Tải bản đầy đủ (.pdf) (141 trang)

bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu theo luật sở hữu trí tuệ 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.84 MB, 141 trang )



Page 1




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





HÀ THỊ NGUYỆT THU





BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU
THEO LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ 2005







LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
















HÀ NỘI - 2009



HÀ THỊ NGUYỆT THU - CHUYẤN NGÀNH: LUẬT DÂN SỰ - HÀ NỘI: 2009


Page 4





MỤC LỤC



Trang

MỞ ĐẦU

Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG
NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU

1.1.
Lý luận chung về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu

1.1.1.
Khái quát chung về nhãn hiệu

1.1.2.
Chức năng của nhãn hiệu

1.1.3.
Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu

1.1.4.
Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu

1.2.
Sơ lược lịch hình thành và phát triển của hệ thống bảo hộ
nhãn hiệu trên thế giới và ở Việt Nam

1.2.1.
Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống bảo hộ
nhãn hiệu trên thế giới


1.2.2.
Lược sử về sự hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật
Việt Nam về bảo hộ chỉ dẫn địa lý

1.3.
Nhãn hiệu trong mối tơng quan với một số đối tượng SHTT
khác

1.3.1.
Nhãn hiệu với tên thương mại

1.3.2.
Nhãn hiệu với chỉ dẫn địa lý

1.3.3.
Nhãn hiệu với nhãn hàng hóa

1.3.4.
Nhãn hiệu với kiểu dáng công nghiệp

1.3.5.
Nhãn hiệu với đối tượng được bảo hộ quyền tác giả

1.4.
Vai trò bảo hộ nhãn hiệu trong nền kinh tế thị trường

1.4.1.
Vai trò bảo hộ nhãn hiệu đối với doanh nghiệp

1.4.2.

Vai trò bảo hộ nhãn hiệu đối với người tiêu dùng

1.4.3.
Vai trò bảo hộ nhãn hiệu đối với toàn xã hội

Chương 2. BẢO HỘ NHÃN HIỆU THEO LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ 2005

2.1.
Nhãn hiệu với tư cách là đối tượng của quyền sở hữu công
nghiệp

2.1.1.
Khái niệm nhãn hiệu

2.1.2.
Điều kiện bảo hộ nhãn hiệu

2.1.2.1.
Điều kiện chung đối với nhãn hiệu được bảo hộ

2.2.2.2.
Khả năng phân biệt của nhãn hiệu

2.2.2.3.
Dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu

2.1.3.
Phân loại nhãn hiệu




Page 5



2.2.
Xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu

2.2.1.
Quyền đăng ký nhãn hiệu

2.2.2.
Thủ tục xác lập quyền đối với nhãn hiệu

2.2.2.1.
Nguyên tắc nộp đơn đầu tiên

2.2.2.2.
Nguyên tắc ưu tiên

2.2.2.3.
Yêu cầu đối với đơn

2.2.2.4.
Thẩm định đơn

2.2.2.5.
Công bố đơn, văn bằng bảo hộ

2.2.2.6.

Phản đối việc cấp văn bằng bảo hộ

2.2.2.7.
Khiếu nại quyết định liên quan đến việc xác lập quyền đối với nhãn hiệu

2.2.2.8.
Đăng ký quốc tế nhãn hiệu

2.2.3.
Thời hạn bảo hộ

2.2.4.
Chấm dứt hiệu lực văn bằng bảo hộ

2.2.5.
Hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ

2.2.6.
Sửa đổi văn bằng bảo hộ

2.3.
Chủ thể quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu

2.3.1.
Chủ sở hữu nhãn hiệu

2.3.2.
Nội dung quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu

2.3.2.1.

Quyền sử dụng nhãn hiệu

2.3.2.2.
Quyền định đoạt nhãn hiệu

2.3.2.3.
Quyền ngăn cấm ngời khác sử dụng nhãn hiệu

2.3.3.
Giới hạn quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu

2.4.
Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu

2.4.1.
Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu

2.4.2.
Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu

2.4.2.1.
Các quy định chung về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối
với nhãn hiệu

2.4.2.2.
Biện pháp dân sự

2.4.2.3.
Biện pháp hành chính, hình sự, kiểm soát hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu mang nhãn hiệu đợc bảo hộ tại biên giới


Chương 3. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO HỘ NHÃN HIỆU Ở
VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HỘ NHÃN HIỆU

3.1.
Thực trạng hoạt động bảo hộ nhãn hiệu ở Việt Nam

3.2.
Một số khuyến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu

3.2.1.
Định hướng chung

3.2.2.
Hoàn thiện pháp luật liên quan đến xác lập quyền

3.2.3.
Hoàn thiện pháp luật về thực thi quyền



Page 6



3.2.4.
Hoàn thiện pháp luật liên quan đến những vấn đề mới phát
sinh trong quá trình phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế


3.2.5.
Xây dựng các văn bản dới luật hướng dẫn chi tiết các nội
dung được đề cập mang tính nguyên tắc trong Luật SHTT

3.2.5.1.
Xây dựng các tình huống điển hình trên cơ sở tổng kết thực tiễn

3.2.5.2.
Xây dựng và luật hóa Quy chế thẩm định nhãn hiệu


KẾT LUẬN




Page 7



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BTA: Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ
Công ước Paris: Công ước Paris về Bảo hộ sở hữu công nghiệp
Nghị định thư Madrid: Nghị định thư liên quan đến Thỏa ước Madrid về đăng
ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa
SHCN: Sở hữu công nghiệp
SHTT: Sở hữu trí tuệ
Thỏa ước Madrid: Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng
hóa

TRIPS: Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại
của quyền sở hữu trí tuệ
WTO: Tổ chức thương mại thế giới
WIPO: Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới



Page 8



MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới hiện nay chúng ta đang
chứng kiến quá trình tự do hoá thương mại mạnh mẽ với việc phá bỏ các rào cản
thương mại, tạo nên một sân chơi chung toàn cầu với luật lệ chung, bình đẳng. Sở
hữu trí tuệ đang trở thành một vấn đề thời sự, thành trung tâm của sự chú ý, là
vấn đề trọng tâm được thảo luận tại các cuộc đàm phán, hội nghị, hội thảo về
quan hệ kinh tế quốc tế, là nội dung không thể thiếu trong các điều ước quốc tế về
hợp tác kinh tế song phương và đa phương.
Nhận thức được vai trò của hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với việc
khuyến khích hoạt động nghiên cứu, sáng tạo, áp dụng và đổi mới công nghệ,
thúc đẩy đầu tư, thương mại… Nhà nước Việt Nam đã rất coi trọng vấn đề sở hữu
trí tuệ bằng việc thiết lập được một hệ thống sở hữu trí tuệ có bộ máy tổ chức,
quản lý, quy định pháp luật và những bộ phận hợp thành về cơ bản tương tự như
mô hình phổ biến trên thế giới. Hệ thống sở hữu trí tuệ Việt Nam đã thiết lập chế
độ bảo hộ đầy đủ các đối tượng sở hữu trí tuệ liên quan đến hoạt động của danh
nghiệp trong đó có nhãn hiệu.
Nhãn hiệu có vai trò quan trọng trong cuộc sống hàng ngày liên quan đến sự

lựa chọn của người tiêu dùng. Nhãn hiệu giúp người tiêu dùng có thể mua nhiều
lần một thứ hàng hoá, dịch vụ mà không cần phải xem xét tất cả mọi yếu tố liên
quan đến hàng hoá, dịch vụ đó trong mỗi lần mua.
Nhãn hiệu là biểu tượng mang những thành quả đầu tư của nhà sản xuất
hoặc cung cấp dịch vụ. Mọi nỗ lực của nhà sản xuất hàng hoá, cung cấp dịch vụ
trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành đều được “tích tụ” trong
nhãn hiệu.
Vì nhãn hiệu mang theo những thông điệp về chất lượng, uy tín của hàng hoá,
dịch vụ như trên, cần thiết phải có sự bảo hộ pháp lý để chống lại các hành vi sử


