1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ THU HỒNG
CÔNG CHỨNG CÁC VĂN BẢN
LIÊN QUAN ĐẾN TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2012
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ THU HỒNG
CÔNG CHỨNG CÁC VĂN BẢN
LIÊN QUAN ĐẾN TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG
Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Minh Tuấn
HÀ NỘI - 2012
3
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG CHỨNG VÀ
VIỆC CÔNG CHỨNG CÁC VĂN BẢN LIÊN QUAN
ĐẾN TÀI SẢN CỦA VỢ, CHỒNG
7
1.1.
Công chứng
7
1.1.1.
Khái niệm công chứng
7
1.1.2.
Công chứng viên
9
1.1.2.1.
Công chứng viên
9
1.1.2.2.
Vai trò của công chứng viên trong việc chứng nhận hợp đồng,
giao dịch
11
1.1.3.
Văn bản công chứng
14
1.1.3.1.
Khái niệm
14
1.1.3.2.
Đặc điểm của văn bản công chứng
15
1.1.3.3.
Giá trị pháp lý của văn bản công chứng
18
1.2.
Pháp luật Việt Nam về chế độ tài sản của vợ, chồng và việc
công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng
qua các giai đoạn
25
1.2.1.
Giai đoạn từ 1945 đến năm 1954
25
1.2.2.
Giai đoạn từ 1954 đến năm 1975
26
1.2.3.
Giai đoạn từ 1975 đến năm 2000
27
1.2.4.
Giai đoạn từ 2000 đến nay
31
4
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG TRONG VIỆC CÔNG CHỨNG CÁC VĂN BẢN
LIÊN QUAN ĐẾN TÀI SẢN CỦA VỢ, CHỒNG
34
2.1.
Một số quy định chung về công chứng các văn bản liên
quan đến tài sản của vợ chồng
34
2.1.1.
Thủ tục chung về công chứng hợp đồng, giao dịch
34
2.1.1.1.
Công chứng hợp đồng, giao dịch đã được soạn thảo sẵn
34
2.1.1.2.
Công chứng hợp đồng, giao dịch do công chứng viên soạn
thảo theo đề nghị của người yêu cầu công chứng
36
2.1.2.
Thời hạn và địa điểm công chứng
37
2.1.2.1.
Thời hạn công chứng
37
2.1.2.2.
Địa điểm công chứng
38
2.1.3.
Tiếng nói, chữ viết và việc ghi trang, tờ trong văn bản công chứng
39
2.1.4.
Sửa lỗi kỹ thuật trong văn bản công chứng
40
2.1.5.
Công chứng việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ giao dịch
40
2.1.6.
Người được đề nghị Tòa án tuyên bố văn bản công chứng
vô hiệu
41
2.2.
Thủ tục công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của
vợ chồng
41
2.2.1.
Tiếp nhận hồ sơ yêu cầu công chứng
42
2.2.1.1.
Yêu cầu về kiến thức pháp luật
42
2.2.1.2.
Yêu cầu về kỹ năng
51
2.2.2.
Soạn thảo các văn bản liên quan đến tài sản của vợ, chồng
hoặc kiểm tra nội dung dự thảo văn bản
77
2.2.2.1.
Soạn thảo các văn bản liên quan đến tài sản của vợ, chồng
theo đề nghị của người yêu cầu công chứng
77
2.2.2.2.
Kiểm tra dự thảo văn bản liên quan đến tài sản của vợ,
86
5
chồng do vợ chồng xuất trình
2.2.3.
Ký kết và công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của
vợ chồng
87
2.2.4.
Lưu trữ hồ sơ
91
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG CHỨNG CÁC
VĂN BẢN LIÊN QUAN ĐẾN TÀI SẢN CỦA VỢ,
CHỒNG THEO YÊU CẦU XÃ HỘI HÓA HOẠT ĐỘNG
CÔNG CHỨNG
93
3.1.
Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về công chứng các
văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng
93
3.2.
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về công chứng
các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng theo yêu cầu
xã hội hóa hoạt động công chứng
95
3.2.1.
Sửa đổi, bổ sung pháp luật về công chứng các văn bản liên
quan đến tài sản của vợ chồng
95
3.2.2.
Sửa đổi, bổ sung pháp luật hôn nhân và gia đình có liên
quan đến việc công chứng các văn bản liên quan đến tài sản
của vợ chồng
107
KẾT LUẬN
114
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
116
6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Bên cạnh việc ghi nhận vợ, chồng có quyền sở hữu tài sản chung,
pháp luật Việt Nam hiện hành còn ghi nhận quyền sở hữu tài sản riêng của
mỗi người. Một trong những cách thức mà vợ, chồng có thể thực hiện khi
định đoạt tài sản chung hoặc tài sản riêng là yêu cầu công chứng các văn bản
thỏa thuận liên quan đến tài sản của vợ, chồng. Theo quy định tại Điều 6 Luật
Công chứng năm 2006 thì:
1. Văn bản công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên
liên quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa
vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo
quy định của pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng,
giao dịch có thỏa thuận khác;
2. Văn bản công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết
sự, kiện trong văn bản công chứng không phải chứng minh, trừ
trường hợp bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu [42].
Do vậy, các văn bản thỏa thuận về tài sản của vợ, chồng được công
chứng là căn cứ pháp lý để vợ, chồng tiến hành việc sang tên trước bạ (đối với
tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng) và thực hiện quyền của
chủ sở hữu, sử dụng đối với tài sản.
Sở dĩ văn bản công chứng có giá trị chứng cứ và giá trị thi hành bởi
"Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tình hợp pháp
của hợp đồng, giao dịch khác bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải
công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng" [42 Điều 2].
Hơn nữa, khi chứng nhận các hợp đồng, giao dịch, cá nhân công chứng viên phải
"chịu trách nhiệm trước pháp luật về văn bản công chứng" [42, khoản 3 Điều 3].
