Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Đăng ký giao dịch bảo đảm-từ thực tiễn hoạt động của ngân hàng techcombank

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 101 trang )



1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




TRẦN VIỆT HÙNG





ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM - TỪ THỰC TIỄN
HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG TECHCOMBANK




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC







HÀ NỘI - 2014




2



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




TRẦN VIỆT HÙNG







ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM - TỪ THỰC TIỄN
HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG TECHCOMBANK

Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC





Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Đức Long





3

Hà nội - 2014



4




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN



Trần Việt Hùng




5
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các bảng


Danh mục các sơ đồ


MỞ ĐẦU
1


Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH
BẢO ĐẢM
6
1.1.
Khái niệm, đặc điểm và phân loại giao dịch bảo đảm
6
1.1.1.
Khái niệm và đặc điểm giao dịch bảo đảm
6
1.1.2.
Phân loại giao dịch bảo đảm
11
1.2.
Khái niệm, đặc điểm, mục đích, vai trò của đăng ký giao dịch
bảo đảm
14
1.2.1.
Khái niệm đăng ký giao dịch bảo đảm
14
1.2.2.
Đặc điểm của đăng ký giao dịch bảo đảm
16
1.2.3.
Mục đích của đăng ký giao dịch bảo đảm
16
1.2.4.
Vai trò của đăng ký giao dịch bảo đảm
21
1.3.

Khái quát về đăng ký giao dịch bảo đảm trên thế giới
22

Chương 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH
BẢO ĐẢM
25
2.1.
Khái quát về sự hình thành và phát triển của pháp luật Việt
Nam về đăng ký giao dịch bảo đảm
25


6
2.2.
Đăng ký giao dịch bảo đảm theo pháp luật Việt Nam hiện nay
28
2.2.1.
Giới thiệu về mô hình hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm
theo pháp luật Việt Nam hiện nay
28
2.2.2.
Nguyên tắc đăng ký giao dịch bảo đảm
29
2.2.3.
Các trường hợp đăng ký giao dịch bảo đảm và nội dung đăng
ký giao dịch bảo đảm
30
2.2.4.
Thẩm quyền đăng ký giao dịch bảo đảm
35

2.2.5.
Trình tự, thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm
38
2.2.6.
Thời điểm đăng ký và thời hạn có hiệu lực của đăng ký giao
dịch bảo đảm
49
2.2.7.
Giá trị pháp lý của việc đăng ký giao dịch bảo đảm
50
2.2.8.
Các trường hợp từ chối đăng ký, đăng ký thay đổi và xóa
đăng ký giao dịch bảo đảm
51
2.2.9.
Cung cấp thông tin và giá trị pháp lý của thông tin được cung cấp
55

Chương 3: THỰC TIỄN ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM
TECHCOMBANK VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN CÁC
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH
BẢO ĐẢM
58
3.1.
Tổng quan về ngân hàng Techcombank
58
3.1.1.
Lịch sử hình thành và phát triển
58
3.1.2.

Cơ sở khi thực hiện hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm tại
Techcombank
60
3.2.
Thực tiễn thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm tại
Techcombank
52
3.2.1.
Đánh giá thực trạng hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm tại
Techcombank từ 2010 đến nay
52
3.2.2.
Những hạn chế cần khắc phục
64


7
3.2.3.
Sự bất cập trong việc tiến hành đăng ký giao dịch bảo đảm
của Techcombank
65
3.2.4.
Nguyên nhân của hạn chế trong hoạt động đăng ký giao dịch
bảo đảm của Techcombank
70
3.3.
Hoàn thiện pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm nhìn từ
thực tiễn đăng ký giao dịch bảo đảm Techcombank
72
3.3.1.

Hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về đăng ký
giao dịch bảo đảm
72
3.3.2.
Các giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật đăng ký giao dịch
bảo đảm
75

KẾT LUẬN
84

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
85


8


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
3.1
Đăng ký giao dịch bảo đảm của Techcombank từ năm
2010 đến nay
62





DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ

Số hiệu
sơ đồ
Tên sơ đồ
Trang
3.1
Mô hình tổ chức của Techcombank
59




9
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Giao dịch bảo đảm là một thiết chế ra đời khá sớm ở nhiều quốc gia
có hệ thống pháp luật phát triển trên thế giới. Thiết chế này được xây dựng đã
tạo ra một hành lang pháp lý an toàn cho hoạt động tín dụng nói chung và sự
phát triển của nền kinh tế nói riêng góp phần không nhỏ vào sự ổn định của
các quan hệ dân sự, kinh tế, giải quyết các tranh chấp phát sinh từ việc không
thực hiện hoặc có thực hiện nhưng không đúng nghĩa vụ dân sự của bên có
nghĩa vụ. Việc xác lập các giao dịch bảo đảm luôn hướng tới mục tiêu bảo vệ
quyền lợi của các bên tham gia giao dịch, đặc biệt bên có quyền có cơ chế xử
lý tài sản mà bên có nghĩa vụ dùng để bảo đảm.
Nền kinh tế, xã hội phát triển đòi hỏi hệ thống đăng ký giao dịch bảo
đảm phải thực sự hiện đại, khoa học. Khi giao dịch bảo đảm được đăng ký

