Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngoài theo pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 94 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT








NGUYỄN THU HẰNG








ĐĂNG KÝ BẢO HỘ NHÃN HIỆU HÀNG HOÁ Ở
NƯỚC NGOÀI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC













HÀ NỘI - 2010



MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


MỞ ĐẦU
1


Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐĂNG KÝ BẢO HỘ
NHÃN HIỆU HÀNG HÓA Ở NƯỚC NGOÀI
5
1.1.
Nhãn hiệu hàng hóa và bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa
5
1.1.1.
Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa
5
1.1.2.
Các dấu hiệu cấu thành nhãn hiệu hàng hóa
6
1.1.3.
Các điều kiện để bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa
9
1.1.3.1.
Điều kiện chung đối với nhãn hiệu được bảo hộ
9
1.1.3.2.
Điều kiện về tính phân biệt
10
1.1.3.3.
Dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu
13
1.1.4.
Các loại nhãn hiệu hàng hóa
13
1.1.4.1.
Nhãn hiệu hàng hóa và nhãn hiệu dịch vụ
14

1.1.4.2.
Nhãn hiệu tập thể
15
1.1.4.3.
Nhãn hiệu chứng nhận
17
1.1.4.4.
Nhãn hiệu liên kết
18
1.1.4.5.
Nhãn hiệu nổi tiếng
20
1.1.5.
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa
23
1.1.6.
Ý nghĩa của việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa
25
1.1.6.1.
Đảm bảo quyền lợi hợp pháp, chính đáng cho chủ sở hữu
25


1.1.6.2.
Thúc đẩy sáng tạo và đổi mới kỹ thuật sản xuất, khuyến khích
cạnh tranh lành mạnh giữa các chủ thể trong nền kinh tế
26
1.1.6.3.
Góp phần nâng cao giá trị sản phẩm và giá trị của doanh nghiệp
27

1.1.6.4.
Bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người tiêu dùng
28
1.1.6.5.
Có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo hộ lợi ích quốc gia
28
1.2.
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngoài
30
1.2.1.
Định nghĩa
30
1.2.2.
Nguyên tắc bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngoài
30
1.2.2.1.
Nguyên tắc lãnh thổ
31
1.2.2.2.
Nguyên tắc nộp đơn đầu tiên
31
1.2.3.
Ý nghĩa của việc đăng ký nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngoài
33
1.2.3.1.
Đảm bảo cho doanh nghiệp một vị thế cạnh tranh vững
chắc trên thị trường quốc tế
34
1.2.3.2.
Tạo tiền đề thúc đẩy mạnh hơn hoạt động hợp tác sản xuất

kinh doanh với các doanh nghiệp nước ngoài
35
1.3.
Các văn bản pháp luật Việt Nam liên quan đến đăng ký
nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngoài
36
1.3.1.
Giai đoạn từ 1982 - 1996
36
1.3.2.
Giai đoạn từ 1996 - 2005
37
1.3.3.
Giai đoạn từ 2005 đến nay
38

Chương 2: MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CÁC QUY ĐỊNH
VỀ ĐĂNG KÝ BẢO HỘ NHÃN HIỆU HÀNG HÓA Ở
NƯỚC NGOÀI
39
2.1.
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa theo Công ước Paris
(đăng ký trực tiếp tại từng quốc gia)
39
2.2
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa theo Thỏa ước và Nghị
định thư Madrid
45



2.2.1.
Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu
46
2.2.2.
Nghị định thư Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu
51
2.3.
Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa vào Cộng đồng châu
Âu theo thể thức CTM (the community trade mark)
54

Chương 3: THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG ĐĂNG KÝ BẢO HỘ
NHÃN HIỆU HÀNG HÓA Ở NƯỚC NGOÀI VÀ CÁC
KIẾN NGHỊ
59
3.1.
Thực trạng về hoạt động đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng
hóa ở nước ngoài
59
3.1.1.
Số lượng đơn đăng ký và nhãn hiệu được bảo hộ ở nước
ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp
59
3.1.2.
Các dạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu
hàng hóa xảy ra thường xuyên đối với các doanh nghiệp
Việt Nam
66
3.2.
Hạn chế và nguyên nhân

70
3.2.1.
Ý thức của các doanh nghiệp trong việc chủ động đăng ký
bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngoài vẫn còn yếu kém
70
3.2.2.
Hiểu biết pháp luật về đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa
ở nước ngoài của các doanh nghiệp xuất khẩu còn hạn chế
71
3.2.3.
Một số quy định về pháp luật bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa
còn bất cập, chưa hợp lý
72
3.3.
Một số giải pháp nâng cao kết quả hoạt động đăng ký, bảo
hộ nhãn hiệu hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam ở
nước ngoài
72
3.3.1.
Về phía Nhà nước
72
3.3.2.
Về phía doanh nghiệp
75

KẾT LUẬN
84

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
87





1
MỞ ĐẦU

Sở hữu trí tuệ có vai trò quan trọng trong quá trình cải cách kinh tế và
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Vai trò này ngày càng được khẳng
định rõ ràng hơn trong nền kinh tế tri thức - một xu hướng của thời đại, và
Việt Nam cũng coi như một mục tiêu cho công cuộc phát triển, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước của mình. Chính vì vậy, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói
chung và bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa nói riêng đã và đang là mối quan tâm
hàng đầu của Nhà nước cũng như các doanh nghiệp Việt Nam.
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài luận văn
Tháng 11 năm 2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150
của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đánh dấu bước thành công to lớn
trong con đường hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Việt Nam vẫn đang
không ngừng nỗ lực khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế. Tuy
nhiên, hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ mang lại cho Việt Nam cũng như
các doanh nghiệp những cơ hội phát triển mạnh mẽ mà còn tiềm tàng những
thách thức lớn của nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt.
Bước vào sân chơi lớn WTO, các doanh nghiệp Việt Nam không khỏi
bỡ ngỡ với những luật định hà khắc. Một trong những luật chơi quan trọng là
về sở hữu trí tuệ, trong đó, nhãn hiệu hàng hóa là một yếu tố chủ chốt.
Những năm gần đây, bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa không còn xa lạ với các
doanh nghiệp Việt Nam, nhưng do nhận thức còn hạn chế nên việc đăng ký,
bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường nước
ngoài vẫn đang đứng trước những thách thức rất lớn và những điều kiện hết
sức mới mẻ. Không ít doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu ngơ ngác khi bị

chiếm đoạt nhãn hiệu hàng hóa hay xuất hiện hàng giả, hàng nhái trên thị
trường thế giới. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam khác rơi vào những vụ tranh