Page 9



dụng nhằm mục đích lợi dụng uy tín, danh tiếng gắn liền với nhãn hiệu đó. Việc
bảo hộ đó không những nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của chủ sở hữu nhãn
hiệu, người đã đầu tư vào việc nâng cao chất lượng và giảm giá thành hàng hoá,
dịch vụ mang nhãn hiệu, mà còn bảo vệ người tiêu dùng khỏi bị nhầm lẫn và lừa
dối do mua phải sản phẩm mang nhãn hiệu giả mạo.
Vấn đề bảo hộ nhãn hiệu đang nhận được sự quan tâm đặc biệt không chỉ ở
góc độ quản lý Nhà nước mà còn là sự quan tâm của toàn xã hội. Về phía lợi ích
quốc gia, nhãn hiệu là một công cụ để khẳng định và nâng cao uy tín sản phẩm
trong nước, mở đường ra thị trường nước ngoài, ở cấp doanh nghiệp, nhãn hiệu
giữ vai trò tích tụ uy tín cho sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp từ đó
xây đắp nên uy tín của doanh nghiệp, còn với đông đảo công chúng, nhãn hiệu
giúp cho họ có được thông tin về sản phẩm, dịch vụ thông qua đó có sự lựa chọn
đúng đắn.
Để đáp ứng trước những đòi hỏi của quá trình hội nhập quốc tế đối với hệ
thống pháp luật nói chung và hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói riêng về

“tính đầy đủ” và “tính hiệu quả”, Luật SHTT 2005 (Luật SHTT) đã được ban
hành nhằm thống nhất các quy định điều chỉnh chung đối với việc bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ.
Trước vai trò đặc biệt quan trọng của nhãn hiệu đối với sự phát triển kinh tế
xã hội thì tìm hiểu các quy định của pháp luật liên quan đến bảo hộ nhãn hiêu là
việc thực sự cần thiết, có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn.
Với lý do đó, tôi quyết định chọn đề tài “Bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu theo Luật Sở hữu trí tuệ 2005” là đề tài nghiên cứu
cho luận văn cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu đã và sẽ là đối tượng
nghiên cứu của nhiều công trình nghiên cứu không chỉ ở Việt Nam mà còn ở
nhiều nước trên thế giới. ở Việt Nam từ trước đến nay đã có khá nhiều nghiên cứu
liên quan đến đối tượng này, tuy nhiên các bài viết chủ yếu đề cập đến những vấn


Page 10



đề cụ thể như thủ tục xác lập quyền đối với nhãn hiệu, điều kiện để được bảo hộ
là nhãn hiệu, mục đích bảo hộ nhãn hiệu, giới thiệu pháp luật của nước ngoài về
bảo hộ nhãn hiệu, giới thiệu các điều ước quốc tế hoặc hệ thống bảo hộ nhãn hiệu
trên thế giới… Có thể kể đến những tài liệu sau: “Nhãn hiệu hàng hóa trong pháp
luật dân sự”, “Nhãn hiệu hàng hóa và thương hiệu”, “Bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa
– Cẩm nang dành cho doanh nhân”, Luận án tiến sỹ “Bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam”, Luận án tiến sỹ “Những vấn đề
pháp lý về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ở
Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ “Bảo hộ nhãn hiệu trong pháp luật Việt Nam và
pháp luật của Liên minh Châu Âu”, Luân văn thạc sỹ “Pháp luật bảo hộ quyền sở

hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam”. Luận văn thạc sỹ
“Nhãn hiệu hàng hóa trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế”, Luật văn thạc sỹ
“Xác lập quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật Việt Nam”…
Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu sâu và toàn diện nào về bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu ở góc độ của người trực tiếp làm công tác xác lập quyền
đối với nhãn hiệu. Hơn nữa, Luật Sở hữu trí tuệ mới được ban hành ngày
29/11/2005 và có hiệu lực từ 01.07.2006 nên các nghiên cứu trước đây chưa đề
cập cũng như phân tích được những thay đổi trong các quy định về bảo hộ nhãn
hiệu. Qua quá trình thực hiện luật thực tiễn cũng nảy sinh những vấn đề bất cập
mà luật chưa điều chỉnh hoặc điều chỉnh chưa đầy đủ cần nghiên cứu, phân tích
và đề xuất hướng điều chỉnh. Chính vì vậy, luận văn sẽ tiếp tục nghiên cứu những
yêu cầu về mặt lý luận và thực tiễn điều chỉnh pháp luật đặt ra trong giai đoạn
hiện nay trên cơ sở xác định thực trạng pháp luật nhằm đề xuất phương hướng
hoàn thiện pháp luật bảo hộ nhãn hiệu trong tương lai.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu một cách tổng thể các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ 2005 về
bảo hộ nhãn hiệu trên cơ sở so sánh với các quy định trong các văn bản luật trước
đây, với các đối tượng sở hữu trí tuệ khác, các quy định tương tự của nước ngoài
cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật từ đó rút ra được những ưu điểm và hạn chế
của cơ chế bảo hộ hiện hành và đưa ra các khuyến nghị nhằm hoàn thiện các quy


Page 11



định của pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu sao cho đạt được hiệu quả cao
nhất và phù hợp với chuẩn mực quốc tế.
4. Phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu nêu trên đặt ra những nhiệm vụ cần phải giải quyết cụ

thể sau:
- Tìm hiểu khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về bảo hộ
nhãn hiệu trên thế giới và ở Việt Nam
- Nghiên cứu các quy định liên quan đến bảo hộ nhãn hiệu theo quy định của
Luật Sở hữu Trí tuệ 2005 trên cơ sở so sánh với các quy định trước đây và các
quy định của pháp luật nước ngoài.
- Nghiên cứu nhãn hiệu với tư cách là một dạng của chỉ dẫn thương mại
trong mối quan hệ với các đối tượng sở hữu trí tuệ gần gũi khác như tên thương
mại, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công nghiệp, quyền tác giả
- Tìm hiểu thực trạng của việc bảo hộ nhãn hiệu ở Việt Nam từ đó rút ra
những điểm còn hạn chế và đưa ra những khuyến nghị nhằm tăng cường hiệu quả
bảo hộ nhãn hiệu ở Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong luận văn này là phương
pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
trong vấn đề bảo hộ nhãn hiệu để đưa ra một cái nhìn tổng thể của vấn đề. Với việc
sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp này, luận văn chỉ ra một số điểm hạn chế,
bất cập của pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu từ đó đưa ra một số giải pháp
khắc phục để hoàn thiện các quy định pháp luật này.
Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng các phương pháp luật học so sánh, thống
kê, phân tích để làm rõ quá trình phát triển của vấn đề được nghiên cứu, để đánh
giá sự tương thích của pháp luật Việt Nam so với pháp luật quốc tế.
Các phương pháp nói trên đều dựa trên nền tảng là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn


Page 12




Kết quả nghiên cứu của luận văn không chỉ mang tính lý thuyết mà có tính
thực tiễn, bởi trong quá trình nghiên cứu người thực hiện không chỉ nghiên cứu
trên các quy định của luật thực định mà còn nghiên cứu qua các tình huống thực
tế trong và ngoài nước, việc nghiên cứu được tiến hành bởi chính người làm công
tác áp dụng pháp luật trong cơ quan xác lập quyền. Do đó, kết quả nghiên cứu của
luận văn một mặt làm rõ các quy định của luật để từ đó tìm ra những điểm phù
hợp và chưa phù hợp, đồng thời là cơ sở lý luận cho việc kiến nghị sửa đổi pháp
luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu, đặc biệt là việc sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật SHTT.
5. Bố cục của Luận văn
Luận án gồm Phần mở đầu, 3 chương, Kết luận và Danh mục tài liệu tham
khảo và Phụ lục.
Chương 1: Khái quát chung về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với
nhãn hiệu
Chương 2: Bảo hộ nhãn hiệu theo Luật Sở hữu trí tuệ 2005

Chương 3: Thực trạng và hoạt động bảo hộ nhãn hiệu ở Việt Nam và một số
khuyến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu


Page 13



Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HỘ
QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU

1.1. Lý luận chung về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn

hiệu
1.1.1. Khái quát chung về nhãn hiệu
Nhãn hiệu đã xuất hiện từ thời cổ đại, được người chăn nuôi gia súc, nhà
buôn, nhà sản xuất khi đó dùng để đánh dấu các đàn gia súc hoặc các đồ vật của
mình. Phát hiện của các nhà khảo cổ hiện đại cho thấy cách đây 3000 năm, những
người thợ thủ công ấn Độ đã từng chạm khắc chữ ký của mình trên các tác phẩm
nghệ thuật trước khi gửi hàng tới Iran. Các nhà sản xuất Trung Quốc đã bán hàng
hóa mang nhãn hiệu của mình tại Địa Trung Hải từ 2000 năm trước và cùng thời
gian đó hàng ngàn nhãn hiệu đồ gốm La Mã khác nhau đã được sử dụng. [21]
Nhờ sự hưng thịnh của hoạt động giao thương mà việc sử dụng các dấu hiệu đó
trên hàng hóa tương đối phát triển. Ban đầu, nhãn hiệu không hoàn toàn thực hiện
chức năng phân biệt mà việc sử dụng chúng chỉ để chỉ ra mối liên hệ giữa hàng
hóa với nhà sản xuất ra hàng hóa, giữa tài sản với chủ sở hữu của tài sản mà thôi.
Cũng chính bởi lẽ đó, ở thời kỳ đầu tầm quan trọng về mặt kinh tế của nhãn hiệu
vẫn còn hạn chế.
Sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa kéo theo sự phát triển của hoạt động
thương mại và buôn bán hàng hóa đã khiến cho nhãn hiệu ngày càng đóng vai trò
quan trọng trong giao lưu kinh tế. Việc một hàng hóa có thể được cung cấp bởi
nhiều nhà sản xuất hoặc nhà kinh doanh khác nhau khiến cho người tiêu dùng bối
rối khi lựa chọn, họ cần có một dấu hiệu chỉ dẫn để nhận biết hàng hóa của từng
nhà sản xuất hoặc kinh doanh. Nhãn hiệu chính là dấu hiệu giúp họ phân biệt
được nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm. Xã hội hiện đại với sự phát triển như vũ
bão của khoa học và công nghệ trong nền kinh tế thị trường đem lại cho con
người cơ hội được sử dụng rất nhiều sản phẩm hàng hóa khác nhau. Các nhà sản


Page 14




xuất và thương gia cạnh tranh đưa đến cho người tiêu dùng sự lựa chọn đa dạng
cho hàng hóa cùng loại. Ngoài việc nhận biết qua hình thức, giá cả, chất lượng
của sản phẩm thì một dấu hiệu đặc trưng của riêng nhà sản xuất hoặc kinh doanh
sẽ giúp cho người tiêu dùng dễ dàng lựa chọn sản phẩm cạnh tranh phù hợp với
mình. “Do vậy, hàng hóa phải được đặt tên. Phương tiện để đặt tên hàng hóa trên
thị trường chính là nhãn hiệu hàng hóa.” [21]
Khi mới ra đời nhãn hiệu thường chỉ là một dấu hiệu hoặc ký hiệu mang tính
ngẫu nhiên. Dần dần, cùng với sự phát triển của giao lưu thương mại, nhu cầu cá
biệt hóa sản phẩm khiến cho các nhà sản xuất, kinh doanh ý thức hơn về nhãn
hiệu. Họ chú tâm nhiều hơn vào việc lựa chọn các dấu hiệu làm nhãn hiệu và lúc
này nhiều nhãn hiệu đã không còn mang tính ngẫu nhiên nữa mà chứa đựng trong
nó dụng ý, sự gửi gắm của các nhà sản xuất, kinh doanh đối với sản phẩm được
đưa ra thị trường.
Nhãn hiệu theo nghĩa nguyên thủy thì chỉ dùng để đặt tên cho hàng hóa. Tuy
nhiên, cùng với quá trình phát triển của xã hội, hàng hóa được cung cấp cho con
người không chỉ bó hẹp ở các sản phẩm cụ thể mà còn là các loại hình dịch vụ
được cung cấp đa dạng trên thị trường. Các dịch vụ này cũng cần được đặt tên để
cho phép người tiêu dùng có thể phân biệt giữa các dịch vụ của các công ty khác
nhau cùng cung cấp. Những dấu hiệu này tạo thành nhãn hiệu dịch vụ.
Do nhãn hiệu dịch vụ mang bản chất giống hệt nhãn hiệu hàng hóa nên hiện
nay trên thế giới, thuật ngữ “nhãn hiệu” được dùng chung cho cả nhãn hiệu hàng
hóa và nhãn hiệu dịch vụ. ở Việt Nam, Bộ luật dân sự 1995 sử dụng thuật ngữ
“nhãn hiệu hàng hóa” cho cả hàng hóa và dịch vụ. Bộ luật dân sự 2005 đã sử
dụng thống nhất thuật ngữ “nhãn hiệu” cho nhãn hiệu hàng hóa và nhãn hiệu dịch
vụ.
Trên thương trường nhãn hiệu ngày càng chứng tỏ vai trò quan trọng, nhãn
hiệu được coi như một công cụ để tạo ra sự khác biệt cho sản phẩm, dịch vụ, thu
hút khách hàng, tạo dựng niềm tin cho người tiêu dùng… Vai trò của nhãn hiệu
càng trở nên quan trọng thì khả năng nhãn hiệu đó bị sao chép, làm giả, thậm chí