chính xác, thuận lợi với chi phí đăng ký hợp lý thì chi phí giao dịch (gồm chi
phí về thời gian, công sức, tiền của ) trong xã hội sẽ ở mức thấp, nhờ đó, tính
cạnh tranh của nền kinh tế sẽ tăng cao. Mặt khác, nếu giao dịch bảo đảm được
đăng ký và công khai hóa, thì sẽ hạn chế được những tranh chấp phát sinh do
các tổ chức, cá nhân chủ động tiếp cận với thông tin về tình trạng pháp lý của
tài sản bảo đảm trước khi ký kết, thực hiện các giao dịch có liên quan đến tài
sản đó. Bên cạnh đó, thông qua hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm, Nhà
nước sẽ có được những thông tin cần thiết phục vụ cho quá trình hoạch định
các chính sách mang tính vĩ mô, đặc biệt liên quan trực tiếp đến chính sách
bảo đảm an toàn tín dụng trong hệ thống ngân hàng. Hệ thống đăng ký giao
dịch bảo đảm được vận hành hiệu quả sẽ khuyến khích hoạt động cho vay
phục vụ nhu cầu vốn trong xã hội, nhờ đó nguồn vốn trong xã hội sẽ được


10
luân chuyển liên tục, khắc phục tình trạng khan hiếm vốn và mất cân đối về
nhu cầu vốn giữa các thành phần kinh tế.
Một trong những yêu cầu đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội là việc
dùng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ không được ảnh hưởng trực tiếp
đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt của bên bảo đảm, bởi mục
đích chính của giao dịch bảo đảm hiện đại, đó là vừa giúp các giao dịch được
an toàn, vừa thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội. Thông qua đăng ký giao dịch
bảo đảm, bên bảo đảm vừa đạt được mục đích dùng tài sản để bảo đảm việc
thực hiện nghĩa vụ, vừa duy trì được hoạt động sản xuất - kinh doanh của
mình. Chính nguồn lợi thu được từ việc khai thác tài sản bảo đảm sẽ giúp bên
nhận bảo đảm từng bước thu hồi vốn, tái đầu tư và thanh toán được các khoản
nợ cho bên nhận bảo đảm.
Chính do tầm quan trọng của giao dịch bảo đảm mà trong thời gian qua
Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản pháp luật trực tiếp điều chỉnh vấn đề
này, đơn cử Nghị định số 163/2006/NĐ-CP về Giao dịch bảo đảm; Nghị định

số 11/2012/NĐ-CP về sửa đổi bổ sung Nghị định số 163/2006/NĐ-CP về
Giao dịch bảo đảm; Nghị định số 83/2010/NĐ-CP về Đăng ký giao dịch bảo
đảm; Thông tư liên tịch số 20/2011/TTLT-BTP-BTNMT hướng dẫn về đăng
ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất; Thông tư số
05/2011/TT-BTP Hướng dẫn một số vấn đề về đăng ký, cung cấp thông tin về
giao dịch bảo đảm, Hợp đồng, thông báo, về việc kê biên tài sản thi hành án
theo phương thức trực tiếp, bưu điện, fax, thư điện tử, tại trung tâm đăng ký
giao dịch, tài sản của Cục quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp
Ngoài ra, trên thực tế việc đăng ký giao dịch bảo đảm còn phụ thuộc vào đối
tượng đăng ký giao dịch bảo đảm được điều chỉnh pháp luật chuyên ngành,
đặc biệt là những tài sản thường xuyên tham gia giao dịch với các tổ chức tín
dụng như quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất; ô
tô, tàu bay, tàu biển Thực hiện luận văn "Đăng ký giao dịch bảo đảm - Từ


11
thực tiễn hoạt động của Ngân hàng Techcombank", học viên mong muốn
đóng góp một phần nhỏ của mình nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận từ
góc độ thực tiễn đăng ký giao dịch bảo đảm của các tổ chức tín dụng nói
chung và của Techcombank nói riêng. Đồng thời qua phân tích, nghiên cứu thực
tiễn áp dụng pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm phát hiện và chỉ ra những
điểm còn bất cập, vướng mắc, chưa thống nhất của các quy định pháp luật điều
chỉnh vấn đề này. Từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm bổ sung, hoàn thiện
các quy định của pháp luật đăng ký giao dịch bảo đảm tại Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay đã có một số công trình, bài báo về đăng ký giao dịch
bảo đảm dưới các góc độ pháp lý khác nhau, tiêu biểu như một số công trình,
bài báo như: Đăng ký giao dịch bảo đảm và thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử
lý tài sản đảm bảo trong pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, của
Phùng Bá Đáng, năm 2011; Pháp luật hiện hành về đăng ký các giao dịch bảo