2
chấp "ngoài dự kiến" về quyền sở hữu trí tuệ, vi phạm quy định bảo hộ nhãn
hiệu hàng hóa với các doanh nghiệp, đối thủ nước ngoài khác. Một trong
những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này chính là nhận thức của doanh
nghiệp về sở hữu trí tuệ.
Vấn đề đặt ra là doanh nghiệp Việt Nam phải nhanh chóng khắc phục
được thực trạng và ngay lập tức chuẩn bị những bước đi cụ thể, nhằm chuẩn
bị cho việc cạnh tranh là một hậu quả tất yếu của quá trình hội nhập, coi đây
là một trong những bước thực hiện cam kết của Việt Nam khi đã gia nhập
WTO. Đăng ký, bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa chính là việc doanh nghiệp thực
hiện việc bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa cho sản phẩm, dịch vụ của chính mình,
bảo vệ và phát triển hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Về lâu dài, bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ trong đó có việc bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa có ý
nghĩa rất quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
cũng như thiết lập các mối quan hệ thương mại của Việt Nam trong quá trình
hội nhập quốc tế.
Về phía các cơ quan chức năng, các nhà quản lý, các đơn vị tư vấn, đại
diện về sở hữu trí tuệ của Việt Nam và của nước ngoài có hoạt động tại Việt
Nam cũng đã và đang cung cấp các sự hỗ trợ, các cơ chế, hoạt động tuyên
truyền hướng dẫn nhằm tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp. Vấn
đề quan trọng nhất vẫn là chính bản thân các doanh nghiệp; họ cần nhận thức
được đúng, đủ về tầm quan trọng của vấn đề để có thể lựa chọn được cho
mình sự hỗ trợ cần thiết nhất trong "thực đơn" những sự tư vấn, hỗ trợ, quản
lý về sở hữu trí tuệ hiện có. Mà một trong những nhận thức gần gũi, mang ý
nghĩa thực tiễn cao nhất các doanh nghiệp nói riêng và toàn xã hội nói chung -
khi tham gia vào nền kinh tế tri thức, cần được trang bị, chính là: nhận thức
về luật lệ, thủ tục tại những "sân chơi" mình sẽ tham gia.

Trước tình hình đó, xin được chọn đề tài: "Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu
hàng hóa ở nước ngoài theo pháp luật Việt Nam" để góp phần vào việc bổ

3
sung một góc nhìn, một ý kiến tư vấn giúp nâng cao nhận thức tự thân của
doanh nghiệp về sở hữu trí tuệ, từ "lát cắt" của một luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tìm hiểu một số quy định về quy trình, thủ tục đăng ký bảo
hộ nhãn hiệu hàng hóa ở một số thị trường nước ngoài. Bên cạnh đó, phân
tích thực trạng và những vấn đề còn vướng mắc của các doanh nghiệp kinh
doanh xuất khẩu Việt Nam trong việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa tại
thị trường nước ngoài. Đồng thời, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả của việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngoài của các
doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam
3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa tại một
số thị trường nước ngoài, một số quy định về mặt pháp lý của một số quốc gia
có quan hệ kinh tế thường xuyên với Việt Nam. Ngoài ra, luận văn cũng tìm
hiểu thực trạng của một số doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu có uy tín của
Việt Nam đã gặp khó khăn trong việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa tại
thị trường nước ngoài.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin, ứng dụng cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử
cùng với khoa học lý luận về nhà nước pháp luật.
Để thực hiện nghiên cứu đề tài, luận văn còn sử dụng nhiều phương
pháp nghiên cứu khoa học khác như: phương pháp phân tích, so sánh, tổng
hợp, thống kê.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội

dung của luận văn gồm 3 chương:

4
Chương 1: Những vấn đề lý luận về đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng
hóa ở nước ngoài.
Chương 2: Một số nội dung cơ bản của các quy định về đăng ký bảo
hộ nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngoài.
Chương 3: Thực trạng về hoạt động đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng
hóa ở nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam và các kiến nghị.


5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐĂNG KÝ
BẢO HỘ NHÃN HIỆU HÀNG HÓA Ở NƢỚC NGOÀI

1.1. NHÃN HIỆU HÀNG HÓA VÀ BẢO HỘ NHÃN HIỆU HÀNG HÓA
1.1.1. Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa
Thế giới bước vào nền kinh tế hội nhập kéo theo sự bùng phát không
ngừng của các nhãn hiệu sản phẩm và dịch vụ mới. Người tiêu dùng thế giới
đang đứng trước cơ hội lựa chọn các sản phẩm, dịch vụ vô cùng rộng lớn, đa
dạng. Tuy nhiên, thực tế, họ vẫn có thể nhận biết, phân biệt và quyết định tiêu
dùng được các sản phẩm, dịch vụ khác nhau chính là nhờ nhãn hiệu của hàng
hóa.Vì thế, ngày nay, hầu như không có nhà sản xuất nào lại lãng quên việc
tạo ra nhãn hiệu cho bất kỳ hàng hóa hay dịch vụ nào của họ trong bối cảnh
nền kinh tế cạnh tranh khốc liệt giữa hàng triệu những nhà sản xuất lớn nhỏ
trên toàn cầu với sự bùng nổ của vô vàn các loại hàng hóa cùng tính năng.
Vậy, nhãn hiệu hàng hóa là gì?
Theo Hiệp định TRIPs, nhãn hiệu hàng hóa là:
Bất kỳ một dấu hiệu hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào, có khả

năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với
hàng hóa hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác, đều có thể làm
nhãn hiệu hàng hóa. Các dấu hiệu đó, đặc biệt các từ, kể cả tên
riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố minh họa và tổ hợp các màu
sắc cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó phải có khả năng
được đăng ký là nhãn hiệu hàng hóa. Trường hợp dấu hiệu không
có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ liên quan, các thành
viên có thể quy định khả năng được đăng ký phụ thuộc vào tính