Page 15



đánh cắp càng cao. Thực tế này đòi hỏi phải có một cơ chế hữu hiệu để ghi nhận
chính thức và công khai những người sở hữu nhãn hiệu, từ đó duy trì và củng cố
đặc tính phân biệt của nhãn hiệu, bảo vệ nhà sản xuất, nhà cung cấp hàng hóa,
dịch vụ và người tiêu dùng. Hệ thống bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ra đời nhằm
thỏa mãn nhu cầu thực tế đó.
Nhãn hiệu là một trong các đối tượng SHTT đang được các quốc gia bảo hộ.
Nhãn hiệu thuộc về nhánh quyền sở hữu công nghiệp. Khái niệm “sở hữu công
nghiệp” bao gồm các sáng chế, kiểu dáng công nghiệp. Đó là những sản phẩm
của sáng tạo trí tuệ tạo ra hoặc kết tinh trên sản phẩm để làm phong phú thêm đời
sống vật chất cho con người. Bên cạnh đó, sở hữu công nghiệp còn bao gồm nhãn
hiệu, các chỉ dẫn thương mại và việc bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh.
Với các đối tượng này, khía cạnh sáng tạo trí tuệ vẫn có song không mang tính
quyết định như các đối tượng kia, mà yếu tố quyết định ở đây là việc chuyển tải
thông tin tới người tiêu dùng về sản phẩm và dịch vụ cung cấp trên thị trường và
việc bảo hộ nhằm chống lại việc sử dụng không được cho phép những dấu hiệu
có khả năng lừa dối người tiêu dùng.
Khái niệm nhãn hiệu có thể khác nhau ở từng nước, nhưng nhìn chung, khái
niệm này có sự thống nhất ở nội dung: nhãn hiệu là bất kỳ dấu hiệu nào có thể
phân biệt hàng hóa, dịch vụ của một chủ thể với các chủ thể khác trong cùng lĩnh
vực. Nội dung này được thể hiện trong Điều 15 Hiệp định TRIPS: “Bất kỳ một
dấu hiệu, hoặc một tổ hợp các dấu hiệu nào có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc
dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hóa dịch vụ của các doanh nghiệp khác,
đều có thể làm nhãn hiệu”. [17] Điểm khác nhau có chăng giữa khái niệm nhãn
hiệu của các nước chính là ở nội hàm mà khái niệm này đề cập tới. Dấu hiệu nói
chung có thể bao gồm chữ cái, chữ số, từ ngữ, khẩu hiệu, hình ảnh, màu sắc, mùi

vị, âm thanh, hình thức bao bì… nhưng tùy hệ thống pháp luật ở mỗi quốc gia mà
phạm vi của các dấu hiệu này được giới hạn ở những dấu hiệu nhất định.
Theo định nghĩa của Hiệp hội nhãn hàng thế giới (INTA) thì nhãn hiệu có
thể là từ ngữ, tên gọi, biểu tượng, hình ảnh, khẩu hiệu hoặc hình dạng của bao gói


Page 16



hoặc kết hợp của các yếu tố đó phục vụ cho việc xác định và phân biệt một sản
phẩm cụ thể của những chủ thể khác nhau trên thị trường hoặc trong kinh doanh.
Trong các định nghĩa về nhãn hiệu chúng ta dễ dàng nhận thấy một điểm chung
nổi bật đó là nhãn hiệu có thể là bất kỳ dấu hiệu nào miễn là có khả năng phân
biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của các chủ thể khác nhau. Như vậy, về mặt lý luận,
các dấu hiệu thuộc dạng nhìn thấy được và thuộc dạng không thể nhìn thấy được
như mùi vị hoặc âm thanh đều có thể trở thành nhãn hiệu. Việc thừa nhận dấu
hiệu thuộc dạng nào có thể sử dụng làm nhãn hiệu, vì thế, tùy thuộc và điều kiện
thực tiễn của mỗi quốc gia. Phần lớn các quốc gia chỉ cho phép đăng ký các dấu
hiệu được thể hiện dưới dạng đồ họa (nghĩa là có thể nhìn thấy được), một trong
các lý do là bởi chỉ các nhãn hiệu thuộc dạng này mới có thể ghi được trong sổ
đăng bạ quốc gia và công bố một cách hữu hình trên công báo nhãn hiệu quốc
gia, để công bố công khai với công chúng việc nhãn hiệu đó đã được xác lập
quyền và được Nhà nước bảo hộ. Về vấn đề này, Điều 15.1 Hiệp định TRIPS quy
định “… Các thành viên có thể quy định rằng điều kiện để được đăng ký là các
dấu hiệu phải là dấu hiệu nhìn thấy được” [17]. Hiệp ước Luật nhãn hiệu hàng
hóa (TLT) cũng chỉ thừa nhận sự bảo hộ đối với các dấu hiệu nhìn thấy được,
không thừa nhận sự bảo hộ đối với nhãn hiệu vô hình, cụ thể là nhãn hiệu âm
thanh và mùi vị “Hiệp ước này không áp dụng đối với nhãn hiệu là ảnh chụp ba
chiều (holography) và nhãn hiệu vô hình, cụ thể là nhãn hiệu âm thanh và nhãn

hiệu mùi.” [25]
Có thể lấy ví dụ về các nhãn hiệu nổi tiếng được cấu thành từ các dấu hiệu
khác nhau như sau:
Nhãn hiệu dạng từ ngữ: CHANEL, TOYTA, Trung Nguyên
Nhãn hiệu dạng hình ảnh: Đăng ký quốc tế số 433071



Page 17



Nhãn hiệu kết hợp hình ảnh và từ ngữ:

Nhãn hiệu quốc gia số 90714
1.1.2. Chức năng của nhãn hiệu
Thông thường, một nhãn hiệu có những chức năng chính là: chức năng
phân biệt, chức năng chỉ dẫn nguồn gốc, chức năng thông tin về chất lượng và
chức năng quảng cáo. Trên thực tế hai chức năng đầu của nhãn hiệu có tính phụ
thuộc lẫn nhau và cần luôn được xem xét cùng nhau. Hai chức năng sau mang
tính phái sinh, có được khi nhãn hiệu đã có hai chức năng đầu.
Nhãn hiệu ra đời với mục đích để phân biệt hàng hóa của chủ thể này với
hàng hóa của chủ thể khác. Để thực hiện được chức năng này nhãn hiệu cần phải
có khả năng tự phân biệt và khả năng phân biệt với nhãn hiệu của chủ thể khác.
Khả năng tự phân biệt của nhãn hiệu tạo cho nhãn hiệu một ấn tượng tổng thể tác
động vào nhận thức của người tiêu dùng để họ có thể nhận biết, ghi nhớ và so
sánh với các nhãn hiệu khác. Tính chất này có thể thay đổi, tùy thuộc vào việc sử
dụng thực tế nhãn hiệu trên thị trường. Chẳng hạn như một nhãn hiệu là dấu hiệu
đơn giản (hai chữ cái, tập hợp hình học đơn giản…) sau một thời gian dài được sử
dụng liên tục với số lượng lớn và rộng rãi, có thể trở thành dấu hiệu có khả năng

tự phân biệt cho người tiêu dùng. “PN” là một nhãn hiệu được sử dụng rộng rãi
cho các sản phẩm mỹ phẩm của Hãng Shiseido Nhật Bản.
Để người tiêu dùng có thể dùng để phân biệt một sản phẩm, nhãn hiệu phải
chỉ ra được nguồn gốc của hàng hóa. Điều này không có nghĩa là nhãn hiệu phải
thông tin cho người tiêu dùng về người thực sự đã sản xuất ra sản phẩm hoặc
thậm chí người bán sản phẩm. Thực ra nhãn hiệu là dấu hiệu để người tiêu dùng
tìm được một chủ thể nhất định để tin tưởng, tức là chủ thể sẽ chịu trách nhiệm về