7
Do vậy, để bảo đảm tính xác thực, tính hợp pháp của các hợp đồng, giao dịch;
bảo đảm giá trị thi hành, giá trị chứng cứ của các văn bản công chứng đòi hỏi
công chứng viên phải có kiến thức pháp luật chuyên sâu về nhiều lĩnh vực,
đặc biệt là lĩnh vực dân sự, hôn nhân gia đình, đất đai…, đồng thời phải có
những kỹ năng nghề nghiệp nhất định khi thực hiện việc công chứng. Nhìn bề
ngoài, hoạt động công chứng là hoạt động mang tính thủ tục, hình thức, nhưng
để giải quyết được các việc công chứng thì công chứng viên phải hoàn toàn
dựa trên các quy định của pháp luật nội dung. Đối với việc chứng nhận các
văn bản liên quan đến tài sản của vợ, chồng, công chứng viên phải hiểu biết
tường tận và vận dụng tốt các quy định của pháp luật về chế độ tài sản của vợ
chồng, đồng thời phải vận dụng tốt các kỹ năng nghề nghiệp, tuân thủ đúng
trình tự, thủ tục công chứng được quy định trong Luật Công chứng và các văn
bản pháp luật có liên quan.
Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng việc công chứng các văn bản liên quan
đến tài sản của vợ chồng ở nước ta thời gian qua đã có nhiều quan điểm, nhận
thức đánh giá khác nhau giữa các tổ chức hành nghề công chứng, giữa các
công chứng viên; và đến nay cũng chưa có sự hướng dẫn thống nhất từ phía
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điều đó dẫn đến tình trạng cùng một vụ
việc, có công chứng viên từ chối công chứng nhưng có thể lại có công chứng
viên khác thực hiện việc chứng nhận. Một trong những nguyên nhân dẫn đến
tình trạng đó là do Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Luật Công chứng và
các văn bản hướng dẫn thi hành các luật này về lĩnh vực công chứng các văn
bản liên quan đến tài sản của vợ chồng còn chưa đầy đủ, chưa cụ thể, chưa
theo kịp với sự phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện nền kinh tế thị
trường hiện nay.
Đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau
liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng, nhưng chưa có công trình nào
nghiên cứu sâu và toàn diện về công chứng các văn bản liên quan đến tài sản
của vợ chồng. Thực tiễn đòi hỏi phải làm sáng tỏ hơn căn cứ để công chứng
8
viên thực hiện việc chứng nhận các văn bản liên quan đến tài sản của vợ,
chồng; đồng thời thực tiễn cũng đặt ra yêu cầu phải có sự phân tích, đánh giá
các quy định pháp luật hiện hành về công chứng các văn bản liên quan đến tài
sản của vợ chồng và thực trạng áp dụng các quy định này, từ đó đưa ra được
giải pháp khắc phục những bất cập, thiếu sót và tiếp tục hoàn thiện pháp luật
về việc công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng theo chủ
trương xã hội hóa hoạt động công chứng của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài "Công chứng các văn bản liên quan đến tài
sản của vợ chồng" có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam đến nay, tuy đã có những công trình liên quan đến đề tài
luận văn nhưng hầu hết tập trung nghiên cứu về chế độ tài sản của vợ chồng
dưới các khía cạnh khác nhau, chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu
về việc công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng. Có thể kể
đến một số công trình như: Công trình khoa học đề tài cấp Viện (Viện Nghiên
cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp) với "Bình luận Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000"; TS. Nguyễn Ngọc Điện với "Bình luận khoa học Luật Hôn
nhân và gia đình Việt Nam"; Nguyễn Văn Cừ với đề tài luận án tiến sĩ năm
2005 "Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam" (Trường Đại học Luật Hà Nội); Trần Đức Hoài với đề tài luận văn thạc
sĩ năm 2006 "Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình
trong hoạt động sản xuất kinh doanh" (Trường Đại học Luật Hà Nội); Đinh
Hạnh Nga với đề tài luận văn thạc sĩ "Ảnh hưởng của Nho giáo đến các quy
định pháp luật Việt Nam về mối quan hệ giữa vợ và chồng" (Khoa Luật - Đại
học Quốc gia Hà Nội)… Ngoài ra, còn một số bài viết đăng trên Tạp chí Luật
học, Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí Nhà nước và pháp luật nghiên cứu,
đề xuất kiến nghị một số vấn đề liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng
như: "Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân" của Nguyễn Phương Lan, Tạp chí Luật học, số 6/2002; "Bàn thêm
9
về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo pháp luật hôn
nhân và gia đình hiện hành" của ThS Bùi Minh Hồng, Tạp chí Luật học, số
5/2003; "Chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng liên hệ từ pháp luật
nước ngoài đến pháp luật Việt Nam" của ThS Bùi Minh Hồng - Khoa Luật
dân sự, Đại học Luật Hà Nội, Tạp chí Luật học, số 11 (114) năm 2009…
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
thực hiện xã hội hóa hoạt động công chứng, vấn đề công chứng các văn bản
liên quan đến tài sản của vợ chồng cần được làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận
và thực tiễn, làm cơ sở cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật về công
chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận văn làm rõ nội dung các quy định của pháp luật về công chứng
các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng, thực tiễn thực hiện việc công
chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng, từ đó đánh giá, đưa ra
các kiến nghị, giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật liên
quan đến việc công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng
theo chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng mà Đảng và Nhà nước ta đã
đề ra trong giai đoạn hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Theo quy định của pháp luật dân sự hiện hành thì có nhiều văn bản có
liên quan đến tài sản của vợ, chồng. Tuy nhiên phạm vi nghiên cứu của đề tài
chỉ đề cập đến việc công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ
chồng được quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Luật Công
chứng và các văn bản hướng dẫn thi hành các luật trên gồm:
- Công chứng văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ, chồng
trong thời kỳ hôn nhân;
10
- Công chứng văn bản khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng;
- Công chứng văn bản nhập tài sản riêng của một bên vợ hoặc chồng
vào tài sản chung.