6
phân biệt thông qua việc sử dụng. Các thành viên có thể yêu cầu như
một điều kiện để được đăng ký là dấu hiệu phải nhận thức được [11].
Theo Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, định nghĩa về nhãn hiệu hàng
hóa cũng không có nhiều điểm khác biệt:
Nhãn hiệu hàng hóa được cấu thành bởi dấu hiệu bất kỳ
hoặc sự kết hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó có khả năng phân biệt
hàng hóa hoặc dịch vụ của một người với hàng hóa hoặc dịch vụ
của người khác, bao gồm từ ngữ, tên người, hình, chữ cái, tổ hợp
màu sắc, các yếu tố hình hoặc hình dạng của bao bì hàng hóa [10].
Như vậy, theo các quy định quốc tế, nhãn hiệu hàng hóa là bất kỳ một
dấu hiệu hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch
vụ của doanh nghiệp này với hàng hóa hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp khác.
Luật pháp Việt Nam quy định về nhãn hiệu hàng hóa có những điểm
cụ thể và thu hẹp hơn so với các hiệp định quốc tế. Theo quy định tại Luật Sở
hữu trí tuệ, nhãn hiệu hàng hóa là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch
vụ của tổ chức, cá nhân khác nhau [21].
Như vậy, khái niệm nhãn hiệu hàng hóa tại Luật Sở hữu trí tuệ được
định nghĩa theo tiêu chí chức năng của nhãn hiệu. Chúng ta có thể thấy chức
năng của nhãn hiệu là để phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở
khác nhau, do đó, dấu hiệu được sử dụng làm nhãn hiệu hàng hóa phải làm

cho người tiêu dùng dễ nhận biết, phân biệt được đó là hàng hóa, dịch vụ của
cơ sở sản xuất, kinh doanh nào. Vì vậy, các dấu hiệu này phải độc đáo, không
giống với bất cứ dấu hiệu nào của các cơ sở kinh doanh khác.
1.1.2. Các dấu hiệu cấu thành nhãn hiệu hàng hóa
Theo xu hướng quốc tế hiện nay thì các dấu hiệu có thể được đăng ký
làm nhãn hiệu hàng hóa rất phong phú, nó có thể cấu thành bởi dấu hiệu bất kỳ
hoặc là sự kết hợp bất kỳ của các dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa,

7
dịch vụ của cơ sở sản xuất kinh doanh này với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của
cơ sở sản xuất kinh doanh khác. Trên tinh thần của các Điều ước quốc tế, có thể
phân loại một số dấu hiệu hiện nay được dùng làm nhãn hiệu hàng hóa như sau:
 Dấu hiệu từ ngữ
Từ ngữ là dấu hiệu được dùng phổ biến nhất và chiếm số lượng lớn
trong thực tiễn bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa. Loại dấu hiệu này bao gồm:
- Nhãn hiệu là tên người: May Hồng Ngọc, Bông Bạch Tuyết
- Nhãn hiệu là tên địa danh: Bia Hà Nội, Xi Măng Bỉm Sơn
- Nhãn hiệu là tên sự vật: Bánh Kinh Đô, Diêm Thống Nhất
- Nhãn hiệu là tên tự đặt: Sony, Omo
- Nhãn hiệu là tên ghép: VINATABA, VINAMILK
 Dấu hiệu là chữ cái và con số
Dấu hiệu này bao gồm một hoặc nhiều chữ cái, một hoặc nhiều chữ số
hoặc kết hợp cả hai. Ở Việt Nam, không phải mọi chữ cái và con số đều được
thừa nhận là nhãn hiệu hàng hóa Các chữ cái đơn lẻ và không được cách
điệu thì thường được coi là không có khả năng phân biệt và do vậy không
được đăng ký làm nhãn hiệu hàng hóa. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 74
Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, các chữ số, chữ cái thuộc các ngôn ngữ không
thông dụng bị loại trừ. Tuy nhiên, các dấu hiệu này được bảo hộ với điều kiện
đã được sử dụng và được thừa nhận rộng rãi hoặc phải được thể hiện dưới
hình thức hình họa sáng tạo chứ không phải đơn thuần là các chữ in. Ví dụ:

"333", "IBM" hay chữ "M" được trình bày cách điệu của McDonald
 Dấu hiệu là hình vẽ
Dấu hiệu này bao gồm các hình họa, các nét vẽ, biểu tượng hoặc hình
họa hai chiều của hàng hóa hoặc bao bì. Pháp luật của nhiều nước trong đó có
Việt Nam không chấp nhận cho đăng ký các hình và hình học đơn giản như