đảm trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản, Luận văn thạc sĩ Luật học, của
Hoàng Thị Ngọc Phượng, năm 2009
Tuy nhiên, các công trình nêu trên chủ yếu đề cập các khía cạnh nói
chung về đăng ký giao dịch bảo đảm mà chưa có nghiên cứu chuyên sâu về
thực tiễn đăng ký giao dịch bảo đảm từ hoạt động của ngân hàng, đặc biệt
trong bối cảnh hệ thống ngân hàng đang tập trung vào công tác xử lý nợ xấu
và tái cơ cấu nghành ngân hàng nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của hệ thống
tài chính, tín dụng. Do đó, vấn đề này cần được tập trung nghiên cứu nhằm
khắc phục những vướng mắc, bất cập và hoàn thiện pháp luật là rất cần thiết.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Nội dung của luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề liên quan
đến các quy định về hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm, phương thức quản
lý và ý nghĩa của việc đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật


12
hiện hành. Qua đó có sự so sánh, đối chiếu với các quy định trước đây của
pháp luật Việt Nam và tham khảo một số quy định của pháp luật của một số
quốc gia về đăng ký giao dịch bảo đảm, nhằm chỉ ra những điểm cần học hỏi
để hoàn thiện hệ thống pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm ở Việt Nam.
Đồng thời qua nghiên cứu thực tiễn áp dụng việc đăng ký giao dịch bảo đảm
chỉ ra những bất cập, vướng mắc của quy định pháp luật về vấn đề này và đề
xuất giải pháp tháo gỡ.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về
đăng ký giao dịch bảo đảm, đồng thời tìm ra những điểm bất cập, chưa hợp lý,
chưa thống nhất của các quy định pháp luật.
Trên cơ sở phân tích nội dung và thông qua thực tiễn áp dụng pháp
luật về đăng ký giao dịch bảo đảm tại Techcombank, luận văn đưa ra một số
kiến nghị và đề xuất hướng sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện hơn các quy định

của pháp luật về vấn đề này.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước và pháp luật, luận văn sử dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Ngoài ra, trong quá trình
nghiên cứu đề tài, những phương pháp khoa học như: So sánh, phân tích,
tổng hợp, thống kê cũng được sử dụng để giải quyết những vấn đề mà luận
văn đặt ra.
6. Những điểm mới của luận văn
Luận văn có tham khảo kinh nghiệm một số quốc gia về đăng ký giao
dịch bảo đảm, thông qua đó đánh giá và kiến nghị một số vấn đề áp dụng
trong đăng ký giao dịch bảo đảm tại Việt Nam.


13
Luận văn phân tích những hạn chế, bất cập của những quy định pháp
luật về đăng ký giao dịch bảo đảm và thực trạng công tác đăng ký giao dịch
bảo đảm của Techcombank. Đưa ra một số kiến nghị giải pháp hoàn thiện
pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Với kết quả nghiên cứu của luận văn, tác giả hy vọng sẽ góp phần khái
quát và cung cấp cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn cho những người trực tiếp
làm công tác áp dụng pháp luật trong hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm.
Đồng thời giúp cho cá nhân, tổ chức tín dụng nắm được các quy định của
pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm để bảo vệ quyền và lợi ích của mình.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về đăng ký giao dịch bảo đảm.
Chương 2: Quy định pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm.

Chương 3: Thực tiễn áp dụng đăng ký giao dịch bảo đảm Techcombank
và hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm.



14
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ PHÂN LOẠI GIAO DỊCH BẢO ĐẢM
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm giao dịch bảo đảm
Trong đời sống hàng ngày, các giao dịch dân sự, phát sinh quyền và
nghĩa vụ tương ứng của các chủ thể tham gia quan hệ. Các bên tham gia giao
dịch phải chủ động thỏa thuận với nhau những biện pháp nhất định để đảm
bảo cho việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ, hưởng quyền cũng như đảm
bảo mục đích tham gia giao dịch sẽ đạt được. Do đó, Nhà nước sẽ ban hành
một định chế cho phép các bên trong giao dịch có thể lựa chọn các biện pháp
khác nhau để đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ, hưởng quyền của các bên
trong giao dịch, nếu bên nào vi phạm nghĩa vụ của mình thì sẽ bị áp dụng chế
tài mà các bên đã thỏa thuận để khắc phục hậu quả. Các giao dịch này được
gọi là các giao dịch được bảo đảm.
Giao dịch bảo đảm là một thiết chế ra đời khá sớm ở nhiều quốc gia
trên thế giới (như Mỹ, Canada, Nhật Bản và Hàn Quốc…). Kinh nghiệm của
các nước cho thấy, thiết chế này được xây dựng đã tạo ra một hành lang pháp
lý an toàn cho hoạt động tín dụng nói chung và sự phát triển của nền kinh tế
thị trường nói riêng; góp phần không nhỏ vào sự ổn định của các quan hệ dân
sự kinh tế, tránh các tranh chấp phát sinh từ việc không thực hiện hoặc có
thực hiện nhưng không đúng nghĩa vụ dân sự của bên có nghĩa vụ. Việc xác
lập các giao dịch bảo đảm luôn hướng tớ mục tiêu bảo vệ quyền lợi của các
bên tham gia giao dịch.