Ngoài ra, đề tài cũng đề cập đến hai loại văn bản phát sinh trong thực
tiễn hành nghề công chứng có liên quan đến tài sản của vợ, chồng được phần
lớn công chứng viên thực hiện việc chứng nhận là: văn bản xác nhận tài sản
riêng của vợ hoặc chồng và văn bản chia tài sản chung sau khi có bản án hoặc
quyết định công nhận thuận tình ly hôn đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án
nhân dân cấp có thẩm quyền.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước về xã hội hóa
hoạt động công chứng.
Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như: phương
pháp hệ thống, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp lịch sử,
phương pháp khảo sát thực tiễn, phỏng vấn chuyên gia…
5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu sâu về công chứng các
văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng.
- Luận văn đã phân tích, làm rõ quy trình công chứng các văn bản liên
quan đến tài sản của vợ chồng; chỉ ra và phân tích các yếu tố quy định và chi
phối việc công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng thể hiện
trong các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành, chỉ ra những điểm tiến bộ
so với các quy định trước đây và những điểm còn bất cập. Luận văn cũng đưa
ra những đánh giá, nhận định khách quan về thực trạng thực hiện việc công
chứng các văn bản liên quan đến tài sản vợ, chồng trong thực tiễn hoạt động
công chứng.
11
- Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn đưa ra được những kiến
nghị cụ thể về hoàn thiện pháp luật công chứng các văn bản liên quan đến tài
sản của vợ chồng cũng như các kỹ năng cần thiết bảo đảm cho công chứng
viên thực hiện tốt hơn vai trò là "thẩm phán phòng ngừa" của mình. Do vậy,
những kiến nghị luận văn đưa ra có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn đối
với hoạt động công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng.
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình
nghiên cứu hoàn thiện các quy định pháp luật, góp phần nâng cao hoạt động
công chứng của các tổ chức hành nghề công chứng ở Việt Nam.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu và học tập cho các học viên các lớp đào tạo nghiệp vụ công chứng, môn
học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam. Luận văn cũng được sử dụng làm
tài liệu tham khảo cho các công chứng viên khi thực hiện việc chứng nhận các
văn bản liên quan đến tài sản của vợ, chồng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về công chứng các văn bản liên quan đến
tài sản của vợ chồng.
Chương 2: Quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng trong việc
công chứng các văn bản liên quan đến tài sản của vợ chồng.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về công chứng các văn bản liên quan
đến tài sản của vợ chồng theo yêu cầu xã hội hóa hoạt động công chứng.
12
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG CHỨNG
VÀ VIỆC CÔNG CHỨNG CÁC VĂN BẢN
LIÊN QUAN ĐẾN TÀI SẢN CỦA VỢ, CHỒNG
1.1. CÔNG CHỨNG
1.1.1. Khái niệm công chứng
Công chứng là một hoạt động có liên quan đến quyền lực nhà nước.
Khái niệm công chứng ở nước ta lần đầu tiên được đề cập đến trong Thông tư
số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ Tư pháp hướng dẫn công tác công
chứng của nhà nước (dưới đây gọi là Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987),
theo đó "Công chứng nhà nước là một hoạt động của Nhà nước, nhằm giúp công
dân, các cơ quan, tổ chức lập và xác nhận các văn bản, sự kiện pháp lý, hợp pháp
hóa các văn bản, sự kiện đó, làm cho các văn bản, sự kiện đó có hiệu lực thực
hiện" [6]. Từ khái niệm trên cho thấy công chứng nhà nước là một hoạt động chỉ
do các cơ quan nhà nước thực hiện. Theo Công văn số 554/CV-CC ngày
10/7/1989 của Bộ Tư pháp về việc bổ sung một số điểm trong việc triển khai
thực hiện Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 và Thông tư số 858/QLTP
ngày 15/10/1987 thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện công chứng nhà
nước là Phòng công chứng nhà nước và Ủy ban nhân dân tỉnh (nơi chưa có
Phòng công chứng nhà nước) (mục II.2 "Về thẩm quyền thực hiện các việc làm
Công chứng nhà nước"). Khái niệm trên cũng chỉ rõ phạm vi công chứng nhà
nước bao gồm việc lập và xác nhận các văn bản, sự kiện pháp lý theo yêu cầu của
công dân, cơ quan, tổ chức và sau khi công chứng viên chứng nhận, các văn
bản, sự kiện đó có giá trị pháp lý được "hợp pháp hóa" và "có hiệu lực thực hiện".
Theo Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/2/1991 của Hội đồng Bộ trưởng
về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước (sau đây gọi là Nghị định số
45/HĐBT ngày 27/2/1991) thì:
13
Công chứng nhà nước là việc chứng nhận tính xác thực của
các hợp đồng và các giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội, góp phần phòng ngừa vi phạm pháp
luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa [10].
Từ khái niệm này cho thấy công chứng vẫn là hoạt động đặc thù chỉ
do nhà nước thực hiện, nhưng phạm vi công chứng đã thu hẹp lại, chỉ là việc
chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng và các giấy tờ theo quy định của
pháp luật.
Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 của Chính phủ về tổ chức và hoạt
động công chứng nhà nước (dưới đây gọi là Nghị định số 31/CP ngày
18/5/1996) đưa ra khái niệm công chứng như sau:
Công chứng là việc chứng nhận tính xác thực của các hợp
đồng và các giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là tổ chức), góp phần
phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa [11].