8
hình chữ, hình vuông, hình tròn vì chúng bị coi là không có khả năng phân
biệt (Khoản 2 Điều 74 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005).
 Dấu hiệu là sự kết hợp các dấu hiệu từ ngữ, chữ cái, con số, hình vẽ
với nhau. Loại dấu hiệu này được sử dụng rộng rãi tại Việt Nam cũng như ở
các nước khác
 Dấu hiệu là các biểu tượng: bao gồm những biểu tượng vui, những
hình vẽ như biểu tượng "bò cười" sử dụng cho sản phẩm phomat
 Dấu hiệu tổ hợp màu sắc: Bao gồm các từ ngữ, hình ảnh và bất kỳ
sự kết hợp nào giữa chúng có màu sắc hoặc sự kết hợp màu sắc với các yếu tố
khác hoặc chỉ riêng màu sắc. Việc sử dụng các chữ cái, hình họa với màu sắc
thường làm tăng thêm tính phân biệt của chúng và thường dễ dàng được chấp
nhận đăng ký hơn. Hiệp định TRIPS và Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa
Kỳ đều quy định tổ hợp màu sắc là một loại dấu hiệu có thể đăng ký làm nhãn
hiệu hàng hóa. Tuy nhiên, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 lại không thừa nhận dấu
hiệu màu sắc có thể được đăng ký là nhãn hiệu hàng hóa mà chỉ xác định màu
sắc là phương thức thể hiện của các loại dấu hiệu khác. Vì vậy, trong thời gian
tới, pháp luật Việt Nam cần có sự bổ sung, sửa đổi hoàn thiện hơn đối với
việc cho phép tổ hợp màu sắc được đăng ký bảo hộ làm nhãn hiệu hàng hóa.
Trên đây là những dấu hiệu được sử dụng rộng rãi nhất trong các nhãn
hiệu hàng hóa. Tuy nhiên, hiện nay tại nhiều quốc gia nhất là những quốc gia
phát triển, những dấu hiệu mà con người có khả năng tri giác được đều có thể
sử dụng như là một nhãn hiệu hàng hóa. Vì vậy, bên cạnh những dấu hiệu
nhìn thấy được như từ ngữ, hình ảnh, màu sắc, sự kết hợp của các yếu tố này

thì những dấu hiệu nghe thấy được, ngửi thấy được như âm thanh, mùi vị
cũng đã được một số quốc gia bảo hộ như nhãn hiệu hàng hóa.
Hiện nay, các nhà sản xuất luôn tìm kiếm những nhãn hiệu mới lạ, độc
đáo và hấp dẫn cho sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của mình để tạo ấn tượng đến

9
công chúng và quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra thì việc công nhận, bảo hộ
nhãn hiệu hàng hóa tại các quốc gia khác là một xu thế tất yếu của thời đại.
Do vậy, theo chúng tôi thì pháp luật Việt Nam nên có quy định để bảo hộ cho
các loại dấu hiệu này nếu việc bảo hộ đó không trái với quy định của pháp
luật và ảnh hưởng đến quyền lợi của người khác.
1.1.3. Các điều kiện để bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa
Nhãn hiệu hàng hóa có ý nghĩa quan trọng, nhất là trong giai đoạn hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Việc lựa chọn sản phẩm thích hợp của người
tiêu dùng chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi uy tín của nhãn hiệu hàng hóa đồng
thời là uy tín của doanh nghiệp đó. Do vậy, hầu hết mọi doanh nghiệp đều có
nhu cầu sử dụng nhãn hiệu hàng hóa để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của mình
với hàng hóa, dịch vụ của người khác. Tuy nhiên, không phải tất cả những
nhãn hiệu đăng ký đều được pháp luật bảo hộ. Mà một nhãn hiệu chỉ được
chấp nhận bảo hộ nếu nó đáp ứng các quy định của pháp luật. Luật Sở hữu trí
tuệ quy định để đăng ký và bảo hộ như một nhãn hiệu hàng hóa thì nhãn hiệu
đó phải đáp ứng một số điều kiện sau:
1.1.3.1. Điều kiện chung đối với nhãn hiệu được bảo hộ
Theo quy định tại Điều 72 Luật Sở hữu trí tuệ, nhãn hiệu được bảo hộ
nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
- Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình
ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng
một hoặc nhiều mầu sắc;
- Có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu
với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác.

Như vậy, nếu như khái niệm nhãn hiệu tại Điều 4 mang tính mở thì tại
Điều này đã giới hạn phạm vi các dấu hiệu có thể được bảo hộ.

10
1.1.3.2. Điều kiện về tính phân biệt
Tính phân biệt là yêu cầu trước tiên cần phải có nếu một nhãn hiệu
hàng hóa muốn được đăng ký bảo hộ vì để thực hiện chức năng cơ bản là
phân biệt sản phẩm, dịch vụ của nhà sản xuất này với sản phẩm, dịch vụ của
nhà sản xuất khác thì nhãn hiệu hàng hóa phải có khả năng phân biệt.
Điều 15.1 Hiệp định TRIPS quy định bất kỳ một dấu hiệu nào có khả
năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hóa, dịch vụ
cùng loại của doanh nghiệp khác đều có thể làm nhãn hiệu hàng hóa.
Mục B điểm 2 Điều 6
quinquies
Công ước Paris quy định rằng nhãn hiệu
hàng hóa sẽ bị từ chối đăng ký nếu nhãn hiệu hàng hóa đó không hề có bất cứ
dấu hiệu phân biệt nào hoặc chỉ bao gồm toàn các dấu hiệu hoặc các chỉ dẫn
được sử dụng trong thương mại để chỉ chủng loại, chất lượng, số lượng, mục
đích sử dụng, giá trị, xuất xứ của một hàng hóa, hoặc thời gian sản xuất, hoặc
đã trở thành thông dụng trong ngôn ngữ hiện thời hoặc trong tập quán thương
mại lành mạnh và lâu đời tại nước có yêu cầu bảo hộ.
Theo Điều 74 Luật Sở hữu trí tuệ thì nhãn hiệu được coi là có khả
năng phân biệt nếu được tạo thành từ một hoặc một số yếu tố dễ nhận biết, dễ
ghi nhớ hoặc từ nhiều yếu tố kết hợp thành một tổng thể dễ nhận biết, dễ ghi
nhớ và không phải là các dấu hiệu bị loại trừ sau đây:
- Hình và hình học đơn giản, chữ số, chữ cái, chữ thuộc các ngôn ngữ
không thông dụng, trừ trường hợp các dấu hiệu này đã được sử dụng và thừa
nhận rộng rãi với danh nghĩa một nhãn hiệu. Các hình tròn, vuông, hình chữ
nhật đơn giản hoặc các chữ số 1, 2, 3, các chữ cái A, B, C hay chữ Lào,
Campuchia… sẽ không được đăng ký bảo hộ là nhãn hiệu hàng hóa. Tuy

nhiên, có những trường hợp ngoại lệ như nhãn hiệu "333" là nhãn hiệu bao
gồm các chữ số đơn thuần nhưng vẫn được bảo hộ vì đã được sử dụng và đã
được thừa nhận một cách rộng rãi.