Page 18



hàng hóa mang nhãn hiệu đó. Chức năng chỉ dẫn nguồn gốc liên quan mật thiết
với chức năng phân biệt, khi mà nhãn hiệu cho phép người tiêu dùng phân biệt
được sản phẩm mang nhãn hiệu đó với nhãn hàng hóa của các chủ thể khác đưa ra
trên thị trường thì lúc đó nhãn hiệu đã hoàn thành chức năng chỉ dẫn nguồn gốc.
Chức năng thông tin về chất lượng của nhãn hiệu được thể hiện thông qua
việc người tiêu dùng nhận biết chất lượng của sản phẩm qua nhãn hiệu. Chức
năng này có được khi nhãn hiệu đã được sử dụng một thời gian nhất định trên sản
phẩm có chất lượng chiếm được sự tin tưởng của người tiêu dùng. Chức năng
“chất lượng” của một nhãn hiệu không thể hiểu theo nghĩa là bằng chứng xác
nhận chất lượng theo những tiêu chí luật định mà đây là sự đánh giá “tiêu chuẩn”
từ góc độ người sử dụng sản phẩm. Ví dụ có rất nhiều nhãn hiệu ô tô đang được
sự dụng tại thị trường Việt Nam và đều đạt những tiêu chuẩn chất lượng chung do
pháp luật quy định, nhưng cứ nhắc đến nhãn hiệu “TOYOTA” người tiêu dùng sẽ
nghĩ đến một sản phẩm có chất lượng tốt, phù hợp với điều kiện khí hậu và địa
hình Việt Nam, lượng tiêu hao nhiên liệu thấp… Hoặc đối với mỹ phẩm, khi nhắc
đến những sản phẩm mang nhãn hiệu CHANEL, L’OREAL, SHISEIDO… người
tiêu dùng sẽ hình dung tới ngay dòng sản phẩm cao cấp với chất lượng rất tốt.

Nhãn hiệu đã được người tiêu dùng đánh giá tốt về chất lượng sử dụng cho các
sản phẩm mới được đưa ra thị trường sẽ như một sự đảm bảo thu hút được lòng
tin của người tiêu dùng đối với sản phẩm đó.
Chức năng quảng cáo của nhãn hiệu nhằm thúc đẩy việc tiếp thị bán hàng và
tiến hành dịch vụ. Nhãn hiệu khi mới ra đời chỉ là những dấu hiệu mang tính ngẫu
nhiên. Nhưng qua quá trình sử dụng các chủ thể sử dụng nhãn hiệu đã nhận ra cần
phải lựa chọn những nhãn hiệu độc đáo, ấn tượng để thu hút sự chú ý của khách
hàng hướng tới sản phẩm của mình.
1.1.3. Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
Như đã trình bày ở trên, việc sử dụng nhãn hiệu là một nhu cầu khách quan
để tạo điều kiện cho các nhà sản xuất, kinh doanh cá thể hóa sản phẩm, dịch vụ
nhằm phân biệt với các sản phẩm, dịch vụ cùng loại của các chủ thể khác. Đồng


Page 19



thời nhãn hiệu cũng giúp người tiêu dùng có định hướng khi chọn lựa sản phẩm,
dịch vụ phù hợp.
Đặc tính nổi bật của nhãn hiệu là dùng để phân biệt. Do đó không thể tồn tại
cùng lúc những nhãn hiệu của các chủ thể khác nhau trùng hoặc tương tự nhau
cho cùng sản phẩm, dịch vụ. Để đảm bảo được điều này cần có một cơ chế nhất
định chống lại các hành vi gây nhầm lẫn hoặc có nguy cơ gây nhầm lẫn như hành
vi sao chép, làm giả hàng hóa mang nhãn hiệu. Công cụ để thực hiện nhiệm vụ
này không gì khác hơn chính là hệ thống pháp luật.
Nhãn hiệu là tài sản của chủ thể sở hữu nhãn hiệu. Tuy nhiên, nhãn hiệu là
một loại tài sản đặc biệt, không giống như các tài sản truyền thống – tài sản “hữu
hình” – khác. Đối với nhãn hiệu, chủ sở hữu không thể trực tiếp thực hiện sự
chiếm hữu, sử dụng và định đoạt bằng các hành vi mang tính vật lý. Chủ sở hữu

sẽ thực hiện các quyền năng sở hữu của mình thông qua một cơ chế pháp lý đặc
thù, đó là “quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu”. Quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu được hiểu là quyền sở hữu của cá nhân, tổ chức đối với
nhãn hiệu. Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu được xác lập trên cơ sở
sử dụng hoặc theo văn bằng bảo hộ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp. Cụ
thể là, ở Việt Nam, “Quyền sở hữu công nghiệp đối với…, nhãn hiệu, … được
xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền theo thủ tục đăng ký… hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo quy định của
điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; đối với
nhãn hiệu nổi tiếng, quyền sở hữu được xác lập trên cơ sở sử dụng, không phụ
thuộc vào thủ tục đăng ký”. [36]
Do tính chất đặc biệt của loại tài sản có tên là nhãn hiệu nên quyền đối với
tài sản này cũng không giống quyền đối với các tài sản hữu hình khác, đó là
quyền bị giới hạn về thời gian, không gian, được xác định theo phạm vi bảo hộ,
và có những giới hạn nhất định.


Page 20



Về thời gian, quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu có hiệu lực trong
thời hạn ghi trên văn bằng bảo hộ do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp, thông
thường là 10 năm, và có thể gia hạn liên tiếp nhiều lần, mỗi lần 10 năm.
Về không gian, so với quyền sở hữu tài sản thông thường, quyền sở hữu
công nghiệp đối với nhãn hiệu mang tính lãnh thổ tuyệt đối. Quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu chỉ có hiệu lực trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mà trên
cơ sở pháp luật nước đó, quyền sở hữu công nghiệp phát sinh. Trong trường hợp
chủ sở hữu nhãn hiệu muốn nhận được sự bảo hộ quyền của mình tại nước khác,
họ cần phải nộp đơn yêu cầu bảo hộ tại nước họ mong muốn nhận được sự bảo hộ