Như vậy, Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 đưa ra khái niệm "công
chứng" thay vì "công chứng nhà nước" như quy định tại các văn bản pháp luật
đã đề cập trước đó. Ngoại trừ điểm khác biệt đó, nội dung khái niệm "công
chứng" cũng tương tự như khái niệm "công chứng nhà nước" được nêu trong
Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/2/1991. Đến Nghị định số 75/2000/NĐ-CP
ngày 18/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực (sau đây gọi là
Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 18/12/2000) thì khái niệm "công chứng"
được ghi nhận tại khoản 1 Điều 2, theo đó:
Công chứng là việc Phòng Công chứng chứng nhận tính xác
thực của hợp đồng được giao kết hoặc giao dịch khác được xác lập
14
trong quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và các quan hệ xã hội
khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) và thực hiện các việc
khác theo quy định của Nghị định này [13].
Như vậy, từ những văn bản đầu tiên cho đến trước khi Luật Công chứng
ra đời, khái niệm công chứng luôn gắn liền với hoạt động của nhà nước, các
hoạt động công chứng đều do các Phòng công chứng nhà nước thực hiện và
công chứng là việc chứng nhận tính xác thực của các văn bản được xác lập.
Luật Công chứng được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày
29/11/2006, có hiệu lực từ ngày 01/7/2007 đã đưa ra khái niệm về công chứng
với nhiều điểm mới, theo đó: "Công chứng là việc công chứng viên chứng
nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác (sau đây gọi
là hợp đồng, giao dịch) bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải
công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng" [42, Điều 2].
Như vậy, Luật Công chứng với khái niệm nêu trên đã khẳng định chủ thể thực
hiện hành vi công chứng là công chứng viên chứ không phải là Phòng công
chứng như ghi nhận tại các văn bản quy phạm pháp luật trước đó. Công
chứng viên là chủ thể thực hiện việc "chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp
của hợp đồng, giao dịch" và việc chứng nhận đó được thực hiện theo quy định
của pháp luật hoặc theo yêu cầu tự nguyện của tổ chức cá nhân.
1.1.2. Công chứng viên
1.1.2.1. Công chứng viên
Xuất phát từ việc công chứng là một hoạt động góp phần phòng ngừa,
ngăn chặn vi phạm pháp luật, giúp cho việc giải quyết tranh chấp được thuận
lợi, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, các văn bản pháp luật
trước đây đều có những quy định mang tính chất "chuẩn hóa" đối với chức
danh công chứng viên như: công chứng viên phải là người có phẩm chất
chính trị, đạo đức tốt; đã tốt nghiệp đại học pháp lý (đại học luật) và được bồi
dưỡng về nghiệp vụ công chứng (mục II Thông tư số 574/QLTPK ngày
15
10/10/1987, Điều 14 của Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/2/1991, Điều 17
Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996, Điều 30 Nghị định số 75/2000/NĐ-CP
ngày 18/12/2000). Ngoài các tiêu chí trên, cùng với sự phát triển của hoạt
động công chứng, điều kiện để một người được bổ nhiệm công chứng viên
cũng ngày càng cao hơn. Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/2/1991 (Điều 14),
Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 (Điều 17), Nghị định số 75/2000/NĐ-CP
ngày 18/12/2000 (Điều 30) đều đòi hỏi ngoài các điều kiện đã nêu, một người
muốn được bổ nhiệm công chứng viên còn phải đáp ứng điều kiện có thời
gian công tác pháp luật từ 5 năm trở lên; Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày
18/12/2000 còn đòi hỏi công chứng viên được bổ nhiệm phải có chứng chỉ tốt
nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng. Mặt khác, các văn bản pháp luật về
công chứng trước đó cũng đã có những quy định về việc công chứng viên
phải hoạt động chuyên trách không được kiêm nhiệm các công việc khác
(mục II.5 Thông tư số 276/TT-CC ngày 20/4/1991 của Bộ Tư pháp hướng dẫn
về tổ chức và quản lý công chứng nhà nước; Điều 17 Nghị định số 31/CP
ngày 18/5/1996 và Điều 29 Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 18/12/2000).
Luật Công chứng đã có sự kế thừa và phát triển các quy định trước
đây về công chứng viên. Điều 7 Luật Công chứng quy định "Công chứng viên
là người có đủ tiêu chuẩn theo quy định của Luật này, được bổ nhiệm để hành
nghề công chứng" [42]. Khoản 1 Điều 13 Luật Công chứng quy định về tiêu
chuẩn công chứng viên là:
1. Công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, trung thành
với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo
đức tốt và có đủ các tiêu chuẩn sau đây thì được xem xét, bổ nhiệm
làm công chứng viên: a) Có bằng cử nhân luật; b) Có thời gian công
tác pháp luật từ năm năm trở lên tại các cơ quan, tổ chức; c) Có
Giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề công chứng; d) Đã qua
thời gian tập sự hành nghề công chứng; đ) Có sức khỏe bảo đảm
hành nghề công chứng [42].
16
Như vậy, ngoài các điều kiện đã được nêu tại các văn bản pháp luật
trước đó, một người để được bổ nhiệm làm công chứng viên theo quy định
của Luật Công chứng thì còn phải qua thời gian tập sự hành nghề công chứng
ít nhất là 12 tháng tại tổ chức hành nghề công chứng. Luật cũng quy định rõ
nội dung công việc mà người tập sự nghề công chứng phải làm trong thời gian
tập sự. Và công chứng viên phải hoạt động chuyên trách, phải "hành nghề tại
một tổ chức hành nghề công chứng" (điểm d khoản 2 Điều 22 Luật Công chứng).
Một trong những điểm rất mới của Luật Công chứng là công chứng
viên không bắt buộc phải là công chức nhà nước. Điều 22 Luật Công chứng
quy định công chứng viên có quyền lựa chọn tổ chức hành nghề công chứng.
Điều 23 Luật Công chứng quy định tổ chức hành nghề công chứng gồm có
Phòng công chứng và Văn phòng công chứng. Phòng công chứng do Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập, là đơn vị sự nghiệp thuộc Sở Tư pháp.