Ở các nước có pháp luật theo truyền thống án lệ (common law), khái
niệm giao dịch bảo đảm (secured transactions) được hiểu là toàn bộ các giao


15
dịch không phụ thuộc vào hình thức và tên gọi, có mục đích tạo lập một
quyền lợi được bảo đảm (secured interest) đối với tài sản riêng hoặc tài sản cố
định, bao gồm hàng hóa, giấy tờ (có giá) hoặc các tài sản vô hình khác; là
giao dịch được thiết lập thông qua một thỏa thuận bảo đảm (là thỏa thuận
trong đó quy định về hoặc tạo lập nên một lợi ích bảo đảm giữa chủ nợ và bên
bảo đảm). Giao dịch bảo đảm theo như cách hiểu này không bị giới hạn về
loại hình của giao dịch mà được xác định căn cứ vào mục đích của giao dịch.
Do đó, tất cả các giao dịch có biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo luật
dân sự truyền thống và các giao dịch có bảo lưu quyền sở hữu trong mua trả
chậm, trả dần… đều được xem là giao dịch bảo đảm. Và đối tượng của các
giao dịch này cũng rất phong phú, bao gồm cả động sản, bất động sản, tài sản
hữu hình và cả tài sản vô hình.
Ở các nước theo hệ thống common law, thường xây dựng các đạo luật
riêng biệt hoặc có những chế định quy định về giao dịch bảo đảm. Điển hình
cho trường hợp này là pháp luật về giao dịch bảo đảm của Hoa Kỳ, New
Zealand và phần lớn các bang của Canada. Theo đó thì các giao dịch bảo đảm
được phân ra thành các giao dịch bảo đảm bằng bất động sản và các giao dịch
bảo đảm bằng động sản. Tại Hoa Kỳ, các quy định về giao dịch bảo đảm bằng
bất động sản được quy định tập trung trong UCC (Uniform Commercial Code -
Bộ luật Thương mại thống nhất). Ngoài ra, còn có Đạo luật thống nhất về lợi
ích bảo đảm đối với đất đai và Đạo luật thống nhất về giao dịch đối với đất
đai cũng quy định về các giao dịch bảo đảm bằng bất động sản. Ở Canada,
bang New Brunswick ban hành riêng hai luật chuyên ngành điều chỉnh về
giao dịch bảo đảm, đó là Luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng động sản
và Luật về lợi ích bảo đảm liên quan đến đất đai. Đối với New Zealand cũng

đã xây dựng Đạo luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng động sản (Personal
Property Security Act) [4].


16
Cũng cần lưu ý, pháp luật về giao dịch bảo đảm của các quốc gia này
không bao gồm các quan hệ bảo đảm bằng đối nhân (bảo lãnh, tín chấp) mà
chỉ bao gồm các quan hệ bảo đảm bằng tài sản. Bởi vì, quan hệ bảo đảm mang
tính đối nhân được quan niệm là sự ghép nối giữa hai lợi ích bảo đảm: lợi ích
bảo đảm giữa chủ nợ với con nợ và lợi ích bảo đảm giữa con nợ với bên bảo
lãnh cho con nợ. Vì vậy, pháp luật các quốc gia này điều chỉnh quan hệ bảo
đảm mang tính đối nhân theo từng lợi ích được bảo đảm. Và cũng cần lưu ý
rằng, đối với giao dịch bảo đảm bằng bất động sản, ở các quốc gia này, chỉ
duy nhất được sử dụng biện pháp thế chấp.
Đối với các nước theo trường phái pháp luật thành văn (civil law), tiêu
biểu như Pháp, Đức, không có khái niệm giao dịch bảo đảm. Các giao dịch
được xem là có bảo đảm khi sử dụng các biện pháp bảo đảm cụ thể như cầm
cố, thế chấp, bảo lãnh. Các biện pháp này được quy định trong Bộ luật Dân sự
và các văn bản hướng dẫn thi hành [4].
Tại Việt Nam, về vấn đề giao dịch bảo đảm cũng nhận được sự quan
tâm của nhiều nhà nghiên cứu và có nhiều cách định nghĩa khác nhau do cách
tiếp cận của mỗi tác giả là khác nhau. Giao dịch bảo đảm là sự thỏa thuận giữa
bên bảo đảm với bên nhận bảo đảm, theo đó bên bảo đảm phải dùng tài sản của
mình để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ (tài sản này được gọi là tài sản
bảo đảm). Trường hợp bên có nghĩa vụ trong quan hệ chính không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng thỏa thuận, thì bên có quyền sẽ được xử lý tài sản
bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ, hay giao dịch bảo đảm là giao dịch nhằm bảo
đảm cho một quan hệ nghĩa vụ tài sản trong các quan hệ dân sự, thương mại…
Về mặt pháp luật, thuật ngữ "giao dịch bảo đảm" đã xuất hiện trong
Bộ luật Dân sự năm 1995. Tuy nhiên, khái niệm này lại không được định nghĩa

mà Bộ luật Dân sự này chỉ quy định về các biện pháp bảo đảm bao gồm: cầm cố,
thế chấp, bảo lãnh, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, tín chấp [32, Điều 234]. Khái niệm
này về mặt pháp lý được ghi nhận lần đầu tiên tại Nghị định 65/1999/NĐ-CP