hoặc nộp đơn đăng ký quốc tế có chỉ định nước đó (nếu nước định nộp đơn có
tham gia điều ước quốc tế liên quan đến bảo hộ sở hữu công nghiệp nói chung).
Do quyền sở hữu công nghiệp mang tính lãnh thổ tuyệt đối nên kể cả trong
trường hợp quyền sở hữu công nghiệp được xác lập trên cơ sở quan hệ xã hội có
yếu tố nước ngoài thì cũng không làm phát sinh hiện tượng xung đột pháp luật
(hiện tượng pháp lý khi có hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác nhau cùng điều
chỉnh một quan hệ dân). Chỉ pháp luật của chính nước đã chấp nhận bảo hộ mới
có giá trị điều chỉnh các vấn đề pháp lý liên quan đến đối tượng sở hữu công
nghiệp đó. Chủ thể nước ngoài muốn được bảo hộ nhãn hiệu tại Việt Nam phải
tuân thủ các điều kiện để được xác lập quyền cũng như được hưởng quyền quy
định theo pháp luật Việt Nam. Ngược lại, một nhãn hiệu của Việt Nam muốn
được bảo hộ tại nước ngoài cũng phải thỏa mãn các điều kiện tương tự. Cũng do
tính chất lãnh thổ tuyệt đối mà một nhãn hiệu đã được bảo hộ ở nước này nhưng
chưa chắc sẽ được bảo hộ tại nước khác do mỗi nước có những quy định khác
nhau về tiêu chí bảo hộ. Ví dụ, trước khi Luật SHTT 2005 được ban hành, các
nhãn hiệu tạo thành từ các chữ cái không phát âm được như một từ, không được
thể hiện dưới dạng hình họa thuộc đối tượng không được Nhà nước bảo hộ, trong
khi đó, rất nhiều nhãn hiệu tương tự như thế lại được các nước khác bảo hộ.
Tính lãnh thổ tuyệt đối của quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu còn
được thể hiện rõ trong Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp. Theo đó,


Page 21



“một đơn đăng ký nhãn hiệu do công dân của một nước thành viên của Liên minh
nộp tại bất cứ nước nào trong Liên minh cũng không thể bị từ chối – hoặc một
đăng ký nhãn hiệu cũng không thể bị hủy bỏ - với lý do rằng việc nộp đơn, đăng
ký, hoặc gia hạn tại nước xuất xứ không có hiệu lực. [17] “Một nhãn hiệu đã đăng

ký hợp lệ tại một nước thành viên của Liên minh được coi là không phụ thuộc
vào các nhãn hiệu đăng ký tại các nước thành viên khác của Liên minh, kể cả
nước xuất xứ. [17]
Với tài sản thông thường, quyền sở hữu được thể hiện thông qua việc độc
quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản. Với tài sản là nhãn hiệu, quyền này
được thể hiện thông qua quyền sử dụng, cho phép người khác sử dụng, ngăn cấm
người khác sử dụng và định đoạt nhãn hiệu được bảo hộ nếu không được sự cho
phép của chủ sở hữu.
Quyền độc quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu chỉ giới hạn đối với hành vi sử
dụng nhãn hiệu tương tự gây nhầm lẫn cho hàng hóa, dịch vụ cùng loại của người
khác vì mục đích thương mại hoặc gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về hàng
hóa, dịch vụ được cung cấp bởi chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng. Quyền này không
áp dụng đối với hành vi sử dụng vì mục đích phi thương mại và một số trường
hợp hạn chế quyền khác.
Xét về tính lãnh thổ thì quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu là
quyền độc quyền tuyệt đối. Nhưng trong phạm vi một lãnh thổ quốc gia thì quyền
này lại chỉ mang tính chất tương đối. Vì trong lĩnh vực bảo hộ sở hữu công
nghiệp nói riêng và SHTT nói chung luôn tồn tại các quyền độc quyền khác nhau
của các chủ sở hữu khác nhau, do đó, quyền độc quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu
này phải tôn trọng và đảm bảo quyền độc quyền của chủ thể khác và của xã hội.
1.1.4. Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
Nhãn hiệu là một tài sản vô hình rất có giá trị trong giao lưu thương mại, là
một đối tượng SHTT dễ bị xâm hại. Nhãn hiệu đóng vai trò quan trọng trong việc
bảo vệ những nhà sản xuất, kinh doanh trung thực, bảo vệ quyền lợi của người
tiêu dùng, góp phần tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các chủ thể, từ đó


Page 22




tạo sự ổn định cho nền kinh tế mỗi quốc gia. Do tầm quan trọng như vậy của nhãn
hiệu nên các nước đều có những cơ chế, chính sách để bảo hộ nhãn hiệu từ phía
Nhà nước.
Với các tài sản hữu hình, chủ sở hữu có thể thực hiện quyền sở hữu của
mình đối với tài sản thông qua việc nắm giữ tài sản, và nhờ đó thậm chí không
cần đến sự công nhận quyền sở hữu của Nhà nước thì tài sản vẫn thuộc quyền sở
hữu của chủ sở hữu. Với tài sản hữu hình, quyền đối với tài sản này rất khác.
“Loại quyền về tài sản này phải được Nhà nước công nhận và bảo vệ mới thực sự
chống lại được hành vi xâm phạm của bên thứ ba trong quá trình khai thác.” [39]
Nội dung của quyền này được thể hiện thông qua việc Nhà nước ghi nhận các loại
tài sản vô hình được Nhà nước bảo hộ, cách thức xác lập quyền, nội dung quyền,
các hạn chế quyền và cơ chế bảo vệ quyền.
Xuất phát từ những tính chất đặc thù, riêng có của từng loại đối tượng sở
hữu công nghiệp, pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới đều ghi nhận hai
nguyên tắc xác lập quyền cơ bản, đó là (i) xác lập quyền theo nguyên tắc đăng ký
bảo hộ tại cơ quan có thẩm quyền và (ii) xác lập quyền theo nguyên tắc tự động
khi đáp ứng các điều kiện nhất định. Đối với đối tượng sở hữu công nghiệp cụ thể
là nhãn hiệu thì cả hai nguyên tắc này đều được áp dụng. Với nhãn hiệu không
phải là nhãn hiệu nổi tiếng, quyền sở hữu công nghiệp được xác lập trên cơ sở
đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, với nhãn hiệu nổi tiếng, quyền sở
hữu công nghiệp được xác định khi nhãn hiệu thỏa mãn các tiêu chí đánh giá
nhãn hiệu nổi tiếng được quy định trong luật, không cần thực hiện thủ tục đăng
ký. Thông thường việc công nhận nhãn hiệu nổi tiếng chỉ được đặt ra khi có hiện
tượng xâm phạm quyền và cơ quan nhà nước có thẩm quyền được yêu cầu xác
định xem có thực sự hay không việc xâm phạm quyền của một nhãn hiệu nổi
tiếng.
Để một dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ được Nhà nước bảo
hộ là một nhãn hiệu, dấu hiệu đó cần phải thỏa mãn những tiêu chí nhất định gọi
chung là tiêu chuẩn bảo hộ. Quy định về tiêu chuẩn bảo hộ nhằm đảm bảo một