Văn phòng công chứng do công chứng viên thành lập, được tổ chức và hoạt
động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân (nếu Văn phòng công chứng do một
công chứng viên thành lập); được tổ chức và hoạt động theo loại hình công ty
hợp danh (nếu Văn phòng công chứng do hai công chứng viên trở lên thành
lập). Như vậy, công chứng viên là công chức hoặc viên chức nhà nước nếu
làm việc tại Phòng công chứng, không phải là công chức hay viên chức nhà
nước nếu làm việc tại các Văn phòng công chứng. Dù làm việc ở tổ chức hành
nghề công chứng nào và có là công chức, viên chức nhà nước hay không thì
địa vị pháp lý của các công chứng viên trong hành nghề công chứng là hoàn
toàn như nhau. Họ đều có quyền công chứng các loại hợp đồng, giao dịch như
nhau và các văn bản do họ chứng nhận có giá trị pháp lý như nhau.
1.1.2.2. Vai trò của công chứng viên trong việc chứng nhận hợp
đồng, giao dịch
Công chứng viên có vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động công
chứng. Tuy nhiên các văn bản pháp luật về công chứng trước đây chưa làm rõ
được vị trí của công chứng viên, thậm chí vai trò, vị trí của công chứng viên
17
bị lu mờ so với Phòng công chứng. Cách thức tổ chức Phòng công chứng nhà
nước trước đây khiến cho phần lớn người dân và các cơ quan, tổ chức coi
Phòng công chứng là chủ thể duy nhất của hoạt động công chứng, còn công
chứng viên chỉ là công chức làm việc trong Phòng công chứng giống như các
công chức làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước khác.
Điều 2 Luật Công chứng quy định "Công chứng là việc công chứng
viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch" [42].
Khi chứng nhận hợp đồng, giao dịch, công chứng viên phải tuân theo các
nguyên tắc hành nghề công chứng được quy định tại Điều 3 Luật Công chứng
như: tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; khách quan, trung thực; chịu trách
nhiệm trước pháp luật về văn bản công chứng; tuân theo quy tắc đạo đức hành
nghề công chứng. Như vậy chủ thể thực hiện việc công chứng nói chung và
thực hiện việc chứng nhận các văn bản liên quan đến tài sản của vợ, chồng
nói riêng là công chứng viên. Tuy nhiên trách nhiệm đặt lên vai các công
chứng viên là rất lớn bởi khi chứng nhận hợp đồng, giao dịch trong đó có các
văn bản liên quan đến tài sản của vợ, chồng, công chứng viên không chỉ đảm
bảo "tính xác thực" mà còn phải đảm bảo "tính hợp pháp" của các hợp đồng,
giao dịch đó. Bản thân công chứng viên phải chịu trách nhiệm về văn bản
công chứng do mình chứng nhận. Theo Giáo trình kỹ năng công chứng của
Học viện Tư pháp do Nhà xuất bản Tư pháp ấn hành năm 2010 thì:
Công chứng viên có vai trò rất quan trọng, không chỉ xác
lập hợp đồng, giao dịch về mặt hình thức phù hợp pháp luật mà còn
phải giải thích về pháp luật và tư vấn cho các bên về quyền và
nghĩa vụ của họ; bảo đảm các quy định bắt buộc của pháp luật phải
được tuân thủ; tư vấn cho các bên về những sự lựa chọn mà họ có
thể trong trường hợp các bên còn chưa thống nhất, hay nói cách
khác làm cho nội dung của hợp đồng, giao dịch phù hợp theo quy
định của pháp luật và đạo đức xã hội, và một vấn đề rất quan trọng
là làm cho các giao dịch thực tế đúng như quy định của pháp luật.
18
Nó cũng đòi hỏi công chứng viên phải xác định chính xác và khách
quan những người tham gia giao kết hợp đồng, giao dịch hoàn toàn
tự nguyện, không bị ép buộc, cưỡng ép, lừa dối [29, tr. 79].
Tính xác thực của hợp đồng, giao dịch được công chứng viên chứng
nhận là một yếu tố bảo đảm cho các hợp đồng, giao dịch đó có giá trị chứng
cứ. Mà nói đến chứng cứ trong hoạt động tố tụng là nói đến "những gì có
thật" và công chứng viên chỉ được chứng nhận "những gì có thật". Điều 3
Luật Công chứng cũng quy định công chứng viên phải "khách quan, trung
thực" khi thực hiện việc công chứng. Công chứng viên "có quyền từ chối
công chứng" nếu trong hồ sơ yêu cầu công chứng "có vấn đề chưa rõ" hoặc
"có sự nghi ngờ đối tượng của hợp đồng, giao dịch là không có thật" mà
người yêu cầu công chứng "không làm rõ được" hoặc sau khi công chứng
viên tiến hành xác minh hoặc yêu cầu giám định theo đề nghị của người yêu
cầu công chứng mà cũng "không làm rõ được" (khoản 4 Điều 35 Luật Công
chứng). Do vậy, các tình tiết, sự kiện trong các văn bản công chứng đã được
công chứng viên chứng nhận là những tình tiết, sự kiện có thực, khách quan,
đúng như được mô tả trong hợp đồng, giao dịch.