11
- Dấu hiệu, biểu tượng quy ước, hình vẽ hoặc tên gọi thông thường
của hàng hóa, dịch vụ bằng bất kỳ ngôn ngữ nào đã được sử dụng rộng rãi,
thường xuyên, nhiều người biết đến. Hiện nay có nhiều dấu hiệu, biểu tượng,
quy ước đã được thừa nhận chính thức như các ký hiệu giao thông, năm vòng
tròn lồng vào nhau là biểu tượng cho các thế vận hội thể thao, hình chữ thập
đỏ biểu tượng cho ngành y tế… Các biểu tượng, quy ước này không thể được
bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu hàng hóa.
- Dấu hiệu chỉ thời gian, địa điểm, phương pháp sản xuất, chủng loại,
số lượng, chất lượng, tính chất, thành phần, công dụng, giá trị hoặc các đặc
tính khác mang tính mô tả hàng hóa, dịch vụ, trừ trường hợp dấu hiệu đó đã
đạt được khả năng phân biệt thông qua quá trình sử dụng trước thời điểm nộp
đơn đăng ký nhãn hiệu.
- Dấu hiệu mô tả hình thức pháp lý, lĩnh vực kinh doanh của chủ thể
kinh doanh. Chẳng hạn, "xây dựng" không thể được bảo hộ với tư cách là
nhãn hiệu hàng hóa cho các công ty hoạt động trong lĩnh vực xây dựng.
- Dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý của hàng hóa, dịch vụ, trừ trường hợp
dấu hiệu đó đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi với danh nghĩa một nhãn
hiệu hoặc được đăng ký dưới dạng nhãn hiệu tập thể hoặc nhãn hiệu chứng
nhận quy định tại Luật này;
- Dấu hiệu không phải là nhãn hiệu liên kết trùng hoặc tương tự đến
mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đã được đăng ký cho hàng hóa, dịch vụ
trùng hoặc tương tự trên cơ sở đơn đăng ký có ngày nộp đơn hoặc ngày ưu
tiên sớm hơn trong trường hợp đơn đăng ký được hưởng quyền ưu tiên, kể cả
đơn đăng ký nhãn hiệu được nộp theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;

- Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu
của người khác đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi cho hàng hóa, dịch vụ

12
trùng hoặc tương tự từ trước ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên trong trường
hợp đơn được hưởng quyền ưu tiên;
- Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu
của người khác đã đăng ký cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự mà
đăng ký nhãn hiệu đó đã chấm dứt hiệu lực chưa quá năm năm, trừ trường
hợp hiệu lực bị chấm dứt vì lý do nhãn hiệu không được sử dụng trong thời
hạn năm năm liên tục mà không có lý do chính đáng;
- Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu
được coi là nổi tiếng của người khác đăng ký cho hàng hóa, dịch vụ trùng
hoặc tương tự với hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng hoặc đăng ký
cho hàng hóa, dịch vụ không tương tự, nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể
làm ảnh hưởng đến khả năng phân biệt của nhãn hiệu nổi tiếng hoặc việc đăng
ký nhãn hiệu nhằm lợi dụng uy tín của nhãn hiệu nổi tiếng;
- Dấu hiệu trùng hoặc tương tự với tên thương mại đang được sử dụng
của người khác, nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể gây nhầm lẫn cho người
tiêu dùng về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ;
- Dấu hiệu trùng hoặc tương tự với chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ
nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể làm cho người tiêu dùng hiểu sai lệch về
nguồn gốc địa lý của hàng hóa;
- Dấu hiệu trùng với chỉ dẫn địa lý hoặc có chứa chỉ dẫn địa lý hoặc
được dịch nghĩa, phiên âm từ chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ cho rượu vang,
rượu mạnh nếu dấu hiệu được đăng ký để sử dụng cho rượu vang, rượu mạnh
không có nguồn gốc xuất xứ từ khu vực địa lý mang chỉ dẫn địa lý đó;
- Dấu hiệu trùng hoặc không khác biệt đáng kể với kiểu dáng công
nghiệp của người khác được bảo hộ trên cơ sở đơn đăng ký kiểu dáng công
nghiệp có ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên sớm hơn so với ngày nộp đơn,

ngày ưu tiên của đơn đăng ký nhãn hiệu.

13
Tóm lại, các quy định về khả năng phân biệt của nhãn hiệu trong Luật
Sở hữu trí tuệ khá chi tiết, đầy đủ, các nhà làm luật cũng đã ghi nhận trường
hợp khả năng phân biệt được của nhãn hiệu qua quá trình sử dụng.
1.1.3.3. Dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu
Điều 73 Luật Sở hữu trí tuệ quy định các dấu hiệu không được bảo hộ
với danh nghĩa nhãn hiệu, bao gồm:
- Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với hình quốc
kỳ, quốc huy của các nước;
- Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với biểu tượng,
cờ, huy hiệu, tên viết tắt, tên đầy đủ của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Việt Nam và tổ chức quốc tế, nếu không
được cơ quan, tổ chức đó cho phép;
- Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thật,
biệt hiệu, bút danh, hình ảnh của lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân của
Việt Nam, của nước ngoài;
- Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với dấu chứng
nhận, dấu kiểm tra, dấu bảo hành của tổ chức quốc tế mà tổ chức đó có yêu
cầu không được sử dụng, trừ trường hợp chính tổ chức này đăng ký các dấu
đó làm nhãn hiệu chứng nhận;
- Dấu hiệu làm hiểu sai lệch, gây nhầm lẫn hoặc có tính chất lừa dối
người tiêu dùng về nguồn gốc xuất xứ, tính năng, công dụng, chất lượng, giá
trị hoặc các đặc tính khác của hàng hóa, dịch vụ.
1.1.4. Các loại nhãn hiệu hàng hóa
Việc phân loại nhãn hiệu hàng hóa có ý nghĩa rất lớn, không chỉ về
mặt lý luận mà cả trong thực tiễn. Trước hết, phân loại nhãn hiệu hàng hóa