17
ngày 19/11/1999 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm. Theo đó, Nghị định này
quy định: "Giao dịch bảo đảm là hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bằng tài
sản, theo đó, bên bảo đảm cam kết với bên nhận bảo đảm về việc dùng tài sản
bảo đảm để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự" [8, khoản 1 Điều 2]. Ngoài
các giao dịch trên, các giao dịch đặt cọc, ký cược, ký quỹ cũng được xác định
là giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên, các giao dịch này có nội dung đơn giản, dễ
hiểu, ít khi xảy ra tranh chấp, phương thức xử lý đơn giản nên không thuộc
đối tượng điều chỉnh của Nghị định này.
Bộ luật Dân sự năm 2005, khái niệm giao dịch bảo đảm đã được luật hóa.
Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: "Giao dịch bảo đảm là giao dịch dân sự do
các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy định về việc thực hiện biện pháp bảo đảm
được quy định tại Khoản 1 Điều 318 của Bộ luật này" [32, Điều 323]. Các biện
pháp bảo đảm đươ
̣
c quy đi
̣
nh ta
̣
i Bộ luật Dân sự năm 2005 bao gồm: cầm cố tài
sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, tín chấp [32, Điều 318].
Như vậy giao dịch bảo đảm theo pháp luật Việt Nam bao gồm cả các quan hệ
giao dịch bảo đảm mang tính đối nhân và quan hệ giao dịch bảo đảm bằng tài
sản và được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật dân sự.
Qua phân tích trên có thể thấy, pháp luật Việt Nam về giao dịch bảo

đảm khác với pháp luật các nước theo truyền thống luật án lệ ở chỗ các quan
hệ giao dịch bảo đảm mang tính đối nhân và các giao dịch bảo đảm về cầm cố
hay biện pháp khác đối với bất động sản cũng được điều chỉnh. Mặt khác
cũng thấy, pháp luật Việt Nam về giao dịch bảo đảm cũng có sự tương đồng
với các nước theo truyền thống luật thành văn ở chỗ xác định các biện pháp bảo
đảm cầm cố, thế chấp, bảo lãnh… là biện pháp bảo đảm của giao dịch bảo đảm.
Mặt khác, cũng có thể thấy, giao dịch bảo đảm có thể hiểu theo hai
cách khác nhau: giao dịch bảo đảm là giao dịch dân sự độc lập và giao dịch
bảo đảm cho một giao dịch dân sự. Với tư cách là giao dịch dân sự độc lập,
giao dịch bảo đảm có thể hiểu là giao dịch dân sự giữa các chủ thể pháp luật


18
dân sự, theo đó các chủ thể này thỏa thuận trên cơ sở pháp luật cho phép việc
sử dụng tài sản của mình để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ dân sự xác
định. Với tư cách là giao dịch dân sự bảo đảm cho một giao dịch dân sự, giao
dịch bảo đảm phải được hiểu là một giao dịch phát sinh do sự thỏa thuận hoặc
việc tuân theo pháp luật về việc sử dụng một trong các biện pháp bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ dân sự được pháp luật quy định để bảo đảm cho việc thực
hiện nghĩa vụ dân sự của một giao dịch đã được các bên xác lập. Bên bảo đảm
có thể là một trong các bên hoặc là bên thứ ba của giao dịch được bảo đảm.
Như vậy, có thể khẳng định giao dịch bảo đảm là công cụ hữu hiệu để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, quyền bình đẳng trước pháp luật của mọi
chủ thể khi tham gia giao dịch bảo đảm. Hơn nữa, giao dịch bảo đảm đã tạo
cơ sở pháp lý nhằm bảo vệ quyền tự do kinh doanh, tự do khế ước và tự do
hợp đồng, phát triển bền vững các quan hệ dân sự, kinh doanh và thương mại.
Mặt khác, pháp luật về giao dịch bảo đảm tạo điều kiện cho chủ nợ có bảo
đảm dễ dàng xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ thông qua các quy định về
xử lý tài sản bảo đảm rõ ràng, cụ thể.
Pháp luật về giao dịch bảo đảm còn góp phần tăng hiệu quả quá trình

thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô, thực hiện an toàn tín dụng, mở rộng tín
dụng và cải thiện phân bổ tín dụng, tối đa hóa tiềm năng kinh tế của các tài
sản xã hội thông qua việc sử dụng làm tài sản bảo đảm để tăng nguồn vốn,
phát triển các giao dịch dân sự, các quan hệ kinh doanh và thương mại. Pháp
luật về giao dịch bảo đảm đã và đang là động lực khuyến khích hoạt động cho
vay phục vụ nhu cầu vốn cho xã hội, nhờ đó nguồn vốn trong xã hội sẽ được
luân chuyển liên tục, khắc phục tình trạng khan hiếm vốn và sự mất cân đối
về nhu cầu giữa các thành phần kinh tế. Bên cạnh đó, với ưu điểm công khai,
minh bạch là tinh thần cơ bản được thể hiện trong các quy định về giao dịch
bảo đảm hiện nay, đã tác động tích cực đến sự phát triển bền vững của các