Khi chứng nhận hợp đồng, giao dịch, trong đó có các văn bản liên
quan đến tài sản của vợ, chồng, ngoài việc đảm bảo tính xác thực, công chứng
viên còn phải đảm bảo tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch đó. Đây chính
là điểm khác biệt giữa trường phái công chứng hệ Latine (công chứng nội
dung) và công chứng hệ Anglosason (trường phái công chứng hình thức). Đối
với công chứng hệ Anglosason, việc công chứng được giao cho các luật sư,
hộ tịch viên hoặc cố vấn pháp lý của nhà thờ thực hiện. Khi công chứng, họ
chỉ chú trọng đến tính xác thực về mặt hình thức như: nhận diện đúng khách
hàng, xác định đúng thời gian, địa điểm giao kết hợp đồng, ghi lại sự kiện
pháp lý hoặc thỏa thuận của các bên mà không quan tâm đến việc xác định
tình trạng pháp lý của đối tượng hợp đồng, không quan tâm đến việc thỏa
thuận của các bên yêu cầu công chứng có phù hợp hay trái với các quy định
19
của pháp luật…Do vậy, những hợp đồng, văn bản được lập và chứng nhận bởi
các luật sư, hộ tịch viên hoặc cố vấn pháp lý của nhà thờ mang lại sự an toàn
pháp lý không cao, không được coi là chứng cứ trước Tòa án mà chỉ được coi
là nguồn chứng cứ nên vẫn cần phải điều tra, xác minh. Trong công chứng hệ
Latine, công chứng viên chỉ chứng nhận các hợp đồng, giao dịch hợp pháp và
được từ chối công chứng đối với những hợp đồng, giao dịch bất hợp pháp.
Luật Công chứng của nước ta quy định công chứng viên khi chứng nhận hợp
đồng, giao dịch là chứng nhận "tính hợp pháp" của các hợp đồng, giao dịch
đó. Công chứng viên "có quyền từ chối công chứng" đối với những hợp đồng,
giao dịch "có điều khoản vi phạm pháp luật" sau khi công chứng viên đã chỉ rõ
cho người yêu cầu công chứng sửa chữa nhưng họ không sửa chữa (khoản 5
Điều 35 Luật Công chứng).
Theo Giáo trình kỹ năng công chứng của Học viện Tư pháp do nhà
xuất bản tư pháp ấn hành năm 2010 thì việc đảm bảo tính xác thực và tính
hợp pháp trong văn bản công chứng "chính là việc công chứng viên đảm bảo
an toàn pháp lý cho hợp đồng, giao dịch, hạn chế tranh chấp, đạt hiệu quả tích
cực về mặt kinh tế - xã hội" [29, tr. 179]. Và như vậy công chứng viên "đã
hoàn thành nhiệm vụ chính trị của một "thẩm phán phòng ngừa" đối với việc
"phòng ngừa những giao dịch, thỏa thuận không phù hợp với quy định của
pháp luật, tạo môi trường lành mạnh, trong sạch cho đời sống kinh tế, thương
mại, dân sự của xã hội" [29, tr. 179]. Và chính sự đảm bảo tính xác thực và
tính hợp pháp khi chứng nhận hợp đồng, giao dịch là một yếu tố quan trọng
làm nên giá trị pháp lý của văn bản công chứng.
1.1.3. Văn bản công chứng
1.1.3.1. Khái niệm
Theo Đại từ điển Tiếng Việt do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành
phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 2011 thì văn bản là "bản chép tay hoặc in ấn
với một nội dung nhất định, thường để lưu lại lâu dài" [59, tr. 1744]. Khoản 1
20
Điều 4 Luật Công chứng quy định về văn bản công chứng, theo đó văn bản
công chứng là "hợp đồng, giao dịch bằng văn bản đã được công chứng theo
quy định của luật".
Khác với các hợp đồng, giao dịch thông dụng, văn bản công chứng
bao gồm hai yếu tố. Một là nội dung của hợp đồng, giao dịch được thể hiện
trên giấy. Các nội dung này thể hiện ý chí, sự thỏa thuận của các bên khi tham
gia giao dịch. Công chứng viên có trách nhiệm kiểm tra nội dung của hợp
đồng, giao dịch để đảm bảo những nội dung đó không vi phạm pháp luật,
không trái đạo đức xã hội và công chứng viên sẽ thực hiện chứng nhận tính
hợp pháp, tính xác thực của các nội dung đó theo một trình tự thủ tục do pháp
luật qui định.
Yếu tố thứ hai trong văn bản công chứng là lời chứng của công chứng
viên. Theo quy định tại Điều 5 của Luật Công chứng thì lời chứng của công
chứng viên phải ghi rõ các nội dung sau: thời gian, địa điểm công chứng, họ,
tên công chứng viên, tên tổ chức hành nghề công chứng; chứng nhận người
tham gia hợp đồng, giao dịch hoàn toàn tự nguyện, có năng lực hành vi dân
sự, mục đích, nội dung của hợp đồng, giao dịch không vi phạm pháp luật,
không trái đạo đức xã hội, đối tượng của hợp đồng, giao dịch là có thật, chữ
ký trong hợp đồng, giao dịch là đúng chữ ký của người tham gia hợp đồng,
giao dịch. Sau những nội dung trên, công chứng viên ký và đóng dấu của tổ
chức hành nghề công chứng vào văn bản công chứng.
1.1.3.2. Đặc điểm của văn bản công chứng
Văn bản công chứng có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, văn bản công chứng có tính chính xác về thời gian, địa điểm
công chứng và chủ thể tham gia hợp đồng, giao dịch.
Thời gian công chứng phải chính xác ngày, tháng, năm; trong một số
trường hợp như công chứng di chúc hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu
công chứng, thời gian công chứng còn phải chính xác cả giờ, phút. Ngày,
21
tháng, năm chính xác vì đó là ngày, tháng, năm giao kết hợp đồng, giao dịch;
là ngày, tháng, năm công chứng viên ký, là ngày, tháng, năm văn bản công
chứng có hiệu lực. Ngày, tháng, năm trong lời chứng của công chứng viên ghi
bằng chữ. Ngoài ra, các số liệu trong văn bản công chứng, sau phần ghi bằng
số phải ghi bằng chữ để tránh sai lệch hoặc sửa chữa.
Chính xác về thời gian công chứng, văn bản công chứng còn phải
chính xác về địa điểm công chứng. Điều 5 Luật Công chứng quy định: "Lời
chứng của công chứng viên phải ghi rõ thời gian, địa điểm công chứng" [42].
Theo quy định tại Điều 39 Luật Công chứng về địa điểm công chứng thì việc
công chứng phải được thực hiện tại trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng.