14
cho phép xác định đặc trưng của một loại nhãn hiệu hàng hóa - đặc trưng này
không chỉ ảnh hưởng tới yếu tố cảm nhận nhãn hiệu hàng hóa trong người tiê
dùng, tới tính chất của việc sử dụng nhãn hiệu hàng hóa mà còn ảnh hưởng tới
cả quá trình đăng ký nhãn hiệu hàng hóa đó [1]. Về cơ bản, các nước trên thế
giới thừa nhận một số loại nhãn hiệu sau:
1.1.4.1. Nhãn hiệu hàng hóa và nhãn hiệu dịch vụ
Trong các điều ước quốc tế như Hiệp định TRIPs, Công ước Paris,
Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ khi đề cập đến nhãn hiệu hàng hóa
đều có sự phân biệt nhất định giữa nhãn hiệu hàng hóa và nhãn hiệu dịch vụ.
Tuy nhiên, sự khác biệt giữa hai loại nhãn hiệu này chỉ ở chỗ nhãn hiệu hàng
hóa là những dấu hiệu phân biệt được gắn lên các sản phẩm hữu hình còn các
nhãn hiệu dịch vụ là những dấu hiệu phân biệt dành cho các sản phẩm vô
hình. Nhưng về mặt bản chất, hai loại nhãn hiệu này cơ bản giống nhau. Vì
nhãn hiệu dịch vụ cũng mang đầy đủ chức năng biểu hiện nguồn gốc và phân
biệt đối với dịch vụ khác giống như các chức năng tương tự của nhãn hiệu
hàng hóa đối với hàng hóa. Đồng thời trong hầu hết các hệ thống pháp luật
nhãn hiệu hàng hóa quốc gia hay quốc tế, nhãn hiệu dịch vụ được đăng ký,
gia hạn và hủy bỏ theo cùng một cách như nhãn hiệu hàng hóa và được
chuyển giao và cấp phép sử dụng theo cùng những điều kiện như nhãn hiệu
hàng hóa. Vì thế, các quy định điều chỉnh nhãn hiệu hàng hóa ở các nước
cũng được áp dụng, về nguyên tắc, giống hệt như nhãn hiệu dịch vụ.
Ở Việt Nam, trước đây, thuật ngữ nhãn hiệu dịch vụ được đề cập đến
trong Khoản 1 Điều 6, Chương II, Nghị định 63 của Chính phủ: "Nhãn hiệu
hàng hóa bao gồm cả nhãn hiệu dịch vụ". Tuy nhiên, đến Luật Sở hữu trí tuệ
năm 2005, các nhà làm luật không tách bạch giữa khái niệm nhãn hiệu hàng
hóa và nhãn hiệu dịch vụ mà quy định một cách khái quát: Nhãn hiệu là dấu
hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau.
Như vậy, trong khái niệm nhãn hiệu đã bao hàm cả nhãn hiệu dịch vụ.


15
1.1.4.2. Nhãn hiệu tập thể
Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu thuộc sở hữu bởi một tập thể mà bản
thân tập thể này không sử dụng nhãn hiệu nhưng mỗi thành viên của nó có
quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể đã đăng ký. Mỗi thành viên của tập thể
được sử dụng nhãn hiệu tập thể đó đối với hàng hóa, dịch vụ của riêng mình
nhưng phải tuân thủ quy chế do tập thể đưa ra. Vì vậy, chức năng của nhãn
hiệu tập thể là để thông báo cho công chúng biết về các đặc điểm đặc biệt
của các sản phẩm mang nhãn hiệu tập thể. Thông thường, quy chế sử dụng
nhãn hiệu tập thể phải có trong đơn xin đăng ký nhãn hiệu tập thể và bất kỳ
sự sửa đổi nào đối với quy chế này phải được thông báo cho cơ quan có
thẩm quyền đăng ký nhãn hiệu hàng hóa. Tại nhiều nước trên thế giới, đăng
ký nhãn hiệu tập thể có thể bị hủy bỏ nếu nhãn hiệu này trái với các điều
khoản của quy chế sử dụng hoặc nhãn hiệu này có thể gây nhầm lẫn cho
người tiêu dùng. Như vậy, nhãn hiệu tập thể đóng vai trò quan trọng trong
việc bảo vệ người tiêu dùng.
Các điều ước quốc tế về nhãn hiệu hàng hóa không đi sâu vào việc
quy định về nội dung của nhãn hiệu tập thể. Hiệp định TRIPS không có quy
định về khái niệm hay việc bảo hộ nhãn hiệu tập thể. Hiệp định thương mại
Việt Nam - Hoa Kỳ cũng chỉ quy định về nhãn hiệu tập thể như sau: "Nhãn
hiệu hàng hóa bao gồm cả nhãn hiệu dịch vụ, nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu
chứng nhận". Công ước Paris có quy định về nhãn hiệu tập thể tại Điều 7
bis
.
Theo đó, các nước thành viên của Liên minh phải có trách nhiệm chấp nhận
đơn đăng ký và bảo hộ các nhãn hiệu tập thể với chủ sở hữu là các tập thể tồn
tại hợp pháp theo pháp luật của các nước sở tại, cho dù các tập thể đó có trực
tiếp sở hữu các cơ sở công nghiệp và thương mại hay không. Mặc dù tổ chức
tập thể có thể không thành lập ở nước sở tại nhưng nước sở tại vẫn có trách
nhiệm cho đăng ký và bảo hộ nhãn hiệu tập thể miễn là sự tồn tại của tổ chức