Page 23



nhãn hiệu có khả năng tự phân biệt, phân biệt với dấu hiệu khác, không xâm
phạm đến trật tự công cộng và đạo đức xã hội. Tùy theo tình hình phát triển kinh
tế, xã hội cũng như quan niệm truyền thống của mỗi quốc gia mà tiêu chuẩn bảo
hộ này sẽ khác nhau ở từng nước.
Quyền sở hữu đối với nhãn hiệu thể hiện thông qua quyền độc quyền được
Nhà nước ghi nhận, đó là độc quyền sử dụng, định đoạt, ngăn cấm người khác sử
dụng và định đoạt khi không được phép. Một nguyên tắc đặc thù trong hệ thống
pháp luật SHTT nói chung là luôn phải đảm bảo sự hài hòa về mặt lợi ích giữa
các đối tượng có liên quan trong xã hội. Điều này có vẻ như mâu thuẫn với
nguyên tắc độc quyền là người có quyền sở hữu sẽ nắm quyền tuyệt đối và không
bị hạn chế. Để giải quyết mâu thuẫn này, các hệ thống bảo hộ sở hữu công nghiệp
đều sử dụng cơ chế “độc quyền tương đối” cho chủ sở hữu. Có thể dễ dàng thấy
tính “độc quyền tương đối” được thể hiện trong các quy định liên quan đến hạn
chế quyền của chủ sở hữu mà ví dụ cụ thể nhất là trường hợp nhập khẩu song
song.
Bảo hộ nhãn hiệu không chỉ bao gồm các quy định pháp luật để chủ sở hữu
thực hiện các quyền được xác định trong nội dung quyền của chủ sở hữu, mà
quan trọng hơn cả là quy định xử lý các hành vi xâm phạm.
Qua các phân tích ở trên có thể hiểu bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối
với nhãn hiệu là việc Nhà nước bằng công cụ pháp luật của mình ghi nhận quyền
của chủ sở hữu đối với nhãn hiệu đồng thời quy định cơ chế xác lập quyền, nội
dung quyền và cơ chế thực thi quyền đối với nhãn hiệu.
1.2. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống bảo hộ
nhãn hiệu trên thế giới và ở Việt Nam

1.2.1. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống bảo hộ nhãn
hiệu trên thế giới
Vấn đề bảo hộ nhãn hiệu đã được đặt ra và phát triển từ lâu đời. Ngay từ thời
cổ đại, nhiều vùng đã có tục lệ dùng một dấu hiệu riêng gắn lên sản phẩm để đánh
dấu người sản xuất hoặc người chủ sở hữu của sản phẩm. Theo kết quả nghiên


Page 24



cứu của các nhà khảo cổ học thì cách đây 3000 năm, những người thợ thủ công ấn
Độ đã từng chạm khắc chữ ký của mình trên các tác phẩm nghệ thuật trước khi
gửi hàng tới Iran. Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hoá, nhất là khi nền
sản xuất cơ khí ra đời, nhiều nhà sản xuất khác nhau cùng đưa ra thị trường một
loại hàng thì những dấu hiệu trên bắt đầu thực hiện chức năng phân biệt sản phẩm
cùng loại của các nhà sản xuất khác nhau. Tuy nhiên, trong quá trình cạnh tranh
chiếm lĩnh thị trường, xuất hiện hiện tượng bắt chước nhãn hiệu, gây nhiều thiệt
hại cho chủ nhãn hiệu, dẫn đến sự gia tăng số vụ xử kiện tại các tòa án, các toà án
thời đó phải phán quyết quyền đối với một nhãn hiệu cụ thể thuộc về ai? Trong
trường hợp này, nguyên tắc thường được các tòa án áp dụng là: quyền thuộc về
người đầu tiên sử dụng nhãn hiệu hàng hòa. Để dễ theo dõi các nhãn hiệu bị tranh
chấp, lúc đầu tòa án sử dụng sổ nhãn hiệu. Sau đó sổ này còn ghi cả các nhãn hiệu
khác chưa bị tranh chấp để đề phòng những tranh chấp xảy ra trong tương lai, rồi
tiến tới ghi các nhãn hiệu mà chủ các nhãn hiệu đó có ý định sẽ sử dụng. Sổ theo
dõi nhãn hiệu hàng hóa dần dần trở thành sổ đăng bạ nhãn hàng và cũng từ đó
hình thành phương thức đăng ký nhãn hiệu hàng hóa tại các tòa án. Song, vào
thời gian này, việc đăng ký nhãn hiệu được thực hiện theo thông lệ chứ không
theo quy định của một văn bản pháp luật nào. Chỉ đến năm 1857 Luật Nhãn hiệu
hàng hoá mới được ban hành đầu tiên tại Pháp. Theo luật này, quyền đối với nhãn

hiệu hàng hóa thuộc về người thực hiện sớm nhất một trong hai việc: sử dụng
nhãn hiệu và đăng ký nhãn hiệu theo quy định của luật. Nếu một người đăng ký
một nhãn hiệu nhưng thời điểm sử dụng nhãn hàng của người đó lại sau người
đăng ký thứ hai thì quyền đối với nhãn hiệu thuộc về người thứ hai. Tiếp theo
Pháp, các nước khác đã lần lượt ban hành bộ luật nhãn hiệu hàng hoá của mình
như Italia (năm 1868), Bỉ (năm 1879), Mỹ (năm 1881), Anh (năm 1883), Đức
(năm 1894), Nga (năm 1896) … số đơn đăng ký và số giấy chứng nhận đăng ký
nhãn hiệu hàng hóa ngày càng tăng ở từng nước, đặc biệt ở các nước có nền kinh
tế thị trường phát triển.


Page 25



Cùng với sự phát triển giao lưu kinh tế quốc tế, bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá
trở thành một việc hết sức quan trọng đối với nhà sản xuất nhằm tạo lập và tăng
cường khả năng cạnh tranh cho sản phẩm của mình không chỉ trong phạm vi lãnh
thổ quốc gia mà còn trên trường quốc tế. Xu hướng toàn cầu hoá kinh tế thế giới
khiến cho hàng hóa trở nên dễ dàng lưu thông từ quốc gia này sang quốc gia
khác, thậm chí cả ở những nơi xa xôi về địa lý đối với nước xuất xứ. Tuy nhiên,
việc bảo hộ nhãn hiệu trên quy mô quốc tế gặp một trở ngại rất lớn do đặc thù của
quyền SHTT nói chung là bị giới hạn bởi yếu tố lãnh thổ, theo đó quyền đối với
nhãn hiệu xác lập ở quốc gia nào thì chỉ có giá trị trên lãnh thổ quốc gia đó. Mà
bảo đảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm ở những thị trường nước ngoài,
chống lại tình trạng hàng nhái, hàng giả, cạnh tranh một cách bất chính, vấn đề
bảo hộ nhãn hiệu ở các nước khác ngoài nước xuất xứ của sản phẩm càng trở
thành vấn đề cần thiết và cấp bách. Vì thế, chủ nhãn hiệu có nhu cầu được mở
rộng sự bảo hộ nhãn hiệu đến cả những vùng lãnh thổ mà mình sẽ xuất khẩu hàng
hóa tới bằng các thủ tục xác lập quyền của mình một cách kịp thời tại các vùng