Việc công chứng có thể được thực hiện ngoài trụ sở của tổ chức hành nghề
công chứng nếu người yêu cầu công chứng là người già yếu không thể đi lại
được, là người đang bị tạm giữ, tạm giam, đang thi hành án phạt tù hoặc có lý
do chính đáng khác không thể đến trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng.
Như vậy, cho dù việc công chứng có thể được thực hiện tại trụ sở hay ngoài
trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng nhưng trong mọi trường hợp văn
bản công chứng vẫn bắt buộc phải ghi rõ địa điểm công chứng.
Văn bản công chứng cũng thể hiện sự chính xác về chủ thể tham gia
hợp đồng, giao dịch (người yêu cầu công chứng). Theo quy định tại Điều 8
Luật Công chứng thì "người yêu cầu công chứng là cá nhân, tổ chức Việt Nam
hoặc cá nhân, tổ chức nước ngoài" [42]. Nếu người yêu cầu công chứng là tổ
chức thì việc yêu cầu công chứng được thực hiện thông qua người đại diện theo
pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền của tổ chức đó. Người yêu cầu công
chứng phải có năng lực hành vi dân sự, xuất trình đủ các giấy tờ cần thiết liên
quan đến việc công chứng và chịu trách nhiệm về tính chính xác, tính hợp pháp
của các giấy tờ đó. Một trong những hoạt động không thể thiếu của công chứng
viên trong quá trình giải quyết việc công chứng là phải kiểm tra, nhận dạng
người yêu cầu công chứng thông qua các giấy tờ tùy thân, để xác định được chủ
thể tham gia giao dịch có đủ điều kiện giao kết hợp đồng, giao dịch; xác định
22
được chủ thể đó trùng hợp với giấy tờ tùy thân và các giấy tờ khác có liên
quan đến việc công chứng mà họ đã cung cấp. Và theo quy định tại Điều 41
Luật Công chứng thì "người yêu cầu công chứng phải ký trước mặt công
chứng viên" [42]. Điều 5 Luật Công chứng cũng quy định lời chứng của công
chứng viên phải "chứng nhận người tham gia hợp đồng, giao dịch hoàn toàn
tự nguyện, có năng lực hành vi dân sự…, chữ ký trong hợp đồng, giao dịch là
đúng chữ ký của người tham gia hợp đồng, giao dịch" [42]. Như vậy, bất luận
vì lý do gì dẫn đến việc không chính xác về chủ thể tham gia hợp đồng, giao
dịch sẽ là nguyên nhân dẫn đến việc mất hiệu lực của văn bản công chứng.
Thứ hai, văn bản công chứng chính thức hóa, công khai hóa các sự
kiện pháp lý. Đặc điểm này được thể hiện rất rõ ngay từ những văn bản đầu
tiên quy định về hoạt động công chứng (Thông tư số 574/QLTPK ngày
10/10/1987), theo đó công chứng nhà nước là một hoạt động của Nhà nước
"nhằm giúp công dân, các cơ quan, tổ chức lập và xác nhận các văn bản, sự
kiện pháp lý, hợp pháp hóa các văn bản, sự kiện đó, làm cho các văn bản, sự
kiện đó có hiệu lực thực hiện" [6]. Ý chí của các bên phải được thể hiện rõ
trong văn bản công chứng vì đây sẽ là cơ sở cho việc thực hiện hoạt động
công chứng. Điều 5 Luật Công chứng quy định trong lời chứng của công
chứng viên phải chứng nhận việc "người tham gia hợp đồng, giao dịch hoàn
toàn tự nguyện" và "đối tượng của hợp đồng, giao dịch là có thật". Theo quy
định tại khoản 4 Điều 35 Luật Công chứng thì trong trường hợp có căn cứ cho
rằng "việc giao kết hợp đồng, giao dịch có dấu hiệu bị đe dọa, cưỡng ép" hoặc
"có sự nghi ngờ đối tượng của hợp đồng, giao dịch là không có thật" thì "công
chứng viên đề nghị người yêu cầu công chứng làm rõ hoặc theo đề nghị của
người yêu cầu công chứng, công chứng viên tiến hành xác minh hoặc yêu cầu
giám định; trường hợp không làm rõ được thì có quyền từ chối công chứng" [42].
Thứ ba, văn bản công chứng là những văn bản phù hợp với pháp luật,
đạo đức xã hội. Sự phù hợp của nội dung văn bản công chứng với pháp luật,
đạo đức xã hội là điều kiện cơ bản, quan trọng để văn bản công chứng đó có
23
giá trị pháp lý. Do vậy, khi thực hiện việc công chứng, công chứng viên có
trách nhiệm xem xét các nội dung của hợp đồng, giao dịch có phù hợp với các
quy định của pháp luật hiện hành và đạo đức xã hội hay không. Khoản 5 Điều 35
Luật Công chứng quy định:
Công chứng viên kiểm tra dự thảo hợp đồng, giao dịch; nếu
trong dự thảo hợp đồng, giao dịch có điều khoản vi phạm pháp luật,
trái đạo đức xã hội, đối tượng của hợp đồng, giao dịch không phù
hợp với thực tế thì công chứng viên phải chỉ rõ cho người yêu cầu
công chứng để sửa chữa. Trường hợp người yêu cầu công chứng không
sửa chữa thì công chứng viên có quyền từ chối công chứng [42].