19
quan hệ dân sự, kinh doanh, thương mại, góp phần thúc đẩy tăng trưởng tín
dụng, qua đó phát huy tối đa mọi nguồn lực phục vụ sự phát triển của đất nước.
Có thể nói, hệ thống pháp luật về giao dịch bảo đảm của Việt Nam đã
từng bước được hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả trên thực tế, góp phần tạo
lập hành lang pháp lý an toàn cho quá trình luân chuyển dòng vốn, từ đó hạn
chế tranh chấp, giúp nâng cao chất lượng của môi trường kinh doanh và duy
trì sự ổn định của nền kinh tế.
1.1.2. Phân loại giao dịch bảo đảm
Việc phân loại giao dịch bảo đảm có thể dựa vào nhiều tiêu chí để
phân loại như căn cứ với đối tượng được sử dụng để bảo đảm, căn cứ vào
biện pháp bảo đảm được sử dụng…. Mỗi tiêu chí phân loại mang những ý
nghĩa xác định khác nhau, trong đó, các tiêu chí về đối tượng, tiêu chí về biện
pháp bảo đảm, tiêu chí về việc đăng ký giao dịch bảo đảm… có ý nghĩa thiết
thực nhất.
1.1.2.1. Căn cứ vào đối tượng bảo đảm
Đối tượng bảo đảm có thể là tài sản như vật, tiền, giấy tờ có giá. Và
đối tượng bảo đảm cũng có thể là sự bảo đảm của một bên thứ ba đối với

nghĩa vụ dân sự. Chính vì vậy, sẽ có giao dịch bảo đảm đối vật và giao dịch
bảo đảm đối nhân.
Giao dịch bảo đảm đối vật là giao dịch bảo đảm được xác lập dựa trên
việc sử dụng loại tài sản xác định để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ dân
sự. Tài sản này có thể thuộc sở hữu của các bên trong quan hệ nghĩa vụ, cũng
có thể là tài sản của một bên thứ ba có liên quan đến các bên trong quan hệ
nghĩa vụ và người này cam kết dùng tài sản này để bảo đảm cho việc thực
hiện nghĩa vụ dân sự của các bên trong quan hệ nghĩa vụ đó. Trong trường
hợp nghĩa vụ bị vi phạm, tài sản bảo đảm sẽ được xử lý theo thỏa thuận giữa
các bên hoặc theo quy định của pháp luật để bù đắp cho bên có quyền đã bị vi


20
phạm. Trong số các biện pháp bảo đảm đối vật, cầm cố và thế chấp là hai biện
pháp được sử dụng phổ biến nhất.
Giao dịch bảo đảm đối nhân là giao dịch bảo đảm có sự tham gia của
bên thứ ba, theo đó, bên thứ ba cam kết sẽ thực hiện thay nghĩa vụ hoặc bồi
thường cho bên có quyền nếu nghĩa vụ được bảo đảm bị vi phạm. Khác với
quan hệ bảo đảm đối vật như vừa nêu, quan hệ bảo đảm đối nhân không xác
định cụ thể tài sản bảo đảm. Đối tượng bảo đảm có thể là việc thực hiện nghĩa
vụ thay cho bên có nghĩa vụ hoặc đó có thể là tài sản của người bảo đảm.
1.1.2.2. Căn cứ vào biện pháp bảo đảm
Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005, hiện nay, có 07 (bảy)
biện pháp bảo đảm được quy định tại Khoản 1 Điều 318. Theo đó, các biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bao gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài
sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, tín chấp.
Giao dịch bảo đảm cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên
cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là
bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Yếu tố giao tài sản
là yếu tố bản chất phân biệt cầm cố tài sản với các biện pháp bảo đảm thực

hiện nghĩa vụ dân sự khác. Tài sản được giao cho bên nhận cầm cố chiếm
hữu, còn quyền được sử dụng tài sản này hay không do các bên thỏa thuận.
Việc giao tài sản cho bên nhận cầm cố là bắt buộc và đây là biện pháp bảo
đảm có hiệu quả nhất, đáng tin cậy nhất đối với giao dịch bảo đảm.
Giao dịch bảo đảm thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên
thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
dân sự đối với bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp) và không chuyển
giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp. Để phân biệt với cầm cố tài sản, đối
với biện pháp thế chấp tài sản, bên thế chấp không giao tài sản thế chấp cho
bên nhận thế chấp. Tài sản vẫn do bên thế chấp chiếm hữu, sử dụng.


21
Giao dịch bảo đảm đặt cọc là việc một bên giao cho bên kia một khoản
tiền hoặc kim khí quí, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi là tài sản
đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng dân
sự. Như vậy, đặt cọc khác với các biện pháp khác ở mục đích của biện pháp
này có thể và thường được sử dụng để đảm bảo cho việc giao kết hợp đồng.
Giao dịch bảo đảm ký cược là việc bên thuê tài sản là động sản giao
cho bên cho thuê một khoản tiền hoặc kim khí quí, đá quí hoặc vật có giá trị
khác (sau đây gọi là tài sản ký cược) trong một thời hạn để bảo đảm việc trả
lại tài sản thuê. Điểm khác biệt cơ bản của giao dịch này là nghĩa vụ bảo đảm
được xác định cụ thể là nghĩa vụ của bên thuê tài sản phải trả lại tài sản thuê
sau khi hết hạn hợp đồng.
Giao dịch bảo đảm ký quỹ là việc bên có nghĩa vụ gửi một khoản tiền
hoặc kim khí quí, đá quí hoặc giấy tờ có giá khác vào tài khoản phong tỏa tại
một ngân hàng để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự. Điểm khác biệt cơ
bản của biện pháp bảo đảm này là sự tham gia của ngân hàng trong việc nắm
giữ tài sản bảo đảm.
Giao dịch bảo đảm bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên

bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực
hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh),
nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh
chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực
hiện nghĩa vụ của mình.
Giao dịch bảo đảm tín chấp là việc tổ chức chính trị - xã hội tại cơ sở
bảo đảm cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay một khoản tiền tại ngân hàng
hoặc tổ chức tín dụng khác để sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ theo quy
định của Chính phủ.


22
Giao dịch bảo đảm hỗn hợp là giao dịch bảo đảm sử dụng hai hay
nhiều biện pháp bảo đảm trong cùng một giao dịch bảo đảm.
1.1.2.3. Căn cứ vào sự đăng ký giao dịch bảo đảm
Theo các quan điểm luật học và quy định pháp luật, không phải tất cả
các giao dịch bảo đảm đều phải đăng ký, bởi tùy từng biện pháp bảo đảm, tùy
từng loại giao dịch bảo đảm và trong trường hợp nếu các giao dịch bảo đảm
đều phải đăng ký thì đây sẽ là một số lượng công việc lớn. Chính vì vậy, chỉ
một số giao dịch bảo đảm nhất định mới phải đăng ký bắt buộc, còn lại,
những giao dịch bảo đảm các bên có thể thỏa thuận đăng ký hoặc không đăng
ký tại cơ quan có thẩm quyền.
Giao dịch bảo đảm đăng ký bắt buộc là những giao dịch bảo đảm mà
Nhà nước bắt buộc các bên phải đăng ký với cơ quan đăng ký giao dịch bảo
đảm sau khi giao dịch này được xác lập. Việc đăng ký giao dịch bảo đảm là
điều kiện có hiệu lực của giao dịch này, nếu không đăng ký, các giao dịch này
là vô hiệu. Điển hình nhất là các giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất,
tàu bay, tàu biển, ô tô thuộc đối tượng phải đăng ký giao dịch bảo đảm.
Giao dịch bảo đảm không phải đăng ký là các giao dịch bảo đảm mà

Nhà nước không bắt buộc các bên phải đăng ký với cơ quan đăng ký giao
dịch bảo đảm sau khi các bên xác lập giao dịch này. Tuy nhiên, các bên
trong quan hệ giao dịch bảo đảm vẫn có thể thỏa thuận đăng ký giao dịch
bảo đảm này để bảo vệ quyền lợi cho mình. Việc đăng ký nhằm mục đích
công khai các quyền của bên nhận bảo đảm, trên cơ sở đó, các bên liên quan
biết về những hạn chế của bên bảo đảm và tài sản bảo đảm, hạn chế rủi ro
đối với các bên.
1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, MỤC ĐÍCH, VAI TRÒ CỦA ĐĂNG KÝ
GIAO DỊCH BẢO ĐẢM
1.2.1. Khái niệm đăng ký giao dịch bảo đảm


23
Đăng ký giao dịch bảo đảm ra đời xuất phát từ nhu cầu công khai các
giao dịch bảo đảm, bảo vệ quyền và lợi ích của các bên trong giao dịch, các
bên liên quan, lợi ích của Nhà nước và xã hội.
Vấn đề đăng ký giao dịch bảo đảm mặc dù trong những năm trở lại
đây nhận được sự quan tâm lớn của Nhà nước và các nhà nghiên cứu. Nhà
nước đã ban hành một hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất cùng với đó là
thiết lập một hệ thống phục vụ cho việc đăng ký giao dịch bảo đảm. Dưới góc
độ pháp luật thực định, hiện nay, theo quy định tại Nghị định 83/2010/NĐ-CP
ngày 23/07/2010 về Đăng ký giao dịch bảo đảm thì "đăng ký giao dịch bảo
đảm là việc cơ quan đăng ký ghi vào sổ đăng ký giao dịch bảo đảm hoặc nhập
vào cơ sở dữ liệu về giao dịch bảo đảm việc bên bảo đảm dùng tài sản bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên nhận bảo đảm" [12, Điều 2]. Dưới
góc độ nghiên cứu thì cũng đã có một số nhà nghiên cứu đưa ra định nghĩa về
đăng ký giao dịch bảo đảm như:
Đăng ký giao dịch bảo đảm là thủ tục pháp lý được thực
hiện theo quy định của pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm.
Giao dịch bảo đảm đã đăng ký có giá trị pháp lý đối với người thứ

ba kể từ thời điểm đăng ký. Việc đăng ký là điều kiện để giao dịch
bảo đảm có hiệu lực chỉ trong trường hợp pháp luật có quy định và
thông tin về giao dịch bảo đảm được cơ quan đăng ký có thẩm
quyền cung cấp là chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp
của bên nhận bảo đảm đối với tài sản bảo đảm [20];
Hoặc:
Đăng ký giao dịch bảo đảm là thủ tục pháp lý được thực
hiện theo quy định của pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm
nhằm công khai hóa tình trạng pháp lý của tài sản bảo đảm và là
một trong những cách thức làm phát sinh hiệu lực pháp lý đối với