lãnh thổ này. Nhằm đảm bảo cho nhãn hiệu được bảo hộ rộng khắp trên phạm vi
quốc tế, theo sáng kiến của Pháp, Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp
được ký kết ngày 20/3/1883 tại Paris, được xem xét lại tại Brussels năm 1900, tại
Washington năm 1911, tại La Hay năm 1925, tại Luân Đôn năm 1934, tại Lisbon
năm 1958, tại Stockholm năm 1967 và được sửa đổi vào năm 1979. Tính đến
01/08/2007 Công ước Paris đã có 171 nước thành viên. Việt Nam trở thành thành
viên Công ước Paris từ 08/3/1949. Công ước Paris ra đời đã khiến cho trở ngại do
yếu tố lãnh thổ quốc gia không còn, công ước Paris đã quy định một số nguyên
tắc chung đối với hệ thống bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp mà các nước thành
viên phải tuân thủ, khiến cho các hệ thống này giảm các khác biệt và tạo điều
kiện dễ dàng hơn cho các chủ thể xác lập quyền bên ngoài nước xuất xứ.
Tuy nhiên, theo Công ước Paris, công dân của các nước thành viên khi đăng
ký bảo hộ nhãn hiệu ở nước ngoài, mặc dù được hưởng chế độ đối xử quốc gia
tương đương như sự bảo hộ dành cho công dân của chính nước đó, nhưng chủ


Page 26



nhãn hiệu vẫn phải thực hiện các thủ tục xác lập quyền độc lập tại từng nước
thành viên. Nhãn hiệu muốn được bảo hộ ở càng nhiều quốc gia thì tốn càng
nhiều thời gian và chi phí. Để khắc phục khó khăn này, hệ thống đăng ký quốc tế
nhãn hiệu đã ra đời. Ngày 14/4/1891 tại Madrid, Tây Ban Nha, một số nước thành
viên Công ước Paris đã cùng ký kết Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn
hiệu. Theo Thỏa ước này, công dân một nước thành viên của Thỏa ước muốn
nhận được sự bảo hộ nhãn hiệu ở nước thành viên khác thì trước tiên cần phải
đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại cơ quan có thẩm quyền ở quốc gia mình, sau đó,
thông qua cơ quan này nộp đơn đăng ký quốc tế tại Văn phòng quốc tế WIPO
trong đó có chỉ ra nước thành viên mà mình mong muốn nhận được sự bảo hộ.

Văn phòng quốc tế sẽ công bố đơn đăng ký quốc tế và nước thành viên được chỉ
định có thời hạn 1 năm kể từ ngày công bố đăng ký quốc tế để xem xét việc có
chấp thuận bảo hộ nhãn hiệu hay không. Hết thời hạn 1 năm nếu nước được chỉ
định không ra thông báo từ chối thì nhãn hiệu mặc nhiên được bảo hộ tại nước
thành viên đó. Nhãn hiệu là đối tượng của một đăng ký quốc tế theo Thỏa ước
Madrid chỉ khi nhãn hiệu đó đã được bảo hộ tại nước xuất xứ. Thỏa ước Madrid
ra đời đã giúp đơn giản hóa thủ tục đăng ký và duy trì hiệu lực của nhãn hiệu bên
ngoài lãnh thổ quốc gia mỗi nước thành viên. Chỉ thông qua một đơn duy nhất, sử
dụng một ngôn ngữ (tiếng Pháp), nộp phí bằng một loại tiền tới một cơ quan (Văn
phòng quốc tế của WIPO), chủ nhãn hiệu có thể nhận được sự bảo hộ ở nhiều
quốc gia khác nhau ngoài nước xuất xứ. Tính đến 01/8/2007 đã có 57 nước là
thành viên của Thỏa ước Madrid.
Từ khi ra đời cho đến nay Thỏa ước Madrid đã hỗ trợ đắc lực cho chủ nhãn
hiệu của các nước thành viên đạt được sự bảo hộ ở nước ngoài với thủ tục đơn
giản và đỡ tốn kém nhất. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, Thỏa ước Madrid
cũng bộc lộ những hạn chế nhất định khiến nó chưa thực sự thu hút được đông
đảo các quốc gia tham gia, trong đó có một số nước có nền kinh tế phát triển như
Nhật Bản, Anh Quốc và Hoa Kỳ. Với mục đích làm cho hệ thống đăng ký quốc tế
nhãn hiệu có thể được nhiều nước hơn chấp nhận, Nghị định thư liên quan đến


Page 27



Thỏa ước Madrid đã được thông qua năm 1989, có hiệu lực từ ngày 1/12/1995 và
hoạt động từ 1/4/1996. Nghị định thư Madrid ra đời đã khắc phục được những
hạn chế của Thỏa ước Madrid, đó là: cho phép đăng ký quốc tế được dựa trên các
đơn quốc gia, chứ không chỉ dựa trên đăng ký quốc gia; thời hạn 18 tháng thay
cho thời hạn một năm dành cho nước thành viên được chỉ định để từ chối bảo hộ,

với khả năng có được thời gian dài hơn trong trường hợp từ chối dựa trên đơn
phản đối; khả năng chuyển đổi một đăng ký quốc tế không còn được bảo hộ vì
nhãn hiệu cơ sở bị mất hiệu lực tại nước xuất xứ thành các đơn quốc gia hoặc khu
vực tại một số hoặc tất cả các bên tham gia được chỉ định, với ngày nộp đơn,
ngày ưu tiên (nếu có) của đăng ký quốc tế; khả năng dành cho Cơ quan của nước
được chỉ định được quy định một khoản “lệ phí riêng” (có giới hạn); dành khả
năng tham gia Nghị định thư cho các Tổ chức liên chính phủ có Cơ quan đăng ký
nhãn hiệu với hiệu lực trong lãnh thổ của tổ chức đó. Tính 01/8/2007 đã có 74
nước và tổ chức là thành viên của Nghị định thư Madrid. Việt Nam hiện là thành
viên của cả Thỏa ước và Nghị định thư Madrid.
Với sự ra đời của các Điều ước quốc tế nêu trên, khung pháp luật quốc tế về
bảo hộ nhãn hiệu đã hình thành và ngày càng phát triển, đóng góp đáng kể trong
việc bảo hộ nhãn hiệu trên phạm vi quốc tế. Tuy nhiên, có thể dễ dàng nhận thấy
các Điều ước quốc tế đó mới chỉ tập trung vào việc thiết lập cơ chế xác lập quyền
đối với nhãn hiệu. Quyền đã được xác lập mà không được bảo vệ một cách đúng
mức thì các quyền đó không có giá trị. Hiệp định về Các khía cạnh liên quan đến
thương mại của quyền SHTT (Hiệp định TRIPS) ra đời là một sự sửa chữa kịp
thời cho khiếm khuyết đó. Đây là một Hiệp định trong khuôn khổ của Tổ chức
thương mại thế giới (WTO). Mặc dù không phải là Hiệp định đầu tiên liên quan
đến SHTT nhưng nó là Hiệp định quốc tế đầu tiên đề cập đến các vấn đề liên
quan đến cơ chế thực thi quyền và quy định một hệ thống giải quyết tranh chấp.
Hiệp định TRIPS thừa nhận tầm quan trọng của việc bảo hộ SHTT đối với hoạt
động thương mại và đầu tư, và các thiệt hại đối với các quyền lợi thương mại hợp
pháp khi quyền SHTT không được bảo hộ và thực thi thỏa đáng và hiệu quả. Từ

×