Thứ tư, văn bản công chứng là văn bản tuân thủ đúng về mặt hình
thức. Văn bản công chứng phải đáp ứng các điều kiện của pháp luật về hình
thức để đảm bảo tính chính xác và giá trị pháp lý của văn bản công chứng (ví
dụ: vợ chồng thỏa thuận chia tài sản chung thì hình thức văn bản bắt buộc
phải là văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn
nhân mà không phải là một văn bản chuyển nhượng nào khác). Ngoài ra, văn
bản công chứng cũng phải tuân thủ các quy định về chữ viết, sửa lỗi kỹ thuật,
ghi số tờ, số trang trong văn bản, ký tên hoặc điểm chỉ…
Thứ năm, văn bản công chứng là văn bản tuân thủ các nguyên tắc, thủ
tục công chứng. Luật Công chứng đã có các quy định về các nguyên tắc, trình
tự, thủ tục công chứng. Và công chứng viên là người chịu trách nhiệm trước
pháp luật về văn bản công chứng nên việc tuân thủ các nguyên tắc, thủ tục
này đem lại sự an toàn pháp lý cho công chứng viên đồng thời bảo đảm tính
pháp lý cho văn bản mà công chứng viên chứng nhận, tránh được các tranh
chấp có thể xảy ra.
1.1.3.3. Giá trị pháp lý của văn bản công chứng
Giá trị pháp lý của văn bản công chứng nói chung và của các văn bản
liên quan đến tài sản của vợ, chồng được công chứng nói riêng có ý nghĩa
24
quyết định sự tồn tại của thiết chế công chứng trong đời sống xã hội. Tại sao
các hợp đồng, giao dịch, đặc biệt là các hợp đồng, giao dịch về bất động sản
cần phải được công chứng? Nói cách khác, các bên trong hợp đồng, giao dịch
có được lợi ích gì khi qua thủ tục công chứng?
Tại các nước có hệ thống công chứng Latine (Pháp, Bỉ, Tây Ban Nha,
Hà Lan, Italia…), văn bản công chứng có giá trị chứng cứ và giá trị thi hành.
Các hợp đồng, giao dịch đã được công chứng thì có hiệu lực thi hành đối với
các bên trong hợp đồng, giao dịch đó và có hiệu với người thứ ba. Tại Pháp,
nếu chủ nợ có giấy chứng nợ là một văn bản công chứng được lập dưới hình
thức bản gốc, trong đó có ghi một phần nợ có thực và đã đến hạn phải trả thì
chủ nợ không phải mất thời gian đi đòi nợ, không phải kiện ra tòa án để đòi
nợ mà có thể trực tiếp yêu cầu con nợ thanh toán. Chủ nợ chỉ cần cung cấp
cho nhân viên thừa phát lại một bản sao có hiệu lực thi hành để nhân viên này
tiến hành thủ tục thi hành (kê biên tài sản của con nợ). Như vậy, giá trị thi
hành của văn bản công chứng thể hiện ở việc nếu một bên không thực hiện
nghĩa vụ của mình thì bên kia không cần phải kiện ra tòa án mà chỉ cần xuất
trình văn bản hợp đồng, giao dịch đã được công chứng đó cho cơ quan có
thẩm quyền (ví dụ, thừa phát lại) để cưỡng chế thi hành. Theo quy định tại
Điều 1319 của Bộ luật Dân sự Pháp, người nào đưa ra một văn bản công
chứng có bề ngoài hợp thức thì không phải chứng minh tính xác thực của của
nội dung văn bản đó. Người nào muốn phản đối tính xác thực của văn bản thì
phải chứng minh được cái sai trong văn bản đó thông qua một thủ tục rất phức
tạp gọi là thủ tục khởi kiện về hành vi giả mạo giấy tờ. Các nước có hệ thống
công chứng Latine đều ghi nhận việc văn bản công chứng có giá trị chứng cứ;
các tình tiết, sự kiện đã ghi trong hợp đồng, giao dịch được coi là chứng cứ
hiển nhiên trước tòa, không cần phải xác minh. Người muốn phản đối đối văn
bản đó phải khởi kiện trước tòa án phải có phải xuất trình được chứng cứ
chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình. Và chỉ có tòa án mới có thẩm
quyền bác bỏ hiệu lực của văn bản công chứng nếu có đủ chứng cứ. Điều đó
25
cho thấy văn bản công chứng có vai trò phòng ngừa, bảo đảm an toàn pháp lý
cho các bên trong hợp đồng, giao dịch đồng thời hạn chế được rất nhiều các
vụ kiện tụng ra tòa án, gây tốn kém, lãng phí.
Trên cơ sở kế thừa các quy định của pháp luật về công chứng trước
đây và học hỏi kinh nghiệm các nước trên thế giới một cách có chọn lọc cho
phù hợp với điều kiện thực tế tại Việt Nam, Điều 6 của Luật Công chứng đã
quy định về giá trị pháp lý của văn bản công chứng, theo đó văn bản công
chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan; trong trường hợp bên có
nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa
án giải quyết theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia
hợp đồng, giao dịch có thỏa thuận khác. Văn bản công chứng có giá trị chứng
cứ; những tình tiết sự, kiện trong văn bản công chứng không phải chứng
minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu. Như vậy, hợp đồng, giao
dịch nói chung và các văn bản liên quan đến tài sản của vợ, chồng đã được
công chứng nói riêng (sau đây gọi là văn bản công chứng) sẽ có hai giá trị
pháp lý cơ bản sau đây:
Một là, văn bản công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết sự,
kiện trong văn bản công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa
án tuyên bố là vô hiệu.
Việc văn bản công chứng có giá trị chứng cứ đã được ghi nhận trong
các văn bản pháp luật trước đây về công chứng. Điều 1 Nghị định số
45/HĐBT ngày 27/02/1991 đã quy định: "Các hợp đồng và giấy tờ đã được
công chứng có giá trị chứng cứ" [10]. Điều 1 Nghị định số 31/CP ngày
18/05/1996 quy định: "Các hợp đồng và giấy tờ đã được Công chứng Nhà
nước chứng nhận hoặc Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền chứng thực có giá
trị chứng cứ, trừ trường hợp bị Tòa án nhân dân tuyên bố là vô hiệu" [11].
Khoản 2 Điều 14 Nghị định 75/2000/NĐ-CP ngày 14/03/2000 quy định: "Văn
bản công chứng, văn bản chứng thực có giá trị chứng cứ, trừ trường hợp được