tập thể đó không trái với pháp luật của nước sở tại. Đương nhiên, các nước

16
thành viên cũng có quyền từ chối nếu nhãn hiệu tập thể đó trái với lợi ích xã
hội. Nội dung và điều kiện bảo hộ sẽ được thực hiện theo pháp luật nước sở
tại. Như vậy, Công ước Paris cũng không đưa ra khái niệm cũng như cách
thức bảo vệ đối với nhãn hiệu tập thể.
Ở Việt Nam, nhãn hiệu tập thể được xem như là một nhãn hiệu hàng
hóa mới mẻ, chưa được quy định phổ biến và có rất ít nhãn hiệu tập thể được
đăng ký bảo hộ. Trước đây, nhãn hiệu tập thể không được quy định trong Bộ
luật Dân sự năm 1995 mà được đề cập đến trong Nghị định 63/CP ngày
24/10/1996 quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp và Thông tư 3055/TT-sở
hữu công nghiệp ngày 31/12/1996 của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi
trường về việc hướng dẫn thi hành các quy định về thủ tục xác lập quyền sở
hữu công nghiệp và một số thủ tục khác trong Nghị định 63/CP, theo đó nhãn
hiệu tập thể là nhãn hiệu hàng hóa được tập thể các cá nhân, pháp nhân hoặc
các chủ thể khác cùng sử dụng, trong đó mỗi thành viên sử dụng một cách độc
lập theo quy chế do tập thể đó quy định (Khoản 8 Điều 2 Nghị định 63/CP).
Đối với nhãn hiệu tập thể, quyền nộp đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ thuộc
về cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác cùng tuân theo quy chế sử dụng
nhãn hiệu hàng hóa tương ứng (điểm d khoản 2 Điều 14 Nghị định 63/CP).
Khi đăng ký nhãn hiệu tập thể, người nộp đơn phải nộp một bản quy chế sử
dụng nhãn hiệu tập thể đó cho cơ quan có thẩm quyền đăng ký (Điểm 8.1
Thông tư 3055/TT-SHCN).
Để phù hợp với điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Luật Sở hữu trí tuệ
đã định nghĩa nhãn hiệu tập thể theo tiêu chí về chức năng với danh nghĩa là
một nhãn hiệu hàng hóa đặc biệt, dùng để phân biệt hàng hóa/dịch vụ của các
thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hóa, dịch vụ của
tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó. Đặc biệt, dấu hiệu
chỉ nguồn gốc địa lý của hàng hóa, dịch vụ có thể được đăng ký dưới dạng

nhãn hiệu tập thể (điểm đ khoản 2 Điều 74). Đây chính là điểm mới của Luật

17
Sở hữu trí tuệ năm 2005, nó cho thấy quan niệm của chúng ta về nhãn hiệu
tập thể đã gần với quan niệm của các nước trên thế giới hơn.
1.1.4.3. Nhãn hiệu chứng nhận
Nhãn hiệu chứng nhận là một loại nhãn hiệu hàng hóa đặc thù mới
xuất hiện gần đây trong thực tiễn thương mại. Loại nhãn hiệu này chưa được
đề cập đến trong các điều ước quốc tế về nhãn hiệu hàng hóa, kể cả hiệp định
TRIPS. Tuy nhiên, người Mỹ lại rất quen thuộc với loại nhãn hiệu hàng hóa
này. Luật Nhãn hiệu hàng hóa năm 1946 của Mỹ qua nhiều lần sửa đổi, cùng
với tài liệu hướng dẫn chính thức đăng ký nhãn hiệu hàng hóa của Cục Sáng
chế và Nhãn hiệu hàng hóa Mỹ đề cập khá chi tiết về nhãn hiệu chứng nhận
và những đặc điểm của nó. Chính vì vậy mà Hiệp định thương mại Việt Nam -
Hoa Kỳ đã đề cập tới nhãn hiệu hàng hóa này nhưng mới chỉ quy định nhãn hiệu
chứng nhận là một trong những loại của nhãn hiệu hàng hóa mà chưa có bất
kỳ quy định nào về mặt khái niệm cũng như cơ chế bảo hộ đối với nhãn hiệu
chứng nhận.
Xét về bản chất, nhãn hiệu chứng nhận không phải là nhãn hiệu hàng
hóa. Chức năng chính của nhãn hiệu chứng nhận không phải là chức năng
phân biệt nguồn gốc của hàng hóa, dịch vụ. Nó cũng không dùng để phân biệt
hàng hóa/dịch vụ của chủ nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các
chủ thể cạnh tranh. Mục đích của nhãn hiệu chứng nhận là đảm bảo chất
lượng của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn phải đúng với yêu cầu của nhãn hiệu
chứng nhận đã được chỉ rõ trong đơn đăng ký. Người chủ nhãn hiệu chứng
nhận chỉ đơn thuần là người đứng ra đăng ký nhãn hiệu này và chỉ rõ nó nhằm
xác nhận một tiêu chuẩn nhất định, thường là tiêu chuẩn về chất lượng, nếu
không là đặc điểm về quy trình sản xuất hay sử dụng nhân công lao động.
Chủ nhãn hiệu chứng nhận phải có trách nhiệm kiểm tra chất lượng các sản
phẩm gắn nhãn hiệu chứng nhận của mình và chủ nhãn hiệu chứng nhận có

