luật doanh nghiệp khi quy định về quyền và nghĩa vụ của
thành viên góp vốn cho phép thành viên góp vốn của công ty hợp danh được
định đoạt phần vốn góp của mình bằng cách thế chấp, cầm cố. Tức là Luật

doanh nghiệp cho phép thực hiện giao dịch bảo đảm đối với phần vốn góp.
Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp không nêu rõ việc thành viên góp vốn của
công ty trách nhiệm hữu hạn có quyền thực hiện giao dịch bảo đảm đối với
phần góp vốn của mình hay không [27, điểm h khoản 1 Điều 41] như trong
trường hợp công ty hợp danh [27, điểm e khoản 1 Điều 140]. Tuy điểm h
khoản 1 điều 41 quy định mở là thành viên góp vốn của công ty trách nhiệm
hữu hạn có thể định đoạt phần vốn góp của mình bằng cách khác theo quy
định của pháp luật và điều lệ của công ty, nhưng thật khó có thể hình dung giá
trị pháp lý của việc thế chấp phần vốn góp nếu chỉ được quy định trong điều
lệ của một công ty. Một điểm đáng chú ý là Luật doanh nghiệp vẫn còn thiếu
vắng các quy định về việc chấp thuận giao dịch thế chấp phần vốn góp. Thực
vậy, Luật doanh nghiệp chỉ quy định việc chấp thuận thành viên mới của công
ty trong trường hợp chuyển nhượng phần vốn góp hay sử dụng phần vốn góp
để trả nợ. Với các quy định này, khi chuyển nhượng phần vốn góp của mình
cho người khác, thành viên góp vốn phải chào bán phần vốn đó cho các thành
viên còn lại theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp của họ trong công ty với
cùng điều kiện và chỉ được chuyển nhượng cho người khác không phải là
thành viên nếu các thành viên còn lại của công ty không mua hoặc không mua
hết trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày chào bán. Hơn nữa trong trường hợp
thành viên sử dụng phần vốn góp để trả nợ thì người nhận thanh toán chỉ được
trở thành thành viên của công ty nếu được các thành viên còn lại chấp thuận,
nếu không sẽ bắt buộc phải chào bán phần vốn góp đó. Có thể thấy tinh thần
của Luật doanh nghiệp là hạn chế sự xuất hiện của thành viên mới trong công



18
ty và tôn trọng quyết định chấp thuận hay không chấp thuận thành viên mới
của các thành viên còn lại. Khi xây dựng các quy định mới về vấn đề này đối
với việc thế chấp phần vốn góp, nhà làm luật nên đi theo hướng tôn trọng

nguyên tắc này của Luật doanh nghiệp.
1.1.3.4. Phân biệt quyền đòi nợ với quyền phát sinh từ hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ
Như trình bày ở phần trên, điều 322 của BLDS năm 2005 quy định
quyền được nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm là một loại quyền tài
sản được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Theo điều 346 của
BLDS năm 2005, trong trường hợp tài sản thế chấp được bảo hiểm thì khoản
tiền bảo hiểm cũng thuộc tài sản thế chấp. Nếu đọc kết hợp hai điều này của
BLDS năm 2005 có thể thấy BLDS năm 2005 chỉ công nhận quyền được
nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm là một phần của tài sản thế chấp.
Quy định như thế rõ ràng là tương đối hẹp và đây chỉ là một ví dụ về việc
pháp luật Việt Nam công nhận việc thay thế đối vật – giá trị của tài sản thế
chấp ở vị trí của tài sản thế chấp bị phá hủy một phần hay toàn bộ. Hệ thống
pháp luật của nhiều nước trên thế giới công nhận rộng rãi giao dịch bảo đảm
có đối tượng là hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, hay cụ thể hơn là số tiền bảo
hiểm vốn là một quyền đòi nợ của bên mua bảo hiểm hay người được thụ
hưởng. Điều 18, Luật kinh doanh bảo hiểm số 24/2000/QH10 ngày
09/12/2000 về kinh doanh bảo hiểm được sửa đổi bởi Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm số 61/2010/QH12 ngày
24/11/2010 khi quy định về quyền của bên mua bảo hiểm cho phép bên mua
bảo hiểm được chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm nhưng không đề cập tới
việc bên mua bảo hiểm có được sử dụng hợp đồng bảo hiểm làm tài sản bảo
đảm hay không. Điều 18 cũng có quy định theo hướng mở là bên mua bảo
hiểm được thực hiện các quyền khác theo quy định của pháp luật. Tuy vậy,



19
cách quy định mở đó cũng không đảm bảo cho việc xác lập giao dịch bảo đảm
đối với hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Phần quy định về hợp đồng bảo hiểm

con người của luật này cũng như Nghị định số 45/2007/NĐ-CP ngày
27/03/2007 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật kinh doanh bảo
hiểm không đề cập tới giao dịch bảo đảm đối với hợp đồng bảo hiểm. Về bản
chất, thế chấp hợp đồng bảo hiểm là một dạng đặc biệt của thế chấp quyền đòi
nợ nên về lý thuyết có thể thiết kế một hợp đồng thế chấp hợp đồng bảo hiểm
dưới dạng một hợp đồng thế chấp quyền đòi nợ. Tuy vậy, do điều 322 của
BLDS năm 2005 chỉ nêu một trường hợp duy nhất liên quan đến giao dịch
bảo đảm đối với hợp đồng bảo hiểm như đã phân tích ở trên nên khả năng này
ít nhiều tiềm ẩn rủi ro.
1.2. Khái niệm, đặc điểm bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại
tổ chức tín dụng
1.2.1. Khái niệm bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại tổ
chức tín dụng
Với đặc thù là đi vay và cho vay lại, hoạt động của các tổ chức tín
dụng luôn mang sẵn trong mình nhiều rủi ro. Để hạn chế rủi ro cho mình, các
TCTD thường yêu cầu khách hàng phải ký kết giao dịch bảo đảm song song
với việc cấp tín dụng cho khách hàng.
Theo nghĩa khách quan, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là tổng
hợp các quy định pháp luật do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện trong
đó quy định điều kiện, trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của các bên trong
quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Về mặt chủ quan, bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ dân sự là việc thỏa thuận giữa các bên nhằm qua đó đặt ra các biện pháp tác
động mang tính chất dự phòng để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ, đồng
thời ngăn ngừa và khắc phục những hậu quả xấu do việc không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ gây ra. Ngoài ra, biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự còn có tính chất bắt buộc đối với các bên trong giao dịch.

×