24
người thứ ba. Việc đăng ký giao dịch bảo đảm là điều kiện để giao
dịch bảo đảm có hiệu lực chỉ trong trường hợp pháp luật có quy
định. Thông tin về giao dịch bảo đảm được cơ quan đăng ký có
thẩm quyền cung cấp là chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp
pháp của bên nhận bảo đảm đối với tải sản bảo đảm và là căn cứ để
xác định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác [15, tr. 16].
Những định nghĩa này dường như là vẫn mang hơi hướng của pháp
luật thực định về đăng ký giao dịch bảo đảm. Các tác giả mới chỉ khái quát
pháp luật thực định về đăng ký giao dịch bảo đảm mà chưa đưa ra được tổng
thể khái niệm về đăng ký giao dịch bảo đảm. Theo quan điểm của tác giả, về
mặt lý luận, cần định nghĩa như sau: Đăng ký giao dịch bảo đảm là việc các
bên trong quan hệ thực hiện thủ tục xác nhận với cơ quan đăng ký giao dịch
bảo đảm rằng giữa họ đã xác lập giao dịch bảo đảm làm cơ sở cho việc bảo
vệ quyền lợi giữa họ và các bên khác có liên quan.
1.2.2. Đặc điểm của đăng ký giao dịch bảo đảm
Chủ thể đăng ký giao dịch bảo đảm là các bên tham gia quan hệ giao

dịch bảo đảm. Các chủ thể này có quyền đăng ký giao dịch bảo đảm mà mình
tham gia, trong một số trường hợp pháp luật có quy định, đó là nghĩa vụ của
các chủ thể này. Trong các trường hợp pháp luật bắt buộc các bên phải đăng
ký giao dịch bảo đảm thì cho dù có thỏa thuận hay không, các bên tham gia
giao dịch bảo đảm đều phải thực hiện việc đăng ký giao dịch bảo đảm với cơ
quan đăng ký giao dịch bảo đảm. Trong trường hợp pháp luật không bắt buộc
các bên phải đăng ký giao dịch bảo đảm giữa họ với cơ quan đăng ký giao
dịch bảo đảm, các bên trong quan hệ thực hiện việc đăng ký giao dịch bảo
đảm theo thỏa thuận giữa họ. Thỏa thuận này bao gồm các nội dung như đồng


25
thuận việc đăng ký giao dịch bảo đảm, xác định chủ thể tiến hành đăng ký
giao dịch bảo đảm, trách nhiệm đối với chi phí đăng ký giao dịch bảo đảm…
Cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm là cơ quan được nhà nước thành
lập để đăng ký giao dịch bảo đảm. Xuất phát từ sự rộng lớn của khu vực lãnh
thổ mà nhà nước quản lý cũng như tùy từng tài sản bảo đảm mà Nhà nước tổ
chức một hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm. Đó có thể là một hệ
thống cơ quan riêng biệt hoặc là các cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm thuộc
các hệ thống cơ quan nhà nước khác nhau.
Thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm là một thủ tục pháp lý. Nhà nước
ban hành pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm làm cơ sở cho việc đăng ký
giao dịch bảo đảm, trong đó quy định chặt chẽ về trình tự, thủ tục, thẩm quyền
đăng ký giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý, đăng ký giao dịch bảo
đảm theo cơ chế xác minh và đăng ký giao dịch bảo đảm theo cơ chế thông báo
được thực hiện theo cơ chế thông báo có hồ sơ và thủ tục tiến hành khác nhau.
Dịch vụ đăng ký giao dịch bảo đảm do Nhà nước cung ứng theo hình
thức dịch vụ công. Nhà nước thiết lập hệ thống cơ quan độc lập với cơ quan
quản lý nhà nước về giao dịch bảo đảm để thực hiện chức năng đăng ký giao
dịch bảo đảm. Các cơ quan này không thực hiện chức năng quản lý nhà nước

về giao dịch bảo đảm và thực hiện công việc có thu phí, theo nguyên tắc "lấy
thu bù chi". Thẩm quyền đăng ký giao dịch bảo đảm được xác định theo loại
tài sản bảo đảm, địa giới hành chính hoặc theo địa vị pháp lý của cơ quan chủ
quản cơ quan này. Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội của đất
nước, mỗi quốc gia thiết lập một mô hình cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm
phân tán (mỗi cơ quan trực thuộc một loại cơ quan khác nhau) hoặc tập trung
(một hệ thống chuyên biệt). Tiêu biểu cho hệ thống đăng ký giao dịch bảo
đảm tập trung là Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp… như ở Nhật Bản có Sở Pháp vụ, ở
Hàn Quốc là Tòa án, ở Pháp là Sở thuế…. Ở Việt Nam, hoạt động đăng ký giao

×