thể được hưởng phí thông qua việc cho phép các nhà sản xuất khác sử dụng

18
nhãn hiệu chứng nhận. Phạm vi sử dụng nhãn hiệu chứng nhận rất rộng, bao
gồm nhiều doanh nghiệp trong cùng một hiệp hội thậm chí không cùng một
hiệp hội nhưng thỏa mãn đầy đủ các điều kiện sử dụng nhãn do chủ sở hữu
nhãn đặt ra và được chủ nhãn đồng ý. Do đặc điểm này mà chủ nhãn hiệu
chứng nhận thường là các hiệp hội doanh nghiệp, các liên minh doanh nghiệp,
các cơ quan nhà nước hay chính bản thân nhà nước.
Trước khi Luật Sở hữu trí tuệ 2005 ra đời, Việt Nam chưa có các quy
định về loại nhãn hiệu này dù trên thực tế có rất nhiều các doanh nghiệp của Việt
Nam sử dụng. Ví dụ như: các nhãn hiệu thuộc dòng ISO - International Standard
Organisation (ISO 9001, ISO 9002, ISO 1400), hàng Việt Nam chất lượng cao
Để đáp ứng nhu cầu thực tiễn phát triển kinh tế, xã hội của đất nước,
để thực thi các cam kết quy định trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa
Kỳ, Luật Sở hữu trí tuệ 2005 lần đầu tiên đã ghi nhận sự tồn tại nhãn hiệu
chứng nhận:
Nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu
cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của
tổ chức, cá nhân đó để chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên
liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng hóa, cách thức cung cấp dịch
vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an toàn hoặc các đặc tính khác của
hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu [21, Khoản 18 Điều 4].
1.1.4.4. Nhãn hiệu liên kết
Đây là một khái niệm mới được đưa vào pháp luật về nhãn hiệu hàng
hóa của Việt Nam. Các điều ước quốc tế cũng như các quy định về nhãn hiệu
hàng hóa trong Hiệp định thương mại Việt Mỹ không có điều khoản nào đề
cập đến loại hình nhãn hiệu hàng hóa này.
Theo Nghị định số 06/2001/NĐ-CP ngày 01/02/2001 của Chính phủ
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 63/CP ngày 24/10/1996 của


19
Chính phủ quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp thì nhãn hiệu liên kết là
các nhãn hiệu hàng hóa tương tự với nhau do cùng một chủ thể đăng ký để
dùng cho các sản phẩm, dịch vụ cùng loại, tương tự với nhau hoặc có liên
quan tới nhau, và các nhãn hiệu hàng hóa trùng nhau do cùng một chủ thể
đăng ký để dùng cho các sản phẩm, dịch vụ tương tự với nhau hoặc có liên
quan tới nhau.
Khoản 19 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ cũng quy định nhãn hiệu liên kết
là các nhãn hiệu do cùng một chủ thể đăng ký, trùng hoặc tương tự nhau dùng
cho sản phẩm, dịch vụ cùng loại hoặc tương tự nhau hoặc có liên quan với nhau.
Qua các khái niệm này, có thể thấy nhãn hiệu liên kết có các đặc
điểm sau:
- Các nhãn hiệu liên kết do cùng một chủ thể đăng ký bảo hộ;
- Nhãn hiệu liên kết bao gồm nhiều nhãn hiệu hàng hóa tương tự nhau
hoặc trùng nhau;
- Các nhãn hiệu này dùng cho các sản phẩm, dịch vụ cùng loại, tương
tự với nhau hoặc có liên quan tới nhau.
Như vậy, nhãn hiệu liên kết có thể được chia thành hai loại. Loại thứ
nhất là các nhãn hiệu hàng hóa tương tự nhau được một chủ thể đăng ký dùng
cho các hàng hóa, dịch vụ cùng loại, tương tự với nhau hay có liên quan tới
nhau. Loại thứ hai là các nhãn hiệu hàng hóa giống hệt nhau được một thể đăng
ký dùng cho sản phẩm, dịch vụ tương tự nhau hoặc có liên quan tới nhau.
Việc đăng ký nhãn hiệu liên kết mang lại lợi thế cho chủ sở hữu nhãn
hiệu, đó là được độc quyền sử dụng dấu hiệu có khả năng phân biệt cho nhiều
loại hàng hóa, dịch vụ không cùng nhóm của mình nếu hàng hóa, dịch vụ đó
có liên quan với nhau. nhãn hiệu liên kết còn tạo điều kiện cho người tiêu
dùng một sự liên tưởng là các hàng hóa, dịch vụ này có cùng một nguồn gốc

20

xuất xứ. Như vậy, chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hóa không phải đầu tư nhiều
tiền của vào hoạt động quảng cáo, xây dựng niềm tin đối với khách hàng.
Tuy nhiên, việc đăng ký nhãn hiệu liên kết cũng có nhược điểm của
nó là nếu có một sản phẩm mang nhãn hiệu bị mất uy tín thì cũng kéo theo
các nhãn hiệu tương tự hoặc có liên quan khác cũng mất uy tín theo.
1.1.4.5. Nhãn hiệu nổi tiếng
Nhãn hiệu nổi tiếng là một loại nhãn hiệu hàng hóa được nhiều người
tiêu dùng trên thế giới biết đến, nó chiếm lĩnh thị trường rộng lớn, vượt ra
khỏi phạm vi của quốc gia sản xuất ra loại hàng hóa sản phẩm đó. Một nhãn
hiệu nổi tiếng là tài sản vô giá của chủ nhãn hiệu. Bởi vì nó không chỉ thực
hiện tốt chức năng phân biệt của một nhãn hiệu thông thường mà còn là lời
cam kết về chất lượng và những phẩm chất khác của sản phẩm, của nhà sản
xuất đối với người tiêu dùng. Cũng chính vì vậy nên tình trạng nhãn hiệu nổi
tiếng bị sao chép, bị làm nhái diễn ra trên khắp thế giới. Vì thế, vấn đề bảo
hộ nhãn hiệu nổi tiếng được đặt ra theo cách thức đặc biệt hơn so với nhãn
hiệu thông thường trong các điều ước quốc tế cũng như trong hệ thống pháp
luật của các nước [16].
Mặc dù đã được biết đến từ rất lâu, song cho đến nay cách hiểu về
nhãn hiệu nổi tiếng vẫn còn đang rất khác nhau trong các điều ước quốc tế
cũng như trong pháp luật các nước. Công ước Paris năm 1883 lần đầu tiên
đề cập đến nhãn hiệu nổi tiếng tại Điều 6bis bằng cách quy định nghĩa vụ bắt
buộc của các quốc gia thành viên trong việc từ chối hay hủy bỏ mọi sự đăng
ký cũng như ngăn cấm mọi sự sử dụng của nhãn hiệu hàng hóa mà nó được
coi là sự sao chép, một sự bắt chước, một bản dịch hoặc có thể gây nhầm lẫn
với một nhãn hiệu nổi tiếng; và quy định về khoảng thời gian cho phép chủ
sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền hủy bỏ sự
đăng ký đối với những nhãn hiệu xâm phạm. Tuy nhiên, Công ước lại không

×